Tải bản đầy đủ (.pdf) (28 trang)

SỰ PHÁT TRIỂN CỦA KHOA HỌC KỸ THUẬT TÁC ĐỘNG ĐỐI VỚI NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (420.95 KB, 28 trang )

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
PHÂN VIỆN TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT

BÁO CÁO NỘI DUNG THUYẾT TRÌNH

TÊN ĐỀ TÀI:
SỰ PHÁT TRIỂN CỦA KHOA HỌC KỸ THUẬT TÁC ĐỘNG ĐỐI VỚI
NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT

Học phần: Lý luận về Nhà nước và Pháp luật hiện đại
Nhóm thực hiện:
Lớp:
GVHD:

Thành phố Hồ Chí Minh - 2023


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .............................................................................................................. 1
NỘI DUNG........................................................................................................... 3
CHƯƠNG 1: SỰ PHÁT TRIỂN CỦA KHOA HỌC KỸ THUẬT TÁC
ĐỘNG ĐẾN XÃ HỘI THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VÀ CHÍNH
SÁCH NHÀ NƯỚC TRONG PHÁT TRIỂN KHOA HỌC CÔNG NGHỆ,
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC ............................................................................. 3
1.1. Khoa học kỹ thuật tác động với đời sống xã hội theo Hồ Chí Minh .......... 3
1.1.1. Khái niệm .............................................................................................. 3
1.1.2. Khoa học kỹ thuật tác động với đời sống xã hội theo Hồ Chí Minh .... 3
1.1.3. Vai trò của khoa học, kỹ thuật đối với sự phát triển của xã hội ........... 5
1.2. Chính sách nhà nước trong phát triển khoa học công nghệ, nghiên cứu
khoa học ............................................................................................................. 8


1.2.1. Chính sách của nhà nước trong phát triển khoa học và cơng nghệ ...... 8
1.2.2. Chính sách của nhà nước trong nghiên cứu khoa học ........................ 10
1.2.3. Các hành vi bị cấm trong hoạt động khoa học và công nghệ ............. 12
CHƯƠNG 2: SỰ PHÁT TRIỂN CỦA KHOA HỌC KỸ THUẬT TÁC
ĐỘNG ĐẾN PHÁP LUẬT ............................................................................... 14
2.1. Sự ảnh hưởng của khoa học kỹ thuật đối với pháp luật Việt Nam ........... 14
2.2. Những yêu cầu đối với pháp luật Việt Nam khi khoa học kỹ thuật ngày
càng phát triển .................................................................................................. 16
2.3. Một số quan hệ pháp luật cụ thể chịu sự tác động mạnh mẽ từ sự phát
triển của khoa học kỹ thuật và cách mạng công nghiệp 4.0 ............................ 18
CHƯƠNG 3: THỰC TIỄN CỦA SỰ PHÁT TRIỂN KHOA HỌC KỸ
THUẬT TÁC ĐỘNG ĐẾN NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT......................... 22
3.1. Sự ảnh hưởng của khoa học kỹ thuật đối với Nhà nước Việt Nam .......... 22
3.2. Sự ảnh hưởng của khoa học kỹ thuật đối với Pháp luật Việt Nam ........... 23
KẾT LUẬN ........................................................................................................ 25


MỞ ĐẦU
Bước vào thiên niên kỷ thứ ba, khoa học và kỹ thuật đã trở thành yếu tố cốt
tử của sự phát triển, là lực lượng sản xuất trực tiếp của nền kinh tế toàn cầu. Điều
này được phản ánh rõ trong việc hoạch định các chính sách và chiến lược phát triển
khoa học, kỹ thuật và kinh tế của nhiều nước trên thế giới. Tuy nhiên tuỳ thuộc vào
trình độ sự phát triển cụ thể của từng nước mà xây dựng chiến lược, chính sách phát
triển khoa học kỹ thuật mang tính đa dạng và đặc thù đối với từng giai đoạn phát
triển cụ thể phù hợp với hoàn cảnh, điều kiện cơ sở vật chất của mỗi quốc gia. Và
điều nỗi bật rút ra ở các chiến lược, chính sách đó ở tất cả các nước trên thế giới từ
những nước có nền kinh tế hiện đại đứng hàng đầu thế giới như Mỹ, Nhật,
Pháp,...cho đến những nước có nền kinh tế chậm phát triển và lạc hậu như Việt Nam
, Lào , Campuchia, một số nước Trung Đơng ...đó chính là quan điểm:"Sự phát triển
khoa học và kỹ thuật là một phương hướng quan trọng mới , có tính quyết định trong

việc phát triển kinh tế quốc gia…"Bởi vậy việc nghiên cứu kinh nghiệm xây dựng
các chính sách và chiến lược phát triển khoa học và kỹ thuật của các nước trên thế
giới và trong khu vực để áp dụng và phát huy một cách sáng tạo vào hồn cảnh của
đất nước mình có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với các nước trên con đường cơng
nghiệp hố- hiên đại hố nói chung và đối với Việt Nam nói riêng hiện nay.
Nhận thức rõ vai trị đó, Đảng và nhà nước, ta đã có nhiều nghị quyết quan
trọng về khoa học - kỹ thuật và khẳng định: "Cùng với giáo dục, đào tạo khoa học
và kỹ thuật là quốc sách hàng đầu, là động lực phát triển kinh tế -xã hội, là điều kiện
cần thiết để giữ vững độc lập dân tộc và xây dựng thành cơng chủ nghĩa xã hội. Cơng
nghiệp hố- hiên đại hố đất nước bằng cách dựa vào khoa học, kỹ thuật" Như vậy,
vai trò động lực, là lực lượng sản xuất hàng đầu của khoa học và kỹ thuật đã được
Đảng ta nhất quán khẳng định và là điều tất yếu không thể thay đổi được. Song vấn
đề đặt ra là làm sao để khoa học và kỹ thuật đảm nhận được vai trị đó? Hay nói cách
khác, trong điều kiện đất nước ta hiện nay để phát triển khoa học và kỹ thuật phù
hợp với vài trò "Là lực lượng sản xuất hàng đầu trong q trình cơng nghiệp hố1


hiên đại hố " thì chúng ta phải làm gì? Đó là một vấn đề rất bức bách hiện nay trước
thực trang khoa học - kỹ thuật của đất nước còn phát triển chậm và chưa đi vào cuộc
sống mặc dù tiềm năng là không nhỏ. Nghiên cứu về vấn đề khoa học và kỹ thuật
trong sự nghiệp công nghiệp hố- hiện đại hố khơng chỉ là cơng trình khoa học của
các cơ quan, tổ chức, cá nhân, mà còn là của toàn thể xã hội. Và cho tới nay, chúng
ta cũng đã thu được nhiều kết quả không nhỏ trong việc nghiên cứu, góp phần giúp
cho đất nước hồn thành mục tiêu là một nước công nghiệp vào những năm 2020.

2


NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: SỰ PHÁT TRIỂN CỦA KHOA HỌC KỸ THUẬT TÁC ĐỘNG

ĐẾN XÃ HỘI THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VÀ CHÍNH SÁCH NHÀ
NƯỚC TRONG PHÁT TRIỂN KHOA HỌC CÔNG NGHỆ, NGHIÊN CỨU
KHOA HỌC
1.1. Khoa học kỹ thuật tác động với đời sống xã hội theo Hồ Chí Minh
1.1.1. Khái niệm
Khoa học kỹ thuật là các ngành khoa học liên quan tới việc phát triển kỹ thuật
và thiết kế các sản phẩm trong đó có ứng dụng các kiến thức khoa học tự nhiên. Các
ngành khoa học kỹ thuật cổ điển bao gồm khoa học kỹ thuật xây dựng (bao gồm cả
khoa học trắc địa), khoa học chế tạo máy và khoa học điện tử.
1.1.2. Khoa học kỹ thuật tác động với đời sống xã hội theo Hồ Chí Minh
Trong những di sản tư tưởng phong phú và vĩ đại của Chủ tịch Hồ Chí Minh,
tư tưởng của Người về khoa học và kỹ thuật trong sự nghiệp cách mạng xã hội chủ
nghĩa (XHCN) là khá đậm nét và có giá trị lâu dài, nhất là trong điều kiện đất nước
tiến hành cơng nghiệp hố, hiện đại hố (CNH, HĐH) và Đảng ta coi khoa học, công
nghệ là quốc sách hàng đầu.
Sau khi hịa bình lập lại trên miền bắc, trước nhiệm vụ khôi phục và cải tạo
kinh tế để chuẩn bị cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội (CNXH), Hồ Chí Minh
đã vận dụng những tư tưởng của C.Mác, Ph.Ǎng-ghen và V.I.Lê-nin về khoa học và
kỹ thuật trong xây dựng kinh tế, coi khoa học và kỹ thuật vừa là lực lượng sản xuất
trực tiếp, vừa là động lực của sự phát triển nền sản xuất và tiến bộ xã hội. Lĩnh hội
luận điểm của Lê-nin, xã hội cộng sản chủ nghĩa chỉ có thể xây dựng được trên cơ
sở những thành tựu cao nhất của khoa học, kỹ thuật và chính quyền Xơ-viết + trật tự
ở đường sắt Phổ + kỹ thuật và cách tổ chức các Tờ-rớt ở Mỹ + ngành giáo dục quốc
dân Mỹ, v.v.. = chủ nghĩa xã hội, Người đã nhận rõ vai trò của khoa học và kỹ thuật
đối với sự nghiệp xây dựng CNXH là hết sức quan trọng.
3


Khoa học, kỹ thuật không những là lực lượng sản xuất trực tiếp, mà còn là
động lực của tiến bộ xã hội. Cho nên, muốn có tiến bộ, ấm no, hạnh phúc thì phải

xây dựng CNXH và phát triển khoa học, kỹ thuật. Mối quan hệ biện chứng giữa
CNXH và khoa học, kỹ thuật mà Hồ Chí Minh nêu lên chứng tỏ CNXH là môi
trường phát triển của khoa học và kỹ thuật, còn khoa học và kỹ thuật lại là động lực
đẩy nhanh xã hội lên CNXH. Khoa học, kỹ thuật khơng những giải phóng con người
về mặt cơ bắp, mà cịn nâng con người lên về mặt trí tuệ, thúc đẩy vǎn hóa, vǎn minh
của nhân loại phát triển.
Người thường cǎn dặn toàn Đảng, toàn dân ta phải cải tiến kỹ thuật và nhận
thức được đó là điểm cực kỳ quan trọng. Người cho rằng, cải tiến kỹ thuật phải được
tiến hành thường xuyên và liên tục trong tất cả các ngành kinh tế. Tuy nhiên, muốn
cải tiến kỹ thuật thì phải có tri thức, phải hiểu biết khoa học, bởi vì, nói đến kỹ thuật
cũng có nghĩa là phải gắn nó với khoa học. Đó là mối quan hệ không thể tách rời.
Cùng với sự phát triển của sản xuất, khoa học và kỹ thuật càng phát triển lại càng có
tác động qua lại lẫn nhau một cách khǎng khít và kết thành một thể thống nhất. Mỗi
bước tiến của khoa học đều trở thành cơ sở trực tiếp cho bước tiến của kỹ thuật, và
ngược lại, mỗi bước tiến của kỹ thuật lại tạo điều kiện cho khoa học phát triển nhanh
hơn.
Khoa học của Hồ Chí Minh còn thể hiện qua chủ trương của Người về mở
rộng giao lưu, hợp tác với nước ngoài trong lĩnh vực khoa học, kỹ thuật tiên tiến trên
thế giới. Người nhắc nhở cán bộ và nhân dân ta phải tranh thủ học tập kinh nghiệm
các nước anh em và các chuyên gia. Tư tưởng của Người đã định hướng cho chủ
trương của Đảng ta trong các thời kỳ và đặc biệt là trong thời mở cửa, hội nhập quốc
tế hiện nay, nhờ đó đã thu được hiệu quả đáng kể trong việc đào tạo các nhà khoa
học và kỹ sư, cung cấp thiết bị nghiên cứu, thông tin và tư liệu. Hợp tác về khoa học,
kỹ thuật đã đóng góp quan trọng cho thành công của đổi mới trong những nǎm gần
đây ở Việt Nam.
Khi đề cập đến tính sáng tạo của Hồ Chí Minh cần lưu ý khi chỉ đạo cuộc cách
4


mạng khoa học - kỹ thuật ở nước ta, đó là gắn vấn đề khoa học - kỹ thuật với vấn đề

cải tiến quản lý và cải tiến tổ chức. Người đã sớm nhìn thấy mối quan hệ giữa các
yếu tố này, xem xét khoa học - kỹ thuật trong một chỉnh thể kinh tế - xã hội thống
nhất. Người đã ví cơng tác quản lý, cải tiến kỹ thuật và cải tiến tổ chức như cái kiềng
ba chân, nếu hai chân dài, một chân ngắn thì khơng thể nào đứng vững được. Do đó,
để thúc đẩy khoa học và kỹ thuật phát triển thì phải cải tiến đồng bộ cả cơ chế quản
lý lẫn công tác tổ chức.
Theo Hồ Chí Minh thì vấn đề dân chủ phải phát huy sức mạnh của tất cả mọi
người, mười người không làm được thì một trǎm người góp ý kiến lại nhất định sẽ
làm được dân chủ trong hoạt động khoa học - kỹ thuật cịn là bảo đảm tính khách
quan, cơng bằng, công khai trong mọi sinh hoạt khoa học, trong đánh giá các sản
phẩm khoa học kỹ thuật, trong kiểm tra, giám sát việc thực hiện các quy chế hoạt
động khoa học kỹ thuật.
Thực hiện những lời dạy của Hồ Chí Minh về vấn đề bàn luận ở trên, từ sau
Đại hội VI, Đảng và Nhà nước ta đã đề cập vấn đề dân chủ trong lĩnh vực khoa học,
kỹ thuật. Chẳng hạn, trong Nghị quyết 26-NQ/TƯ của Bộ Chính trị đã yêu cầu xây
dựng quy chế dân chủ trong mọi sinh hoạt khoa học; Nghị định 34-NĐ/HĐBT của
Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (ngày 28-1-1992) nêu rõ rằng, các tổ chức và cá nhân
hoạt động trong lĩnh vực khoa học và cơng nghệ có quyền tự do dân chủ trong nghiên
cứu, sáng tạo; Nghị quyết Trung ương 2 khóa VIII của Đảng cũng phát động phong
trào quần chúng tiến quân vào khoa học, phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật, v.v..
1.1.3. Vai trò của khoa học, kỹ thuật đối với sự phát triển của xã hội
- Hồ Chí Minh cảm nhận một cách sâu sắc ý nghĩa, vai trò to lớn của khoa
học, kỹ thuật đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước; Người coi ''Thời đại
của chúng ta bây giờ là thới đại vệ tinh nhân tạo, nghĩa là thời đại của khoa học phát
triển mạnh, thời đại xã hội chủ nghĩa...''. Chính vì thế, Người khẳng định một cách
dứt khốt rằng, cách mạng xã hội chủ nghĩa phải gắn liền với sự phát triển của khoa
học và kỹ thuật, với sự phát triển văn hóa của nhân dân; đồng thới tin tưởng rằng,
5



chủ nghĩa xã hội cộng với khoa học chắc chắn sẽ mang lại cuộc sống hạnh phúc, ấm
no cho loài người nói chung và nhân dân Việt Nam nói riêng.
- Đối với sự nghiệp cách mạng của Việt Nam, theo quan điểm của Chủ tịch
Hồ Chí Minh, khoa học, kỹ thuật và sự phát triển của nó lại càng chứa đựng ý nghĩa
đặc biệt quan trọng. Chúng ta đi lên chủ nghĩa xã hội từ một xuất phát điểm hết sức
thấp kém, nhất là về phương diện kinh tế - xã hội. Cơ sở vật chất - kỹ thuật của nền
kinh tế cịn rất nghèo nàn: trong nơng nghiệp thì sản xuất nhỏ là phổ biến, kỹ thuật
vô cùng lạc hậu; cơng nghiệp cịn nhỏ bé và lẻ tẻ. Mặt khác, đối với chúng ta, xây
dựng chủ nghĩa xã hội là một nhiệm vụ hoàn toàn mới mẻ, chưa từng có tiền lệ trong
lịch sử phát triển của dân tộc. Trong điều kiện, hồn cảnh như vậy, chỉ có dựa vào
sự phát triển của một nền khoa học tiên tiến, bao gồm khoa học xã hội, khoa học tự
nhiên, khoa học kỹ thuật và công nghệ, chúng ta mới đủ sức nghiên cứu, giải quyết
một cách đúng đắn, có hiệu quả những vấn đề lý luận và thực tiễn cấp bách mà sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội đặt ra.
- Chúng ta phải nâng cao sự tu dưỡng về chủ nghĩa Mác - Lê-nin để dùng lập
trường, quan điểm, phương pháp chủ nghĩa Mác - Lê-nin mà tổng kết những kinh
nghiệm của Đảng ta, phân tích một cách đúng đắn những đặc điểm của nước ta. Có
như thế, chúng ta mới có thể dần dần hiểu được quy luật phát triển của cách mạng
Việt Nam, định ra được những đường lối, phương châm, bước đi cụ thể của cách
mạng xã hội chủ nghĩa thích hợp với tình hình nước ta''. Tư tưởng đó của Người
khơng thuần túy là lời chỉ dẫn cho việc giải quyết một vấn đề lý luận đặt ra từ thực
tiễn. Hơn thế, đó cịn là định hướng chung cho sự phát triển của khoa học, đặc biệt
là đối với hoạt động nghiên cứu lý luận mác-xít và khoa học xã hội.
- Nhiệm vụ của khoa học ''là ra sức cải biến những cái đó Khoa học là tổng
kết những kinh nghiệm đấu tranh giữa giai cấp bị bóc lột và giai cấp bóc lột và đấu
tranh giữa con người với thiên nhiên''.
- Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong chế độ xã hội chủ nghĩa, khoa học là tài
sản chung của tồn dân chứ khơng phải của riêng một nhóm người nào. Vì thế, nó
6



trở thành một trong những công cụ làm giàu cho một thiểu số người giàu, có quyền
lực trong xã hội; đồng thời, trở thành phương tiện áp bức, bóc lột nhân dân lao động
một cách ngày càng tinh vi hơn. Ngược lại, trong điều kiện chủ nghĩa xã hội, tiến bộ
của khoa học, kỹ thuật hướng về con người, bởi vì mục đích cao cả và đầy tính nhân
văn.
- Xuất phát từ thực tiễn, gắn chặt với thực tiễn và trở lại phục vụ thực tiễn đó vừa là biện chứng của sự phát triển khoa học, vừa là con đường để khoa học thâm
nhập vào đời sống xã hội và ngày càng trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp.
- Có thể nói, tư tưởng về sự phát triển xã hội bằng biện pháp phát triển khoa
học, kỹ thuật là một nét độc đáo, sáng tạo của Hồ Chí Minh. Khi cho rằng, chúng ta
phải dựa vào khoa học để tăng năng suất lao động, để cải thiện không ngừng đời
sống nhân dân và bảo đảm cho sự thắng lợi của chủ nghĩa xã hội..., Người đã nhìn
thấy ở khoa học, kỹ thuật một nguồn lực quan trọng của sự phát triển xã hội.
- Việc áp dụng rộng rãi những thành tựu khoa học, kỹ thuật vào thực tiễn sản
xuất và đời sống sinh hoạt của nhân dân nhằm đưa nước ta trở thành một nước văn
minh, hiện đại là công việc rất quan trọng và cần thiết.
- Người đặc biệt quan tâm đến việc tập hợp trí thức, trọng dụng nhân tài, chăm
lo xây dựng, phát triển đội ngũ cán bộ khoa học, kỹ thuật.
- Hơn nửa thế kỷ qua, nền khoa học, kỹ thuật và công nghệ nước ta có những
bước chuyển biến tích cực trên mọi phương diện, có nhiều đóng góp quan trọng vào
sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Trong bối cảnh tồn cầu hóa và
xu hướng phát triển nền kinh tế tri thức, hơn bao giờ hết, khoa học, kỹ thuật và công
nghệ biểu hiện như là nguồn lực cơ bản nhất, như là «chìa khóa'' của sự phát triển
xã hội. Kế thừa tư tưởng đúng đắn của Hồ Chí Minh về vai trị của khoa học, kỹ
thuật và lấy đó làm nền tảng tư tưởng cho việc xây dựng chiến lược phát triển khoa
học và công nghệ trong thời kỳ mới.

7



1.2. Chính sách nhà nước trong phát triển khoa học cơng nghệ, nghiên
cứu khoa học
Trong thời đại hiện nay thì việc ứng dụng khoa học công nghệ vào đời sống
con người là đều tất yếu. Có thể thấy hầu hết các hoạt động trong cuộc sống hằng
ngày của chúng ta đều có sự xuất hiện của khoa học cơng nghệ.
Ví dụ: sự xuất hiện của các trang thiết bị điện tử: truyền hình, máy tính, điện
thoại,...
1.2.1. Chính sách của nhà nước trong phát triển khoa học và công nghệ
Nhà nước đã thực hiện các chính sách sau đây nhằm bảo đảm sự phát triển
khoa học và cơng nghệ mang tính quốc sách hàng đầu:
Thứ nhất, là ưu tiên và tập trung mọi nguồn lực quốc gia cho phát triển khoa
học và công nghệ; áp dụng đồng bộ cơ chế, biện pháp khuyến khích, ưu đãi nhằm
phát huy vai trị then chốt và động lực của khoa học và công nghệ trong phát triển
kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phịng, an ninh, bảo vệ mơi trường và nâng cao chất
lượng cuộc sống của nhân dân;
Thứ hai, phát triển đồng bộ các lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn, khoa
học tự nhiên, khoa học kỹ thuật và công nghệ; gắn nhiệm vụ phát triển khoa học và
công nghệ với nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phịng, an ninh;
tạo tiền đề hình thành và phát triển kinh tế tri thức;
Thứ ba, đẩy mạnh việc nghiên cứu ứng dụng thành tựu khoa học và công nghệ
tiên tiến và hiện đại, nghiên cứu làm chủ và tạo ra công nghệ mới nhằm đổi mới,
nâng cao trình độ cơng nghệ và năng lực cạnh tranh của sản phẩm;
Thứ tư, tập trung đầu tư xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật, chú trọng lĩnh vực
khoa học và công nghệ ưu tiên, trọng điểm quốc gia; áp dụng cơ chế, chính sách ưu
đãi đặc biệt để phát triển, đào tạo, thu hút, sử dụng có hiệu quả nhân lực khoa học
và công nghệ;
Thứ năm, tạo điều kiện phát triển thị trường khoa học và công nghệ;
8



Thứ sáu, khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi để doanh nghiệp đầu tư cho
hoạt động khoa học và công nghệ, đổi mới, nâng cao trình độ cơng nghệ;
Thứ bảy, khuyến khích, tạo điều kiện để hội khoa học và kỹ thuật, tổ chức
chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội – nghề nghiệp tham gia tư vấn, phản
biện, giám định xã hội và hoạt động khoa học và công nghệ;
Thứ tám, là chủ động, tích cực hội nhập quốc tế về khoa học và công nghệ;
nâng cao vị thế quốc gia về khoa học và cơng nghệ trong khu vực và thế giới.
Ví dụ một số chính sách của nhà nước phát triển khoa học, công nghệ như:
chiến lược phát triển khoa học công nghệ giai đoạn năm 2011- 2020, tầm nhìn năm
2030; chương trình quốc gia về khoa học và cơng nghệ.
Như vậy việc đưa ra các chính sách phát triển khoa học và công nghệ này giúp
đảm bảo rằng quốc gia ta sẽ tiến bộ không ngừng về mặt khoa học công nghệ, nâng
cao chất lượng cuộc sống của người dân, thúc đẩy sự phát triển kinh tế và độc lập về
công nghệ.
Thành tựu khoa học, cơng nghệ góp phần vào phát triển kinh tế - xã hội.
Chất lượng tăng trưởng được cải thiện, năng suất lao động nâng lên rõ rệt.
Năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) đóng góp vào tăng trưởng tăng từ 33,6% giai
đoạn 2011 – 2015 lên 45,2% giai đoạn 2016 – 2020, tính chung 10 năm 2011 – 2020
đạt 39,0% (vượt mục tiêu 35%); Tỉ trọng giá trị xuất khẩu sản phẩm công nghệ cao
trong tổng giá trị hàng hoá tăng từ 19% năm 2010 lên khoảng 50% năm 2020. Chỉ
số đổi mới sáng tạo toàn cầu – GII tăng 17 bậc trong giai đoạn 2016 – 2020, đứng
thứ 3 khu vực Đông Nam Á, đứng đầu trong số các quốc gia ở mức thu nhập trung
bình thấp
Với tổng sản phẩm trong nước (GDP) năm 2020 tăng 2,91%, Việt Nam thuộc
nhóm nước có tăng trưởng cao nhất thế giới. Trong thành tựu chung đó, có đóng góp
quan trọng của khoa học cơng nghệ và đổi mới sáng tạo. Nhằm thực hiện thắng lợi
mục tiêu kép Chính phủ đề ra, Bộ KH&CN đã tập trung triển khai thực hiện các
9



nhiệm vụ, giải pháp Đảng, Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ phân cơng.
1.2.2. Chính sách của nhà nước trong nghiên cứu khoa học
Chính sách của nhà nước trong nghiên cứu khoa học đóng vai trị quan trọng
trong việc định hướng và hỗ trợ cho các hoạt động nghiên cứu khoa học. Nhà nước
có thể áp dụng các chính sách khác nhau nhằm tăng cường nguồn lực, nâng cao chất
lượng và thúc đẩy tính ứng dụng của nghiên cứu khoa học.
Một số chính sách thường được áp dụng bao gồm:
- Hỗ trợ tài chính cho các dự án nghiên cứu khoa học
Chính sách ngân sách nhà nước hỗ trợ cho các dự án nghiên cứu khoa học
Có thể thấy nhà nước ta đã thực hiện nhiều chính sách để hỗ trợ tài chính cho
các dự án nghiên cứu khoa học trên toàn quốc như: việc cấp ngân sách nhà nước, lập
các quỹ hỗ trợ, học bổng,...
Ngân sách nhà nước sẽ được phân bổ cho các thành viên nghiên cứu, đại học,
trường cao đẳng, tổ chức nghiên cứu tư nhân để thực hiện các dự án nghiên cứu.
Về lập các quỹ hỗ trợ: Trong suốt những năm qua, nhà nước Việt Nam đã
thành lập một số quỹ hỗ trợ như Quỹ Khoa học và Công nghệ Quốc gia
(NAFOSTED), Quỹ Bảo vệ tài nguyên và Môi trường (RESP), Quỹ Phát triển khoa
học và cơng nghệ APEC (ASTIF),..
Học bổng: Ngồi cung cấp vật chất và kinh phí, nhà nước Việt Nam cũng cấp
học bổng cho các sinh viên và nhà nghiên cứu chuyên nghiệp muốn tham gia vào
các dự án nghiên cứu khoa học công nghệ, nhằm tạo động lực cho các nhà nghiên
cứu.
Ví dụ: Quỹ Khoa học và Cơng nghệ Quốc gia (NAFOSTED): Được thành lập
từ năm 2006, quỹ này hỗ trợ các dự án nghiên cứu khoa học có giá trị cao trong
nhiều lĩnh vực khoa học, bao gồm khoa học cơ bản, kỹ thuật, tập trung vào các vấn
đề khoa học từ cấp độ độc lập tới cấp quốc gia.
10


- Quy định và hướng dẫn về đạo đức và tiêu chuẩn chất lượng trong nghiên

cứu khoa học
Đây là một trong những công cụ quan trọng được nhà nước áp dụng để đảm
bảo tính đúng đắn và đáng tin cậy của các dự án nghiên cứu khoa học. Bằng cách
đảm bảo đạo đức, tính minh bạch, tính khách quan và tính chất lượng của các hoạt
động nghiên cứu, chúng giúp tạo ra sự đánh gia công bằn và đảm bảo sự tiến bộ
trong lĩnh vực khoa học.
Ví dụ: Đạo đức trong nghiên cứu khoa học là việc tuân thủ các quy định nhân
đạo và hạn chế sự gây hại cho con người và động vật.
- Phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng và trang thiết bị khoa học công nghệ
Thứ nhất việc nâng cấp và xây dựng cơ sở hạ tầng là cần thiết để đáp ứng nhu
cầu nghiên cứu của cộng đồng khoa học.
Thứ hai, việc cải thiện và trang bị các thiết bị khoa học công nghệ mới là yếu
tố để tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà khoa học tiến hành nghiên cứu độc lập và
tiên tiến hơn
Với việc phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng và trang thiết bị khoa học công
nghệ, việc nghiên cứu và đào tạo sẽ trở nên chất lượng hơn, có tính đột phá hơn và
tạo ra những sản phẩm khoa học cơng nghệ mới mang tính ứng dụng cao, phục vụ
cho sự phát triển bền vững và thịnh vượng của đất nước.
Ví dụ: trong các lĩnh vực nghiên cứu cần thường xuyên có sự đổi mới các
trang thiết bị hiện đại để phù hợp với nhu cầu của các nhà nghiên nghiên cứu khoa
học.
- Tạo điều kiện thuận lợi cho việc chuyển giao công nghệ và ứng dụng
thành công trên thực tế
Với những sản phẩm khoa học công nghệ mới mang tính ứng dụng cao, việc
triển khai thực tế và ứng dụng trực tiếp trong sản xuất đem lại hiệu quả kinh tế lớn
và cũng đồng thời hỗ trợ cho sự phát triển bền vững của đất nước. Các sản phẩm
11


được ứng dụng trong công nghiệp, nông nghiệp, y tế, môi trường, v.v... sẽ giúp cho

Việt Nam phát triển mạnh mẽ và bền vững trong tương lai.
Vì vậy, việc phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng và trang thiết bị khoa học công
nghệ là rất cần thiết để nâng cao vị thế khoa học công nghệ của đất nước và đóng
góp vào việc chung thịnh vượng xã hội.
- Khuyến khích và tạo động lực cho các nhà khoa học, nghiên cứu sinh và
sinh viên tham gia nghiên cứu khoa học
Các nhà khoa học, nghiên cứu sinh và sinh viên là những người đóng góp
quan trọng vào sự phát triển khoa học cơng nghệ và đóng vai trị quan trọng trong
việc tạo ra các sản phẩm mới và cải tiến trong cuộc sống hàng ngày. Để khuyến
khích và tạo động lực cho các nhà khoa học, nghiên cứu sinh và sinh viên tham gia
nghiên cứu khoa học, có thể áp dụng những phương pháp sau: Cung cấp nguồn lực
tài chính, đào tạo và hỗ trợ cẩm nang phương pháp nghiên cứu khoa học, tạo cơ hội
thực tập và tham gia các dự án nghiên cứu, tạo mơi trường động lực,..
Chính sách của nhà nước trong nghiên cứu khoa học nên phải xem xét và
thích ứng với tình hình phát triển của đất nước cũng như có tính sáng tạo, linh hoạt
và bền vững để đạt được những kết quả đáng kể trong lĩnh vực này.
Ví dụ: Một số chính sách hỗ trợ của nhà nước như hỗ trợ tài chính, hỗ trợ đào
tạo,...
1.2.3. Các hành vi bị cấm trong hoạt động khoa học và công nghệ
- Lợi dụng hoạt động khoa học và cơng nghệ để xâm phạm lợi ích của Nhà
nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân; gây thiệt hại đến tài nguyên,
môi trường, sức khỏe con người; trái với đạo đức, thuần phong mỹ tục của dân tộc.
- Xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ; chiếm đoạt, chuyển nhượng, chuyển giao
bất hợp pháp kết quả khoa học và công nghệ.

12


- Tiết lộ tài liệu, kết quả khoa học và cơng nghệ thuộc danh mục bí mật nhà
nước; lừa dối, giả mạo trong hoạt động khoa học và công nghệ.

- Cản trở hoạt động khoa học và công nghệ hợp pháp của tổ chức, cá nhân.

13


CHƯƠNG 2: SỰ PHÁT TRIỂN CỦA KHOA HỌC KỸ THUẬT TÁC ĐỘNG
ĐẾN PHÁP LUẬT
2.1. Sự ảnh hưởng của khoa học kỹ thuật đối với pháp luật Việt Nam
Với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật và cuộc cách mạng công
nghiệp lần thứ tư (Cách mạng công nghiệp 4.0) đã tác động sâu rộng đến mọi lĩnh
vực như: nhà nước, pháp luật, sản xuất, kinh doanh, thị trường lao động, giáo dục,
an ninh quốc phòng, nguồn nhân lực, việc làm và các lĩnh vực khác của xã hội. Tác
động đến các chủ thể là nhà nước, người dân, doanh nghiệp và các tổ chức, cá nhân
trong xã hội, trong đó đặc biệt là các cá nhân, nhóm yếu thế…Tác động đến mọi cấp
độ quốc tế; khu vực, quốc gia, địa phương, liên quốc gia, xuyên quốc gia…Đặc biệt,
với lĩnh vực pháp luật, khoa học kỹ thuật phát triển địi hỏi phải thay đổi và hình
thành tư duy mới về pháp luật. Vẫn trên cơ sở nền tảng pháp luật pháp quyền, dân
chủ nhưng cần hình thành và phát triển cách tiếp cận, ứng dụng về công nghệ pháp
luật trên cả luật nội dung và luật hình thức….
Theo đó, sự phát triển của khoa học kỹ thuật, đã có những ảnh hưởng mạnh mẽ
đối với hệ thống pháp luật ở Việt Nam, những ảnh hưởng có thể kể đến là: sự thay
đổi về không gian, về thời gian; thay đổi về chủ thể pháp lý, về hành vi pháp luật..
a. Thay đổi về khơng gian
Thứ nhất, pháp luật có giới hạn về khơng gian, thơng thường giới hạn đó gắn
với phạm vi lãnh thổ mỗi quốc gia.
Thứ hai, định vị của một người trong khơng gian hoặc vị trí của một bất động
sản luôn được coi là căn cứ để xác định nơi – và từ đó pháp luật được sử dụng để
thực hiện các nghĩa vụ pháp lý, các quyền tài sản, quyền nhân thân (như quyền thừa
kế, quyền bầu cử, đăng ký giao dịch bảo đảm…). Không gian là cơ sở để xác định
hệ thống pháp luật áp dụng và xác định tồ án có thẩm quyền giải quyết các tranh

chấp liên quan đến các quyền và nghĩa vụ pháp lý đó.
Giới hạn khơng gian của pháp luật sẽ bị thay đổi với các tác động của công
14


nghệ thơng tin, trí tuệ nhân tạo và các robot thông minh. Với sự phát triển của khoa
học kỹ thuật thì các hoạt động truyền thơng, quảng cáo; các hành vi, hoạt động
thương mại, các giao dịch dân sự, thậm chí các tội phạm có thể được thực hiện một
cách “phi biên giới”. Lúc này chủ thể thực hiện các hành vi khơng bó hẹp trong
phạm vi lãnh thổ quốc gia nữa.
b. Thay đổi về thời gian
Thời gian là đại lượng được sử dụng làm tiêu chí cho các hành vi pháp luật.
Hầu như trong khắp các lĩnh vực pháp luật đều sử dụng đến đại lượng thời gian. Đó
là các quy định về thời hiệu, thời hạn, thời gian làm việc, thời gian nghỉ ngơi, thời
gian hưởng bảo hiểm xã hội…Tuy nhiên, với những ảnh hưởng của công nghệ tự
động hố, cơng nghệ thơng tin, trí tuệ nhân tạo, việc sử dụng robot – như là một lực
lượng lao động mới có thể dẫn đến những biến đổi về đại lượng thời gian trong pháp
luật.
Ví dụ, cách tính thời gian làm việc, thời gian nghỉ ngơi theo quy định của Bộ
luật Lao động vốn chỉ phù hợp với con người sinh học, nhưng với robot thì rất khó
có thể áp dụng được. Một email, một quyết định xử lý cơng việc nếu được đảm nhận
bởi robot hay trí tuệ nhân tạo thì có thể thực hiện vào bất kỳ thời điểm nào nên
khoảng thời gian làm việc hay thời gian nghỉ ngơi cũng có thể thay đổi.
c. Thay đổi về chủ thể pháp luật
Robot thông minh sẽ không chỉ có trong các phim viễn tưởng nữa mà khả năng
hiện thực đã rất rõ ràng trong việc thay thế con người ở nhiều cơng đoạn sản xuất,
thậm chí cả một số hành vi xã hội. Những robot hiện đại có khả năng tự cảm nhận,
tự phản ứng, điều chỉnh hành vi tương thích với sự thay đổi của mơi trường bên
ngồi, tương tác, tự học hỏi và thậm chí có thể tự đưa ra quyết định. Ở mức độ cao,
các robot có thể tồn tại độc lập so với người làm ra nó; robot có những hành vi có

thể phát sinh hệ quả xã hội độc lập và khơng cịn gắn với chủ thể sáng tạo ra rô bốt.
Do vậy, về mặt lập pháp trong tương lai có thể cần có các quy định điều chỉnh vấn
đề này.
15


d. Thay đổi về hành vi pháp lý
Với sự phát triển của khoa học kỹ thuật có thể làm xuất hiện những hành vi
pháp lý mới như giao dịch tiền ảo; an ninh mạng; những hành vi gián điệp hay đánh
cắp dữ liệu trên Internet; các hành vi spam, lan truyền virut, tấn công an ninh mạng
hoặc rủi ro từ đánh cắp bản quyền, vi phạm luật sở hữu trí tuệ…Ngồi ra, có một xu
hướng mới đó là sự kết hợp của các cơng nghệ in 3D, có thể in các cơ quan cơ thể
người khi sử dụng nguồn “mực sinh học” là một dung dịch dinh dưỡng chứa các tế
bào gốc – sẽ có khả năng tạo ra những con người “cấy ghép” mà việc định danh cũng
như xác định các quan hệ nhân thân, tài sản kéo theo sẽ trở nên vô cùng phức tạp .
[]

Hành vi pháp lý thay đổi và chủ thể mới của vi phạm cũng sẽ xuất hiện.
Để đối phó với các hành vi vi phạm mới trên phải cần đến những công cụ pháp
lý vượt ra khỏi phạm vi của một quốc gia; song song với đó, quy mơ, tính chất của
cơng cụ điều tra, thủ tục tố tụng hay nền tảng pháp lý cũng phải phù hợp tương ứng
với trình độ phát triển của nền tảng công nghệ 4.0 mới xử lý được các hoạt động như
vậy. Các quan niệm truyền thống về chế tài pháp lý, vi phạm pháp luật, quy trình tố
tụng… cũng cần được định nghĩa lại ở phạm vi, quy mơ mới. Cao hơn cả là mơ hình
hợp tác phát triển của nhiều quốc gia trên thế giới cần được cải tiến hơn để đáp ứng
nhu cầu phát triển mới.
2.2. Những yêu cầu đối với pháp luật Việt Nam khi khoa học kỹ thuật
ngày càng phát triển
Pháp luật bao gồm hệ thống quy tắc điều chỉnh việc vận hành và ứng dụng các
công nghệ số nhằm bảo đảm rằng tất cả các chủ thể tham gia xây dựng và vận hành

các hệ thống này có quyền lợi nhưng đồng thời có trách nhiệm trong việc thúc đẩy
các giá trị được thừa nhận chung như pháp quyền, dân chủ, quyền con người. Nhà
nước cần xây dựng hệ thống chính sách, pháp luật quy định và bảo đảm các điều
kiện để các chủ thể tuân thủ nghĩa vụ, đồng thời khuyến khích họ, đặc biệt là các
doanh nghiệp trong việc bảo đảm các trách nhiệm của họ đối với việc tuân thủ giá
trị của xã hội và con người. Nhà nước cũng phải có trách nhiệm ban hành các quy
16


tắc và thực thi hệ thống kiểm soát đối với hoạt động của mình trong việc sử dụng
các ứng dụng công nghệ số của khối tư nhân phải bảo đảm các chuẩn mực về kinh
doanh và quyền con người.
Việc đảm bảo cân bằng giữa các lợi ích khi mà khoa học kỹ thuật ngày càng
phát triển cũng là một trong những yêu cầu cơ bản quyết định các chính sách, pháp
luật của mỗi quốc gia kể cả Việt Nam. Các lợi ích bao gồm sự phát triển, đổi mới và
sáng tạo của cơng nghệ; lợi ích kinh tế, xã hội mà nó tạo ra; lợi ích quốc gia dân tộc,
lợi ích cộng đồng; các quyền và tự do của con người và các lợi ích khác. Khi khoa
học kỹ thuật phát triển hay khi cuộc cách mạng công nghiệp diễn ra thì đều có nhóm
người chiến thắng, hưởng lợi, nhưng cũng có những nhóm khác yếu thế, chịu thiệt
thịi. Vì vậy, chính sách pháp luật cần phải bảo đảm cân bằng lợi ích của các nhóm
này, một mặt để duy trì động lực phát triển (ủng hộ, ghi nhận thành quả, năng lực
làm việc và sáng tạo của họ), nhưng cũng phải hỗ trợ, nâng cao khả năng tiếp cận,
điều kiện sống để khơng ai bị gạt ra ngồi lề hoặc để lại phía sau.
Việc ban hành pháp luật tạo hành lang pháp lý cho sự tiến triển của Cách mạng
công nghiệp 4.0, sự phát triển của khoa học kỹ thuật cũng gặp khơng ít các thách
thức.
Ví dụ, sự phát triển và ứng dụng trí tuệ nhân tạo trên thế giới đang gây ra sự
bối rối cho việc thiết lập cơ chế quản trị phù hợp. Hay sự bùng nổ các nền tảng số,
doanh nghiệp nền tảng như Grap, Uber cũng gây ra khơng ít lúng túng, tranh cãi ở
Việt Nam và nhiều quốc gia trên thế giới trong việc tạo hành lang chính sách, pháp

luật phù hợp. Ngồi việc hoàn thiện, củng cố các nguyên tắc pháp luật truyền thống,
cần phải có tư duy đổi mới về pháp luật trên tất cả các phương diện nhằm bảo đảm
tính đáp ứng và phù hợp của pháp luật trong thời kỳ mới.
Các hệ thống ứng dụng công nghệ 4.0 là các hệ thống ứng dụng được xây dựng
và vận hành trên phạm vi tồn cầu, có tác động ở mọi cấp độ (quốc tế, khu vực, quốc
gia, địa phương) trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, đặc biệt đối với các quyền
17


con người. Ví thế, chỉ pháp luật quốc gia là chưa đủ, mà cần phải có hệ thống quy
tắc tồn cầu và khu vực để có cơ chế chung, phối hợp trong việc giải quyết các vấn
đề đặt ra của cuộc Cách mạng cơng nghiệp 4.0. Điều này cũng có nghĩa các quốc gia
cần phải tích cực chia sẻ, trao đổi và chủ động tham gia thảo luận quốc tế, khu vực,
đa phương và song phương để thúc đầy các cơ chế chung, phối hợp, hợp tác và chia
sẻ giữa các quốc gia.
Tóm lại, khoa học kỹ thuật ngày càng phát triển đang tạo ra những biến chuyển
mạnh mẽ trong đời sống kinh tế xã hội, làm nảy sinh những vấn đề mới về pháp lý.
Trong bối cảnh đó, cơng tác xây dựng pháp luật chắc chắn cần phải thay đổi tồn
diện, cả nội dung lẫn hình thức nhằm tạo ra hành lang pháp lý vững chắc cho các
hoạt động kinh tế, xã hội của đất nước.
2.3. Một số quan hệ pháp luật cụ thể chịu sự tác động mạnh mẽ từ sự phát
triển của khoa học kỹ thuật và cách mạng công nghiệp 4.0
- Pháp luật tố tụng dân sự:
Khi khoa học kỹ thuật ngày càng phát triển, việc sử dụng thiết bị điện tử kỹ
thuật số, mạng máy tính, mạng viễn thơng, mạng xã hội... đã để lại các dấu vết điện
tử được ghi lại, lưu truyền dưới dạng dữ liệu điện tử như logfile, IP, mã độc, domain,
thời gian, không gian mạng, thư điện tử, nickname, chat, tin nhắn…đây là chứng cứ
được lưu trữ lại trong bộ nhớ của các thiết bị kỹ thuật số một cách tự động, khách
quan, tồn tại dưới dạng những tín hiệu điện tử, có thể nhận biết, phát hiện, bảo quản,
và ghi lại vào ổ USB, đĩa CD/VCD…hoặc in ra giấy, ảnh và có thể sử dụng làm

chứng cứ trong quá trình giải quyết vụ án.
Hiện nay, trong lĩnh vực dân sự, các bên đương sự đã sử dụng các dữ liệu điện
tử để chứng minh cho yêu cầu của mình cũng như phản đối yêu cầu, toà án cũng sử
dụng dữ liệu điện tử làm nguồn chứng cứ để xác định chứng cứ cho việc giải quyết
vụ việc dân sự.
Để sử dụng dữ liệu điện tử làm chứng cứ trong vụ việc cần tuân thủ những yêu
18


cầu nhất định như: Việc thu thập dữ liệu điện tử phải hợp pháp; chứng cứ điện tử
được sử dụng làm căn cứ trong quá trình tố tụng phải đảm bảo có liên quan và cần
thiết, hợp pháp và tuân thủ các yêu cầu về thủ tục; bảo đảm tính xác thực, tính tồn
vẹn hoặc chính xác. Một thơng tin được rút ra từ dữ liệu điện tử để được coi là chứng
cứ phải đảm bảo thuộc tính: tính khách quan, tính liên quan và tính hợp pháp. Để
đảm bảo các thuộc tính của chứng cứ điện tử thì việc thu thập và đánh giá chứng cứ
phải đảm bảo thực hiện theo đúng quy định của pháp luật. Về bản chất, chứng cứ
điện tử có thể bị thay đổi, hư hỏng hoặc bị phá hủy do xử lý hoặc kiểm tra khơng
đúng cách, do đó, cần phải có biện pháp phịng ngừa để có thể thu thập được đúng
chứng cứ điện tử.
Tại Điều 94 Bộ Luật tố tụng dân sự năm 2015 đã quy định nguồn chứng cứ là
dữ liệu điện tử, khoản 3 Điều 95 còn quy định để xác định tính hợp pháp của chứng
cứ điện tử thì nguồn chứng cứ là thông điệp dữ liệu điện tử được thể hiện dưới hình
thức trao đổi dữ liệu điện tử, chứng từ điện tử, thư điện tử, điện tín, điện báo, fax và
các hình thức tương tự khác theo quy định của pháp luật về giao dịch điện tử phải
được cung cấp, thu thập, đánh giá, bảo quản, bảo vệ theo đúng trình tự, thủ tục do
pháp luật quy định.
- Pháp luật về bảo hộ dữ liệu cá nhân, quyền riêng tư
Khoa học kỹ thuật đã tác động đến việc hình thành cơ sở dữ liệu hộ tịch điện
tử, quản lý hộ tịch và giải quyết tranh chấp về hơn nhân và gia đình. Việc xây dựng
cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử là rất cần thiết và kịp thời trong xã hội hiện đại ngày

nay, do đó Chính phủ đã ban hành Nghị định 47/2020/NĐ-CP ngày 9/4/2020 quy
định về quản lý, kết nối và chia sẻ dữ liệu số của cơ quan nhà nước và Nghị định số
87/2020/NĐ-CP ngày 28/72020 quy định về cơ sở dữ điện tử, đăng ký hộ tịch trực
tuyến, đây là cơ sở dữ liệu được lập trên cơ sở tin học hóa công tác đăng ký hộ tịch,
nhằm lưu giữ thông tin hộ tịch của cá nhân được đăng ký theo quy định pháp luật,
bằng thiết bị số, trong môi trừong mạng, thông qua phần mềm đăng ký, quản lý hộ
tịch điện từ dùng chung.
19


Bên cạnh đó là những thơng tin hộ tịch khác của cá nhân cũng tiếp tục được
cập nhật như đăng ký kết hơn, cấp giấy xác nhận tình trạng hơn nhân, giám hộ, nhận
cha, mẹ, con, nuôi con nuôi...Những thông tin hộ tịch được lấy từ nguồn do cá nhân
đã đăng ký, đã được số hoá, chuẩn hoá từ sổ hộ tịch, từ việc được kết nối, chia sẻ từ
cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư. Điều này giúp cho việc tìm kiếm dữ liệu nhanh
chóng, chính xác, thuận tiện, thông tin cập nhật kịp thời, dễ dàng chia sẻ.
Tuy nhiên vấn đề đặt ra là việc xây dựng, cập nhật, quản lý, khai thác, sử dụng
cơ sở dữ liệu này phải đảm bảo việc bảo vệ đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật
gia đình…đây là vấn đề không hề đơn giản trong sự phát triển mạnh mẽ của khoa
học kỹ thuật.
- Pháp luật về sở hữu trí tuệ
Tác động quan trọng nhất liên quan đến lĩnh vực này là quyền tác giả đối với
sản phẩm trí tuệ, đặc biệt trong việc xác định quyền tác giả hoặc xâm phạm quyền
sở hữu trí tuệ đối với những tác phẩm do robot hoặc ứng dụng trí thông minh nhân
tạo tạo nên. Vấn đề này hiện nay cịn có những tranh luận khác nhau:
Xu hướng thứ nhất cho rằng, chủ thể của quyền tác giả khơng cịn là con người
nữa mà là những trí tuệ nhân tạo có thể sáng tạo ra tác phẩm một cách độc lập với
con người. Vì vậy, quyền quyền tác giả về trí tuệ nhân tạo được trao cho chủ thể
sáng tạo ra tác phẩm và đảm bảo được các yếu tố để được công nhận là tác giả. Các
yếu tố để được cơng nhận là tác giả đối với trí tuệ nhân tạo sẽ phải đáp ứng được

những quy định về pháp luật quyền tác giả được quy định trong pháp luật đối với tác
giả là con người.
Xu hướng thứ hai cho rằng, quyền tác giả về trí tuệ nhân tạo thuộc về những cá
nhân, tổ chức với bất kỳ sản phẩm được tạo ra bởi trí tuệ nhân tạo do chính cá nhân,
tổ chức đó tạo ra hoặc sở hữu. Theo đó, đối tượng điều chỉnh của quyền tác giả sẽ
thay đổi, khơng cịn phải là những sản phẩm được tạo ra bởi con người mà là những
sản phẩm được tạo ra bởi cả từ trí tuệ nhân tạo.
20


Ở Việt Nam, trí tuệ nhân tạo hiện đã và đang hiện diện trong rất nhiều ngành
nghề, lĩnh vực như như y tế, ngân hàng, thiết kế, hàng không hay ẩm thực, sản xuất
âm nhạc…Tuy nhiên, trong hệ thống pháp luật hiện nay vẫn còn những khoảng trống
liên quan đến trí tuệ nhân tạo và việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ về trí tuệ nhân tạo.
Một trong những nguyên nhân của vấn đề này là, việc ứng dụng trí tuệ nhân tạo
nhằm sáng tạo ra các tác phẩm mang giá trị khoa học còn chưa phổ biến, chủ thể của
các sáng tạo vẫn là con người, trí tuệ nhân tạo chỉ được ứng dụng như một công cụ
hỗ trợ trong q trình lao động, sản xuất. Trí tuệ nhân tạo xuất hiện trong mọi mặt
của đời sống xã hội Việt Nam, nhưng việc người ta sử dụng trí tuệ nhân tạo như một
thực thể thơng minh để có thể sáng tạo ra một tác phẩm là điều vô cùng hiếm hoi, và
có lẽ những nhà làm luật cho rằng vấn đề đó là chưa cấp thiết. Với xu hướng nhanh
hiện nay việc bảo hộ quyền tác giả về trí tuệ nhân tạo tại Việt Nam cần thiết phải
được đặt ra để bảo hộ quyền tác giả nói chung và quyền tác giả về trí tuệ nhân tạo
nói riêng một cách hiệu quả nhất.

21


CHƯƠNG 3: THỰC TIỄN CỦA SỰ PHÁT TRIỂN KHOA HỌC KỸ THUẬT
TÁC ĐỘNG ĐẾN NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT

3.1. Sự ảnh hưởng của khoa học kỹ thuật đối với Nhà nước Việt Nam
Thực tiễn cho thấy, khoa học và kỹ thuật góp phần rất quan trọng vào thúc
đẩy tăng trưởng kinh tế thông qua tác động đến tổng cung và tổng cầu; các sản phẩm
KH&KT đóng góp trực tiếp vào GDP. Sự phát triển của KH&KT có tác động mang
tính quyết định đối với tăng trưởng dài hạn và chất lượng tăng trưởng.
Sau gần 35 năm đổi mới, KHKT nước ta đã có sự chuyển biến tích cực với
nhiều thành tựu trong nghiên cứu, điều tra, góp phần tạo luận cứ khoa học cho việc
xây dựng chiến lược và quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội, bảo vệ mơi trường.
KH&CN gắn bó với sản xuất và đời sống, góp phần nâng cao năng suất, chất lượng,
hiệu quả của tất cả các ngành, lĩnh vực.
KHKT đã thể hiện rõ vai trò là nguồn lực quan trọng trong phát triển kinh tế
của đất nước. Giai đoạn 2015 - 2020, năng suất lao động được nâng lên thể hiện qua
chỉ số năng suất các yếu tố tổng hợp TFP (tăng từ 33,6% giai đoạn 2011 - 2015 lên
44,46% giai đoạn 2016 - 2019), tỉ trọng giá trị xuất khẩu sản phẩm cơng nghệ cao
trong tổng giá trị hàng hóa xuất khẩu đạt 50% năm 2020.
Ba khu công nghệ cao quốc gia là Hịa Lạc, TP. Hồ Chí Minh và Đà Nẵng đã
thu hút hàng trăm dự án đầu tư với số vốn hàng chục tỷ USD. Nguồn lực tài chính
từ xã hội và doanh nghiệp cho KHKT tăng, thể hiện qua tỉ trọng đầu tư giữa Nhà
nước và doanh nghiệp là 52/48 so với tỉ lệ 70/30 của hơn 5 năm trước.
Vai trò của doanh nghiệp trong chuỗi hoạt động nghiên cứu và đổi mới sáng
tạo ngày càng trở nên quan trọng. Thị trường công nghệ được thúc đẩy phát triển, cả
nước có 15 sàn giao dịch cơng nghệ, 50 vườn ươm công nghệ, 186 tổ chức đại diện
sở hữu công nghiệp và mạng lưới các trung tâm ứng dụng và chuyển giao tiến bộ
KH&CN trên toàn quốc.
22


Những đóng góp của KHKT cịn thể hiện qua chỉ số đổi mới sáng tạo của Việt
Nam liên tục tăng. Năm 2017 tăng 12 bậc, năm 2018 tăng 2 bậc, năm 2019 tăng tiếp
3 bậc, xếp thứ 42 trên 129 quốc gia, đưa Việt Nam vươn lên dẫn đầu nhóm 26 quốc

gia thu nhập trung bình thấp và đứng thứ 3 ASEAN.
Bên cạnh đó, cơ chế quản lý KHKT từng bước đổi mới phù hợp với thực tiễn.
Trình độ nhận thức và ứng dụng KHKT của toàn xã hội ngày càng được nâng cao.
3.2. Sự ảnh hưởng của khoa học kỹ thuật đối với pháp luật Việt Nam
Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đã tác động sâu rộng đến mọi lĩnh vực
như:nhà nước, pháp luật, sản xuất, kinh doanh, thị trường lao động, giáo dục, an ninh
quốc phòng, nguồn nhân lực, việc làm và các lĩnh vực khác của xã hội. Đối với lĩnh
vực pháp luật, tác động của cách mạng cơng nghiệp 4.0 địi hỏi phải sự thay đổi và
hình thành tư duy mới về pháp luật. Vẫn trên cơ sở nền tảng pháp luật pháp quyền,
dân chủ nhưng cần hình thành và phát triển cách tiếp cận, ứng dụng về công nghệ
pháp luật trên cả luật nội dung và luật hình thức. Việc đảm bảo cân bằng giữa các
lợi ích khi mà khoa học kỹ thuật ngày càng phát triển cũng là một trong những yêu
cầu cơ bản quyết định các chính sách, pháp luật của mỗi quốc gia kể cả Việt Nam.
Ngày 28/3, Khoa Luật – Trường Đại học Mở Hà Nội tổ chức Hội thảo khoa
học với chủ đề “Pháp luật về bảo vệ dữ liệu cá nhân trong kỉ nguyên số: Những vấn
đề lý luận và thực tiễn ở Việt Nam hiện nay”. Chương trình nhận được sự quan tâm
tham dự của nhiều nhà quản lý, nhà khoa học, cán bộ, giảng viên và học viên, sinh
viên các ngành luật tại Trường Đại học Mở Hà Nội.
Hội thảo khoa học diễn ra với nội dung: đánh dấu sự phát triển vượt bậc của
Việt Nam trong ứng dụng những thành tựu khoa học kĩ thuật liên quan tới máy tính
và internet. Ngày nay, sự phát triển của các thiết bị điện tử cùng với sự bùng nổ của
các nền tẩng số như mạng xã hội, các ứng dụng thương mại điện tử, thanh toán, vận
tải, lữu trữ đám mây…đã trở thành một động lực quan trọng giúp thúc đẩy sự phát
triển của không chỉ Việt Nam mà cả tồn cầu. Tuy nhiên, bên cạnh mặt tích cực luôn
23


×