Tải bản đầy đủ (.pdf) (28 trang)

THẨM QUYỀN XÉT XỬ VỤ ÁN HÀNH CHÍNH CỦA TOÀ ÁN NHÂN DÂN THEO QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (510.93 KB, 28 trang )

Bìa 1
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ HÀ NỘI
KHOA/TRUNG TÂM…………………………….

TÊN ĐỀ TÀI: THẨM QUYỀN XÉT XỬ VỤ ÁN HÀNH CHÍNH CỦA TOÀ ÁN
NHÂN DÂN THEO QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH.

BÀI TẬP TIỂU LUẬN KẾT THÚC HỌC PHẦN

Học phần: Luật Tố tụng hành chính
Mã phách:………………………………….(Để trống)

TP.Hồ Chí Minh – 2022


MỞ ĐẦU
Tranh chấp hành chính là hiện tượng khách quan, phát sinh từ những hạn chế,
bất cập trong tổ chức thực thi quyền hành pháp. Để giải quyết hiệu quả các
tranh chấp này, Việt Nam và các quốc gia trên thế giới đã thiết lập, duy trì và
từng bước hồn thiện nhiều phương thức nhằm đáp ứng ngày một tốt hơn
quyền khiếu kiện hành chính của cá nhân, tổ chức trong xã hội. Một trong số
các phương thức để người dân bảo vệ quyền lợi của mình là khởi kiện hành
chính. Để thực hiện quyền khởi kiện của mình, cá nhân, tổ chức phải tuân thủ
những điều kiện nhất định.

Luật Tố tụng hành chính năm 2015 được Quốc hội khóa XIII thơng qua tại kỳ
họp thứ 10, ngày 25/11/2015, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2016. So với
các văn bản pháp luật trước đây, Luật Tố tụng hành chính năm 2015 có nhiều
sửa đổi, bổ sung quan trọng có tính khả thi cao, bảo đảm dân chủ, cơng khai,
cơng bằng, thuận lợi cho người tham gia tố tụng thực hiện các quyền, nghĩa
vụ của mình; đề cao trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng trong việc


bảo vệ công lý, bảo vệ pháp luật, tôn trọng, bảo đảm quyền con người, quyền
cơng dân. Ngồi ra, pháp luật tố tụng hành chính hiện hành cịn quy định về
điều kiện khởi kiện vụ án hành chính. Tuy nhiên, trong q trình thực hiện
pháp luật tố tụng hành chính về điều kiện khởi kiện vụ án hành chính vẫn cịn
những vấn đề chưa phù hợp hoặc quy định chưa thật sự cụ thể, chi tiết. Vì
vậy, nhằm làm rõ quy định của pháp luật tố tụng hành chính về điều kiện khởi
kiện vụ án hành chính để từ đó có cách nhìn cụ thể, chi tiết hơn trong khởi
kiện vụ án hành chính. Chính vì vậy, việc nghiên cứu vấn đề: “Thẩm quyền
xét xử vụ án hành chính của Tồ án nhân dân theo quy định của pháp luật
hiện hành.”

1


CHƯƠNG I: KHÁI QUÁT VỀ THẨM QUYỀN XÉT XỬ VỤ ÁN HÀNH
CHÍNH CỦA TỒ ÁN NHÂN DÂN
1.1 Khái niệm thẩm quyền xét xử vụ án hành chính của Tồ án nhân dân
1.1.1 Định nghĩa thẩm quyền
Thẩm quyền là quyền chính thức được xem xét để kết luận và định đoạt,
quyết định một vấn đề.
Thẩm quyền gắn liền với quyền và nhiệm vụ mà pháp luật quy định cho cơ
quan nhà nước, người nắm giữ những chức vụ lãnh đạo, quản lí trong các cơ
quan đó để thực hiện chức năng và nhiệm vụ của họ. Thẩm quyền của mỗi cơ
quan và cá nhân được phân định theo lĩnh vực, ngành, khu vực hành chính,
cấp hành chính. Trong mỗi ngành, thẩm quyền được phân định theo chức
năng, nhiệm vụ của ngành như thẩm quyền của Toà án nhân dân là xét xử.
Tuy nhiên, một loại việc có thể thuộc thẩm quyền của một hoặc nhiều cơ
quan, cá nhân trong các ngành, cấp khác nhau.
Ví dụ: theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự việc điều tra các vụ án hình
sự thuộc thẩm quyền của một số cơ quan như cơ quan điều tra của lực lượng

cảnh sát nhân dân, cơ quan điều tra của lực lượng an ninh nhân dân, cơ quan
điều tra trong quân đội nhân dân, cơ quan điều tra của Viện kiểm sát nhân
dân,... Khi thực hiện các nhiệm vụ và quyền hạn trong thẩm quyền, các quyết
định và phán quyết của các cơ quan, cá nhân này được đảm bảo thi hành bằng
các biện pháp cưỡng chế nhà nước.
Trong pháp luật hiện hành của Việt Nam, thuật ngữ “thẩm quyền” thường
được sử dụng trong các cụm từ như: “thẩm quyền xét xử”, “thẩm quyền điều
tra” “cơ quan có thẩm quyền”, “người có thẩm quyền”, “cấp có thẩm quyền”,
“thẩm quyền của Tồ án nhân dân”, “hẩm quyền của Viện kiểm sát nhân
dân”, thẩm quyền của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân”... (Xt. Thẩm
quyền xét xử của Toà án...).
2


Thẩm quyền là tổng thể các quyền và nghĩa vụ được trao cho các chủ thể nhất
định để áp dụng giải quyết các vấn đề cụ thể nào đó trong phạm vi quản lý
của họ.
Mỗi chủ thể là cá nhân hoặc tổ chức chỉ được giao những thẩm quyền và
được thực hiện các thẩm quyền đó trong phạm vi nhất định. Và nội dung
thẩm quyền của tất cả các chủ thể trong tất cả các lĩnh vực thì đều phải do
pháp luật quy định, không một chủ thể nào được quyền tạo ra “thẩm quyền
riêng” mà vượt ra khỏi phạm vi pháp luật quy định.
Đây không chỉ là quyền của các chủ thể mà nó cịn là nghĩa vụ, bắt buộc phải
thực hiện bằng hành vi trên thực tế.
Việc xác định thẩm quyền giải quyết rất quan trọng, tránh gây chồng chéo,
giải quyết sai thẩm quyền.
Tuy đây được coi là những quyền đã được pháp luật công nhận và được đảm
bảo thực hiện mà không ai được hạn chế, nhưng khơng phải vì vậy mà các
chủ thể có thẩm quyền được thực hiện các quyền này một cách bừa bãi, thực
hiện với mục đích riêng. Việc thực hiện các quyền này phải nằm trong khuôn

khổ mà pháp luật cho phép.
Thẩm quyền là quyền chính thức được xem xét để kết luận và định đoạt,
quyết định một vấn đề.
Trong khoa học pháp lý: Thẩm quyền là một khái niệm quan trọng, trung tâm.
Thẩm quyền được hiểu là tổng hợp các quyền và nghĩa vụ hành động, quyết
định của các cơ quan, tổ chức thuộc hệ thống bộ máy Nhà nước do pháp luật
quy định.
Ví dụ: Thẩm quyền của Tịa án là tồn bộ những quyền do pháp luật quy
định, theo đó Tòa án được tiến hành xem xét, giải quyết những vụ việc cụ thể
theo quy định của pháp luật.
1.1.2 Định nghĩa thẩm quyền xét xử vụ án hành chính của Toà án nhân
dân

3


, tổ chức khởi kiện theo quy định của pháp luật. Luật tố tụng Hành chính năm
2015 ra đời là một bước tiến đáng kể trong sự phát triển về thẩm quyền xét xử
vụ án hành chính, đảm bảo được quyền, lợi ích của cá nhân, tổ chức, hiệu quả
hoạt động quản lý hành chính Nhà nước và cơng cuộc xây dựng nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Thẩm quyền giải quyết vụ án hành chính bao
gồm: Thẩm quyền theo loại việc, thẩm quyền theo cấp, lãnh thổ và thẩm
quyền ra phán quyết của Tòa án đối với vụ án hành chính.
* Về thẩm quyền của Tịa án nhân dân theo loại việc
Điều 30 Luật tố tụng hành chính 2015 quy định về đối tượng xét xử vụ án
hành chính gồm:
“1. Khiếu kiện quyết định Xét về phương diện lý luận, thẩm quyền xét xử vụ
án hành chính của Tòa án là việc giải quyết các tranh chấp hành chính giữa
chủ thể quản lý hành chính Nhà nước với cá nhân, tổ chức được xác định theo
cấp xét xử, trong phạm vi địa giới hành chính nhất định nhằm thực hiện việc

xem xét, đánh giá đưa ra kết luận và định đoạt các vấn đề pháp lý của vụ án
thông qua hoạt động xét xử. Các tranh chấp này trở thành đối tượng xét xử
của Tòa án khi bị cá nhânhành chính, hành vi hành chính, trừ các quyết định,
hành vi sau đây:
a) Quyết định hành chính, hành vi hành chính thuộc phạm vi bí mật nhà nước
trong các lĩnh vực quốc phòng, an ninh, ngoại giao theo quy định của pháp
luật;
b) Quyết định, hành vi cuả Tòa án trong việc áp dụng biện pháp xử lý hành
chính, xử lý hành vi cản trở hoạt động tố tụng;
c) Quyết định hành chính, hành vi hành chính mang tính nội bộ của cơ quan,
tổ chức.
2. Khiếu kiện quyết định kỷ luật buộc thôi việc công chức giữ chức vụ từ
Tổng Cục trưởng và tương đương trở xuống.
4


3. Khiếu kiện quyết định giải quyết khiếu nại và quyết định xử lý vụ việc
cạnh tranh.
4. Khiếu kiện danh sách cử tri”.
Việc sử dụng phương pháp loại trừ để quy định thẩm quyền xét xử của Tòa án
tạo điều kiện thuận lợi cho cá nhân, tổ chức trong việc xác định quyền khởi
kiện vụ án hành chính và nâng cao hiệu quả hoạt động quản lý hành chính.
Điểm mới của Luật tố tụng hành chính 2015 là quy định rõ ràng hơn và bổ
sung thêm trường hợp loại trừ về “áp dụng biện pháp xử lý hành chính, xử lý
hành vi cản trở hoạt động tố tụng” là quy định phù hợp với thực tiễn và đảm
bảo tính khách quan.
Đối với thẩm quyền về loại việc có nhiều điểm mới, song cần được hướng
dẫn cụ thể, rõ ràng như: Việc giải thích quyết định hành chính, hành vi hành
chính mang tính nội bộ của cơ quan, tổ chức quy định tại khoản 6 Điều 3 Luật
tố tụng hành chính cần được cụ thể hóa hơn nữa trong các văn bản hướng dẫn

để đảm bảo việc xác định thẩm quyền của Tịa án một cách thống nhất, chính
xác và tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình thụ lý, xét xử hành chính.

5


CHƯƠNG II: THẨM QUYỀN XÉT XỬ CÁC VỤ ÁN HÀNH CHÍNH
THEO PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH.
2.1. Thẩm quyền theo loại việc bị khiếu kiện
* Về thẩm quyền của Tòa án nhân dân theo loại việc
Điều 30 Luật tố tụng hành chính 2015 quy định về đối tượng xét xử vụ án
hành chính gồm:
“1. Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính, trừ các quyết định,
hành vi sau đây:
a) Quyết định hành chính, hành vi hành chính thuộc phạm vi bí mật nhà nước
trong các lĩnh vực quốc phịng, an ninh, ngoại giao theo quy định của pháp
luật;
b) Quyết định, hành vi cuả Tòa án trong việc áp dụng biện pháp xử lý hành
chính, xử lý hành vi cản trở hoạt động tố tụng;
c) Quyết định hành chính, hành vi hành chính mang tính nội bộ của cơ quan,
tổ chức.
2. Khiếu kiện quyết định kỷ luật buộc thôi việc công chức giữ chức vụ từ Tổng
Cục trưởng và tương đương trở xuống.
3. Khiếu kiện quyết định giải quyết khiếu nại và quyết định xử lý vụ việc cạnh
tranh.
4. Khiếu kiện danh sách cử tri”.
Việc sử dụng phương pháp loại trừ để quy định thẩm quyền xét xử của Tòa án
tạo điều kiện thuận lợi cho cá nhân, tổ chức trong việc xác định quyền khởi
kiện vụ án hành chính và nâng cao hiệu quả hoạt động quản lý hành chính.
Điểm mới của Luật tố tụng hành chính 2015 là quy định rõ ràng hơn và bổ

sung thêm trường hợp loại trừ về “áp dụng biện pháp xử lý hành chính, xử lý
hành vi cản trở hoạt động tố tụng” là quy định phù hợp với thực tiễn và đảm
bảo tính khách quan.
6


Đối với thẩm quyền về loại việc có nhiều điểm mới, song cần được hướng
dẫn cụ thể, rõ ràng như: Việc giải thích quyết định hành chính, hành vi hành
chính mang tính nội bộ của cơ quan, tổ chức quy định tại khoản 6 Điều 3 Luật
tố tụng hành chính cần được cụ thể hóa hơn nữa trong các văn bản hướng dẫn
để đảm bảo việc xác định thẩm quyền của Tịa án một cách thống nhất, chính
xác và tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình thụ lý, xét xử hành chính.
2.2. Thẩm quyền theo các cấp Tồ án và theo lãnh thổ.
* Về thẩm quyền xét xử hành chính theo cấp và lãnh thổ
Tịa hành chính ở nước ta được thành lập trong hệ thống Tòa án nhân dân cấp
tỉnh và Tòa án nhân dân cấp cao, Tòa án cấp huyện khơng tổ chức Tịa hành
chính mà có các thẩm phán chuyên trách thực hiện việc xét xử án hành chính.
Tịa hành chính ở nước ta tổ chức theo đơn vị hành chính - lãnh thổ và trùng
với cơ quan hành chính về lãnh thổ và về cấp. Thẩm quyền này được quy
định cụ thể tại Điều 31, 32 Luật tố tụng hành chính 2015, theo đó Tịa án
nhân dân cấp huyện được giải quyết theo thủ tục sơ thẩm các loại khiếu kiện
sau đây: “1. Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ
quan hành chính nhà nước từ cấp huyện trở xuống trên cùng phạm vi địa giới
hành chính với Tịa án hoặc người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính
nhà nước đó, trừ quyết định hành chính, hành vi hành chính của Ủy ban nhân
dân cấp huyện, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện; 2. Khiếu kiện quyết
định kỷ luật buộc thôi việc của người đứng đầu cơ quan, tổ chức từ cấp huyện
trở xuống trên cùng phạm vi địa giới hành chính với Tịa án đối với cơng
chức thuộc thẩm quyền quản lý của cơ quan, tổ chức đó; 3. Khiếu kiện danh
sách cử tri của cơ quan lập danh sách cử tri trên cùng phạm vi địa giới hành

chính với Tịa án”.
Thẩm quyền của Tịa án nhân dân cấp tỉnh quy định tại Điều 32 Luật tố tụng
hành chính, theo đó Tịa án nhân dân cấp tỉnh giải quyết theo thủ tục sơ thẩm
những khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính của Bộ, cơ quan
7


ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Văn phịng Chủ tịch nước, Văn phịng
Quốc hội, Kiểm tốn Nhà nước, Tịa án nhân dân Tối cao, Viện kiểm sát nhân
dân Tối cao và quyết định hành chính, hành vi hành chính của người có thẩm
quyền trong cơ quan đó mà người khởi kiện có nơi cư trú, nơi làm việc hoặc
trụ sở trên cùng phạm vi địa giới hành chính với Tồ án; khiếu kiện quyết
định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan nhà nước cấp tỉnh trên cùng
phạm vi địa giới hành chính với Tồ án và của người có thẩm quyền trong cơ
quan Nhà nước đó; khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính của
Uỷ ban nhân dân cấp huyện, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện…
Luật tố tụng hành chính 2015 quy định thẩm quyền giải quyết khiếu kiện đối
với quyết định hành chính, hành vi hành chính của Uỷ ban nhân dân cấp
huyện, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện thì khơng thuộc thẩm quyền của
Tồ án nhân dân cấp huyện mà thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân
dân cấp tỉnh. Việc quy định như vậy sẽ bảo đảm tính hiệu quả, khả thi, độc
lập và khách quan trong việc giải quyết các khiếu kiện hành chính, tuy nhiên
cần nghiên cứu theo hướng quy định việc giải quyết khiếu kiện quyết định
hành chính, hành vi hành chính của Ủy ban nhân dân cấp huyện, Chủ tịch Ủy
ban nhân dân cấp huyện thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp huyện
nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho người dân trong việc đi lại khởi kiện cũng
như để phù hợp với tiến trình cải cách tư pháp về mở rộng thẩm quyền cho cơ
quan tư pháp cấp huyện.
Thẩm quyền xét xử theo lãnh thổ là sự phân định thẩm quyền xét xử giữa các
Tòa án cung cấp dựa trên căn cứ là nơi (địa điểm) tội phạm được thực hiện

hoặc nơi kết thúc điều tra.
Như vậy ta có thể hiểu việc phân định thẩm quyền xét xử theo lãnh thổ là sự
phân định thẩm quyền xét xử giữa các Tòa án cùng cấp dựa trên địa điểm
thực hiện hành vi phạm tội hoặc địa điểm thực hiện hành vi tố tụng của cơ
quan, người tiến hành tố tụng hoặc địa điểm khác do pháp luật quy định. Việc
8


phân định này được quy định tại Điều 269, 270 và Điều 271 Bộ luật tố tụng
hình sự năm 2015, cụ thể được quy định như sau:
- Tịa án có thẩm quyền xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là Tòa án nơi tội phạm
được thực hiện. Trường hợp tội phạm được thực hiện tại nhiều nơi khác nhau
hoặc khơng xác định được nơi thực hiện tội phạm thì Tịa án có thẩm quyền
xét xử sơ thẩm vụ ánh hình sự là Tịa án nơi kết thúc việc điều tra.
- Bị cáo phạm tội ở nước ngoài nếu xét xử ở Việt Nam thì Tịa án nhân dân
cấp tỉnh nơi cư trú cuối cùng của bị cáo ở trong nước sẽ tiến hành xét xử sơ
thẩm vụ án hình sự.
Nếu trong trường hợp không xác định được nơi cư trú cuối cùng ở trong nước
của bị cáo thì tùy vào từng trường hợp, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao sẽ
ra quyết định giao cho Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội hoặc Tòa án nhân
dân Thành phố Hồ Chí Minh hoặc Tịa án nhân dân thành phố Đà Nẵng xét
xử sơ thẩm vụ án hình sự mà bị cáo phạm tội ở nước ngoài.
- Bị cáo phạm tội ở nước ngoài nếu thuộc thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tịa
án qn sự thì Tịa án quân sự cấp quân khu xét xử sơ thẩm theo quyết định
của Chánh án Tòa án quân sự trung ương.
- Tội phạm xảy ra trên tàu bay hoặc tàu biển của nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam đang hoạt động ngồi khơng nhận hoặc ngồi lãnh hải của
Việt Nam thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án Việt Nam nơi có sân bay hoặc
bến cảng trở về đầu tiên hoặc nơi tàu bay, tàu biển đó được đăng ký
- Khi bị cáo phạm nhiều tội, trong đó có tội phạm thuộc thẩm quyền xét xử

của Tòa án cấp trên thì Tịa án cấp trên xét xử tồn bộ vụ án.
2.3. Giải quyết tranh chấp thẩm quyền giữa Toà án với Toà án và giữa
Toà án với cơ quan giải quyết khiếu nại.
So với các quy định của Luật Tố tụng hành chính năm 2010, Điều 31 và Điều
32 Luật Tố tụng hành chính năm 2015 có những sửa đổi, bổ sung cơ bản để

9


phân định rõ thẩm quyền giải quyết các vụ án hành chính giữa Tịa án cấp
huyện với Tịa án cấp tỉnh:
Thứ nhất, có sự thay đổi lớn về thẩm quyền giải quyết các vụ án hành chính
của Tịa án cấp huyện và Tòa án cấp tỉnh trong Luật Tố tụng hành chính năm
2015. Đó là, đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính của UBND
cấp huyện, Chủ tịch UBND cấp huyện thì thẩm quyền giải quyết theo thủ tục
sơ thẩm thuộc về Tịa án cấp tỉnh chứ khơng còn thuộc thẩm quyền của Tòa
án cấp huyện như quy định của Luật Tố tụng hành chính năm 2010. Quy định
này có ý nghĩa trong việc thúc đẩy dân chủ, cơng khai, minh bạch nền hành
chính; tạo điều kiện để thẩm phán thực hiện tốt nguyên tắc độc lập và chỉ tuân
theo pháp luật. Việc thay đổi về thẩm quyền giải quyết này xuất phát từ
những lý do sau:
- Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược
cải cách tư pháp đến năm 2020 xác định tăng thẩm quyền xét xử của Tòa án
cấp huyện, nhưng cần phải có lộ trình thực hiện và phải bảo đảm hiệu quả,
chất lượng giải quyết các vụ việc thuộc thẩm quyền của Tòa án cấp huyện
nhằm bảo vệ tốt nhất quyền con người, quyền công dân theo Hiến pháp năm
2013.
- Thực tiễn xét xử các vụ án hành chính cho thấy, đa số các khiếu kiện đối với
quyết định hành chính, hành vi hành chính của UBND cấp huyện, Chủ tịch
UBND cấp huyện liên quan đến lĩnh vực quản lý nhà nước về đất đai, có tính

chất phức tạp và việc giải quyết có liên quan đến người bị kiện là người có
chức vụ, quyền hạn, nên cần thẩm phán có kiến thức chuyên sâu, có kinh
nghiệm và bản lĩnh thì việc giải quyết vụ án mới đạt hiệu quả cao. Việc giải
quyết các khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính ở cấp huyện
hiện nay chưa bảo đảm chất lượng; tỷ lệ án bị hủy, sửa cao.

10


- Việc giao cho Tòa án cấp tỉnh giải quyết khiếu kiện quyết định hành chính,
hành vi hành chính của UBND cấp huyện, Chủ tịch UBND cấp huyện sẽ khắc
phục tình trạng e ngại, nể nang của thẩm phán trong việc xét xử; nếu có
kháng cáo, kháng nghị thì sẽ do Tòa án nhân dân cấp cao giải quyết theo thủ
tục phúc thẩm, giám đốc thẩm, nên tính độc lập và chỉ tuân theo pháp luật
trong xét xử của các thẩm phán sẽ cao hơn, bảo đảm việc giải quyết khách
quan, hiệu quả hơn.
- Mặt khác, theo quy định của Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 và
các luật tố tụng mới được ban hành thì Tịa án cấp tỉnh khơng cịn chức năng
giám đốc thẩm. Do vậy, việc giao cho Tòa án cấp tỉnh giải quyết khiếu kiện
quyết định hành chính, hành vi hành chính của UBND cấp huyện, Chủ tịch
UBND cấp huyện sẽ không gây quá tải về cơng việc cho Tịa án cấp tỉnh.
Để bảo đảm tính khả thi và có lộ trình trong q trình thi hành các quy định
của Luật Tố tụng hành chính năm 2015, khoản 5 Điều 1 Nghị quyết số
104/2015/QH13 ngày 25/11/2015 của Quốc hội về việc thi hành Luật Tố tụng
hành chính quy định: Kể từ ngày 01/7/2016, đối với những khiếu kiện quyết
định hành chính, hành vi hành chính của UBND cấp huyện, Chủ tịch UBND
cấp huyện đã được Tòa án cấp huyện thụ lý giải quyết trước ngày 01/7/2016
thì Tịa án đã thụ lý tiếp tục giải quyết theo thủ tục chung mà khơng chuyển
cho Tịa án cấp tỉnh giải quyết.
Thứ hai, khoản 8 Điều 32 Luật Tố tụng hành chính năm 2015 quy định:

“Trường hợp cần thiết, Tịa án cấp tỉnh có thể lấy lên giải quyết vụ án hành
chính thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án cấp huyện theo quy định tại
Điều 31 của Luật này”. Quy định này đã được hướng dẫn tại Điều 4 Nghị
quyết số 02/2011/NQ-HĐTP ngày 29/7/2011 của Hội đồng Thẩm phán Tòa
án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định của Luật Tố tụng
hành chính (Nghị quyết số 02/2011/NQ-HĐTP). Theo các nội dung đã được

11


hướng dẫn thì các khiếu kiện sau đây cũng thuộc thẩm quyền giải quyết của
Tòa án cấp tỉnh:
- Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính thuộc thẩm quyền
giải quyết của Tòa án cấp huyện mà các thẩm phán của Tịa án cấp huyện đó
đều thuộc trường hợp phải từ chối tiến hành tố tụng hoặc bị thay đổi;
- Vụ án có đương sự hoặc tài sản ở nước ngoài hoặc cần phải ủy thác tư pháp
cho cơ quan đại diện ngoại giao của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam ở nước ngoài hoặc cơ quan có thẩm quyền của nước ngồi.
Xác định thẩm quyền trong trường hợp vừa có đơn khiếu nại, vừa có
đơn khởi kiện
Nhằm tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn áp dụng và luật hóa các
quy định của pháp luật còn phù hợp, trên cơ sở hướng dẫn tại Điều 5 Nghị
quyết số 02/2011/NQ-HĐTP, Điều 33 Luật Tố tụng hành chính năm 2015 đã
xác định rõ thẩm quyền của Tịa án giải quyết theo sự lựa chọn của người
khởi kiện trong trường hợp người khởi kiện vừa có đơn khiếu nại, vừa có đơn
khởi kiện VAHC tại Tịa án, cụ thể là:
- Trường hợp người khởi kiện có đơn khởi kiện VAHC tại Tịa án có thẩm
quyền, đồng thời có đơn khiếu nại đến người có thẩm quyền giải quyết khiếu
nại thì Tịa án phải u cầu người khởi kiện lựa chọn cơ quan giải quyết và có
văn bản thơng báo cho Tịa án.

Trường hợp người khởi kiện khơng thể tự mình làm văn bản thì Tịa án lập
biên bản về việc lựa chọn cơ quan giải quyết như sau:
+ Nếu người khởi kiện lựa chọn Tòa án giải quyết thì Tịa án thụ lý giải quyết
vụ án theo thủ tục chung, đồng thời thơng báo cho người có thẩm quyền giải
quyết khiếu nại và yêu cầu người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại chuyển
toàn bộ hồ sơ giải quyết khiếu nại cho Tòa án;
12


+ Nếu người khởi kiện lựa chọn người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại
giải quyết thì Tịa án trả lại đơn khởi kiện và các tài liệu kèm theo cho người
khởi kiện.
- Trường hợp nhiều người vừa khởi kiện VAHC tại Tịa án có thẩm quyền,
đồng thời có đơn khiếu nại đến người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại và
tất cả những người này đều lựa chọn một trong hai cơ quan có thẩm quyền
giải quyết thì thẩm quyền giải quyết được thực hiện theo quy định tại khoản 1
Điều 33 Luật Tố tụng hành chính năm 2015.
- Trường hợp nhiều người vừa khởi kiện VAHC tại Tòa án có thẩm quyền,
đồng thời có đơn khiếu nại đến người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại,
trong đó có người lựa chọn Tịa án giải quyết và có người lựa chọn người có
thẩm quyền giải quyết khiếu nại hoặc trường hợp có người chỉ khởi kiện
VAHC tại Tịa án có thẩm quyền và người khác chỉ khiếu nại đến người có
thẩm quyền giải quyết khiếu nại thì thẩm quyền giải quyết được xác định như
sau:
+ Nếu quyền lợi, nghĩa vụ của người khởi kiện và người khiếu nại độc lập với
nhau thì việc giải quyết yêu cầu của người khởi kiện thuộc thẩm quyền của
Tòa án, còn việc giải quyết khiếu nại của những người khiếu nại thuộc thẩm
quyền của người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại;
+ Nếu quyền lợi, nghĩa vụ của người khởi kiện và người khiếu nại khơng độc
lập với nhau thì Tịa án thụ lý giải quyết vụ án theo thủ tục chung, đồng thời

thơng báo cho người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại và yêu cầu chuyển
toàn bộ hồ sơ giải quyết khiếu nại cho Tòa án.
- Trường hợp người khởi kiện khơng lựa chọn cơ quan giải quyết thì Tịa án
trả lại đơn khởi kiện cho người khởi kiện.

13


CHƯƠNG III: THỰC TRẠNG VỀ THẨM QUYỀN VÀ MỘT SỐ Ý
KIẾN
3.1 Thực trạng quy định của pháp luật về thẩm quyền
a. Ưu điểm
Về thẩm quyền của Toà án nhân dân, Điều 28 Luật Tố tụng hành chính quy
định những khiếu kiện thuộc thẩm quyền giải quyết các kiếu kiện sau đây:
- Khiếu kiện quyết định hành chính, trừ các quyết định hành chính, hành vi
hành chính thuộc phạm vi bí mật nhà nước trong các lĩnh vực quốc phòng, an
ninh, ngoại giao theo danh mục do Chính phủ quy định và các quyết định
hành chính, hành vi hành chính mang tính nội bộ củ cơ quan, tổ chức.
- Khiếu kiện về danh sách cử tri bầu cử Đại biểu quốc hội, danh sách cử tri
bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân.
- Khiếu kiênh quyết định kỷ luật buộc thôi việc công chức giữ chức vụ từ
Tổng trưởng và tương đương trở xuống.
- Khiếu kiện quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh
tranh.
Thực tiễn cho thấy, việc quy định theo phương pháp liệt kê các khiếu kiện
thuộc thẩm quyền cuat Toà án như Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án
hành chính đã hạn chế quyền khởi kiện vụ án hành chính của cá nhân, cơ
quan, tổ chức đối với một số loại việc, đặc biệt là các quyết định hành chính,
hành vi hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai. Việc quy định theo phương
pháp liệt kê trong một số trường hợp dẫn đến việc tranh luận khơng đáng có

hoặc bỏ sót loại việc lẽ ra cần được giải quyết tại Tồ án. Chính vì vậy, quy
định các khiếu kiện hành chính thuộc thẩm quyền giải quyết của Tồ án theo
phương pháp loại trừ sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho cá nhân, cơ quan, tổ chức
trong việc xác định quyền khởi kiện các vụ án hành chính, đảm bảo sự công
14


bằng cho người dân và đáp ứng được yêu cầu của cải cách tư pháp và hội
nhập kinh tế quốc tế của nước ta. Về mặt kỹ thuật lập pháp, việc quy định
theo phương pháp loại trong trường hợp này là rất hợp lý và bảo đảm tính ổn
định của điều luật.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 28 Luật Tố tụng hành chính thì những quyết
định hành chính, hành vi hành chính này khơng thuộc thẩm quyền giải quyết
của Tồ án hành chính. Tương tự như vậy, do đặc thù và tính nhạy cảm của
lĩnh vực quốc phịng, an ninh nên các quyết định và hành vi hành chính mang
tính chất bí mật nhà nước sẽ do Chính phủ quy định cũng nằm ngoài phạm vi
thẩm quyền xét xử án hành chính của Tồ án nhân dân.
b. Các khó khăn, trở ngại trong công tác giải quyết, xét xử các vụ án hành
chính
- Việc tống đạt các văn bản tố tụng cho người bị kiện là Ủy ban nhân dân hay
Chủ tịch Ủy ban nhân dân gặp phải khó khăn do người bị kiện rất ít khi trực
tiếp tham gia tố tụng đồng thời cũng không ủy quyền cho cấp phó trực tiếp
tham gia tố tụng để nhận các văn bản tố tụng của Tòa án. Khi Tòa án tống đạt
văn bản tố tụng qua bộ phận văn thư của người bị kiện thì những người này
thường khơng đồng ý ký tên vào biên bản tống đạt để việc tống đạt được hợp
lệ.
- Việc trả lời Thông báo thụ lý vụ án của Tòa án và cung cấp tài liệu chứng cứ
cho Tịa án cũng rất chậm; thậm chí có nhiều vụ thụ lý đã lâu (thậm chí có
nhiều vụ hơn 1 năm) nhưng người bị kiện vẫn chưa có ý kiến đối với yêu cầu
của người khởi kiện và chưa cung cấp tài liệu chứng cứ liên quan cho Tịa án.

- Việc người bị kiện rất ít khi trực tiếp tham gia tố tụng đồng thời cũng không
ủy quyền cho cấp phó trực tiếp tham gia tố tụng, không trả lời ý kiến đối với
yêu cầu khởi kiện của người khởi kiện nên Tịa án thường khơng thể tiến
hành đối thoại được và việc giải quyết vụ án ln bị kéo dài vì Tịa án phải
lần lượt triệu tập lấy lời khai, yêu cầu cung cấp chứng cứ, tiến hành đủ hai lần
15


đối thoại, hai lần triệu tập xét xử mới xét xử vắng mặt được. Điều này làm
cho người khởi kiện bức xúc, phản ứng rất gay gắt, khơng đồng tình việc Tòa
án tiến hành xét xử vắng mặt người bị kiện và khiếu nại, yêu cầu thay đổi
Thẩm phán.
- Việc tống đạt các văn bản tố tụng của Tòa án cho các đương sự ngồi tỉnh
gặp rất nhiều khó khăn vì khó có thể thực hiện được thủ tục tống đạt trực tiếp
trong khi việc tống đạt qua hình thức thư bảo đảm gặp rất nhiều rủi ro về mặt
pháp lý vì thường khơng có gì chứng minh chữ ký tại biên nhận của bưu
chính là chữ ký của người được tống đạt.
- Việc giải quyết án hành chính liên quan đến nhiều lĩnh vực của đời sống xã
hội được điều chỉnh bởi rất nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác nhau, đặc
biệt là các quy phạm pháp luật về đất đai có nhiều thay đổi theo từng thời kỳ
địi hỏi cần có nhiều thời gian tập hợp, tìm hiểu, trao đổi, nghiên cứu.

16


CHƯƠNG IV: GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ XÉT XỬ VỤ ÁN
HÀNH CHÍNH
4.1. Đổi mới tư duy, nhận thức
Trong tiến trình xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và thực hiện
mục tiêu cải cách hành chính, cải cách tư pháp ở Việt Nam, cả về phía cơ

quan quản lý hành chính nhà nước, cơ quan tiến hành tố tụng hành chính và
cả về phía cơng dân cần đổi mới tư duy, nhận thức về khiếu kiện hành chính
phải coi đó là một phương cách khiếu nại và giải quyết khiếu nại tất yếu mà
công dân được quyền lựa chọn để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình.
Trong nhà nước pháp quyền, cơ quan hành chính nhà nước quản lý xã hội
bằng pháp luật và chính mình cũng phải tn thủ quy định của pháp luật
(khơng đứng trên pháp luật) và phải chịu sự áp đặt các chế tài khi không thực
hiện đúng chức trách công vụ theo quy định của pháp luật; chuyển dần nền
hành chính theo cơ chế tập trung, quan liêu bao cấp sang hệ thống hành chính
phù hợp với yêu cầu quản lý nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa. Cơ quan quản lý hành chính nhà nước và cán bộ, cơng chức trong các
cơ quan đó cần thơng suốt quyền hạn quản lý của mình là quyền phục vụ
nhân dân; phải thực sự là "công bộc của nhân dân" như lời dạy của Chủ tịch
Hồ Chí Minh và trong trường hợp bị khiếu kiện cần nghiêm chỉnh thực hiện
quyền và nghĩa vụ tơ' tụng của mình.
Trong xã hội cần loại bỏ tư tưởng "dân kiện quan" như "con kiến mà kiện củ
khoai", mà trong tư duy, nhận thức phải hiểu trong mọi lĩnh vực, trong mọi
hoạt động của đời sơng xã hội của cả vê' phía "người quản lý", của cả về
phía "người bị quản lý" khi có vấn đề cho rằng là vi phạm pháp luật đều có
thể phải tham gia tố tụng tại Tịa án để giải quyết; khi tham gia tố" tụng tại
Tịa án thì quan hệ giữa cơ quan quản lý hành chính nhà nước và cán bộ, cơng
chức trong các cơ quan đó với ngưịi đi khiếu kiện khơng cịn là quan hệ hành
chính nữa mà đã chuyển sang quan hệ tố tụng giữa các đương sự theo nguyên
17


tắc "... mọi cơng dân đều bình đẳng trước pháp luật, khơng phân biệt nam, nữ,
dân tộc, tín ngưỡng, tơn giáo, thành phần xã hội, địa vị xã hội; cá nhân, cơ
quan, tổ chức, đơn vị vũ trang nhân dẫn và các cơ sở sản xuất, kinh doanh
thuộc mọi thành phần kinh tế đều bình đẳng trước pháp luật". (Điều 8 Luật Tổ

chức Tòa án nhân dân của năm 2002).
Đặc biệt trong lĩnh vực quản lý đất đai hiện nay, đang là vấn đề "nổi cộm"
của đời sống xã hội, cần đổi mới tư duy, nhận thức theo hướng: cơ quan hành
chính nhà nước đang chuyển một số hoạt động từ phương thức quản lý hành
chính đơn thuần sang phương thức hành chính dịch vụ cơng.
4.2 Xây dựng và hồn thiện hệ thống pháp luật
Để nâng cao hiệu quả hoạt động của Toà án nhân dân trong việc giải quyết
các vụ án hành chính có hiệu quả, một trong những khâu then chốt nhất là xây
dựng pháp luật về khiếu nại và giải quyết khiếu nại (bao gồm cả khiếu nại
hành chính nhà nước và khiếu nại theo thủ tục tư pháp) đầy đủ, đồng bộ, đặc
biệt trong các lĩnh vực về quản lý đất đai... cần thiết phải sửa đổi, bổ sung các
văn bản này theo hướng thống nhất giải quyết những vướng mắc trong quá
trình áp dụng khi xét xử vụ án hành chính và mổ rộng thẩm quyền giải quyết
khiếu kiện của Tòa án; quy định thời hiệu khởi kiện vụ án hành chính dài hơn
tạo cho người khỏi kiện có khả năng thực hiện dễ dàng hơn việc khiếu kiện
hành chính; mở rộng điều kiện khởi kiện vụ án hành chính đối với quyết định
hành chính, hành vi hành chính của cơng dân, cơ quan, tổ chức như: không
bắt buộc phải nhận được
Như vậy, để giải quyết nhanh những tồn tại vướng mắc, cần thiết phải sửa
đổi, bổ sung một số văn bản quy phạm pháp luật có hên quan trực tiếp đến
việc áp dụng trong q trình giải quyết các vụ án hành chính và hoàn thiện
các thể chế pháp luật liên quan đến việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công
dân.
18


- Đối với Luật Khiếu nại, tố cáo: Để giải quyết tốt mọi khiếu nại của công
dân, thể hiện rõ bản chất của nhà nước pháp quyền, cần phải đổi mới và hoàn
thiện các chế định pháp luật theo những nội dung sau:
+ Mở rộng phạm vi và quyền khiếu nại của công dân:

+ Xây dựng lại Luật Khiếu nại, tố cáo hiện hành theo hướng tách thành hai
đạo luật riêng biệt quy định vê' pháp luật khiếu nại và pháp luật tố cáo. Luật
Khiếu nại mới cần phải được xây dựng trở thành một đạo luật khung để giải
quyết mọi khiếu nại của công dân trên các lĩnh vực.
- Về thủ tục giải quyết các vụ án hành chính: Xây dựng Pháp lệnh Thủ tục
giải quyết các vụ án hành chính thành Luật Tố tụng hành chính theo hưống
quy định đầy đủ, đồng bộ các quy phạm pháp luật liên quan đến hoạt động
giải quyết các vụ án hành chính, trong đó có mỏ rộng thẩm quyền xét xử của
Tòa án đối với khiếu kiện tất cả các quyết định hành chính, hành vi hành
chính theo phương pháp loại trừ.
- Đối với Luật Đất đai: Để khắc phục tình trạng khiếu nại trong lĩnh vực đất
đai hiện nay rất nhiều, nhưng chủ yếu được thực hiện theo con đường khiếu
nại hành chính, làm cho các cơ quan có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lâm
vào tình trạng quá tải, không thể thực hiện đúng việc thụ lý và giải quyết
khiến nại đúng thời hạn quy định của Luật Khiếu nại, tố cáo.
Những vấn đề nói trên đều nhằm mục đích mở rộng phạm vi quyền khiếu nại
của cơng dân, đơn giản hoá thủ tục khiếu nại, khỏi kiện vụ án hành chính của
cơng dân và thuận tiện cho việc giải quyết các khiếu kiện hành chính của Tồ
án được nhanh chóng chính xác, đúng pháp luật.
Mặt khác, phạm vi thẩm quyền giải quyết khiếu kiện hành chính của Tịa án
chỉ dừng ở mức độ tuyên xử bác yêu cầu của người khởi kiện hoặc hủy một
phần hoặc toàn bộ quyết định hành chính bị khiếu kiện hoặc buộc cơ quan
hành chính nhà nước hoặc người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính
nhà nước chấm dứt hành vi trái pháp luật...để họ thực hiện lại trách nhiệm
19


công vụ theo quy định của pháp luật, gây tâm lý khơng thoải mái sau khi Tịa
án giải quyết nếu yêu cầu khiếu kiện được chấp nhận thì quyền, lợi ích của
người khiếu kiện cũng chưa được giải quyết. Vấn đề này cũng cần được

nghiên cứu khi xây dựng pháp luật tố tụng hành chính, cần có chế tài buộc
người có thẩm quyền có trách nhiệm phải sửa đổi quyết định hành chính,
hành vi hành chính.
4.3. Đổi mới cơ chế thực hiện việc giải quyết khiếu kiện hành chính
Theo quy định của Luật Khiếu nại, tố cáo hiện hành khi cá nhân, cơ quan, tổ
chức khơng đồng ý thì trước tiên họ chỉ có con đường duy nhất là khiếu nại
đến cơ quan hành chính nhà nước đã ban hành quyết định hành chính, hoặc
có cán bộ, cơng chức có hành vi hành chính và cũng chính cơ quan nhà nước
đó có thẩm quyền giải quyết khiếu nại đơì với cơng việc của chính mình, nên
u cầu khách quan, minh bạch trong giải quyết khiếu nại theo thủ tục này sẽ
gặp khơng ít khó khăn. Nếu cứ để cơ quan nhà nước giải quyết cơng việc của
chính họ thì làm cho người dân thiếu tin tưởng.
Vì vậy, cơ chế giải quyết khiếu nại hành chính trong phạm vi nội bộ nền hành
chính nhà nước cần phải được đổi mới trên nhiều phương diện. Với tinh thần
đó cần bảo đảm cho người giải quyết khiếu nại đối với quyết định hành chính,
hành vi hành chính độc lập với cơ quan đã ra quyết định hành chính hay có
hành vi hành chính. Vấn đề đặt ra là có cần thiết phải thiết lập cơ quan giải
quyết khiếu nại (còn gọi là cơ quan Tài phán hành chính nhưng khơng theo
nghĩa là Tịa án) nằm ngồi hay nằm trong cơ quan hành chính.
- Xuất phát từ tình hình điều kiện cụ thể của Nhà nước ta, việc đổi mới cơ chế
giải quyết khiếu nại phải đảm bảo các yêu cầu sau:
+ Người khiếu nại và người khởi kiện yên tâm hơn với cơ chế giải quyết này
bởi đảm bảo tính khách quan;

20


+ Người giải quyết khiếu nại phải được đào tạo chuyên sâu về một số lĩnh
vực quản lý nhà nước chuyên ngành;
+ Hoạt động của cơ quan này đảm bảo sự vô tư, khách quan hơn trong giải

quyết khiếu nại hành chính;
+ Trước khi vụ việc được khởi kiện tại Tịa án đã trải qua q trình giải quyết
thận trọng của cơ quan chuyên ngành;
+ Hoạt động này giúp cho việc thực hiện tốt Hiệp định thương mại Việt-Mỹ
và đây cũng là yêu cầu khi Việt Nam là thành viên Tổ chức thương mại thê
giới (WTO).
Tuy nhiên, dù ở mô hình nào thì cũng khơng phải khép kín ở cơ quan hành
chính mà nó vẫn có mối liên hệ với cơ quan tài phán tư pháp theo nguyên tắc
tất cả các quyết định hành chính, hành vi hành chính đã được cơ quan tài
phán hành chính giải quyết nếu cơng dân, tổ chức khơng đồng ý thì vẫn cịn
có cơ hội cho họ khởi kiện tại Tòa án (trừ một số quyết định hành chính có
liên quan đến quốc phịng, an ninh). Như vậy, về lâu dài trong chiến lược cải
cách tư pháp phải có lộ trình và phải được chuyển giao cho tài phán tư pháp
(Tòa án) thẩm quyền giải quyết nhiều loại việc.
Để ngang tầm vối cơ quan giải quyết khiếu nại theo thủ tục hành chính, đáp
ứng nhu cầu mở rộng thẩm quyền xét xử của Tòa án đối với các khiếu kiện
hành chính, Tịa hành chính hiện hành cần được tổ chức lại theo mơ hình Tòa
án quân sự để tạo ra một hệ thống Tòa án độc lập thuộc Tòa án nhân dân xét
xử về hành chính có tính tách biệt tương đối, nhất là về con người và cách
thức xét xử phù hợp hơn đối với lĩnh vực hành chính, đồng thời bảo đảm hơn
về điều kiện vật chất phục vụ cho công tác xét xử và đời sống của thẩm phán,
thư ký Tòa án.
4.4. Xây dựng đội ngủ cán bộ tư pháp

21


Theo Nghị quyết số 08/NQ-TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về
một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tối đã chỉ ra
những tồn tại, khuyết điểm dẫn đến chất lượng công tác tư pháp nói chung

chưa ngang tầm với u cầu và địi hỏi của nhân dân. Một trong những
nguyên nhân cơ bản được chỉ ra trong Nghị quyết là "Công tác cán bộ của các
cơ quan tư pháp chưa đáp ứng được yêu cầu hiện nay. Đội ngũ cán bộ tư pháp
còn thiếu về số lượng, yếu về trình độ và năng lực nghiệp vụ, một bộ phận
tiêu cực, thiếu trách nhiệm, thiếu bản lĩnh, sa sút về phẩm chất đạo đức".
Giải quyết các vụ án hành chính là một hoạt động vừa mang tính chất chung
của Tồ án, vừa mang tính đặc thù của giải quyết khiếu nại về hành chính
theo thủ tục tư pháp. Hiện nay việc đánh giá chung về đội ngũ cán bộ Toà án
và đội ngũ thẩm phán cho thấy trình độ chun mơn nghiệp vụ cịn có những
hạn chế, trong khi yêu cầu đặt ra là phải giải quyết các vụ án đạt hiệu quả cao.
Người thẩm phán giải quyết các vụ án hành chính hiện nay địi hỏi vừa phải
có năng lực trình độ chun mơn nghiệp vụ như các thẩm phán khác lại vừa
phải có trình độ chun sâu trong cơng tác quản lý nhà nước, đặc biệt là phải
có trình độ cao trong lĩnh vực áp dụng pháp luật về hoạt động hành pháp.
Bởi vì, thứ nhất, cơng tác quản lý hành chính nhà nước khá phức tạp trong tất
cả các lĩnh vực, liên quan đến quyền và nghĩa vụ của cá nhân, cơ quan, tổ
chức xã hội; thứ hai, các khiếu kiện hành chính nảy sinh trong tất cả các lĩnh
vực quản lý nhà nước. Việc giải quyết các khiếu kiện này đòi hỏi người thẩm
phán phải am hiểu quy định pháp luật điều chỉnh các lĩnh vực quản lý nhà
nước. Hơn nữa, Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính (Luật Tố
tụng hành chính) tuy chỉ có một, nhưng "Luật nội dung" thì rất nhiều và biến
động liên tục trên các lĩnh vực.
Để từng bưởc đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ thẩm phán, Toà án nhân dân tối
cao hàng năm phải có kế hoạch tạo nguồn thẩm phán trong đội ngũ cán bộ,
22


công chức và gửi đi đào tạo tại Học viện Tư pháp hoặc ở nước ngoài. Mặt
khác, Toà án nhân dân tối cao phải thường xuyên tổ chức tập huấn chuyên
môn, nghiệp vụ, tổng kết và rút kinh nghiệm để việc giải quyết các vụ án

hành chính ngày càng đạt hiệu quả cao.
Đơì với các thẩm phán được bổ nhiệm lần đầu ngồi trình độ thấp nhất là cử
nhân luật còn cần được đào tạo kỹ năng xét xử trong đó có kỹ năng xét xử án
hành chính.
Bên cạnh trình độ nghiệp vụ chuyên môn, thường xuyên bồi dưỡng cho các
thẩm phán quan điểm, lập trường, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà
nước, nhất là pháp luật chuyên ngành, trong đó có chuyên ngành về đất đai
bởi các cơ quan chun mơn.
Ngồi ra, nhiệm kỳ của thẩm phán cũng cần phải nghiên cứu, xem xét sửa đổi
cho phù hợp, khắc phục tình trạng tâm lý "nể, sợ" của thẩm phán đốì vói các
cấp cơ quan nhà nưốc ở địa phương làm hạn chế tính khách quan, trung thực
trong giải quyết các khiếu kiện hành chính nói chung và nhất là các khiếu
kiện hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai. Pháp lệnh Thẩm phán và Hội
thẩm Tòa án nhân dân năm 2002 quy định nhiệm kỳ của thẩm phán Tòa án
nhân dân các cấp là 5 năm. Với quy định như vậy là rất ngấn so với quy định
của các nước trong khu vực và trên thế giối. Mặt khác, Hội đồng tuyển chọn
thẩm phán gồm có nhiều đại diện của cơ quan hành chính nhà nước - là
những người đã có lần bị Tồ xử kiện hành chính. Vì vậy, cần sửa đổi theo
hưống nhiệm kỳ thẩm phán Tòa án nhân dân các cấp là 15 năm, xa hơn nữa là
bổ nhiệm suốt đời.
4.5. Tăng cường thi hành quyết định của bản án, quyết định hành chính
đã có hiệu lực pháp luật
Về vấn đề này, cần có hướng dẫn về thủ tục thi hành các bản án, quyết định
hành chính để đảm bảo hiệu lực thực tế. Điều 47 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết
23


các vụ án hành chính hiện hành mởi chỉ quy định mang tính nguyên
tắc "Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về cơng tác thi hành án hành
chính trong phạm vi cả nước. Cá nhân, cơ quan nhà nước, tổ chức có nghĩa vụ

chấp hành bản án, quyết định của Toà án phải nghiêm chỉnh chấp hành. Thủ
trường cơ quan nhà nước cấp trên trực tiếp có trách nhiệm theo dõi, giám sát
việc thi hành án hành chính; trong trường hợp cần thiết có quyền buộc phải
chấp hành quyết định của Toà án. Người nào thiếu trách nhiệm trong việc thi
hành án hành chính hoặc cố tình khơng chấp hành bản án, quyết định của Toà
án về vụ án hành chính, thì tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm có thể bị xử lý
kỷ luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự'.
Mơ hình tổ chức thi hành án hành chính gắn với thẩm quyền của các cơ quan
Nhà nước, đặc biệt là các cơ quan hành chính nhà nưốc là phù hợp. Tuy
nhiên, trong Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính mới quy định
mang tính ngun tắc đốì vối cơ quan nhà nước cấp trên trực tiếp có trách
nhiệm theo dõi, giám sát việc thi hành án hành chính, cần thiết phải cụ thể
hóa quy định này trong các văn bản quy phạm pháp luật vê' tổ chức, hoạt
động của các tổ chức, hoạt động của các cơ quan trong bộ máy nhà nước
thành một điều luật cụ thể về quyền và nghĩa vụ của các cơ quan đó, mà hiện
nay trong các văn bản như Luật Tổ chức Chính phủ, Luật Tổ chức Hội đồng
nhân dân và ủy ban nhân dân chưa thể chế rõ quy định về thi hành án hành
chính. Cơng tác thi hành án hành chính đã được nêu ra trong dự thảo Luật Tố
tụng hành chính và Bộ luật Thi hành án.
4.6. Đảm bảo cơ sở vật chất, kỉnh phí cho Tồ án nhân dân
Cần tăng cường cơ sở vật chất của Toà án nhân dân tương xứng với chức
năng, nhiệm vụ được giao cũng như tương xứng với cơ sở vật chất của cơ
quan quản lý hành chính nhà nước. Qua khảo sát cho thấy, hiện nay trong số
hơn 600 Tồ án nhân dân cấp huyện cịn có nhiều Tồ án chưa được xây dựng
trụ sỏ mối.
24


×