Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

BÀI BÁO CÁO THỰC TẬP-mô hình tăng trưởng và phát triển kinh tế trong kinh tế học phát triển để minh họa chi tiết sự vận động của quy luật (lượng-chất) phản ảnh trong quá trình đi lên của nền kinh tế đang phát triển

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (129.21 KB, 13 trang )

Khoa Đào Tạo sau Đại Học - Lớp cao học ñeâm 6 – K16

LỜI MỞ ĐẦU
Trong 200 năm trở lại đây, lần đầu tiên trong lịch sử của mình, lồi người
chúng ta đã chứng kiến hai cuộc cách mạng công nghiệp vĩ đại dẫn tới sự tăng
trưởng kinh tế thần kỳ.
Bắt đầu là cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất xuất phát từ Anh từ những
năm cuối thế kỷ 18, đầu thế kỷ 19 với các phát minh về kỹ thuật chế tạo máy
móc, chủ yếu là trong ngành dệt. Trong thời kỳ này, nền kinh tế giản đơn, quy
mô nhỏ, dựa trên lao động chân tay được thay thế bằng cơng nghiệp và chế tạo
máy móc quy mơ lớn. Cuộc cách mạng bắt đầu với sự phát triển sản xuất hàng
hóa của ngành cơng nghiệp dệt. Sau đó, với nhu cầu cung cấp máy móc và
năng lượng cho công nghiệp dệt, các kỹ thuật gia công sắt thép được cải thiện
và than đá sử dụng với khối lượng lớn. Thương mại mở rộng tạo điều kiện cho
sự ra đời của kênh đào giao thông và đường sắt. Bên cạnh đó, đường giao
thơng được nâng cấp lớn cho hoạt động giao thương nhộn nhịp. Động cơ hơi
nước sử dụng nhiên liệu than và máy móc dẫn động bằng cơ khí đã đưa đến gia
tăng năng suất lao động đột biến. Sự phát triển các máy công cụ trong hai thập
kỷ đầu của thế kỷ 19 tạo thuận lợi cho lĩnh vực chế tạo máy, phục vụ những
ngành sản xuất khác.
Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ hai bắt đầu từ nữa cuối thế kỷ 19 và đầu
thế kỷ 20 được đánh dấu bởi sự phát triển của các ngành cơng nghiệp hóa chất,
dầu mỏ, thép và điện lực. Sản xuất hàng loạt hàng tiêu dùng được phát triển,
các lĩnh vực như đồ uống và thực phẩm, quần áo, vận tải và giải trí gồm rạp
chiếu phim, phát thanh, máy ghi âm được thương mại hóa đáp ứng nhu cầu dân
chúng và tạo nhiều cơng ăn việc làm.

Võ Thị Thuỳ Linh

Trang 1



Khoa Đào Tạo sau Đại Học - Lớp cao học ñeâm 6 – K16

Thành tựu của hai cuộc cách mạng công nghiệp trong thời kỳ này là mức sống
của người dân được cải thiện rất nhiều và nhanh chóng. Nếu trước năm 1800,
sự thay đổi kinh tế hầu như không thể cảm nhận được khi mà hầu hết mọi
người đều dự đốn lúc họ qua đời thì điều kiện kinh tế cũng giống như lúc họ
sinh ra thì trong thế kỷ thứ 19, tăng trưởng kinh tế bắt đầu tạo ra những cải
thiện đáng chú ý đối với mức sống của người dân, khoảng nửa cuối thế kỷ 20,
phần lớn người dân trên thế giới sống trong các nền kinh tế mà thu nhập thực
tính theo đầu người ít nhất tăng gấp đôi từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Cuộc cách mạng công nghiệp dẫn tới sự tăng trương kinh tế mạnh mẽ đồng
thời cũng đã làm thay đổi cách thức hoạt động của xã hội cũ, và hình thành nên
một thực trạng xã hội mới đang chờ đợi một học thuyết xã hội đề điều tiết nó
nhằm tránh các bấc ổn xã hội và duy trì sự tăng trưởng lâu dài. Học thuyết như
vậy sẽ định hình một cách thức hoạt động xã hội mới khác hoàn toàn về bản
chất với xã hội cũ dựa trên nền tảng của nền sản xuất nơng nghiệp lạc hậu.
Q trình thay đổi từ một xã hội lạc hậu sang một xã hội tiến bộ trong đó tăng
trưởng kinh tế được là một yếu tố định lượng của tiến trình thay đổi dẫn tới
một sự phát triển toàn diện đã phản ánh chính xác quy luật "Lượng-Chất" được
đúc kết trong học thuyết chủ nghĩa xã hội của Kark Marx và Friedrich Engels
trong thời kỳ đầu của cách mạng cơng nghiệp lần hai.
Khóa luận này muốn dùng các phân tích cụ thể một mơ hình tăng trưởng
và phát triển kinh tế trong kinh tế học phát triển để minh họa chi tiết sự
vận động của quy luật "lượng-chất" phản ảnh trong quá trình đi lên của
nền kinh tế đang phát triển. Khóa luận được tổ chức thành 4 nội dung: 1)
Trình bày sơ lược về mối quan hệ 'lượng-chất' trong tinh thần triết học
của Marx-Angels, 2) Vận dụng mối quan hệ lượng chất trong Cách mạng
Việt Nam, 3) Trình bày cụ thể các thuộc tính của tăng trưởng và phát
triển kinh tế trong mối quan hệ "lượng-chất" của quá trình chuyển đổi

một nền kinh tế theo chiều hướng phát triển, 4) Kết luận.

Voõ Thị Thuỳ Linh

Trang 2


Khoa Đào Tạo sau Đại Học - Lớp cao học ñeâm 6 – K16

I. PHẠM TRÙ CHẤT VÀ LƯỢNG
1. Chất là phạm trù triết học dùng để chỉ tính qui định khách quan vốn
có cuả sự vật, là sự thống nhất hữu cơ của những thuộc tính làm cho sự vật nó
là nó chứ khơng phải là cái khác.
Thuộc tính của sự vật là những tính chất, những trạng thái, những yếu tố
cấu thành sự vật, … đó là những cái vốn có cuả sự vật từ khi sự vật được sinh
ra hoặc hình thành trong sự vận động và phát triển cuả nó. Tuy nhiên thuộc
tính chỉ được bộc lộ ra thông qua sự tác động qua lại với các sự vật, hiện tượng
khác. Chất bộc lộ thông qua thuộc tính, nhưng chất và thuộc tính khơng phải
có ý nghiã như nhau. Chất là đặc điểm hoàn chỉnh cuả sự vật hay hiện tượng,
cịn thuộc tính chỉ đứng về một mặt nào đó mà vạch rõ sự vật hay hiện tượng.
Do vậy, chỉ có những thuộc tính cơ bản tổng hợp lại tạo thành chất cuả sự vật.
Chất phản ánh bản chất cuả sự vật và hiện tượng, nó liên hệ khắng khít với một
hình thức ổn định nào đó cuả vận động hay cuả nhiều sự vận động. Khi thuộc
tính căn bản thay đổi thì chất cuả sự vật thay đổi. Chất là sự tổng hợp cuả
nhiều thuộc tính, đồng thời mỗi thuộc tính lại được coi là một chất khi được
xem xét trong một quan hệ khác. Mỗi sự vật vừa có một chất nhưng cũng có
thể có nhiều chất, chất cuả sự vật hay hiện tượng lộ ra trong sự tác động lẫn
nhau với sự vật hay hiện tượng khác. Chất không tồn tại độc lập, tách rời với
bản thân sự vật hay hiện tượng. Ph.Ăngghen nói : “chất khơng tồn tại, mà chỉ
có sự vật có chất mới tồn tại”. Chất vạch rõ giới hạn phân chia sự vật và hiện

tượng này với sự vật và hiện tượng khác. Chất là thuộc tính khách quan cuả sự
vật và hiện tượng. Trái với các hệ thống triết học duy tâm và siêu hình coi chất
là một phạm trù chủ quan, phụ thuộc vào cảm giác con người, chủ nghiã duy
vật biện chứng cho rằng, chất cũng là hiện thực khách quan giống như bản thân
vật chất đang vận động vậy. Chất cuả sự vật và hiện tượng còn được qui định
bởi phương thức liên kết giữa các yếu tố tạo thành, nghiã là bởi kết cấu cuả sự
vật.
2. Lượng là phạm trù triết học dùng để chỉ tính qui định vốn có cuả sự
vật về mặt số lượng, qui mơ, trình độ, nhịp điệu cuả sự vận động và phát triển
cũng như các thuộc tính cuả sự vật.
Lượng cũng như chất, nó tồn tại khách quan và không tách rời bản thân,
sự vật, hiện tượng. Lượng cuả sự vật chưa nói lên sự khác nhau giữa nó với sự
vật khác, mà lượng biểu thị kích thước dài hay ngắn, số lượng nhiều hay ít, qui
mơ lớn hay nhỏ, trình độ cao hay thấp, nhịp điệu nhanh hay chậm… Tính qui
định về lượng cũng phong phú như tính qui định về chất; mỗi thứ đều theo các
mặt khác nhau mà phản ánh các hình thức đa dạng cuả vật chất đang vận động.
Lượng cuả sự vật được biểu thị bằng con số (nhà cao 5 tầng); có trường hợp
lượng biểu thị dưới dạng trừu tượng và khái quát (trình độ nhận thức, ý thức
trách nhiệm cao hay thấp cuả một cơng nhân); có trường hợp lượng là nhân tố
bên trong cuả sự vật (1 phân tử oxy (O2) do 2 nguyên tử oxy hợp thành); có
trường hợp phát triển lượng là nhân tố bên ngoài cuả sự vật (chiều dài, chiều
Võ Thị Thuỳ Linh

Trang 3


Khoa Đào Tạo sau Đại Học - Lớp cao học ñeâm 6 – K16

rộng, chiều cao cuả sự vật). Sự phân biệt chất và lượng cuả sự vật và hiện
tượng chỉ mang tính tương đối, chúng có thể chuyển hố cho nhau khi thay đổi

quan hệ, có những tính qui định trong mối quan hệ này là chất cuả sự vật, song
trong mối quan hệ khác lại biểu thị lượng cuả sự vật và ngược lại.
3. Mối quan hệ biện chứng giữa chất và lượng
Bất kỳ sự vật hiện tượng nào của là sự thống nhất biện chứng giữa chất
và lượng. Sự thống nhất hưũ cơ ấy giữa tính qui định về chất và tính qui định
về lượng gọi là độ cuả sự vật hay hiện tượng.
Độ là phạm trù triết học chỉ sự thống nhất giữa chất và lượng, độ là giới
hạn mà trong đó sự thay đổi về lượng của sự vật chưa làm thay đổi căn bản về
chất của sự vật ấy. Trong độ, sự vật vẫn cịn là nó chứ chưa biến thành cái
khác. Tại điểm giới hạn mà sự thay đổi về lượng đã đủ làm thay đổi về chất
của sự vật được gọi là điểm nút.
Điểm nút là phạm trù triết học dùng để chỉ thời điểm mà tại đó sự thay
đổi về lượng đã đủ làm thay đổi về chất của sự vật. Quá trình biến đổi về chất
của sự vật được gọi là bước nhảy.
Bước nhảy là phạm trù triết học dùng để chỉ sự chuyển hóa về chất của
sự vật do sự thay đổi về lượng của sự vật trước đó gây nên.
Các nhà triết học siêu hình đã phủ nhận sự tồn tại thực tế những bước
nhảy, do họ tuyệt đối hóa tính tiệm tiến, tính dần dần của sự thay đổi về lượng.
Ph.hêghen đã phê phán quan điểm đó và cho rằng, tính tiệm tiến chỉ là sự thay
đổi về lượng, tức là cái đối lập với sự thay đổi về chất. Chỉ bằng phạm trù tính
tiệm tiến thì khơng thể giải thích được sự xuất hiện của chất mới. Ông cho rằng
bất kỳ sự thay đổi nào về chất cũng là sự đứt đọan của tiệm tiến về lượng, đó là
bước nhảy. Cũng về điểm này, V.I.Lênin nhấn mạnh :”Tính tiệm tiến mà
khơng có bước nhảy vọt thì khơng giải thích được gì cả”. Bước nhảy là sự kết
thúc một giai đọan phát triển của sự vật và là khởi đầu của một giai đọan phát
triển mới. Nó là sự gián đọan trong quá trình vận động phát triển liên tục của
sự vật.
Như vậy, sự phát triển của bất kỳ sự vật nào cũng bắt đầu sự tích lũy về
lượng trong độ nhất định cho tới điểm nút để thực hiện bước nhảy về chất.
Song điểm nút không cố định mà có thể thay đổi do tác động của điều kiện

khách quan và chủ quan qui định. Nghĩa là, muốn có chất mới trước hết phải
tích lũy về lượng đến độ cho phép, để chuyển sang chất mới. Ví dụ, muốn trở
thành cử nhân kinh tế , trước hết phải tích lũy kiến thức chun mơn ở trường
Đại học Kinh tế trong 4 năm, thi tốt nghiệp chính là điểm nút chuyển từ chất
“sinh viên” thành chất mới “cử nhân kinh tế”.
Chất mới ra đời có thể làm thay đổi qui mô, nhịp điệu của sự vận động
và phát triển; nghĩa là tạo điều kiện lượng mới xuất hiện. Ví dụ, khi chất lỏng
chuyển sang chất hơi làm cho tốc độ vận động hơi nứơc nhanh hơn, thể tích
hơi nước lớn hơn, độ hịa tan khác với trước….

Võ Thị Thuỳ Linh

Trang 4


Khoa Đào Tạo sau Đại Học - Lớp cao học ñeâm 6 – K16

Quy luật những thay đổi về lượng thành thay đổi về chất có mặt ở mọi
lĩnh vực, thí dụ :
Trong hóa học
O + O ->O2
CH4 + CH2 -> C2H6 (mêtan) + CH2 -> C3H8 (propan) + CH2 -> C4H10 (butan)
Trong tóan học
Có một hình chữ nhật, người ta có thể tăng và giảm chiều rộng. Nhưng
sự tăng và giảm phải trong giới hạn nhất định thì nó vẫn cịn là hình chữ nhật.
Nếu tăng chiều rộng bằng chiều dài thì hình chữ nhật sẽ biến thành hình vuông
– chất sẽ biến đổi. Hoặc giảm chiều rộng bằng 0 thình hình chữ nhật sẽ biến
thành đường thẳng.
Trong thực tiễn cách mạng, quá trình chuyển biến của các phong trào
cách mạng Việt Nam là quá trình thay đổi về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất

: từ phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh (1930-1931) đến phong trào dân chủ chống
phát xít (1936-1939) đến cao trào giải phóng dân tộc (1939-1945) và Cách
Mạng tháng 8 năm 1945 là cuộc thắng lợi vĩ đại của dân tộc.
Trong lĩnh vực sản xuất, công nhân nghiên cứu làm ra sản phẩm lần I,
rút kinh nghiệm quá trình nghiên cứu làm ra sản phẩm lần thứ II chất lượng tốt
hơn. Nếu công nhân chịu đầu tư nghiên cứu cứ thế liên tục cho ra đời sản phẩm
lần sau bao giờ cũng chất lượng và đa dạng hơn lần đầu.
4. Các hình thức cơ bản của bước nhảy
– Sự thay đổi về chất của sự vật hiện tượng hết sức đa dạng và phong
phú với nhiều hình thức khác nhau. Có thể qui thành hai hình thức cơ
bản : bước nhảy đột biến và bước nhảy dần dần.
 Bước nhảy đột biến là bước nhảy thực hiện trong thời gian rất ngắn
làm thay đổi chất của tòan bộ kết cấu cơ bản của sự vật.
 Bước nhảy dần dần là bước nhảy được thực hiện từ từ, từng bước
bằng cách tích lũy dần dần những nhân tố của chất mới và mất đi dần
dần những nhân tố của chất cũ. Bước nhảy dần dần khác với sự thay
đổi dần dần về lượng của sự vật. Bước nhảy dần dần là sự chuyển
hóa dần dần từ chất này sang chất khác, còn sự thay đối dần dần về
lượng là sự tích lũy về lượng để đến một giới hạn nhất định sẽ
chuyển hóa về chất. Bước nhảy đột biến không phải là ngẫu nhiên,
mà diễn ra hợp qui luật.
– Căn cứ vào qui mô thực hiện bước nhảy của sự vật có bước nhảy
tịan bộ và bước nhảy cục bộ.
 Bước nhảy tòan bộ là bước nhảy làm thay đổi chất của tòan bộ các
mặt. các yếu tố cấu thành sự vật.
 Bước nhảy cục bộ là bước nhảy làm thay đổi chất của những mặt,
những yếu tố riêng lẻ của sự vật và hiện tượng.

Võ Thị Thuỳ Linh


Trang 5


Khoa Đào Tạo sau Đại Học - Lớp cao học ñeâm 6 – K16

– Khi xem xét sự thay đổi về chất của xã hội người ta còn phân chia sự
thay đổi đó ra thành thay đổi có tính chất cách mạng và thay đổi có
tính tiến hóa.
 Cách mạng là sự thay đổi mà trong q trình đó diễn ra sự cải tạo căn
bản về chất của sự vật, khơng phụ thuộc vào sự cải tạo đó diễn ra như
thế nào (đột biến hay dần dần)
 Tiến hóa là sự thay đổi về lượng cùng với những biến đổi nhất định
về chất, nhưng là chất không căn bản của sự vật.
Tóm lại, nội dung của qui luật chuyển hóa từ những thay đổi về lượng
thành những thay đổi về chất và ngược lại như sau : Bất kỳ sự vật nào cũng là
sự thống nhất giữa chất và lượng, sự thay đổi dần dần về lượng trong khuôn
khổ của độ tới điểm, nút sẽ dẫn đến sự thay đổi về chất của sự vật thông qua
bước nhảy; chất mới ra đời tác động trở lại sự thay đổi của lượng mới. Q
trình tác động đó diễn ra liên tục làm cho sự vật không ngừng phát triển, biến
đổi.
5. Ý nghĩa phương pháp luận
Từ những hiểu biết này ta có thể diễn dịch thành các kinh nghiệm ứng xử trong
thực tế như sau:
– Phải biết tích lũy về lượng để làm biến đổi về chất của sự vật. Trong
họat động nhận thức và thực tiễn ai cũng biết rằng muốn có chất mới thì phải
tích lũy về lượng đến độ cho phép sẽ chuyển sang chất mới. Tuy nhiên, vấn đề
là ở chỗ biết cách tích lũy về lượng, nghĩa là khơng được nơn nóng, chủ quan
khi chưa có sự tích lũy về lượng đến độ chín đã muốn thực hiện bước nhảy.
– Phải có quyết tâm tiến hành bước nhảy. Nghĩa là luôn chống tư tưởng
bảo thủ, chờ đợi khơng dám thực hiện bước nhảy khi đã có sự tích lũy đầy đủ

về lượng, hoặc kéo dài sự tích lũy, chỉ nhấn mạnh đến sự biến đổi dần dần về
lượng, .. sẽ kèm hãm sự phát triển của sự vật và hiện tượng.
– Phải biết vận dụng linh họat các hình thức bước nhảy trong cuộc
sống. Sự vận dụng linh họat các hình thức của bước nhảy tùy thuộc vào việc
phân tích đúng đắn những điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan cũng như
sự hiểu biết quy luật này. Tùy theo từng trường hợp cụ thể, từng điều kiện cụ
thể, tùy quan hệ cụ thể để lựa chọn hình thức bước nhảy cho phù hợp để đạt tới
chất lượng và hiệu quả cao trong họat động của mình.
II. VẬN DỤNG QUI LUẬT QUAN HỆ LƯỢNG – CHẤT TRONG THỰC
TIỄN CÁCH MẠNG VIỆT NAM
– Trong cách mạng chống thực dân đế quốc, Đảng ta đã nắm được qui
luật của sự biến đổi, vận dụng lý luận đó vào thực tiễn. Chúng ta phải xây
dựng lực lượng cách mạng dần dần, từ nhỏ đến lớn, từ những trận đánh nhỏ
đến trận đánh lớn, từ trận đánh được kích đến đánh chính quy. Q trình phát
triển của phong trào cách mạng được biến đổi dần dần. Trong kháng chiến

Võ Thị Thuyø Linh

Trang 6


Khoa Đào Tạo sau Đại Học - Lớp cao học ñeâm 6 – K16

chống thực dân Pháp (1946-1954) chúng ta đã lớn dần về các mặt quân sự,
chính trị và ngoại giao. Ví dụ, từ chiến thắng Việt Bắc thu Đơng (1947), chiến
thắng biên giới (1950), chiến thắng Hịa Bình –Tây Bắc (1952-1953) cho đến
chiến thắng Điện Biên Phủ (1954) làm chấn động địa cầu.
– Sự biến đổi dần dần về quân sự đã tạo ra sự biến đổi về chất. Thực
dân Pháp phải đầu hàng. Hịa bình lập lại ở Đơng Dương, miền Bắc hồn tồn
giải phóng. Đất nước ta bước sang giai đọan mới thay đổi hẳn về chất.

– Cũng lý giải như vậy, cuộc kháng chiến chống Mỹ ở Miền Nam cũng
là một quá trình biến đổi về lượng. Từ chiến thắng chiến tranh đặc biệt (19611965) đến chiến tranh cục bộ (1965-1968). Từ chiến tranh cục bộ chúng ta đã
chiến thắng chiến lược Việt Nam hóa chiến tranh và Đơng Dương hóa (19691973) của Đế quốc Mỹ và cuối cùng chúng ta đã mở chiến dịch tổng tiến công
và nổi dậy mùa xuân năm 1975 giải phóng Miền Nam, đỉnh cao của nó là
chiến dịch Hồ Chí Minh (30.04.1975)
– Ngày nay trong cơng cuộc đổi mới xây dựng nền kinh tế đất nước,
chúng ta cũng ứng dụng phương pháp luận của qui luật lượng chất.
– Quá trình phát triển nền kinh tế đất nước trong giai đọan hiện nay
khơng thể nóng vội. Phải xây dựng cơ sở vật chất từ đầu, phải tích lũy và vận
dụng sức mạnh của của tòan dân, của các nguồn lực kinh tế đất nứơc, nông
nghiệp, công nghiệp, thủy sản, năng lượng dầu khí, được lịch, dịch vụ,…. tất
cả tạo nên sức mạnh to lớn của nền kinh tế quốc dân. Chính vì vậy, nền kinh tế
nước ta hiện nay đã được những thành tựu to lớn.
Kết luận : Quy luật chuyển hóa từ những thay đổi về lượng thành những
thay đổi về chất và ngược lại chỉ rõ cách thức vận động, phát triển của sự vật
hiện tượng.
II. MỐI QUAN HỆ LƯỢNG - CHẤT TRONG TĂNG TRƯỞNG VÀ
PHÁT TRIỂN KINH TẾ
Trong giai đoạn phát triển vừa qua Việt Nam đã đạt được kết quả
tương đối cao về tăng trưởng kinh tế. Có thể thấy tính bền vững của tăng
trưởng hay chất lượng tăng trưởng ngày càng được quan tâm nhiều hơn và
nâng cao chất lượng tăng trưởng là một mục tiêu quan trọng của chính sách
tăng trưởng và chính sách phát triển ở Việt Nam.
Nghiên cứu khía cạnh “chất“ và “lượng” của tăng trưởng là một lĩnh vực
mới ở Việt nam.
Chúng ta biết rằng qui mô của một nền kinh tế được thể hiện qua tổng
sản phẩm quốc nội (GDP) hoặc tổng sản phẩm quốc gia (GNP), hoặc tổng sản
phẩm bình quân đầu người hoặc thu nhập bình quân đầu người (Per Capita
Income, PCI). Trong đó, (i) Tổng sản phẩm quốc nội (Gross Domestic
Products, GDP) hay tổng sản sản phẩm trong nước là giá trị tính bằng tiền của

tất cả sản phẩm và dịch vụ cuối cùng được sản xuất, tạo ra trong phạm vi một

Võ Thị Thuỳ Linh

Trang 7


Khoa Đào Tạo sau Đại Học - Lớp cao học ñeâm 6 – K16

nền kinh tế trong một thời gian nhất định (thường là một năm tài chính), (ii)
Tổng sản phẩm quốc gia (Gross National Products, GNP) là giá trị tính bằng
tiền của tất cả sản phẩm và dịch vụ cuối cùng được tạo ra bởi công dân một
nước trong một thời gian nhất định (thường là một năm), và (iii) Tổng sản
phẩm quốc dân bằng tổng sản phẩm quốc nội cộng với thu nhập rịng. Tổng
sản phẩm bình qn đầu người là tổng sản phẩm quốc nội chia cho dân số.
Tổng thu nhập bình quân đầu người là tổng sản phẩm quốc gia chia cho dân số.
Người ta định nghĩa sự tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng của GDP hoặc GNP
hoặc thu nhập bình quân đầu người trong một thời gian nhất định. Tăng trưởng
kinh tế thể hiện sự thay đổi về lượng của nền kinh tế. Tuy vậy ở một số quốc
gia, mức độ bất bình đẳng kinh tế tương đối cao nên mặc dù thu nhập bình
quân đầu người cao nhưng nhiều người dân vẫn sống trong tình trạng nghèo
khổ. Chính điều này khiến cho chỉ số tăng trưởng kinh tế chưa thể dùng để
đánh giá sự phát triển của một nền kinh tế. Sự phát triển của một nền kinh tế
phải là sư thay đổi toàn diện về mặt xã hội theo chiều hướng tốt hơn mà trong
đó tăng trưởng kinh tế là một nhân tố quan trọng.
Như vậy phát triển kinh tế sẽ mang nội hàm rộng hơn tăng trưởng kinh tế. Nó
bao gồm tăng trưởng kinh tế cùng với những thay đổi về chất của nền kinh tế
(như phúc lợi xã hội, tuổi thọ, v.v.) và những thay đổi về cơ cấu kinh tế (giảm
tỷ trọng của khu vực sơ khai, tăng tỷ trọng của khu vực chế tạo và dịch vụ).
Phát triển kinh tế là một q trình hồn thiện về mọi mặt của nền kinh tế bao

gồm kinh tế, xã hội, môi trường, thể chế trong một thời gian nhất định nhằm
đảm bảo rằng GDP cao hơn đồng nghĩa với mức độ hạnh phúc hơn.
Để định lượng mức độ của tăng trưởng kinh tế người ta dùng mức tăng trưởng
tuyệt đối, tốc độ tăng trưởng kinh tế hoặc tốc độ tăng trưởng bình quân hàng
năm trong một giai đoạn. Trong đó (i) {mức tăng trưởng tuyệt đối} là mức
chênh lệch quy mô kinh tế giữa hai kỳ cần so sánh, (ii) {tốc độ tăng trưởng
kinh tế} được tính bằng cách lấy chênh lệch giữa quy mô kinh tế kỳ hiện tại so
với quy mô kinh tế kỳ trước chia cho quy mô kinh tế kỳ trước. Tốc độ tăng
trưởng kinh tế được thể hiện bằng đơn vị \%. Biểu diễn bằng tốn học, sẽ có
cơng thức:
y = dY/Y x 100 (%),
trong đó Y là qui mơ của nền kinh tế, và y là tốc độ tăng trưởng. Nếu quy mô
kinh tế được đo bằng GDP (hay GNP) danh nghĩa, thì sẽ có tốc độ tăng trưởng
GDP (hoặc GNP) danh nghĩa. Cịn nếu quy mơ kinh tế được đo bằng GDP
(hay GNP) thực tế, thì sẽ có tốc độ tăng trưởng GDP (hay GNP) thực tế. Thông
thường, tăng trưởng kinh tế dùng chỉ tiêu thực tế hơn là các chỉ tiêu danh
nghĩa.
Tổng hợp từ các mơ hình tăng trưởng kinh tế ta có thể thấy có bốn nhân tố cơ
bản dẫn đến sự tăng trưởng của một nền kinh tế như sau:
Võ Thị Thuỳ Linh

Trang 8


Khoa Đào Tạo sau Đại Học - Lớp cao học đêm 6 – K16

• Nguồn nhân lực: chất lượng đầu vào của lao động tức là kỹ năng, kiến
thức và kỷ luật của đội ngũ lao động là yếu tố quan trọng nhất của tăng
trưởng kinh tế. Hầu hết các yếu tố khác như tư bản, nguyên vật liệu,
công nghệ đều có thể mua hoặc vay mượn được nhưng nguồn nhân lực

thì khó có thể làm điều tương tự. Các yếu tố như máy móc thiết bị,
nguyên vật liệu hay cơng nghệ sản xuất chỉ có thể phát huy được tối đa
hiệu quả bởi đội ngũ lao động có trình độ văn hóa, có sức khỏe và kỷ
luật lao động tốt. Thực tế nghiên cứu các nền kinh tế bị tàn phá sau
Chiến tranh thế giới lần thứ II cho thấy mặc dù hầu hết tư bản bị phá hủy
nhưng những nước có nguồn nhân lực chất lượng cao vẫn có thể phục
hồi và phát triển kinh tế một cách ngoạn mục. Một ví dụ là nước Đức,
"một lượng lớn tư bản của nước Đức bị tàn phá trong Đại chiến thế giới
lần thứ hai, tuy nhiên vốn nhân lực của lực lượng lao động nước Đức
vẫn tồn tại. Với những kỹ năng này, nước Đức đã phục hồi nhanh chóng
sau năm 1945. Nếu khơng có số vốn nhân lực này thì sẽ khơng bao giờ
có sự thần kỳ của nước Đức thời hậu chiến."
• Nguồn tài nguyên thiên nhiên: là một trong những yếu tố sản xuất cổ
điển, những tài nguyên quan trọng nhất là đất đai, khoáng sản, đặc biệt
là dầu mỏ, rừng và nguồn nước. Tài nguyên thiên nhiên có vai trị quan
trọng để phát triển kinh tế, có những nước được thiên nhiên ưu đãi một
trữ lượng dầu mỏ lớn có thể đạt được mức thu nhập cao gần như hồn
tồn dựa vào đó như ả rập Xê út. Tuy nhiên, các nước sản xuất dầu mỏ
là ngoại lệ chứ không phải quy luật, việc sở hữu nguồn tài nguyên thiên
nhiên phong phú không quyết định một quốc gia có thu nhập cao. Nhật
Bản là một nước gần như khơng có tài ngun thiên nhiên nhưng nhờ
tập trung sản xuất các sản phẩm có hàm lượng lao động, tư bản, cơng
nghệ cao nên vẫn có nền kinh tế đứng thứ hai trên thế giới về quy mơ.
• Tư bản: là một trong những nhân tố sản xuất, tùy theo mức độ tư bản
mà người lao động được sử dụng những máy móc, thiết bị...nhiều hay ít
(tỷ lệ tư bản trên mỗi lao động) và tạo ra sản lượng cao hay thấp. Để có
được tư bản, phải thực hiện đầu tư nghĩa là hy sinh tiêu dùng cho tương
lai. Điều này đặc biệt quan trọng trong sự phát triển dài hạn, những quốc
gia có tỷ lệ đầu tư tính trên GDP cao thường có được sự tăng trưởng cao
và bền vững. Tuy nhiên, tư bản không chỉ là máy móc, thiết bị do tư

nhân dầu tư cho sản xuất nó cịn là tư bản cố định xã hội, những thứ tạo
tiền đề cho sản xuất và thương mại phát triển. Tư bản cố định xã hội
thường là những dự án quy mô lớn, gần như không thể chia nhỏ được và
nhiều khi có lợi suất tăng dần theo quy mơ nên phải do chính phủ thực
hiện. Ví dụ: hạ tầng của sản xuất (đường giao thông, mạng lưới điện
quốc gia...), sức khỏe cộng đồng, thủy lợi....
• Cơng nghệ: trong suốt lịch sử loài người, tăng trưởng kinh tế rõ ràng
không phải là sự sao chép giản đơn, là việc đơn thuần chỉ tăng thêm lao
động và tư bản, ngược lại, nó là q trình khơng ngừng thay đổi cơng
Võ Thị Thuỳ Linh

Trang 9


Khoa Đào Tạo sau Đại Học - Lớp cao học đêm 6 – K16

nghệ sản xuất. Cơng nghệ sản xuất cho phép cùng một lượng lao động
và tư bản có thể tạo ra sản lượng cao hơn, nghĩa là quá trình sản xuất có
hiệu quả hơn. Cơng nghệ phát triển ngày càng nhanh chóng và ngày nay
cơng nghệ thơng tin, cơng nghệ sinh học, cơng nghệ vật liệu mới... có
những bước tiến như vũ bão góp phần gia tăng hiệu quả của sản xuất.
Tuy nhiên, thay đổi công nghệ không chỉ thuần túy là việc tìm tịi,
nghiên cứu; cơng nghệ có phát triển và ứng dụng một cách nhanh chóng
được là nhờ "phần thưởng cho sự đổi mới" - sự duy trì cơ chế cho phép
những sáng chế, phát minh được bảo vệ và được trả tiền một cách xứng
đáng.
Các chỉ tiêu đo lường mức tăng trưởng kinh tế thường được sử dụng làm thước
đo trình độ phát triển nền kinh tế một cách cụ thể, dễ hiểu và nó trở thành mục
tiêu phấn đấu của một chính phủ vì nó là tiêu chí để người dân đánh giá hiệu
quả điều hành đất nước của chính phủ.

Nhưng tăng trưởng kinh tế khơng phản ảnh được chính xác phúc lợi của các
nhóm dân cư khác nhau trong xã hội, chênh lệch giàu nghèo có thể tăng lên,
chênh lệch giữa nơng thơn và thành thị có thể tăng cao và bất bình đẳng xã hội
cũng có thể tăng. Tăng trưởng có thể cao nhưng chất lượng cuộc sống có thể
khơng tăng, mơi trường có thể bị hủy hoại, tài nguyên bị khai thác quá mức,
cạn kiệt, nguồn lực có thể sử dụng khơng hiệu quả, lãng phí.
Chính vì vậy, tăng trưởng kinh tế chỉ đóng vai trị làm điều kiện tiền đề cho
phát triển kinh tế, là cơ sở để cải thiện phúc lợi xã hội, là con đường tất yếu để
giảm khoảng cách giữa các quốc gia.
Một nền kinh tế được gọi là phát triển thì phải giải quyết được bốn vấn đề cơ
bản sau đây: (i) Sự tăng trưởng kinh tế phải được duy trì ổn định trong một
thời gian dài, (ii) Cơ cấu kinh tế phải có sự thay đổi về cơ bản: thể hiện ở tỷ
trọng các vùng, miền, ngành, thành phần kinh tế..., trong đó tỷ trọng của vùng
nông thôn giảm tuơng đối so với tỷ trọng vùng thành thị, tỷ trọng các ngành
dịch vụ, công nghiệp tăng, đặc biệt là nghành dịch vụ, (iii) Cuộc sống của đại
bộ phận dân số trong xã hội sẽ trở lên tươi đẹp hơn: giáo dục, y tế, tinh thần
của người dân được chăm lo nhiều hơn, (iv) Môi trường sinh thái tự nhiên và
môi trường sống của con người dân phải được đảm bảo.
Phát triển kinh tế là một q trình lâu dài và có thể phân chia thành ra những
giai đoạn phát triển từ thấp tới cao. Theo Rostow thì q trình này có thể được
chia thành 5 gian đoạn cơ bản như sau:
• Xã hội truyền thống, ở đó ngành nơng nghiệp giữ vai trị thống trị trong
nền kinh tế, sự họat động của nền kinh tế chưa đa dạng, cơ sở vật chất
và trình độ cơng nghệ thấp kém, năng suất lao động thấp.
Võ Thị Thuỳ Linh

Trang 10


Khoa Đào Tạo sau Đại Học - Lớp cao học đêm 6 – K16


• Chuẩn bị cất cánh, giai đoạn này là sự kết hợp phát triển song song cả
khu vực kinh tế truyền thống nông nghiệp và khu vực kinh tế hiện đại
gồm công nghiệp-xây dựng, thương mại-dịch vụ. Bên cạnh đó sẽ có sự
xuất hiện giới chủ doanh nghiệp, những có khả năng lĩnh hội cơng nghệ
và điều hành. Cơ cấu ngành của giai đoạn này sẽ là nơng-cơng nghiệp.
• Cất cánh, đây là thời kỳ của các ngành kinh tế mủi nhọn có tác động
thúc đẩy nhanh tăng trưởng nền kinh tế, thông qua tác động dây chuyền
đến các ngành khác phát triển. Bên cạnh đó giới chủ doanh nghiệp có
khả năng thay đổi phương pháp sản xuất và ứng dụng công nghệ mới
vào sản xuất. Tỷ lệ đầu tư trong giai đọan nầy ít nhất 10\%. Cơ sở hạ
tầng phát triển nhanh, thể chế chính trị-xã hội đảm bảo thúc đẩy mạnh
mẽ sự phát triển kinh tế. Cơ cấu ngành của giai đoạn này là công
nghiệp-nông nghiệp-dịch vụ.
• Trưởng thành kỹ thuật, ở giai đoạn này các ngành công nghiệp nặng
hiện đại chủ yếu như luyện kim, hóa chất, điện phát huy tác dụng. Tỷ lệ
đầu tư trong giai đọan nầy ở mức 20\%. Các chủ doanh nghiệp tham gia
vào quản lý nhà nước. Cơ cấu ngành bây giờ sẽ là công nghiệp-dịch vụnông nghiệp. Cơ cấu kinh tế-xã hội có sự thay đổi theo hướng cả đời
sống vật chất và tinh thần người dân được nâng cao.
• Tiêu dùng ở mức cao, ở giai đoạn này thu nhập bình quân đầu người
tăng nhanh, dân cư giàu có, tăng nhu cầu tiêu dùng hàng hóa và dịch vụ
cao cấp. Nhu cầu cơ bản của đại bộ phận dân cư dân được đáp ứng. Cơ
cấu dân cư, lao động thay đổi theo hướng: tăng tỷ lệ dân cư thành thị,
tăng tỷ lệ lao động có trình độ chuyên môn cao. Cơ cấu ngành là cơ cấu
công nghiệp-dịch vụ.
Như vậy, ta có thể thấy rằng trong từng thời kỳ của quá trình phát triển của
một nền kinh tế ln có mặt của sự tăng trưởng kinh tế ở các mức độ khác
nhau định lượng cho giai đoạn phát triển tương ứng. Tuy nhiên, bên cạnh đó là
các thay đổi trong cơ cấu ngành nghề, cơ cấu kinh tế-xã hội, cơ cấu dân cư
cùng với các chỉ tiêu dân sinh nhằm đảm bảo duy trì lâu dài sự tăng trưởng

kinh tế. Một cách khác quan, sự tăng trưởng kinh tế bản thân nó đã tạo ra các
trạng thái xã hội mới thể hiện qua hình thức lao động, quan hệ giữa người lao
động và giới chủ, cách phân chia lợi nhuận từ sản xuất... Sự có mặt của các học
thuyết thực chất chỉ có vai trị nhận dạng sự thay đổi của các trạng thái xã hội
đó nhằm giúp các nhà hoạch định chính sách có cơ sở để định hướng sự tăng
trưởng kinh tế theo chiều hướng tốt nhất đảm bảo các tiêu chí của một sự phát
triển.
Nói như vậy, có nghĩa là chỉ tồn tại trong thực tế hai thực tại khách
quan trong quá trình chuyển đổi từ một nền kinh tế truyền thống lạc hậu
sang một nền kinh tế hiên đại và phát triển, đó là sự tăng trưởng kinh tế
như một chỉ tiêu định lượng của qúa trình chuyển đổi và tiêu chuẩn đánh
dấu sự thay đổi hoàn toàn về bản chất của một nền kinh tế. Thực tế này
Võ Thị Thuỳ Linh

Trang 11


Khoa Đào Tạo sau Đại Học - Lớp cao học đêm 6 – K16

cho thấy, q trình phát triển của một nền kinh tế khơng nằm ngồi quy
luật chuyển đổi "lượng-chất" theo tinh thần của triết học Marx-Angels.
Theo đó, tăng trưởng kinh tế dẫn đến sự tích lũy dần các yếu tố xã hội mới
bao gồm nguồn nhân lực mới, tư bản, công nghệ, và những hệ quả dẫn sự
thay đổi cơ cấu ngành nghề, cơ cấu kinh tế-xã hội, cơ cấu dân cư, cũng
như các điều kiện đãm bảo một mức sống cao cho dân cư của một xã hội
phát triển. Trong từng giai đoạn của quá trình phát triển, các tích lũy từ
sự tăng trưởng kinh tế tương ứng, trong chừng mực nào đó, đã dẫn đến
những buớc nhảy cục bộ. Khi tấc cả các yếu tố xã hội này được thỏa mãn
một buớc nhảy toàn bộ đã xãy ra và một trạng thái xã hội tương ứng đã
hình thành với sự thay đổi tồn diện về mặt bản chất đối với trạng thái xã

hội của nền kinh tế cũ. Sự phát triển kinh tế từ hai cuộc cách mạng công
nghiệp vừa qua đã làm một một buớc nhảy mang tính cách mạng trong sự
thay đổi về cơ cấu của xã hội, trong đó một nền kinh tế giản đơn, quy mô
nhỏ, dựa trên lao động chân tay được thay thế bằng một nền kinh tế hiện
đại với quy mô công nghiệp dựa trên sức mạnh của máy móc và trình độ
quản lý, điều hành sản suất ở mức cao, được hệ thống hóa và ln được
cải tiến theo chiều hướng tối ưu từ kinh nghiệm thực tế. Một nền kinh tế
mới ra đời với mức độ phát triển cao hơn cho phép các tăng trưởng kinh
tế cũng diễn ra ở một cấp độ cao hơn và bắt đầu cho một sự tích lũy các
yếu tố xã hội mới. Và như vậy ta có thể nói q trình chuyển đổi từ một
nền kinh tế kém phát triển sang một nền kinh tế phát triển hơn phản ánh
chính xác quy luật chuyển hóa từ những thay đổi về lượng dẫn đến thay
đổi về chất và ngược lại.

Võ Thị Thuỳ Linh

Trang 12


Khoa Đào Tạo sau Đại Học - Lớp cao học ñeâm 6 – K16

KẾT LUẬN

Như vậy, từ những hiểu biết tổng quan về quy luật chuyển hóa về những thay
đổi về lượng dẫn đến thay đổi về chất và ngược lại diễn dịch thành các kinh
nghiệm ứng xử trong thực tế đã được nêu ra trong phần cuối của nội dung 1
của khóa luận. Trong nội dung 3, khái niệm của tăng trưởng và phát triển trinh
tế cũng như các thuộc tính của nó đã được trình bày tương đối chi tiết, từ đó
cho phép thấy ta có thể rõ bản chất của quá trình phát triển của một nền kinh
tế. Trong mối quan hệ "lượng-chất" theo tinh thần của quy luật chuyển đổi

"lượng-chất" của triết học Mark-Angels, ta có thể thấy rằng tăng trưởng và
phát triển kinh tế là hai thực tại khách quan của quy luật trong đó tăng trưởng
giữ vai trị định lượng của q trình chuyển đổi và là nhân tố chính dẫn đến sự
thay đổi hoàn toàn về chất của một nền kinh tế, một sự phát triển của nền kinh
tế đó.

Võ Thị Thuỳ Linh

Trang 13



×