TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN
**************
TRẦN KHÁNH LINH
an
H
DÂN NGHÈO THÀNH THỊ TRONG
oi
TÁC PHẨM NGOẠI Ô VÀ NGÕ HẺM
da
Pe
ve
ni
lU
ca
gi
go
CỦA NGUYỄN ĐÌNH LẠP
ity
rs
KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
2
Chun ngành: Văn học Việt Nam
HÀ NỘI - 2018
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN
**************
TRẦN KHÁNH LINH
H
oi
an
DÂN NGHÈO THÀNH THỊ TRONG
go
da
Pe
TÁC PHẨM NGOẠI Ô VÀ NGÕ HẺM
rs
ve
ni
lU
ca
gi
CỦA NGUYỄN ĐÌNH LẠP
ity
KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
2
Chun ngành: Văn học Việt Nam
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học
ThS. Nguyễn Phƣơng Hà
HÀ NỘI - 2018
LỜI CẢM ƠN
Trƣớc tiên, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc tới giáo viên,
ThS. Nguyễn Phƣơng Hà đã tận tình hƣớng dẫn, động viên, giúp đỡ tơi hồn
thành khóa luận này.
Tơi cũng xin gửi lời cảm ơn tới các thầy, cô giáo trong tổ Văn học Việt
Nam, khoa Ngữ văn, trƣờng Đại học Sƣ phạm Hà Nội 2 đã giảng dạy, nhận
xét, góp ý cho tơi trong q trình học tập cũng nhƣ hồn thành khóa luận.
Cuối cùng, tôi xin gửi lời cảm ơn đến gia đình, bạn bè đã động viên,
giúp đỡ và tạo điều kiện tốt nhất cho tơi hồn thành khóa luận này.
Tơi xin trân trọng cảm ơn!
oi
an
H
Pe
Hà Nội, tháng 5 năm 2018
ve
ni
lU
ca
gi
go
da
Sinh viên
ity
rs
Trần Khánh Linh
2
LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan khóa luận Dân nghèo thành thị trong tác phẩm
Ngoại ô và Ngõ hẻm của Nguyễn Đình Lạp là kết quả nghiên cứu của riêng
tơi dƣới sự hƣớng dẫn của giáo viên, ThS. Nguyễn Phƣơng Hà. Khóa luận
này khơng trùng với cơng trình nghiên cứu nào trƣớc đó và chƣa đƣợc cơng
bố ở bất kì đâu. Nếu sai tơi xin chịu hồn tồn trách nhiệm.
Hà Nội, tháng 5 năm 2018
Sinh viên
oi
an
H
da
Pe
ity
rs
ve
ni
lU
ca
gi
go
Trần Khánh Linh
2
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU ......................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ..................................................................................... 1
2. Lịch sử vấn đề .......................................................................................... 2
3. Mục đích nghiên cứu ............................................................................... 5
4. Nhiệm vụ nghiên cứu............................................................................... 5
5. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu ............................................................... 6
6. Phƣơng pháp nghiên cứu ......................................................................... 6
7. Bố cục khóa luận ..................................................................................... 6
H
oi
an
NỘI DUNG ..................................................................................................... 7
Pe
Chƣơng 1. KHÁI QUÁT VỀ ĐỀ TÀI DÂN NGHÈO THÀNH THỊ
go
da
TRONG VĂN HỌC VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1930 - 1945 ......................... 7
ca
gi
1.1. Tiền đề lịch sử, xã hội ........................................................................ 7
lU
1.2. Cuộc đời và sự nghiệp văn học của Nguyễn Đình Lạp ........................ 8
ve
ni
1.2.1. Cuộc đời ......................................................................................... 8
ity
rs
1.2.2. Sự nghiệp văn học .......................................................................... 9
2
1.3. Tiểu thuyết Nguyễn Đình Lạp trong dịng chảy đề tài đơ thị nửa đầu
thế kỉ XX .................................................................................................... 10
Chƣơng 2 . MỘT SỐ PHƢƠNG DIỆN NỘI DUNG THỂ HIỆN ĐỀ TÀI
DÂN NGHÈO THÀNH THỊ TRONG TÁC PHẨM NGOẠI Ơ VÀ NGÕ
HẺM CỦA NGUYỄN ĐÌNH LẠP ............................................................... 13
2.1. Hiện thực đời sống .............................................................................. 13
2.1.1. Miêu tả cuộc sống nghèo khổ, bế tắc của người lao động........... 13
2.1.2. Miêu tả cuộc sống sinh hoạt, phong tục, tập quán của dân
nghèo thành thị ....................................................................................... 17
2.2. Hiện thực con ngƣời .......................................................................... 22
2.2.1. Con người có số phận bất hạnh ................................................... 22
2.2.2. Con người giàu tình u thương, giàu lịng nghĩa hiệp ............... 26
Chƣơng 3. MỘT SỐ PHƢƠNG DIỆN NGHỆ THUẬT THỂ HIỆN ĐỀ
TÀI DÂN NGHÈO THÀNH THỊ TRONG TÁC PHẨM NGOẠI Ô VÀ
NGÕ HẺM CỦA NGUYỄN ĐÌNH LẠP ...................................................... 30
3.1. Nghệ thuật xây dựng nhân vật ............................................................ 30
3.1.1. Nghệ thuật miêu tả ngoại hình nhân vật ...................................... 30
3.1.2. Nghệ thuật miêu tả tâm lí, tính cách nhân vật ............................. 33
3.2. Ngơn ngữ dân dã, đời thƣờng ............................................................. 39
3.3. Giọng điệu........................................................................................... 41
an
H
3.3.1. Giọng điệu khách quan, chân thực .............................................. 42
oi
3.3.2. Giọng điệu xót xa, thương cảm .................................................... 44
Pe
ity
rs
ve
ni
lU
ca
gi
go
TÀI LIỆU THAM KHẢO
da
KẾT LUẬN ................................................................................................... 47
2
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Văn học Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945 diễn ra bƣớc phát triển
sôi nổi, mạnh mẽ, vƣợt bậc. Chỉ chƣa đầy nửa thế kỉ, diện mạo văn học có sự
thay đổi đáng kể, chuyển từ phạm trù văn học trung đại sang nền văn học hiện
đại. Văn đàn xuất hiện nhiều tên tuổi lớn nhƣ: Nam Cao, Vũ Trọng Phụng,
Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố, Thạch Lam, Nguyễn Tuân… ở các thể loại
phóng sự, truyện ngắn, tiểu thuyết, tùy bút… với nhiều tác phẩm đặc sắc.
1.2. Nguyễn Đình Lạp là một cây bút phóng sự trƣởng thành từ trào
lƣu văn học hiện thực phê phán. Vào nghề sau những cây bút đàn anh nhƣ:
an
H
Tam Lang, Trọng Lang, Vũ Trọng Phụng… nhƣng Nguyễn Đình Lạp đã
oi
khẳng định tên tuổi của mình bằng những đóng góp lớn lao cho thể loại này.
Pe
Có thể kể đến những yếu tố mới mà Nguyễn Đình Lạp đã góp vào thể văn
da
go
phóng sự : điều tra xã hội học, quan điểm xã hội học thể hiện qua các phóng
ca
gi
sự, chất văn phóng sự rất riêng. Mặc dù ra đi khi tuổi đời cịn rất trẻ nhƣng
ni
lU
Nguyễn Đình Lạp đã để lại cho văn học nƣớc nhà những tác phẩm gây ấn
ve
tƣợng mạnh mẽ nhƣ những thiên phóng sự: Chợ phiên đi tới đâu?, Cường
ity
rs
hào, Thanh niên trụy lạc, Từ ái tình đến hơn nhân, Chiếc va ly…
2
1.3. Ngoại ô và Ngõ hẻm là hai tiểu thuyết góp phần làm nên tên tuổi
của Nguyễn Đình Lạp, đƣợc sáng tác dựa trên bối cảnh làng Bạch Mai - nơi
ông sinh ra và lớn lên. Thuộc thể loại phóng sự tiểu thuyết, hai tác phẩm là sự
kết hợp nhuần nhuyễn “giữa sự thật của phóng sự và hư cấu của tiểu thuyết
mà không gây nên cảm giác giả hoặc gượng” [16, 579]. Tuy là hai tác phẩm
khác nhau nhƣng ngƣời đọc dễ dàng nhận thấy sự kết nối về mặt nội dung
giống nhƣ hai tập của một cuốn tiểu thuyết. Ngoại ô và Ngõ hẻm đƣợc đánh
giá cao về sự gắn bó với số phận của những ngƣời dân nghèo Hà Nội một thời
tăm tối trƣớc năm 1945. Có thể thấy với tiểu thuyết Ngoại ô và Ngõ hẻm,
phong cách của Nguyễn Đình Lạp đã đƣợc định hình trong lịng bạn đọc.
1
Vì những lí do trên, chúng tơi quyết định lựa chọn đề tài Dân nghèo
thành thị trong tác phẩm Ngoại ô và Ngõ hẻm của Nguyễn Đình Lạp nhằm
khẳng định tài năng, những đóng góp của Nguyễn Đình Lạp đối với thể loại
phóng sự cũng nhƣ sự thành cơng của tiểu thuyết Ngoại ô và Ngõ hẻm trên
phƣơng diện nội dung và nghệ thuật.
2. Lịch sử vấn đề
Nguyễn Đình Lạp là cây bút tài năng của văn học Việt Nam giai đoạn
1930 - 1945. Tuy là ngƣời đến sau, nhƣng ông đã kịp thời khẳng định mình
với những tác phẩm có giá trị, thu hút độc giả ngay từ những ngày đầu ra mắt.
Ra đi khi tuổi đời còn trẻ, Nguyễn Đình Lạp khơng để lại nhiều tác
an
H
phẩm. Tuy nhiên, với số lƣợng tác phẩm đã sáng tác và đƣợc biết đến cũng đủ
oi
để tạo nên sức hút cho tên tuổi của nhà văn. Hai trong số những tác phẩm có
Pe
da
vai trị quan trọng trong thành cơng của Nguyễn Đình Lạp chính là Ngoại ơ
gi
go
và Ngõ hẻm. Đây là những tác phẩm đƣợc sáng tác dựa trên bối cảnh của làng
lU
ca
Bạch Mai - nơi ông sinh ra và lớn lên. Xung quanh hai tác phẩm này có khá
ni
nhiều ý kiến đánh giá của các nhà nghiên cứu, phê bình văn học và độc giả.
rs
ve
Nhà văn Vũ Ngọc Phan trong cuốn Nhà văn hiện đại đƣợc xem là ngƣời
ity
đầu tiên nghiên cứu về Nguyễn Đình Lạp. Ơng đã dành bảy trang để giới thiệu
2
nhà văn và cuốn tiểu thuyết Ngoại ô. Tác giả khẳng định: “Ngoại ô là một tiểu
thuyết tả chân có khuynh hướng xã hội. Đó là một truyện cảm động, nhiều cảnh
khổ của dân nghèo ngoại ô được tác giả tả rất kĩ” [21, 1009].
Điểm lại lịch sử nghiên cứu về Nguyễn Đình Lạp, nhà thơ Vũ Quần
Phƣơng trong bài Vài ghi nhận bây giờ đọc lại Ngoại ô (1940 - 1941) của
Nguyễn Đình Lạp lại cho thấy một góc nhìn khác về tác phẩm này. Đó là sự
lƣu giữ những giá trị, những hình ảnh của một Hà Nội xƣa cũ, một Hà Nội mà
những cái tốt đẹp bên trong con ngƣời “đang đấu tranh để chống lại kết cục
bi thảm của Ngoại ô thưở ấy.” [16, 581]. Đặc biệt, nhà thơ cịn nhìn ra tính
2
thời sự trong tác phẩm Ngoại ô và với tƣ cách là một ngƣời đi sau đọc lại tác
phẩm của Nguyễn Đình Lạp, ơng đã tự rút ra cho mình đƣợc bài học trong
sáng tác văn chƣơng. Đó là sự mở rộng mọi giác quan để đón nhận sự sống.
Sự nghiên cứu của Vũ Quần Phƣơng - một tác giả thuộc thế hệ sau Nguyễn
Đình Lạp về tác phẩm Ngoại ô cho thấy sự lan tỏa mạnh mẽ và giá trị bền
vững của tác phẩm này.
Trong cuốn Tuyển tập Nguyễn Đình Lạp, tác giả Ngọc Hà cho rằng
Ngoại ơ và Ngõ hẻm là hai tiểu thuyết - phóng sự có giá trị đối với sự nghiệp
sáng tác của Nguyễn Đình Lạp (vì trƣớc khi trở thành nhà văn viết tiểu thuyết,
Nguyễn Đình Lạp là nhà báo chun viết phóng sự). Đây là hai tác phẩm đƣa
an
H
nhà văn trở thành cây bút có dấu ấn riêng ở thể loại tiểu thuyết trong trào lƣu
oi
văn học hiện thực thời kì 1941- 1945. Tác giả khẳng định: “Với hai tác phẩm
Pe
da
Ngoại ô và Ngõ hẻm, Nguyễn Đình Lạp xứng đáng là người hiếm hoi, sau Vũ
gi
go
Trọng Phụng, Ngơ Tất Tố duy trì chun canh một loại hình văn học, góp
lU
ca
phần vào sự phong phú và đa dạng của văn học Việt Nam hiện đại” [16, 556].
ni
Trong bài viết Nhà văn của những thân phận hèn mọn, tác giả Bùi
rs
ve
Hiển đã chỉ ra rằng: chỉ trong hai tác phẩm nhƣng Nguyễn Đình Lạp đã khắc
ity
họa đƣợc quá nhiều những cảnh ngộ bất hạnh, khốn cùng. Ấn tƣợng nổi bật
2
vẫn là sự cảm thông, thƣơng cảm, tấm lòng ƣu ái của tác giả đối với những
kiếp ngƣời cùng khổ, với xã hội “vừa siêng năng vừa cam chịu”. Đồng thời,
Nguyễn Đình Lạp cũng bộc lộ thái độ phê phán của tác giả giống nhƣ thay lời
bộc bạch của những nhân vật trong tác phẩm.
Cùng quan điểm với các tác giả trên, Gs. Phong Lê trong bài viết
Nguyễn Đình Lạp trong trào lưu văn học hiện thực 1941 - 1945 đăng trên
Tạp chí Kiến thức ngày nay đã nhận định: “Đặt bên cạnh những tên tuổi lớn
như Kim Lân, Nguyễn Tn, Ngun Hồng, Tơ Hồi, Ngơ Tất Tố, Nguyễn
Cơng Hoan. Nguyễn Đình Lạp cũng khơng kém sức vóc một chút nào, với
3
Ngoại ô và Ngõ hẻm như hai mái của một ngơi nhà, chụm vào nhau, trong đó
trú ngụ bao thân phận, số phận của những kiếp người nghèo khổ” [16, 575].
Qua đó, đủ để ta thấy đƣợc giá trị của hai tác phẩm với sự nghiệp của Nguyễn
Đình Lạp cũng nhƣ nền văn học nƣớc nhà.
Đánh giá về tài năng của Nguyễn Đình Lạp, tác giả Lƣu Nguyễn trong
bài Tưởng niệm nhà văn của giới cần lao đã nhận xét: “Đặc sắc và đóng
góp của Nguyễn Đình Lạp đó là sự chuyên tâm hoặc chuyên canh cho thể loại
phóng sự - tiểu thuyết, hoặc tiểu thuyết - phóng sự. Là sự kết hợp giữa sự thật
của phóng sự và hư cấu của tiểu thuyết mà không gây nên cảm giác giả hoặc
gượng, qua đó đem lại cho trào lưu hiện thực trước 1945 hai tác phẩm kết nối
an
H
nhau trên sự khai thác chất liệu chính là đời sống tầng lớp dân nghèo ngoại ô
oi
Bạch Mai - nơi sinh của tác giả” [16, 579].
Pe
da
Khẳng định vai trò của hai tiểu thuyết Ngoại ô, Ngõ hẻm, trong bài
gi
go
Những cuộc đời bị dồn đẩy trong tiểu thuyết tả chân của Nguyễn Đình
lU
ca
Lạp, PGS.TS Nguyễn Ngọc Thiện đã khẳng định: “Trong dòng chảy văn học
ni
hiện thực phê phán Việt Nam giai đoạn 1940 - 1945, cùng với Nguyên Hồng,
rs
ve
Nam Cao, Mạnh Phú Tư, Tô Hồi, với hai tiểu thuyết Ngoại ơ và Ngõ hẻm
ity
Nguyễn Đình Lạp đã góp thêm một tiếng nói nghệ thuật có giá trị, khắc họa
2
cuộc sống ngột ngạt, bế tắc, quẩn quanh của người lao động trong một xã hội
còn nhiều bất cơng, người bóc lột người, làm sáng lên những phẩm chất khỏe
khoắn, lành mạnh, tiềm ẩn trong những con người lương thiện” [16, 592].
Gần đây, khơng chỉ có các nhà nghiên cứu, nhà phê bình văn học quan
tâm nghiên cứu về Nguyễn Đình Lạp mà có nhiều luận văn đã khai thác “nhà
văn còn nhiều ẩn số” này. Tác giả Nguyễn Thị Xuân Mai đã lựa chọn triển
khai khóa luận với đề tài Đặc điểm tiểu thuyết Nguyễn Đình Lạp. Khóa luận
đã một cái nhìn khá tồn diện về đặc điểm tiểu thuyết Nguyễn Đình Lạp (ở cả
hai mặt nội dung và nghệ thuật) qua khảo sát hai tác phẩm Ngoại ô và Ngõ
4
hẻm, qua đó nhằm khẳng định tài năng của Nguyễn Đình Lạp trong thể loại
tiểu thuyết: Những đóng góp của Nguyễn Đình Lạp cho kho tàng văn học
Việt Nam qua hai tiểu thuyết Ngoại ô và Ngõ hẻm là những đóng góp có giá
trị và đáng trân trọng.
Nhìn lại các cơng trình nghiên cứu về Nguyễn Đình Lạp từ trƣớc tới
nay, chúng tơi thấy chƣa có nhiều cơng trình nghiên cứu đầy đủ về sự nghiệp
sáng tác văn học của ông. Hầu hết các bài viết mới dừng lại ở những ý kiến,
những đóng góp của Nguyễn Đình Lạp về thể loại phóng sự. Tìm hiểu đề tài
Dân nghèo thành thị trong tác phẩm Ngoại ô và Ngõ hẻm của Nguyễn
Đình Lạp là một việc làm thiết thực và ý nghĩa để có một cái nhìn tồn diện,
an
H
sâu sắc về tiểu thuyết Nguyễn Đình Lạp nói riêng và văn học hiện thực phê
oi
phán giai đoạn 1930 - 1945 nói chung.
da
Pe
3. Mục đích nghiên cứu
go
Nhƣ tên gọi của đề tài này, chúng tơi hƣớng tới mục đích sau:
ca
gi
- Từ bối cảnh xã hội, chúng tôi làm rõ bức tranh hiện thực đời sống dân
ni
lU
nghèo thành thị trong xã hội Việt Nam những năm đầu thế kỉ XX, đặc biệt là
ve
giai đoạn 1930 - 1945.
ity
rs
- Khẳng định tài năng của Nguyễn Đình Lạp về thể loại tiểu thuyết và
2
những đóng góp của ông về đề tài dân nghèo thành thị trong văn học Việt
Nam giai đoạn 1930 - 1945.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Khóa luận của chúng tơi hƣớng tới nhiệm vụ nghiên cứu sau:
- Chỉ ra một số phƣơng diện nội dung thể hiện đề tài dân nghèo thành
thị: hiện thực đời sống, hiện thực con ngƣời với những số phận bất hạnh, khao
khát cuộc sống mới tốt đẹp hơn.
- Chỉ ra một số phƣơng diện nghệ thuật thể hiện đề tài dân nghèo thành
thị: nghệ thuật xây dựng nhân vật, ngôn ngữ, giọng điệu…
5
5. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu
- Đối tƣợng nghiên cứu: Dân nghèo thành thị trong tác phẩm Ngoại ô
và Ngõ hẻm của Nguyễn Đình Lạp
- Phạm vi nghiên cứu: chúng tôi khảo sát qua hai tác phẩm Ngoại ô và
Ngõ hẻm.
6. Phƣơng pháp nghiên cứu
- Phƣơng pháp thống kê
- Phƣơng pháp so sánh
- Phƣơng pháp phân tích, bình giảng
7. Bố cục khóa luận
oi
3 chƣơng:
an
H
Ngồi phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, khóa luận gồm
Pe
Nam giai đoạn 1930 - 1945.
gi
go
da
Chƣơng 1: Khái quát về đề tài dân nghèo thành thị trong văn học Việt
lU
ca
Chƣơng 2: Một số phƣơng diện nội dung thể hiện trong tác phẩm
ni
Ngoại ô và Ngõ hẻm của Nguyễn Đình Lạp.
ity
Ngoại ơ và Ngõ hẻm của Nguyễn Đình Lạp.
rs
ve
Chƣơng 3: Một số phƣơng diện nghệ thuật thể hiện trong tác phẩm
2
6
NỘI DUNG
Chƣơng 1. KHÁI QUÁT VỀ ĐỀ DÂN NGHÈO THÀNH THỊ
TRONG VĂN HỌC VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1930 - 1945
1.1. Tiền đề lịch sử, xã hội
Văn học chính là tấm gƣơng phản ánh hiện thực và chịu tác động từ hiện
thực. Một khuynh hƣớng sáng tác bao giờ cũng xuất hiện trên cơ sở những tiền
đề xã hội cụ thể. Văn học hiện thực phê phán cũng hình thành và phát triển dƣạ
trên một tiền đề lịch sử, xã hội nhất định. Đây là giai đoạn đất nƣớc ta chịu sự
đô hộ của thực dân Pháp. Chúng đã hai lần khai thác thuộc địa trên đất nƣớc ta,
H
đẩy nhân dân ta lún sâu vào cảnh bần cùng. Chúng tăng cƣờng bóc lột để bù
oi
an
đắp những thiệt hại sau chiến tranh thế giới thứ nhất. Dần dần, chúng đặt ra
Pe
hàng trăm thứ thuế vơ lí, bóc lột nhân dân ta đến tận xƣơng tủy, đẩy họ vào
go
da
cảnh bần cùng hóa, lƣu manh hóa. Đồng thời, chúng tiến hành các chính sách
ca
gi
ngu dân và trụy lạc hóa thanh niên. Vì ảnh hƣởng của những chính sách ấy mà
lU
ở các thành thị, các phòng hát, phòng trà, phòng nhảy, nhà chứa mọc lên nhƣ
ve
ni
nấm phục vụ cho những cuộc ăn chơi trụy lạc. Phong trào “Âu hóa” lan tràn
ity
rs
nhanh nhƣ một bệnh dịch, thu hút một bộ phận lớn tầng lớp thanh niên lao vào
2
những cuộc chơi, chạy theo những thú vui, lối sống hƣ hỏng.
Xã hội thực dân phong kiến hình thành những mâu thuẫn, xung đột gay
gắt. Địa chủ, cƣờng hào tiếp tay cho thực dân ra sức đè nén, áp bức, bóc lột
nhân dân. Một bộ phận khơng nhỏ ngƣời dân buộc phải di dân lên thành phố,
định cƣ ở vùng ngoại ô, làm đủ mọi nghề để kiếm sống.
Trong bối cảnh đó, văn học hiện thực phê phán ra đời. Nó phản ánh
hiện thực xã hội một cách đầy đủ nhất, toàn diện nhất và chân thực nhất. Các
nhà văn thuộc trào lƣu hiện thực phê phán: Nguyễn Công Hoan, Ngơ Tất Tố,
Nam Cao, Ngun Hồng... đã dùng ngịi bút nhƣ một vũ khí chiến đấu đắc
lực, nói thay tiếng nói của những ngƣời dân lao khổ. Những vẫn đề đƣợc các
7
nhà văn quan tâm phản ánh là mâu thuẫn giai cấp, mâu thuẫn dân tộc, cuộc
sống nghèo khổ của giai cấp nông dân, cuộc sống xa hoa, trụy lạc của một bộ
phận tầng lớp thanh niên, cuộc sống của ngƣời lao động nghèo… Dân nghèo
thành thị cũng là một trong những đề tài đƣợc nhiều nhà văn khai thác và
phản ánh.
Nhƣ vậy, xã hội Việt Nam lúc bấy giờ là mảnh đất màu mỡ ƣơm mầm
cho mảng đề tài dân nghèo thành thị giai đoạn 1930 - 1945 phát triển mạnh
mẽ hứa hẹn cho ra đời những tác phẩm có giá trị, tiêu biểu phải kể đến những
sáng tác của Nguyễn Đình Lạp.
1.2. Cuộc đời và sự nghiệp văn học của Nguyễn Đình Lạp
an
H
1.2.1. Cuộc đời
oi
Nguyễn Đình Lạp có bút danh là Yến Đình, Song Dực. Ơng sinh ngày
Pe
19 - 9 - 1913 trong một gia đình có truyền thống yêu nƣớc tại làng Bạch Mai,
da
go
huyện Hoàn Long, tỉnh Hà Đông (nay là phố Bạch Mai thuộc quận Hai Bà
ca
gi
Trƣng, Hà Nội). Ơng nội của Nguyễn Đình Lạp là Nguyễn Đình Phúc, một trí
ni
lU
sĩ đã tham gia phong trào Đơng Kinh nghĩa thục. Chú ruột của ông là Nguyễn
ve
Phong Sắc, từng giữ chức vụ Ủy viên trung ƣơng Đảng Cộng sản Đơng
ity
rs
Dƣơng. Trong gia đình có truyền thống Cách mạng, Nguyễn Đình Lạp cũng
2
sớm đƣợc bồi dƣỡng tình yêu nƣớc. Đồng thời, vốn có tƣ chất thơng minh, lại
ham học hỏi, Nguyễn Đình Lạp sớm thể hiện khả năng văn chƣơng hơn hẳn
bạn bè cùng trang lứa.
Lớn lên ở chốn Hà thành nhiều cạm bẫy, ăn chơi trụy lạc nhƣng
Nguyễn Đình Lạp khơng chỉ tự định hƣớng đúng đắn cho bản thân mình đi
theo con đƣờng Cách mạng mà cịn nuôi dạy đƣợc các em nên ngƣời.
Sau khi học hết bậc trung học, ông chuyển sang làm báo, viết văn từ
năm 1933, nhƣng phải mãi tới năm 1936 mới đƣợc nhiều ngƣời biết đến.
Ông tham gia hoạt động cách mạng cùng với một số đồng nghiệp và
từng có mặt trong đoàn nghệ sĩ Nam tiến vào mặt trận liên khu V. Năm
8
1946, Nguyễn Đình Lạp là một trong những nhà văn đầu tiên vào quân đội
tham gia Hội Văn nghệ liên khu IV. Ơng đảm nhận vai trị là ngƣời phụ
trách văn nghệ phịng chính trị đại đồn 304. Cũng trong thời kì này ơng làm
giảng viên mơn học phóng sự của nhiều khóa văn nghệ kháng chiến khu IV mở tại Thanh Hóa. Năm 1950, Nguyễn Đình Lạp đƣợc kết nạp vào Đảng
Cộng sản Đông Dƣơng.
Ngày 24 - 4 - 1952, Nguễn Đình Lạp đã trút hơi thở cuối cùng sau một
cơn bệnh nặng tại quân y viện 32 ở Thanh Hóa khi mới chỉ 39 tuổi. Sự ra đi
của Nguyễn Đình Lạp để lại nhiều nuối tiếc cho bạn bè, gia đình và rất nhiều
độc giả yêu mến tài năng, phong cách nghệ thuật của tác giả.
an
H
1.2.2. Sự nghiệp văn học
oi
Nguyễn Đình Lạp đƣợc biết đến là cây bút phóng sự tài ba trong nền
Pe
văn học Việt Nam. Ơng có những đóng góp to lớn cho sự phát triển và mở
da
gi
go
rộng của thể phóng sự. Ra đi ở tuổi 39, Nguyễn Đình Lạp vẫn cịn nhiều điều
ca
ấp ủ, nhiều dự định. Tuy số lƣợng tác phẩm để lại không nhiều, nhƣng mỗi
ni
lU
tác phẩm của Nguyễn Đình Lạp đều có giá trị nhất định trên văn đàn. Ơng
rs
ve
đƣợc ví nhƣ ngƣời hát bè trầm trong dòng chảy văn học Việt Nam, nhƣng
ity
vắng ông, bức tranh văn học hiện thực sẽ đơn điệu, thiếu mất chiều sâu.
2
Trƣớc Cách mạng tháng Tám, quan niệm của Nguyễn Đình Lạp về
phóng sự rất rõ ràng: “phóng sự là một lợi khí sắc bén” có thể “ghi chép đầy
đủ, nóng hổi sự sống…” [9, 794]. Thời kì này, ơng bắt đầu viết với những
phóng sự ngắn đăng trên báo Bắc Hà năm 1937 nhƣ: Hà Nội, Giao thừa, Đi
ở. Sau đó tiếp tục với một loạt tác phẩm phóng sự dài nhƣ Chợ phiên đi tới
đâu (1937), Thanh niên truỵ lạc (1937), Từ ái tình đến hôn nhân (1937),
Cường hào (1938) đƣợc đăng trên các báo Tiểu thuyết thứ năm, Ích hữu
Trong thời gian hoạt động cách mạng, ông vừa làm việc trong quân đội,
vừa bắt tay vào viết hai cuốn phóng sự dài Cảnh Dương chiến đấu và Thôn
9
Lệ Sơn. Tài liệu dùng để sáng tác đƣợc chính Nguyễn Đình Lạp ghi chép và
sƣu tầm từ thực tế sống và chiến đấu gian khổ trong những năm trƣớc Cách
mạng. Nhƣng vì điều kiện in, ấn lúc bấy giờ khó khăn nên hai tác phẩm này
khơng đƣợc phổ biến rộng rãi.
Đầu những năm 1940, Nguyễn Đình Lạp chuyển sang viết tiểu thuyết
bởi ông nhận ra “Tiểu thuyết là một nghệ thuật rộng rãi và nhiệm mầu hơn
phóng sự. Chỉ có tiểu thuyết mới ghi nổi u uẩn sâu kín nhất của con người và
những quan hệ vô cùng phức tạp, phiền phức của xã hội” [9, 793]. Với hai
tiểu thuyết để lại dấu ấn với ngƣời đọc: Ngoại ô (1941) và Ngõ hẻm (1943)
thì Nguyễn Đình Lạp lại càng thu hút sự quan tâm chú ý của ngƣời đọc.
an
H
Năm 1951 - 1952, Nguyễn Đình Lạp đƣợc biệt phái về công tác ở Hà
oi
Nội, đây là cơ hội để nhà văn tìm hiểu thêm về con ngƣời Hà Nội trong kháng
Pe
da
chiến - những con ngƣời đã từng in đậm trong nhiều sáng tác trƣớc cách mạng
gi
go
của ông. Thời kỳ này, ông đã tham gia một số công tác và viết một số điển
lU
ca
hình của ngành cơng an Hà Nội. Trong đó có truyện ngắn Chiếc vali trên tàu
ni
AmiơĐanhvin (1951) có thể xem là sáng tác cuối cùng của ơng.
rs
ve
Nguyễn Đình Lạp là một cây bút tài năng của nền văn học Việt Nam
ity
hiện đại. Tuy sống cuộc đời ngắn ngủi nhƣng ơng đã đề lại sự nghiệp văn
2
chƣơng có giá trị, đặc biệt là với thể loại phóng sự. Với những tác phẩm dồi
dào chất sống, giàu tính nhân bản, có những tìm tịi độc đáo, mới mẻ trong
cách thể hiện, tác giả đã gây đƣợc ấn tƣợng mạnh mẽ trong lịng ngƣời đọc.
1.3. Tiểu thuyết Nguyễn Đình Lạp trong dịng chảy đề tài đơ thị nửa đầu
thế kỉ XX
Văn học Việt Nam nửa đầu thế kỉ XX, đón nhận sự ra đời của một trào
lƣu văn học mới - văn học hiện thực phê phán 1930 - 1945 với sự phát triển
mạnh mẽ của nó trên mọi phƣơng diện, tất cả thể loại. Trong đó có thể loại
tiểu thuyết.
10
Tiểu thuyết Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945 chứng kiến sự xuất hiện và
trƣởng thành của những cây bút tài năng của nền văn học hiện đại nói chung
và văn học hiện thực phê phán nói riêng. Nói về đề tài sáng tác ở giai đoạn
này, một trong những mảng hiện thực thu hút nhiều tác giả lựa chọn khai thác
chính là đề tài đơ thị. Ta có thể kể đến một số cây bút tiêu biểu nhƣ: Vũ Trọng
Phụng, Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố, Nam Cao, Thạch Lam, Tơ Hồi,
Ngun Hồng, Thanh Tịnh... Góp mặt trong dịng chảy mạnh mẽ ấy, Nguyễn
Đình Lạp cũng đã có những đóng góp và để lại dấu ấn quan trọng.
Nguyễn Đình Lạp đến với văn học từ những năm 30 của thế kỉ XX,
nhƣng chỉ tính riêng thể loại tiểu thuyết, phải đến cuối trào lƣu văn học này,
an
H
ông mới đƣợc biết đến với hai tiểu thuyết đầu tay Ngoại ô, Ngõ hẻm. Tuy
oi
nhiên, ngay từ khi mới ra đời hai tác phẩm này đã gây đƣợc sự chú ý của độc
Pe
da
giả và giới phê bình, góp phần lớn vào sự thành cơng của tác giả. Có thể
gi
go
khẳng định rằng: Nguyễn Đình Lạp khơng phải ngƣời mở đầu, khơi nguồn
lU
ca
nhƣ Nam Cao, không đạt đỉnh cao nhƣ Vũ Trọng Phụng nhƣng “kịp thời làm
ni
đông đảo đội ngũ nhà văn hiện thực phê phán 1930 - 1945 và xứng đáng sánh
rs
ve
vai với Ngun Hồng, Nam Cao, Bùi Hiển, Tơ Hồi” (Nguyễn Thị Bích Thu).
ity
Đánh dấu tên tuổi của Nguyễn Đình Lạp trong thể loại tiểu thuyết là hai
2
tác phẩm Ngoại ô, Ngõ hẻm. Hai tác phẩm này đã miêu tả chân thực cuộc
sống nghèo khổ của dân nghèo thành thị nói chung và dân nghèo thành thị Hà
Nội nói riêng. Thơng qua đó, tác giả thể hiện tấm lịng nhân đạo đối với
những kiếp ngƣời nghèo khổ, cơ cực, bế tắc và những quan niệm nhân sinh
mới mẻ, tiến bộ.
Sinh ra trong một gia đình có truyền thống Cách mạng, nên Nguyễn
Đình Lạp sớm tiếp thu đƣợc những tƣ tƣởng tiến bộ. Hơn nữa, nhà của ông
nằm trên phố Bạch Mai, trƣớc kia là phố của ngƣời lao động ở ngoại thành Hà
Nội. Vì vậy, ơng có cơ hội gần gũi, tiếp xúc với họ, đặc biệt là những ngƣời
11
lao động nghèo. Từ đó, nhà văn thấu hiểu đƣợc cuộc sống vất vả, bấp bênh,
cực nhọc của những con ngƣời ấy, cùng đau trƣớc nỗi đau của họ. Có lẽ, cũng
chính vì điều này mà Nguyễn Đình Lạp đƣợc gọi là “nhà văn của dân nghèo
ngoại ô Hà Nội”, xứng đáng với nhận xét của PGS.TS Lê Thị Đức Hạnh:
“Trên phương diện thể loại tiểu thuyết nói về dân nghèo thành thị chỉ có
Ngoại ơ và Ngõ hẻm”.
Hai tiểu thuyết Ngoại ô, Ngõ hẻm đã khẳng định tài năng của ơng trong
việc khai thác đề dân nghèo nói chung và dân nghèo thành thị nói riêng. Mỗi
cuộc đời, mỗi số phận mà tác giả xây dựng trong hai tác phẩm này đều có sức
ám ảnh ghê gớm. Nó vừa điển hình chung cho những số phận của dân nghèo
an
H
trong xã hội cũ, vừa thể hiện đƣợc những khám phá, phát hiện riêng độc đáo,
oi
mang đậm tính nhân văn của Nguyễn Đình Lạp.
Pe
da
Có thể nói, Nguyễn Đình Lạp là một cây bút tài năng trong văn học
gi
go
Việt Nam cũng nhƣ văn học hiện thực phê phán. Tuy không phải là một tên
ity
rs
ve
ni
độc đáo cho nền văn học nƣớc nhà.
lU
ca
tuổi lớn nhƣ : Nam Cao, Vũ Trọng Phụng… nhƣng ông đã góp một tiếng nói
2
12
Chƣơng 2 . MỘT SỐ PHƢƠNG DIỆN NỘI DUNG
THỂ HIỆN ĐỀ TÀI DÂN NGHÈO THÀNH THỊ TRONG
TÁC PHẨM NGOẠI Ô VÀ NGÕ HẺM
CỦA NGUYỄN ĐÌNH LẠP
2.1. Hiện thực đời sống
2.1.1. Miêu tả cuộc sống nghèo khổ, bế tắc của người lao động
Trong văn học giai đoạn 1930 - 1945, đã có nhiều nhà văn khai thác
hiện thực cuộc sống ở thành thị: nói về ngƣời trí thức tiểu tƣ sản thành thị thì
có Sống mịn của Nam Cao, Cuộc sống, Hơi thở tàn của Nguyên Hồng, Sống
an
H
nhờ, Một thiếu niên của Mạnh Phú Tƣ; phản ánh cái xô bồ của xã hội tƣ sản
oi
thành thị thì có Số đỏ của Vũ Trọng Phụng. Ngoại ơ, Ngõ hẻm của Nguyễn
da
Pe
Đình Lạp góp thêm tiếng nói mới về đề tài dân nghèo thành thị. Thực sự, ông
go
đã khai thác rất thành công ở mảng đề tài này, thể hiện cảm hứng mãnh liệt
ca
gi
của nhà văn về cuộc sống, con ngƣời ven đô.
ni
lU
Không tìm kiếm ở đâu xa, Nguyễn Đình Lạp quay về “canh tác” trên
ve
chính mảnh đất mà ơng đã sinh ra và lớn lên. Hơn nơi nào hết, đối với nhà
ity
rs
văn thì q hƣơng chính là nơi ni dƣỡng tâm hồn, là ngọn nguồn của cảm
2
xúc. Cũng vì tiếp xúc, gắn bó nhiều mà Nguyễn Đình Lạp am hiểu, đồng thời
cũng thấu hiểu hết thảy những nỗi khổ từ cuộc sống cơ cực, nghèo khổ và số
phận bế tắc nơi đây. Có lẽ, chính vì thế mà những trang văn của ông miêu tả
hiện thực cuộc sống ấy của ngƣời dân lao động trở nên chân thực và ám ảnh
đến vậy.
Ngay mở đầu tác phẩm Ngoại ơ, Nguyễn Đình Lạp đã đƣa ngƣời đọc
đến với khung cảnh mƣu sinh đầy nhọc nhằn, vất vả của những ngƣời dân ở
phố Vạn Thái. Những con ngƣời nghèo khổ ấy, vẫn “cần mẫn trong lúc đêm
khuya. Giờ mà xã hội loài người cần phải yên giấc để lấy lại sức mà vật lộn
13
với cuộc sống ngày hôm sau” [9, 38]. Họ tập hợp về đây, mỗi ngƣời mỗi cảnh
đời riêng, tƣởng chừng nhƣ rời rạc nhƣng hóa ra lại có sự gắn kết chặt chẽ bởi
họ có cùng chung một mục đích là kiếm sống. Mỗi nhân vật đƣợc Nguyễn
Đình Lạp khắc họa bằng những nét riêng, tạo nên một bức tranh hiện thực đời
sống sinh động, phong phú, chân thực với đủ các kiểu ngƣời. Từ bác phu xe ế
khách, bác hàng cà phê, bác bán phở, bác bán giò chả, mụ hàng rong… Tất cả
hiện lên với vẻ nghèo nàn, tàn tạ với số hàng, vốn liếng ít ỏi nhƣng với họ là
cả gia tài. Bởi cuộc sống quá khó khăn, nên họ phải tần tảo, vất vả khuya
sớm, thậm chí giành giật để có đƣợc “miếng ăn”. Dƣờng nhƣ hẹn trƣớc, giờ
đó, lúc đó, họ cùng nhau bắt đầu phiên bán hàng đêm khuya. Dù mệt mỏi,
an
H
nhƣng chỉ một trận gió thổi qua cũng đủ để “đánh thức những linh hồn mệt
oi
mỏi bị đêm trường đè trĩu trên vai” [9, 135]. Và sau đó, những tiếng rao bắt
Pe
da
đầu cất lên trong đêm khuya vắng.
gi
go
Càng đi sâu vào tác phẩm, ngƣời đọc càng thấm thía nỗi cơ cực, lầm
lU
ca
than của những con ngƣời lao động nghèo khổ ấy qua những không gian trú
ni
ngụ của họ. Không gian nghèo nàn lặp đi lặp lại trong tác phẩm giống nhƣ
rs
ve
một sự ám ảnh trở đi trở lại về cái nghèo, sự bế tắc, ngột ngạt. Đọc tiểu thuyết
ity
Ngoại ô, ta ấn tƣợng sâu sắc với những trang văn miêu ngôi nhà của gia đình
2
bác Vng, bác phở Mỗ, Nhớn. Khung cảnh ngơi nhà nhỏ của gia đình bác
Vng đƣợc miêu tả cụ thể, tỉ mỉ từng chi tiết. Đó là một căn nhà tranh lụp
xụp bên trong xóm hàng Mã, nằm cạnh một cái hồ quanh năm nƣớc đen xì,
hơi thối.Căn nhà vừa thấp, vừa hẹp, ánh sáng chiếu vào yếu ớ, trong nhà lúc
nào cũng bốc lên một mùi ẩm thấp. Trƣớc nhà có một cái sân nhƣng chỉ rộng
bằng cái nia, bầy nhiều chum vại. Gia đình bác phở Mỗ cũng không khá hơn:
chỗ bác ở là “Dãy nhà lá lụp xụp…dài tới ba mươi gian áp lưng vào tường
gạch Văn Chỉ và nhìn thẳng ra một cái ao bèo. Mỗi gian là một chủ, có khi
tới hai hay ba chủ chung nhau th. Thơi thì đủ các hạng người: thợ nhà máy,
14
thợ nhà in, phu xe, những người bán bún chả, bún riêu…” [9, 57]. Tất cả đều
giống nhau ở sự nghèo nàn, tù túng. Ngƣời dân ở đây sống giữa một bãi rác
lớn, nhơ nhớp, bẩn thỉu của thành phố. Con ngõ hẻm trƣớc nhà Nhớn cứ mỗi
khi trời mƣa lại trở nên lầy lội, những vũng bùn xuất hiện nhiều, tuy “khơng
nom rõ vũng lội nhưng biết rằng nó sâu, nó nhầy nhụa, nó bẩn thỉu… nước
ngập lên gần đầu gối và một thứ bùn khăn khẳn, nồng nặc đưa vào lỗ mũi”
[9, 265]. Nhà bà Tồn cịn thảm hại hơn. Nó chật hẹp, âm thầm tối, ánh sáng
lọt vào nhƣng yếu ớt, tờ mờ. Còn nhà của bà Sửu thấp đến nỗi khi vào nhà,
ngƣời ta phải cúi rạp để khỏi bị đập đầu vào giọt tranh. Họ gọi đó là nhà,
nhƣng thực sự đó chỉ có thể gọi là chỗ che mƣa, che nắng. Sự nghèo đói ám
an
H
ảnh lên cuộc đời họ giống nhƣ những ngôi nhà ấy. Họ buộc phải sống trong
oi
đó mà khơng có cách nào thốt ra. Nguyễn Đình Lạp miêu tả những khơng
Pe
da
gian ấy một cách rất khách quan, chính sự khách quan ấy đã lột tả đƣợc hiện
gi
go
thực một cách chân thực nhất, thể hiện tiếng nói của sự thật.
lU
ca
Cuộc sống của những ngƣời lao động nơi cửa ô tối tăm, chật hẹp này
ni
vốn đã cơ cực lại càng khó khăn hơn. Lệnh cấm hàng giò chả và hàng thịt vào
rs
ve
thành phố bán “giống như những tiếng sét dữ dội đánh mạnh trên mái nhà
ity
bác Vuông và những người đồng nghề với bác” [9, 156]. Lệnh cấm bất ngờ,
2
khiến cho những ngƣời làm hàng giị và hàng thịt khơng kịp chuẩn bị. Ngay
sáng hơm thi hành cái lệnh ối oăm ấy đã có biết bao nhiêu ngƣời bị bắt, tịch
thu hết hàng. Tất cả vốn liếng, hàng họ của cả một ngày bị rơi vào tay bọn
chính quyền. Những ngƣời lao động ấy làm nhiều nghề để kiếm sống nhƣng
cũng chẳng thể thoát khỏi cái nghèo: Ngƣời phu xe ế khách nằm ƣờn mình
thẳng căng trên đệm, mắt lim dim, bận rộn tính tốn tiền lỗ, lãi sau một ngày.
Những ngƣời bán hàng dong chỉ có cái mẹ lèo tèo vài tấm mía, ngơ rang, cả
một buổi tối chỉ đƣợc mấy đồng xu. Bà tồn bán quả rang, ơng Ất bán nƣớc
trà nhƣng một ngày cũng chẳng kiếm đƣợc nhiều. Khổ nhất là những ngƣời
làm giị chả, bánh dày nhƣ bác Vng. Bác phải thức khuya dậy sớm, trang
15
trải nợ nần, tiền thịt, tiền nhà, gạo, nƣớc… Nếu bán chạy khơng sao nhƣng ế
ẩm thì lấy đâu ra trả tiền nhà. Bác Vng gái thì bán hàng vất vả, có lần phải
đi bộ năm cây số dƣới trời nắng chang chang để bán hết thúng hàng. Khuyên con gái bác Vuông phải tự đạp xe đi lấy thịt, làm nhiều nghề để kiếm tiền phụ
giúp gia đình.
Bên cạnh những ngƣời bn thúng bán mẹt, Nguyễn Đình Lạp cịn tập
trung khắc họa số phận bi đát, nghiệt ngã của những cô gái làm nghề “buôn
phấn bán son”, nhƣ nhân vật Huệ trong tác phẩm Ngoại ô. Họ cũng làm một
cái nghề hẳn hoi - “nghề bán ái tình”. Mới nói đến cái nghề ấy ai cũng ngỡ là
nhàn hạ, sung sƣớng, sống cuộc sống trụy lạc hƣởng xác, không lo nghèo đói.
an
H
Một cơ đầu với một chút nhan sắc và sự khéo léo là đã đủ sống với nghề.
oi
Nhƣng ít ai biết rằng, cái nghề ấy cũng chua xót và nhục nhã vô cùng. Họ
da
Pe
luôn bị vùi dập, giầy vò bởi mụ chủ, bởi khách chơi, bởi bạn đồng nghề.
go
Khách làng chơi chỉ đến mua vui rồi bỏ đi, khơng kiếm đƣợc khách, khơng
ca
gi
kiếm đƣợc tiền thì bị chủ dày vị, có khi cịn bị vợ của khách th ngƣời đánh
lU
ghen. Cũng có những lúc bạn đồng nghề với nhau mà xảy ra hiềm khích, ghét
ve
ni
bỏ vì tranh nhau mối khách. Khơng phải lo về lệnh cấm giị chả, cấm thịt, vé
ity
rs
chợ, tìm kiếm thị trƣờng, nhƣng họ lại có một nỗi lo là sự tàn phai của nhan
2
sắc. Ai cũng hiểu rằng, với cái nghề ấy, trong phố ả đào ấy thì nhan sắc chính
là thứ quan trọng hơn cả. Tất cả khách làng chơi, ai cũng chỉ biết vùi hoa dập
liễu, chứ đâu có u đƣơng gì. Họ tìm đến đây, dùng tiền để sử dụng những
thân xác kia phục vụ cho dục vọng đê hèn. Sau khi đã thỏa mãn, tàn cuộc vui
thì tình nghĩa cũng cạn. Ngày ngày, những cô đầu nhƣ Huệ tô son, điểm phấn,
giữ cho dung nhan tƣơi tỉnh, nhƣng thực chất, bên trong chỉ là những tâm hồn
héo úa.
Dù làm nghề nào đi chăng nữa, nhƣng ở những con ngƣời nghèo khổ ấy
có một điểm chung rất lớn đó là một số phận bất hạnh, quẩn quanh, bế tắc. Họ
không thể thoát ra khỏi con đƣờng lầy lội của cái nghèo. Đây cũng là điểm
16
chung trong hầu hết các sáng tác văn học trƣớc cách mạng. Cuộc đời của bác
Vng, Huệ, Nhớn, Cịi… cũng rơi vào đƣờng cùng, ngõ hẹp, khơng có lối
thốt giống nhƣ cuộc đời của Chị Dậu, Chí Phèo, Lão Hạc… trong các sáng
tác cùng thời. Kết thúc cả hai tiểu thuyết, ta đều thấy hiện thực nghiệt ngã, bế
tắc, nhân vật vẫn chìm trong cuộc đời tăm tối.
Giống nhƣ một vịng tuần hồn, luẩn quẩn, nghèo khổ, bất hạnh cứ thế
từ thế hệ bác Vuông, bác phở Mỗ… đến thế hệ của Nhớn, Khuyên, Còi, Tin,
Sẹo… Khép lại bức tranh Ngõ hẻm là cảnh Nhớn ra tù, trở về nhà và đƣợc
chứng kiến cảnh yên vui của gia đình. Nhƣng sau phút giây xúc động vì hạnh
phúc, lại là một dự cảm về một tƣơng lai cũng gói gọn trong chữ “nghèo”.
an
H
Cái nghèo vẫn cứ đeo bám họ. Nhớn thấy “cảnh yên vui của gia đình hắn
oi
mong manh và bất trắc lắm. Và cả thân hắn, rồi đây cũng chỉ là một tàu lá
Pe
da
trước cơn giông tố phũ phàng của cuộc đời” [9, 524].
gi
go
Viết về cuộc sống nghèo khổ, bế tắc của ngƣời dân nghèo thành thị
lU
ca
trƣớc cách mạng, Nguyễn Đình Lạp đã cho thấy hiện thực tù túng, nghèo khổ,
ni
ngột ngạt, bất công của xã hội Việt Nam lúc bấy giờ. Xã hội phong kiến nửa
rs
ve
thực dân đã đè nén, áp bức, đẩy nhân dân ta vào cảnh bần cùng hóa, khơng lối
ity
thốt. Đồng thời, Nguyễn Đình Lạp khéo léo thể hiện sự đồng cảm, xót
2
thƣơng với những kiếp ngƣời tàn tạ, quẩn quanh dƣới đáy xã hội.
2.1.2. Miêu tả cuộc sống sinh hoạt, phong tục, tập quán của dân nghèo
thành thị
Mỗi nhà văn ln đi tìm những vẻ đẹp riêng để khai thác. Nguyễn Đình
Lạp cũng vậy, với ông cái đẹp ở đây chính là những nét riêng trong lối sống,
phong tục tập quán của dân nghèo thành thị. Xuất thân từ nghèo khó và gắn
bó với tầng lớp cần lao, ông am hiểu sâu sắc về cuộc sống sinh hoạt cũng nhƣ
những phong tục của họ. Điều này đƣợc thể hiện rất rõ qua những trang viết
của ông, đặc biệt là hai tiểu thuyết này.
17
Nguyễn Đình Lạp đã miêu tả rất chi tiết về phong tục gói bánh chƣng
ngày Tết của những ngƣời lao động ven đô trong tác phẩm Ngoại ô. Tết năm
ấy, nhà bác Vuông nhận đặt trƣớc bốn trăm cái bánh trƣng hạng nhất, sáu, bảy
chục cân giò mỡ, giò hạt lựu, giị lụa. Để hồn thành cơng việc cho kịpTết,
nhà bác Vng phải nhờ cả những ngƣời hàng xóm sang giúp đỡ. Đông ngƣời
đến giúp, căn nhà lá nhỏ trở nên nhộn nhịp, rộn ràng khơng khí Tết. Bác
Vng chuẩn bị rất kĩ càng, cẩn thận từ khâu chọn nguyên liệu, đến gói bánh
và luộc bánh, mọi thứ dƣờng nhƣ đạt đến độ chuyên nghiệp: Gạo nếp ngâm
kĩ, vo sạch và xóc muối cẩn thận, trơng trắng ngần tựa thúng bông mới bật.
Đậu xanh đem ngâm kĩ để hết nƣớc chua, đồ thật kĩ, sạch vỏ, giã tơi. Mỡ và
an
H
thịt đƣợc lọc bỏ bì rồi bóp muối, hạt tiêu. Lá dong phải chọn những lá to bản
oi
rồi lau chùi thật sạch sẽ. Gói bánh cần phải theo cữ, cứ “một bát gạo, một vốc
Pe
da
đậu, rồi độ mươi,mười hai xu thịt, rồi lại một vốc đậu, một bát gạo. Theo cái
gi
go
cữ ấy thì bánh nào cũng đều nhau và hậu hĩnh như nhau” [9, 142]. Muốn gói
lU
ca
đƣợc bánh đẹp phải chọn những lá to bản ở giữa, nhƣ thế mới ôm hết đƣợc cả
ni
cái bánh, bánh mới ngon và đẹp. Khi gói bánh, cần chú ý đến quan hệ giữa
rs
ve
buộc lạt và bánh. Lạt phải chẻ cho to bản, buộc cho ra góc, nén cho thật chặt,
ity
lạt tốt thì bánh sẽ không bị vỡ. Bánh ngày Tết, buộc ba cái lạt, vừa đẹp mắt,
2
vừa không sợ vỡ bánh. Cần luộc bánh trong bảy đến tám giờ, giữ lửa cho đều,
bánh luôn phải ngập nƣớc, lửa “ba thâm ba đỏ” sẽ hỏng bánh. Sau khi luộc
xong, phải mang bánh đi nén, nhƣ thế bánh mới đẹp. Tất cả kinh nghiệm gói
bánh chƣng đƣợc bác Vuông truyền lại và hƣớng dẫn tỉ mỉ, cắt mỗi ngƣời một
việc, đâu ra đấy, ai cũng trầm trồ, thán phục. Qua lời miêu tả của tác giả, Bác
Vng giống nhƣ một ngƣời nghệ sĩ trong việc gói bánh chƣng. Có thể nói,
tới đây, ngịi bút của Nguyễn Đình Lạp khơng thua kém gì Nguyễn Tn khi
khai thác đƣợc “chất vàng mười” bên trong những ngƣời lao động bình
thƣờng. Đồng thời, ơng đã vẽ khắc họa rất chân thực và sinh động một trong
18
những nét đẹp văn hóa truyền thống của ngƣời lao động nói riêng và của
ngƣời dân Việt Nam nói chung mỗi dịp Tết đến xuân về.
Bên cạnh đó, tác giả còn khiến ngƣời đọc cảm thấy ấm áp trƣớc khung
cảnh sắm tết chiều cuối năm của gia đình bác Vng. Khơng khí sắm Tết rộn
ràng, vui tƣơi khác hẳn mọi năm: “Bác Vuông gái bận rộn thu xếp chai nước
mắm ngon, bánh pháo Bình Đà tồn hồng, hai cây vàng, hai cây bạc và một
cỗ mũ ông công vào cái bộ rộng. Bác trai hì hục vần cối đá và khn những
cái chày bằng gỗ mít cất vào một góc nhà. Cái Còi xun xoe đứng trên phản để
thử cái quần chéo go mới, cạp nhiễu điều. Nó quay ngang quay dọc, ngắm
nghía khơng chán mắt, lịng sung sướng, cởi mở như bắt được vàng” [9, 149].
an
H
Cịn với Khun, “Nó vui sướng nhận thấy cái tết sắp đến. Vì Tết đối với nó
oi
là những ngày thảnh thơi, được bận quần áo đẹp, được đi đàn đúm với chúng
Pe
da
bạn, được ăn món ăn ngon hơn mọi ngày và thứ nhất là được ăn chè kho với
gi
go
xơi lạc, hai món ăn nó hằng ưa thích và thèm khát” [9, 149]. Nguyễn Đình
lU
ca
Lạp đã thành cơng trong việc tái hiện khơng khí những ngày giáp Tết của
ni
những ngƣời dân nghèo vùng ngoại ô. Khung cảnh nhộn nhịp, phấn khởi ấy
rs
ve
reo vào lòng ngƣời đọc một cảm giác ấm áp, hạnh phúc, dẫn dắt ta hịa chung
ity
niềm vui bình dị, bình n hiếm hoi của những con ngƣời nghèo khổ .
2
Bên cạnh việc miêu tả cuộc sống sinh hoạt, Nguyễn Đình Lạp cịn tập
trung khắc họa những phong tục, tập quán, của ngƣời dân nghèo thành thị,
chủ yếu là tục thờ cúng và tang ma. Tuy nhiên, những phong tục, tập quán
này lại thiên về thói quen, cách nhìn lệch lạc, hạn chế. Đây là một trong
những nguyên nhân đẩy cuộc sống của họ rơi vào nghèo khổ, bế tắc.
Bóng tối bao trùm lên cuộc đời và số phận của những con ngƣời trong
tác phẩm không chỉ là những nghèo khổ, tăm tối, mà còn ăn sâu cả trong tƣ
tƣởng, nếp nghĩ của họ. Điều này thể hiện trong sự tin tƣởng tuyệt đối vào
thần linh. Từ trong cuộc mƣu sinh nhọc nhằn hằng ngày cho đến những đình
19