Mở đầu
Năm 1887, trong cuốn sách “Nghiên cứu về Hành chính công”,
Woodrow Wilon (1856-1924) đã khẳng định “Thực hiện Hiến pháp khó
hơn là xây dựng nên nó”, điều này đã đặt nền tảng cho việc ra đời và phát
triển của một ngành khoa học mới, khoa học hành chính công. Ngành khoa
học này chủ yếu nghiên cứu các quy luật nhằm quản lý có hiệu quả các hoạt
động kinh tế, xã hội của các tổ chức hành chính Nhà nước. Và kể từ khi ra
đời cho tới nay, cũng giống như các ngành khoa học xã hội khác, khoa học
hành chính công cũng đã có nhiều mô hình lý thuyết phát triển khác nhau,
trong đó có mô hình Quản lý công mới (New Public Management - NPM).
Quản lý công mới (NPM), về bản chất, là một cách tiếp cận mới đối với
hành chính công truyền thống. Mục tiêu chính của NPM là nhằm nâng cao
chất lượng của hoạt động quản lý nhà nước, hướng tới xây dựng một nền
hành chính năng động, linh hoạt trong điều hành, giám sát và quản lý các
chủ thể khác nhau của xã hội nhằm phục vụ tốt hơn các quyền và lợi ích của
khu vực công cộng. Vì thế, NPM đặc biệt quan tâm tới hiệu quả tác động
cũng như mức độ ảnh hưởng của nền hành chính đối với xã hội - điều mà
nền hành chính công truyền thống quan liêu trước đây bỏ ngỏ. Yếu tố không
phải là mới, song lại được NPM đề cao đó là chức năng phục vụ một cách
chuyên nghiệp của bản thân nền hành chính và đặc biệt là sự kết hợp, hợp
tác của cả hai khu vực công và tư trong điều hành hành chính.
Trong điều kiện thực tế của Việt Nam, hành chính công không chỉ bao
gồm hoạt động của các cơ quan hành pháp, mà trong hầu hết trường hợp còn
gồm cả hoạt động của các cơ quan đảng và đoàn thể chính trị - xã hội nữa.
Cùng với công cuộc đổi mới và cải cách diễn ra quyết liệt, mạnh mẽ trong
hơn 20 năm qua, đã thực sự quyết tâm trong việc thu gọn bộ máy và nâng
cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của bộ máy này. Do đó, vấn đề đặt ra là làm thế
nào để tăng khả năng vận dụng các yếu tố của mô hình quản lý công mới vào cải cách
nền hành chính ở nước ta, với mục đích nhằm tăng hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Nhà
nước đối với nhân dân.
NỘI DUNG
I. MÔ HÌNH QUẢN LÝ CÔNG MỚI
1.1. Một số nét khái quát về mô hình quản lý công mới
Hành chính công hay quản lý công theo cách hiểu chung là thiết chế thực hiện
quyền hành pháp, đưa chính sách, pháp luật vào cuộc sống. Theo cách tiếp cận rộng,
hành chính công là nền hành chính. Nền hành chính là khái niệm tổng quát, bao gồm các
yếu tố: hệ thống thể chế, pháp luật, thủ tục hành chính; chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu tổ
chức và cơ chế vận hành của bộ máy hành chính nhà nước các cấp; đội ngũ cán bộ, công
chức; nguồn lực tài chính, công sản và các điều kiện vật chất, kỹ thuật đảm bảo thực thi
1
công vụ hiệu quả. Đặc trưng và ranh giới của hành chính công hay nền hành chính phụ
thuộc vào loại hình và quy mô của mỗi nhà nước.
Hành chính công là khoa học nghiên cứu các quy luật quản lý có hiệu quả những
công việc xã hội của các tổ chức hành chính Nhà nước. Kể từ khi khoa học Hành chính
công ra đời đã có nhiều mô hình lý thuyết khác nhau với các bước phát triển thăng trầm.
Trong những năm gần đây (thập kỷ 80 và những năm đầu thập kỷ 90 của thế kỷ XX) rất
nhiều nước trên thế giới đặt vấn đề xem xét lại khu vực công về quy mô và khả năng điều
hành sự phát triển của đất nước, đặc biệt một số nước như Anh, Mỹ. Những nước này đã
đưa ra mô hình Quản lý công mới (Hành chính phát triển) thay thế cho mô hình Hành
chính công truyền thống.
Hành chính phát triển (Quản lý công mới) thường được sử dụng khi nói đến “Mô
hình hành chính công theo các tiêu chí hiện đại, chủ động, năng động, nhạy bén, thích
nghi cao nhằm đáp ứng các yêu cầu quản lý và dịch vụ tối đa trong các điều kiện kinh tế
thị truờng phát triển mạnh mẽ và những quan hệ quốc tế ngày càng phụ thuộc chặt chẽ
lẫn nhau”.
Việc vận dụng các yếu tố của mô hình quản lý công mới vào Việt Nam nói trên
thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng thể hiện trên một số mặt sau: Tư nhân hóa một
số nhiệm vụ của Nhà nước; Tăng khả năng cạnh tranh; Phi quy chế hóa; Đẩy mạnh phân
quyền chính sách; Vận dụng nhiều phương pháp quản lý của khu vực tư vào quản lý
công.
1.2. Quản lý công mới là xu hướng phổ biến trên thế giới
Chuyển đổi từ Hành chính công truyền thống sang Quản lý công (Hành chính
phát triển) là xu hướng phổ biến trên thế giới, đặc biệt là những nước kinh tế thi trường
phát triển.
Thứ nhất, NPM luôn chú trọng tới mục tiêu đạt hiệu quả trong hoạt
động quản lý xu hướng toàn cầu hoá, sự tiến bộ vượt bậc của cuộc cách
mạng khoa học - công nghệ, sự phát triển và biến đổi của nền kinh tế tri
thức, mối quan hệ phức tạp giữa Nhà nước - xã hội - công dân, trình độ dân
trí được nâng cao đặt ra không ít thách thức đối với nền hành chính của các
quốc gia. Yêu cầu trong giai đoạn này là các quốc gia cần tìm cách để sử
dụng có hiệu quả các nguồn lực nhà nước (trong xu thế cạnh tranh) để cải
thiện về số lượng và nâng cao chất lượng các loại dịch vụ cung cấp cho
người dân. Sự phát triển của nền kinh tế thị trường với các yêu cầu tính toán
cao về chi phí - kết quả, về việc coi “khách hàng là thượng đế”, đặc biệt là
sự thao túng của “bàn tay vô hình” đòi hỏi vai trò điều hành của Nhà nước
phải có sự thay đổi. Yêu cầu của quản lí công là cần tôn trọng sự vận hành
của thị trường, sự điều tiết của “bàn tay vô hình”, còn sự điều tiết của “bàn
tay hữu hình” của Nhà nước chỉ nên dừng lại ở những biện pháp can thiệp
2
thực sự phù hợp thông qua công cụ pháp luật và các điều tiết vĩ mô, chủ yếu
mang tính định hướng, tháo gỡ, giúp đỡ, hợp tác, lôi cuốn nhằm nâng cao
hiệu quả kinh tế, đảm bảo công bằng xã hội; Nhà nước nên hạn chế tối đa
việc sử dụng quyền lực cưỡng chế, áp đặt.
Thứ hai, phân quyền và tư nhân hoá diễn ra mạnh mẽ. Phân quyền có
thể được thể hiện dưới nhiều hình thức và mức độ khác nhau như trao
quyền, uỷ quyền, tản quyền, phân công, phân cấp, phân nhiệm, v.v. Tuy
nhiên, xu hướng chung của phân quyền là việc Chính phủ Trung ương chia
sẻ quyền hạn, trách nhiệm, nghĩa vụ nhiều hơn cho chính quyền địa phương
hay các cơ quan chuyên môn cấp dưới trong việc chủ động quản lý và sử
dụng các nguồn lực được phân bổ. Việc “dám” và “mạnh dạn” phân quyền
giúp Chính phủ Trung ương tập trung vào vai trò quản lí và điều tiết vĩ mô,
thay vì ôm đồm cả những công việc sự vụ, các tác nghiệp vi mô như trước
đây; đồng thời, đây cũng là cơ sở để chính quyền địa phương chủ động, phát
huy sáng tạo, đổi mới quản lý, khai thác hết tiềm năng của cơ sở. Phân
quyền, ở một khía cạnh phát triển nữa, còn tạo điều kiện cho “khách hàng”
của Nhà nước tham gia vào các hoạt động quản lý công và đặc biệt là giám
sát quá trình thực thi công vụ. Tư nhân hoá chính là cách thức huy động mọi
nguồn lực trong xã hội tham gia vào quản lý và phát triển đất nước, giải
quyết các vấn đề xã hội thông qua các hình thức đa dạng như đấu thầu, hợp
đồng công vụ, hợp đồng lao động, cổ phần hoá, tập đoàn hoá. Bản chất tối
ưu của tư nhân hoá là nhằm nâng cao tính cạnh tranh trong thực thi công vụ,
cung cấp dịch vụ công cho khu vực công cộng, yếu tố mà trước đây chưa
từng được thừa nhận trong khu vực nhà nước. Vấn đề cơ bản và cốt lõi của
các Nhà nước trong điều hành, quản lý là cần nghiên cứu để tìm được biện
pháp tư nhân hoá tối ưu nhất, nhất là trong các dịch vụ công ít mang lại mục
tiêu lợi nhuận; và bất kể khi nào, Nhà nước cũng phải là người chịu trách
nhiệm chính trong vấn đề bảo đảm chất lượng các dịch vụ được cung ứng.
Cuối thế kỉ XX, câu chuyện nước Anh quốc hữu hóa một số tài sản (kể cả hệ
thống đường sắt quốc gia) đã được nữ hoàng Anh bán cho tư nhân là một ví
dụ cụ thể minh chứng cho vai trò của Nhà nước trong vấn đề này.
Thứ ba, NPM chú trọng xây dựng một hệ thống cơ chế quản lí mềm
dẻo, linh hoạt, có khả năng thích nghi cao đối với những thay đổi của đối
tượng quản lý. Nền hành chính truyền thống xây dựng và phát triển một hệ
thống các thể chế, quy chế nghiêm ngặt, cứng nhắc, thậm chí máy móc trong
điều hành và quản lí. Tất nhiên, sự nghiêm ngặt nào cũng có những giá trị
3
nhất định, song tính cứng nhắc, máy móc trong cơ chế quản lí trong thời
gian dài đã làm xuất hiện và nuôi sống cơ chế “xin - cho”, một yếu tố cản trở
sự phát triển của nền kinh tế - xã hội và làm xấu đi mối quan hệ giữa Nhà
nước với công dân. Sự thay đổi của NPM chính là ở chỗ, các nguyên tắc
quản lý vẫn phải giữ được tính tôn nghiêm và uy quyền cần thiết, song cách
thức để thực hiện các nguyên tắc đó lại phải linh hoạt, mềm dẻo và thích
nghi với điều kiện kinh tế - xã hội. Bản chất của điều này chính là ở chỗ
“người ta có thể dắt con ngựa tới vũng nước, song không thể bắt nó uống
nước”. Mối quan hệ giữa tính uy quyền và mềm dẻo được thể hiện ở tính
minh bạch và trách nhiệm giải trình trong quá trình thực thi NPM. Bản chất
của quyền lực Nhà nước dân chủ là sự uỷ quyền từ phía nhân dân. Khi đã
nhận sự uỷ quyền thì chính quyền phải chịu trách nhiệm trước dân về cách
ứng xử và hành xử của mình. Và điều kiện đảm bảo cho trách nhiệm giải
trình của chính quyền chính là tính công khai, minh bạch. Điều kiện quan
trọng khẳng định sự lành mạnh của cả thể chế và xã hội. Chính quyền cần
minh bạch, giải trình cả những vấn đề mà dân biết lẫn những bất cập, bất
hợp lý mà nhân dân không biết, không thấy. Rõ ràng, NPM có những lợi
thế/điểm mạnh nhất định so với hành chính công truyền thống và hiệu quả
trong việc áp dụng NPM là có thể nhìn thấy trước. Song trên thực tế, không
phải quốc gia nào cũng có thể bê nguyên mô hình NPM vào áp dụng trong
quản lý công của quốc gia mình, bởi các điều kiện ràng buộc để ứng dụng
NPM.
II. KHẢ NĂNG VẬN DỤNG CÁC YẾU TỐ CỦA MÔ HÌNH QUẢN LÝ
CÔNG MỚI VÀO CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH Ở VIỆT NAM
2.1. Thực trạng đổi mới cải cách hành chính của nước ta
Thực hiện đường lối đổi mới, Đảng ta đã có nhiều chủ trương về cải cách hành
chính và luôn xác định cải cách hành chính là một khâu quan trọng trong sự nghiệp đổi
mới để phát triển đất nước. Các cơ quan nhà nước, trong đó Chính phủ đã ban hành và tổ
chức thực hiện nhiều chương trình, kế hoạch đã triển khai cải cách hành chính theo các
chủ trương, nghị quyết của Đảng, nhất là chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà
nước giai đoạn 2001-2010.
Năm 2007 là năm có nhiều sự kiện quan trọng có liên quan trực tiếp đến cải
cách hành chính. Vì vậy, Cải cách Hành chính đã được đặc biệt quan tâm.
Tại phiên họp Chính phủ đầu tiên của năm 2007, Thủ tướng Nguyễn Tấn
Dũng đã đặc biệt nhấn mạnh: cải cách hành chính là một trong 3 nhiệm vụ
trọng tâm của năm 2007. Hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành Trung ương
Đảng khoá X đã ban hành Nghị quyết về đẩy mạnh cải cách hành chính,
4
nâng cao hiệu lực hiệu quả quản lý cán bộ công chức. Trên tinh thần đó,
ngày 07/11/2007, Chính phủ đã ban hành chương trình hành động của Chính
phủ thực hiện Nghị quyết. Chương trình hành động đã đề ra những nhiệm vụ
chủ yếu sau:
+ Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác cải cách hành
chính;
+ Thực hiện đồng bộ cải cách hành chính với cải cách lập pháp và cải
cách tư pháp;
+ Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ thống thể chế;
+ Tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính - khâu đột phá của cải cách hành
chính;
+ Xác định rõ chức năng, nhiệm vụ của Chính phủ và các cơ quan
hành chính Nhà nước;
+ Tiếp tục cải cách chế độ công vụ, công chức;
+ Cải cách tài chính công;
+ Hiện đại hoá nền hành chính;
+ Giải quyết tốt mối quan hệ giữa cơ quan hành chính Nhà nước với
nhân dân, huy động sự tham gia có hiệu quả của nhân dân và xã hội vào hoạt
động quản lý của các cơ quan hành chính Nhà nước;
+ Nâng cao nhận thức và trách nhiệm của cơ quan hành chính nhà nước các cấp
và cán bộ, công chức đối với công tác cải cách hành chính.
- Về thể chế hành chính đã sửa đổi Hiến pháp, ban hành các Luật mới và các văn
bản dưới luật về tổ chức bộ máy nhà nước; Sửa đổi bổ sung một số điều Pháp lệnh cán
bộ, công chức; ban hành các nghị định để cụ thể hóa Pháp lệnh, cán bộ, công chức Điều
quan trọng là: các văn bản về tổ chức bộ máy nhà nước là đã quy định khá cụ thể quyền
hạn và trách nhiệm của các cơ quan nhà nước, từng bước thể hiện sự phân cấp trong quản
lý giữa Trung ương và địa phương; các văn bản pháp luật về công vụ, cán bộ, công chức
đã quy định khá cụ thể các quyền, nghĩa vụ của các cán bộ, công chức và đã bước đầu đi
theo hướng chuyên biệt hoá các đối tượng những người phục vụ trong cơ quan, tổ chức
nhà nước.
- Về bộ máy hành chính đã giảm dần các đầu mối quản lý, số lượng các cơ quan
quản lý nhà nước đã giảm xuống đáng kể, thủ tuc hành chính được cải cách theo hướng
"một cửa", mẫu hóa các văn bản hành chính, giấy tờ, công khai các thủ tục hành chính.
Chính việc cải cách thủ tục hành chính này đã góp phần hạn chế sự sách nhiễu, phiến hà,
tham những của các công chức hành chính trong khi giải quyết các công việc của công
dân. Đây là điểm căn bản nhất của cải cách hành chính góp phần xây dựng nhà nước
pháp quyền.
- Hoàn thành và công khai trên Internet Cơ sở dữ liệu quốc gia về thủ tục hành
chính, mẫu đơn, mẫu tờ khai hành chính, yêu cầu hoặc điều kiện để thực hiện thủ tục
hành chính và toàn bộ các văn bản pháp luật có liên quan trên cơ sở đã được đơn giản hoá
theo các tiêu chí về tính hợp pháp, sự cần thiết và tính hợp lý của thủ tục hành chính, mẫu
5
đơn, mẫu tờ khai hành chính và yêu cầu hoặc điều kiện để thực hiện thủ tục hành chính.
Kết thúc năm 2010, cá nhân, tổ chức trong và ngoài nước có thể truy cập vào trang thông
tin điện tử của Tổ công tác chuyên trách cải cách thủ tục hành chính của Thủ tướng
Chính phủ hoặc Cổng thông tin điện tử của Chính phủ để tìm hiểu, giám sát việc thực
hiện thủ tục hành chính ở tất cả các cấp chính quyền trong phạm vi toàn quốc; in mẫu
đơn, mẫu tờ khai hành chính để khai thay vì phải mua hoặc đến cơ quan hành chính xin
mẫu văn bản. Một hệ thống trợ giúp tự động trên mạng cũng được thiết lập để hỗ trợ
người dân, doanh nghiệp tìm kiếm thủ tục hành chính và kê khai mẫu đơn, mẫu tờ khai
hành chính.
- Nghị định về tiếp nhận, xử lý phản ánh, kiến nghị của cá nhân, tổ chức về quy
định hành chính.
- Nghị định về kiểm soát thủ tục hành chính để kiểm soát thủ tục hành chính ở các
cấp chính quyền trong phạm vi toàn quốc và duy trì kết quả thực hiện đề án 30 sau khi
kết thúc đề án vào cuối năm 2010 (dự kiến sẽ trình Chính phủ thông qua vào quý I năm
2009).
- Văn bản của các cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền để sửa đổi, bãi bỏ, huỷ
bỏ hoặc đơn giản hoá các thủ tục hành chính, mẫu đơn, mẫu tờ khai hành chính, yêu cầu
hoặc điều kiện để thực hiện thủ tục hành chính không hợp pháp, không cần thiết và
không hợp lý.
2.2. Khả năng vận dụng các yếu tố của mô hình quản lý công mới
2.2.1. Đẩy mạnh phân quyền
Đây là một vấn đề đang được quan tâm trong cải cách hành chính ở Việt Nam.
Phân cấp thực chất là việc chuyển dần các công việc, nguồn lực do chính quyền trung
ương nắm giữ cho chính quyền địa phương nhằm trao cho chính quyền địa phương các
cấp đủ quyền và trách nhiệm để chủ động, sáng tạo, phát huy dân chủ, thu hút sự tham
gia của người dân vào quản lí công từ cấp chính quyền cơ sở được thực hiện một cách lâu
dài, ổn định bằng các văn bản luật, dưới luật, nhằm mở rộng dân chủ, phát huy tính chủ
động sáng tạo của chính quyền địa phương. Trong xu hướng phân cấp bộ máy hành chính
nhà nước ở trung ương sẽ tập trung vào việc xây dựng chính sách, bảo đảm sự thống nhất
về thể chế, việc giải quyết những vấn đề lớn của quốc gia, còn những việc thuộc phạm vi
cộng đồng lãnh thổ do cộng đồng lãnh thổ giải quyết. Như vậy, vấn đề phân cấp gắn với
vấn đề dân chủ, dân chủ là cốt lõi của nhà nước pháp quyền, không có dân chủ thì không
có nhà nước pháp quyền, không mở rộng quyền chủ động sáng tạo của chính quyền địa
phương thì không có nhà nước pháp quyền. Bởi vì chỉ có thể thông qua những thiết chế
dân chủ, phát huy tính dân chủ, sáng tạo của cộng đồng lãnh thổ mới có thể tạo lập được
môi trường thuận lợi để nhân dân các cộng đồng lãnh thổ kiểm soát được hoạt động của
nhà nước. Tuy nhiên, việc phân cấp phân quyền còn chồng chéo, chưa rõ ràng, có thẩm
quyền thuộc về nhiều cấp, nhiều ngành nhưng không biết cấp nào, ngành nào chịu trách
nhiệm, có thẩm quyền thì không được phân định hoặc rất lỏng lẻo.
6
2.2.2. Phi quy chế hóa
Theo cách tiếp cận quản lí công, nền hành chính hiện đại không đòi
hỏi phải xây dựng một hệ thống quy chế nghiêm ngặt, cứng nhắc mà thay
vào đó là những cơ chế mềm dẻo, linh hoạt, thích nghi với những biến đổi
của tình hình phát triển kinh tế – xã hội. Đây chính là việc phi quy chế hoá
các thể chế pháp luật, thủ tục hành chính đã trở nên rườm rà, phức tạp, khó
áp dụng. Nước ta đang tiến hành cải cách thủ tục hành chính, xoá bỏ cơ chế
“xin – cho”, coi đó là một bước đột phá trong CCHC để đơn giản hoá và loại
bỏ thủ tục hành chính gây khó khăn, phiền hà cho các hoạt động dân sự, sản
xuất, kinh doanh. Công khai quy trình giải quyết công việc và áp dụng cơ
chế “một cửa” là một trong những biện pháp nhằm đổi mới mối quan hệ
giữa cơ quan công quyền với công dân, tổ chức; tạo sự liên thông giữa các
cơ quan chức năng trong phối hợp công tác, xử lí công việc nhanh chóng, rõ
trách nhiệm từng khâu; giúp cơ cấu lại tổ chức bộ máy hợp lý hơn. Tuy cải
cách thủ tục hành chính đã đem lại một số kết quả đáng ghi nhận song chưa
đáp ứng được yêu cầu trong thời kỳ mới. Thực tế đòi hỏi phải gắn công tác
cải cách thủ tục hành chính với việc rà soát, xác định rõ thẩm quyền, trách
nhiệm của cơ quan hành chính các cấp và đẩy mạnh phân cấp, mở rộng xã
hội hoá nhằm phục vụ nhân dân tốt hơn, thích ứng hơn với yêu cầu quản lý
nhà nước trong cơ chế thị trường. Cần luật hoá các quy định liên quan đến
thủ tục hành chính. Trường hợp thật cần thiết, các bộ ngành, địa phương mới
ban hành thủ tục hành chính, nhưng phải đảm bảo các tiêu chí như: đơn giản,
rõ ràng, dễ thực hiện, tạo thuận lợi tối đa cho tổ chức, cá nhân. Dự án Luật
Thủ tục hành chính đang được soạn thảo là nhằm tạo cơ sở pháp lý để thực
hiện thống nhất các quy trình, thủ tục hành chính trong giải quyết công việc
giữa các cơ quan với nhau và giữa cơ quan công quyền, công chức với công
dân, tổ chức.
2.2.3. Tư nhân hóa một số nhiệm vụ của Nhà nước, tăng khả năng cạnh tranh,
vận dụng phương pháp quản lý tư vào quản lý công
Đảm bảo cung ứng dịch vụ công là trách nhiệm của Nhà nước, song
trừ những dịch vụ mà Nhà nước phải nắm thì việc cho tư nhân cung ứng
dịch vụ công giúp mà tư nhân có khả năng, sẽ là nhân tố đảm bảo tốt hơn
trong việc thực hiện cải cách nền hành chính. Chúng ta đang nỗ lực nghiên
cứu, xác định những dịch vụ thiết yếu Nhà nước chịu trách nhiệm trực
tiếp cung ứng và những công việc nên ủy nhiệm cho cộng đồng xã hội
7
thực hiện; phân định chức năng quản lí hành chính nhà nước với quản lí,
cung ứng dịch vụ công và quản trị sản xuất, kinh doanh; tổ chức bộ máy
hành chính tinh gọn, cơ cấu hợp lý, rành mạch trách nhiệm, quyền hạn;
quy định cụ thể những việc cơ quan, tổ chức hay công chức (nhóm nào)
thực hiện việc gì (hay bị cấm làm việc gì); ứng dụng công nghệ thông tin
trong toàn bộ quy trình cung ứng dịch vụ công… Tuy nhiên, khi tiến hành
tư nhân hóa, thực hiện xã hội hoá, cần có kế hoạch nâng cao năng lực,
chuẩn bị đầy đủ nguồn nhân lực, cơ chế quản lí, các điều kiện thuận lợi
cho chính quyền địa phương, đơn vị cơ sở. Đồng thời, tăng cường chế độ
thông tin, báo cáo và vai trò hướng dẫn, kiểm tra, giám sát của cấp trên,
của các cơ quan hữu quan. Điều này giúp đảm bảo tính khả thi của các đề
án phân cấp, xã hội hoá, tránh nguy cơ phân phối dịch vụ không đồng
đều, bất bình đẳng giữa các công dân và giữa các vùng miền.
Hiện nay một số địa phương đã áp dụng tiêu chuẩn ISO để đánh
giá, kiểm soát thường xuyên hoạt động của các cơ quan hành chính
trong việc giải quyết các công việc của cá nhân, tổ chức. Trong số các
tiêu chí đánh giá về cơ quan hành chính có các tiêu chí đáng lưu ý gắn
với nhà nước pháp quyền: tính hợp pháp của nội dung các quyết định;
tính đúng đắn về thời hạn theo quy định của pháp luật của các quyết
định; tính đúng đắn về thủ tục giải quyết các công việc. Thực tiễn việc
áp dung các tiêu chuẩn ISO vào hoạt động hành chính đã mang lại
những kết quả đáng kể: việc giải quyết các công việc của dân đơn giản,
nhanh gọn, đúng pháp luật, đúng thời hạn, đúng thủ tục
Tất cả những mục tiêu đó của cải cách hành chính cũng là nhằm góp phần xây
dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa với bản chất của nhân dân, do nhân dân, vì
nhân dân.
2.3. Những khó khăn của việc vận dụng mô hình quản lý công mới
+ Thiếu hoặc chuẩn bị chưa đầy đủ, thấu đáo trong việc lập và thực
hiện kế hoạch nâng cao năng lực, cung cấp đầy đủ nguồn nhân lực, cơ chế
quản lí và các điều kiện thuận lợi khác cho chính quyền địa phương, các đơn
vị cơ sở.+ Thói quen làm việc theo êkíp, tư duy nhiệm kì cản trở việc cống
hiến cho lợi ích chung, làm cho tình trạng “thấy mà như không thấy” hoặc
“không muốn nhìn nhận, thừa nhận” những vấn đề trong phạm vi quyền hạn,
trách nhiệm được giao trở nên phổ biến, trầm trọng hơn, biến thành một căn
8
bệnh mà nguyên một vị Thủ tướng đã nhận định là “vô cảm”.+ Thiếu chủ
động trong trao quyền, đôi khi phân quyền rồi song vẫn tìm cách giữ lại
một/một vài cơ chế, cách thức để đảm bảo lợi ích kinh tế, chính trị trong vấn
đề đã chuyển giao. Câu chuyện phân quyền trong cấp phép đầu tư dự án kinh
doanh là một ví dụ điển hình. Chính quyền cấp tỉnh đã được phân quyền cấp
phép đầu tư các dự án có quy mô từ 1500 tỉ đồng trở xuống, không phân biệt
nguồn vốn. Nhưng có phải bài toán lợi ích kinh tế từ việc phân cấp này quá
lớn mà các Bộ (đặc biệt là Bộ XD) lại đưa thêm quy định chủ đầu tư dự án
muốn được cấp phép xây dựng công trình cần lập báo cáo đầu tư trình Bộ để
Bộ xin ý kiến Thủ tướng? Các chủ đầu tư, đã tiến hành xây dựng dự án bị
Bộ quản lí ngành ách lại với lí do không phù hợp quy hoạch ngành, không
chỉ dở khóc dở mếu, xót xa vì tốn kém mà có lẽ hơn hết là thiếu niềm tin vào
cách thức quản lí của Nhà nước.+ Hệ quả của phân cấp chính là việc làm
giảm tính kỉ cương (vốn dĩ đã không lấy gì làm mạnh trong khu vực nhà
nước của ta), đồng thời không làm rõ được trách nhiệm giữa cá nhân - tập
thể trong các trường hợp đưa ra quyết định sai.
- Trách nhiệm giải trình và tính minh bạch cần được đề cao.Theo
quan điểm của Đại sứ Thuỵ Điển Staffan Herrstro’m trong Hội nghị hợp tác
quốc tế về phòng, chống tham nhũng: Hai cụm từ luôn định hướng cho mọi
hoạt động chống tham nhũng là minh bạch và trách nhiệm giải trình. Khi
Nhà nước pháp quyền còn yếu và khi trách nhiệm giải trình khó có thể được
thực thi thì những người nghèo nhất trong xã hội sẽ là những người bị ảnh
hưởng nặng nề nhất. Rõ ràng, đây là hai vấn đề nổi cộm hiện nay trong điều
kiện điều hành, quản lí của Nhà nước Việt Nam.Vậy lí do nào cho việc
những người có trách nhiệm trong chính quyền thường né tránh việc giải
trình về những việc làm gắn liền với trách nhiệm đó của họ?+ Trước hết, đó
là do họ phải trả lời, giải thích cho những gì thuộc phạm vi trách nhiệm của
mình cho những người có lợi ích liên quan. Thông thường, các bên liên quan
này thường đại diện cho các nhóm lợi ích khác nhau, thậm chí xung đột
nhau. Câu chuyện giải trình này không phải dễ thực hiện. Tại sao Chính phủ
chọn phương án làm đường sắt cao tốc Bắc – Nam trong khi hầu hết mọi đối
tượng trong xã hội đều phản đối? Chính phủ sẽ giải trình như thế nào với
người dân khi so sánh tương quan lợi ích giữa chi phí làm đường sắt cao tốc
(chủ yếu là đi vay) với những lợi ích kinh tế - xã hội do đường sắt cao tốc
mang lại, đặc biệt là những hệ quả xã hội sẽ giành cho thế hệ tương lai phải
trả lời?+ Khi giải trình một cách đúng nghĩa, người có trách nhiệm sẽ không
9
thể đổ thừa cho cấp dưới, cho các yếu tố khách quan, hay cho sự hạn chế về
mặt tư tưởng và nhận thức như lâu nay chúng ta thường làm. Lí do cho việc
sập tới 4 dầm cầu vượt Pháp Vân (mỗi dầm cầu nặng hơn 60 tấn) năm 2010
mà các cơ quan chức năng đưa ra là do gió thổi to liệu sẽ được đối tượng
nào, kể cả trẻ em, trong xã hội chấp thuận để bao biện cho việc cẩu thả, bớt
xén, thiếu trách nhiệm trong thi công các công trình xây dựng cơ bản ở ta?+
Trách nhiệm giải trình thuộc phạm trù đạo đức, vì thế nó đòi hỏi tính tự giác,
tính biết “xấu hổ” của những người đã được trao trách nhiệm đó. Pháp luật
cũng chưa đưa ra quy định hay chế tài nào cho việc phải giải trình hay giải
trình không đúng; người dân thì càng không có cơ chế nào để buộc người có
trách nhiệm phải giải trình (kể cả trong các cơ quan dân cử với cơ chế bầu
theo cơ cấu như hiện nay). Hoặc có những người “xấu hổ” thực sự lại bị
ràng buộc bởi một loạt những cơ chế chồng chéo khiến cho phần giải trình
của họ bị định hướng, bị chi phối.Đối với vấn đề minh bạch, thậm chí đã trở
thành một trong những cam kết quan trọng buộc phải thực thi khi Việt Nam
gia nhập WTO và các tổ chức khu vực và quốc tế khác, đòi hỏi chính quyền
phải đảm bảo:+ Khả năng tiếp cận thông tin của mọi đối tượng trong xã hội
vì đây là thước đo quan trọng cho tính minh bạch;+ Thông tin công khai
phải đi đôi với sự đầy đủ và kịp thời;+ Chính quyền phải chủ động để cung
cấp thông tin thay vì sẵn sàng hoặc buộc phải cung cấp nếu được hỏi.Cùng
với sự phát triển của công nghệ thông tin và nhất là tính bắt buộc đối với
chính quyền các cấp trong việc ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lí
hành chính thông qua việc thành lập các website, các cổng điện tử giao tiếp
với người dân và doanh nghiệp, rõ ràng người dân sẽ được đảm bảo trong
vấn đề tiếp cận thông tin. Song trên thực tế, các thông tin được đăng tải có
đáp ứng/cung cấp/thoả mãn nhu cầu của người dân hay không lại là vấn đề
khác. Bên cạnh đó là tình trạng chính quyền thường xuyên né tránh hoặc tìm
mọi lí do cho việc hoãn/tạm dừng/ngừng cung cấp thông tin (thậm chí bưng
bít) nếu những thông tin đó có ảnh hưởng không tốt tới chính quyền. Những
điều này kèm theo tự do báo chí bị hạn chế, xã hội dân sự chưa vững vàng
và Nhà nước pháp quyền chưa đủ mạnh là nguyên nhân chủ yếu cho sự thiếu
minh bạch và hạn chế trách nhiệm giải trình trong điều kiện Việt Nam.
10