Tải bản đầy đủ (.docx) (33 trang)

TIỂU LUẬN môn CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN đô THỊ phát triển đô thị bền vững và chính sách phát triển đô thị bền vững ở việt nam trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (279.71 KB, 33 trang )

MỞ ĐẦU
Trong quá trình phát triển của các quốc gia trên thế giới từ nền kinh tế
sản xuất nhỏ lẻ, kém phát triển sang nền kinh tế sản xuất phát triển cao với sự
phát triển của tất cả mọi mặt của đời sống kinh tế xã hội trong mỗi quốc gia.
Trong quá trình phát triển nền kinh tế, tiến hành công nghiệp hóa và hiện đại
hóa nền kinh tế thì bất kỳ mỗi quốc gia nào trong tiến trình phát triển của đất
nước mình đều gặp phải những vấn đề trong quy hoạch phát triển đô thị để có
thể đáp ứng được sự phát triển nhanh chóng nhu cầu của nền kinh tế. Vấn đề
quy hoạch và phát triển đô thị không chỉ dừng ở việc quy hoạch một đô thị
thật tốt về giao thông, về các yếu tố hậu cần, nghỉ dưỡng, thể dục thể thao,
văn hóa nghệ thuật nhằm đáp ứng nhu cầu hiện tại mà những đô thị được
hoạch định đó cần phải đáp ứng được những yêu cầu cao hơn, có thể đáp ứng
được những nhu cầu về đô thị trong những giai đoạn tiếp theo của tiến trình
phát triển. Đó chính là vấn đề phát triển đô thị bền vững – một vấn đề đang
rất được chú trọng trong phát triển đô thị nói chung hiện nay.
Việt Nam trong giai đoạn vừa qua đã tiến hành phát triển công nghiệp
hóa, hiện đại hóa nền kinh tế và cũng đã đạt được rất nhiều thành tựu. Trong
quá trình phát triển này, bộ mặt đô thị Việt Nam cũng có rất nhiều thay đổi
một cách nhanh chóng nhằm đáp ứng được với những yêu cầu về các đô thị
hiện đại để đáp ứng và phục vụ quá trình phát triển kinh tế của đất nước.
Trong giai đoạn vừa qua, Việt Nam cũng giống như các quốc gia khác trên thế
giới cũng gặp phải những vấn đề khó khăn trong phát triển đô thị, đặc biệt là
vấn đề phát triển đô thị bền vững. Xuất phát từ những vấn đề đó, với mong
muốn của bản thân em trong việc tìm hiểu một cách sâu sắc thực trạng phát
triển đô thị cũng như những chính sách của nước Việt Nam về phát triển đô
thị bền vững do vậy em đã lựa chọn đề tài: “Phát triển đô thị bền vững và
chính sách phát triển đô thị bền vững ở Việt Nam trong giai đoạn hiện
nay” để làm tiểu luận hết môn môn học Chính sách phát triển đô thị.
1



NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: NHỮNG KHÁI QUÁT CHUNG VỀ PHÁT TRIỂN
ĐÔ THỊ BỀN VỮNG
1.1.

Một số khái niệm cơ bản

1.1.1. Khái niệm phát triển bền vững
Phát triển bền vững là một khái niệm về sự phát triển mọi mặt nhằm
đáp ứng nhu cầu hiện tại nhưng vẫn phải bảo đảm sự tiếp tục phát triển đáp
ứng nhu cầu trong tương lai. Phát triển bền vững là xu thế tất yếu trong tiến
trình phát triển của xã hội, là một lựa chọn mang tính chiến lược và là mục
tiêu hướng tới mà tất cả các quốc gia trên thế giới đều phải quan tâm. Mỗi
quốc gia sẽ dựa vào những đặc điểm riêng của mình để hoạch định chiến lược
phát triển bền vững sao cho phù hợp nhất với quốc gia đó.
Khái niệm "phát triển bền vững" (sustainable development) xuất hiện
lần đầu tiên vào năm 1980 trong ấn phẩm Chiến lược bảo tồn Thế giới (được
công bố bởi Hiệp hội Bảo tồn Thiên nhiên và Tài nguyên Thiên nhiên Quốc tế
- IUCN) với nội dung rất đơn giản: "Sự phát triển của nhân loại không thể chỉ
chú trọng tới phát triển kinh tế mà còn phải tôn trọng những nhu cầu tất yếu
của xã hội và sự tác động đến môi trường sinh thái học".
Năm 1987, trong bài báo có tiều đề: “Tương lai chung của chúng ta”
(còn gọi là Báo cáo Our Common Future) của Hội đồng Thế giới về Môi
trường và Phát triển (WCED) của Liên hợp quốc,phát triển bền vững được
định nghĩa cụ thể hơn đó là "sự phát triển đáp ứng được những nhu cầu hiện
tại nhưng không trở ngoại cho việc đáp ứng nhu cầu của các thế hệ mai
sau...". Nói cách khác, phát triển bền vững phải bảo đảm có sự phát triển kinh
tế hiệu quả, xã hội phát triển công bằng, văn minh và môi trường được bảo vệ,
gìn giữ. Để đạt được điều này, tất cả các chính quyền, các thành phần kinh tế,
các tổ chức xã hội... phải cùng nhau có trách nhiệm thực hiện nhằm mục đích

dung hòa giữa phát triển kinh tế - xã hội - và bảo vệ môi trường.
2


1.1.2. Khái niệm phát triển đô thị bền vững
Trong một đô thị, có ba loại hình môi trường khác nhau cùng tồn tại:
môi trường vật chất (tự nhiên và xây dựng), môi trường kinh tế và môi trường
xã hội. Cả ba loại hình này cần phải cùng được xem xét, bởi vì chúng quan hệ
rất chặt chẽ với nhau, hoặc đại diện hoặc cùng lúc biểu thị các mục tiêu,
phương tiện và khó khăn tới các hoạt động của con người trong đô thị. Một đô
thị được coi là bền vững khi tổng hiệu quả tốt của ba hình thái môi trường lớn
hơn tổng của các hậu quả xấu.
Sự tác động giữa môi trường kinh tế và môi trường vật chất thường
được đặc trưng bằng nhiều yếu tố bất lợi từ bên ngoài. Các ảnh hưởng xấu
sinh ra từ các hoạt động kinh tế trong đô thị lên môi trường vật chất rất rõ
ràng, có thể xác định là thảm họa về môi trường sinh ra từ đô thị, sự giảm
sút của tài nguyên thiên nhiên, tiếng ồn, ô nhiễm nước và không khí, sự thu
hẹp của các không gian xanh, tắc nghẽn giao thông và việc sử dụng quá mức
năng lượng.
Sự tác động giữa môi trường kinh tế và xã hội làm tăng lên các hiệu
quả kể cả thuận lợi và bất lợi. Hiệu quả thuận lợi xuất phát từ các dịch vụ xã
hội như giáo dục, sức khoẻ, tiện nghi xã hội và những nghề nghiệp có chất
lượng. Ngược lại, các yếu tố bất lợi về kinh tế có thể gây ra các hậu quả xấu
về môi trường xã hội.
Sự tác động thứ ba nêu lên những thuận lợi và khó khăn xuất phát từ
các môi trường vật chất và xã hội. Các khu cây xanh cho sinh hoạt công cộng
là nguồn môi trường tốt cho phúc lợi xã hội. Mặt khác, sự xuống cấp của các
công trình lịch sử, sự mất mát của những công trình văn hoá hoặc các vấn đề
về sức khoẻ đô thị là những ví dụ về hậu quả của môi trường vật chất lên môi
trường xã hội.

Nhiều tài liệu cho rằng một trong những đòi hỏi ban đầu cho phát
triển đô thị bền vững là khả năng tồn tại lâu dài, với ba yếu tố cơ bản:

3


1. Phương tiện sinh sống (sự đầy đủ về nước sạch, thực phẩm, không
khí, không gian trống, năng lượng và xử lý chất thải);
2. An toàn (không có chất độc, bệnh tật, tiếng ồn và các mối nguy hiểm
trong môi trường);
3. Hài hoà (mức độ của mỗi cá nhân cảm nhận sự tiện lợi đối với môi
trường xung quanh).
Một số điểm quan trọng được xem xét ở đô thị bền vững có thể là: Sự
tham gia của dân cư trong việc quyết định chính sách và phát triển cộng đồng;
Hình dáng cấu trúc của đô thị liên hệ chặt chẽ với tính chất sử dụng; Sự liên
kết cao hơn giữa các khu vực tự nhiên và khu vực xây dựng; Đi bộ, xe đạp và
giao thông công cộng là hình thức cơ bản của giao thông; Có tính tập thể về
bảo tồn văn hoá và tài nguyên tự nhiên cho các thế hệ mai sau; Cung cấp các
cơ hội công bằng về chất lượng sống cho mọi người trong cộng đồng; Giảm
chi phí về năng lượng và tài nguyên; Giảm mức độ chất thải do tái chế.
Tóm lại, đô thị bền vững là một đô thị được phát triển dựa trên cơ sở
bền vững của các yếu tố chính trị, văn hoá, xã hội, môi trường và kinh tế.
Dân cư hiện tại và những thế hệ tương lai đều có được cuộc sống hạnh phúc,
có đầy đủ phúc lợi và các dịch vụ công cộng cơ bản, có sức khoẻ, được đảm
bảo an toàn, giáo dục và đối xử công bằng. Được tận hưởng bản sắc văn hoá
dân tộc, lịch sử, tôn giáo, tín ngưỡng, có quyền chăm lo, bảo vệ cảnh quan
và môi trường.
Hiện nay ở Việt Nam, nhiều yếu tố thuận lợi thúc đẩy mọi mặt quá trình
phát triển đô thị bền vững. Tuy nhiên bên cạnh đó, nhiều vấn đề còn cần phải
nghiên cứu khắc phục, như: Quy hoạch đô thị đôi khi vẫn bị coi là một sản

phẩm, chưa phải là một quá trình; Cơ chế, thể chế triển khai quy hoạch còn
chưa rõ ràng, phương pháp lập quy hoạch chưa hiện đại; Vốn dành cho công
tác quy hoạch đô thị còn ít, quá trình xây dựng theo quy hoạch còn chậm;
Thiếu sự tham gia của cộng đồng trong suốt quá trình phát triển đô thị; Thiếu
sự phối hợp giữa các chuyên ngành, thiếu sự đồng bộ giữa các công trình hạ
4


tầng xã hội và hạ tầng kỹ thuật; và Công tác quản lý đô thị nói chung ở mọi
khâu còn yếu kém.
Để có được các đô thị phát triển bền vững, ngoài việc tận dụng và phát
huy nội lực, việc tranh thủ ngoại lực, học tập các kinh nghiệm của thế giới và
khu vực, rút ra bài học cho đất nước là hết sức cần thiết
1.2.

Những thời kỳ phát triển đô thị ở Việt Nam

Trong lịch sử Việt Nam, đô thị xuất hiện từ khi người Pháp chiếm Sài
Gòn từ năm 1861, trên cơ sở một đô thị thương mại do người Việt và người
Hoa xây dựng. Người Pháp đã quy hoạch, thiết kế và xây dựng lại thành phố
Sài Gòn theo ý tưởng tạo ra một “Paris nhỏ”, một “hòn ngọc viễn đông” của
nước Pháp.
Một số kỹ sư người Pháp đã đưa ra những ý tưởng quy hoạch và thiết
kế thành phố Sài Gòn khác nhau, tuy không đề án nào được thực hiện trọn
vẹn nhưng trải qua nhiều thập kỷ xây dựng, dáng dấp của một “Paris nhỏ” đã
hiện ra với những công trình kiến trúc đặc sắc như: Nhà Rồng, nhà thờ Đức
Bà, dinh Xã Tây, nhà hát lớn, khách sạn Continantal... Khi chiếm được Hà
Nội, họ cũng quy hoạch lại và đưa kiến trúc Pháp vào để xây dựng một thành
phố có quy mô khoảng 200 ngàn dân. Người Pháp chủ trương phát triển công
nghiệp và thương mại ở các thành phố như: nhà máy thuốc lá, rượu bia, dệt

may, cơ khí sửa chữa, đóng tàu.
Nhìn từ góc độ phát triển đô thị thì người Pháp đã có những ý tưởng rất
rõ ràng khi xây dựng các thành phố: về hình thức theo phong cách kiến trúc
của Paris, về quy mô, chỉ là thành phố loại vừa, về chức năng là thương mại,
dịch vụ và công nghiệp chế biến, cơ khí sửa chữa - và tất nhiên phải trở thành
nơi hưởng thụ của giới thượng lưu trong chính quyền thực dân và bản địa. Về
quản lý đô thị: theo chế độ thị trưởng và hội đồng thành phố.
Các thành phố của Việt Nam thời đó như Sài Gòn, Hà Nội, Hải Phòng
và một số đô thị khác đều do người Pháp quy hoạch, thiết kế nhưng mỗi nơi
có những sắc thái riêng, không rập khuôn theo Sài Gòn. Nhìn chung, đến thời
5


điểm năm 1954, các đô thị ở Việt Nam mang đậm nét kiến trúc Pháp nhưng
không mất hẳn nét kiến trúc Việt Nam. về quản lỳ đô thị, người Việt Nam đã
quen dần với nền hành chính và lối sống thị dân của châu Âu.
Sau năm 1954, các thành phố ở miền Bắc do chính phủ Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa quản lý nhưng do kinh tế còn nghèo cả nước còn chiến tranh
nên hầu hết các thành phố không có sự thay đổi lớn về quy hoạch, kiến trúc
và không mở rộng về không gian, không tăng nhiều dân số. Về quản lý đô thị:
theo chế độ bao cấp và bán thời chiến nên thương mại tư nhân không phát
triển, chỉ có xí nghiệp nhà nước và mậu dịch quốc doanh.
Ở miền Nam, Sài Gòn và các thành phố khác bắt đầu chịu ảnh hưởng
của kiến trúc đô thị kiểu Mỹ - nhà hộp, mái bằng. Về quản lý đô thị cũng
mang tính chất thời chiến nên sự kiểm soát dân cư rất chặt chẽ. Các đô thị
miền Nam đồng thời là những căn cứ quân sự nên có sự mở rộng về không
gian và xây dựng thêm các công trình kiến trúc dân sự và quân sự.
Sau năm 1975, Việt Nam trải qua một thời kỳ 10 năm khủng hoảng
kinh tế xã hội và đối phó với chiến tranh biên giới ở cả hai đầu đất nước. Đây
là thời kỳ các thành phố bị xuống cấp cả về hạ tầng đô thị và nếp sống văn

minh: nhiều chung cư cũ nát, đường sá hư hỏng nhiều nơi, tệ nạn xã hội quay
lại và phát triển rất nhanh... đời sống nhân dân hết sức khó khăn. Trong khi đó
cách tổ chức bộ máy quản lý đô thị không khác nhiều so với quản lý lãnh thổ
ở nông thôn.
Sau khi thoát khỏi khủng hoảng và từ khi có nghị quyết Đại hội Đảng
lần thứ VIII, đất nước bắt đầu bước vào thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa
và hội nhập, cũng là thời kỳ bùng nổ về đô thị hóa. Thời kỳ này đã diễn ra
được 20 năm, bên cạnh tốc độ phát triển rất nhanh là sự tiềm ẩn những yếu tố
đe dọa đến sự phát triển bền vững.
Sự phát triển đô thị Việt Nam đã trải qua ba thời kỳ khác nhau: đô thị
thời thực dân - phong kiến - kéo dài hơn 80 năm, đô thị thời chiến tranh kéo
dài 30 năm và đô thị thời công nghiệp hóa mới được 20 năm.
6


Ảnh: Qúa trình đô thị hóa ở Việt Nam diễn ra nhanh chóng
Nguồn: Báo xây dựng
Đô thị trong thời kỳ CNH - HĐH có hoàn cảnh lịch sử và những đòi hỏi
khác hẳn so với các thời kỳ trước. Đô thị thời công nghiệp hóa đòi hỏi kết cấu
hạ tầng kỹ thuật hiện đại hơn, có quy mô không gian và dân số lớn hơn nên
phải có trình độ quản lý đô thị cao hơn, bảo vệ môi trường nghiêm ngặt
hơn.. .mới bảo đảm sự phát triển bền vững.
1.3. Thách thức đối với Việt Nam trong phát triển đô thị bền vững
Sau hơn 25 năm đổi mới và phát triển, Việt Nam đã đạt được nhiều
thành tựu tích cực trong phát triển kinh tế-xã hội và bảo vệ môi trường. Nền
kinh tế Việt Namđã chuyển sang cơ chế thị trường theo định hướng XHCN.
Nền kinh tế duy trì tốc độ tăng trưởng cao và tương đối ổn định. Sản xuất
nông nghiệp luôn đạt mức tăng trưởng cao. Từ một nước phải nhập khẩu
lương thực, đến nay, Việt Namđã đảm bảo được an ninh lương thực và là
nước xuất khẩu gạo lớn thứ hai trên thế giới. Sản xuất công nghiệp tăng

trưởng cao và ổn định. Các ngành dịch vụ được mở rộng với chất lượng ngày
càng được nâng lên.

7


Cơ sở hạ tầng được cải thiện đáp ứng ngày càng tốt hơn cho yêu cầu
phát triển kinh tế-xã hội. Sự phát triển mạnh mẽ và hiệu quả của các thành
phần kinh tế, đã làm cho tỷ lệ hộ đói nghèo trong cả nước giảm xuống 14%
trong năm nay. Việt Namcó quan hệ thương mại với 165 quốc gia và vùng
lãnh thổ trên thế giới và là địa điểm đầu tư hấp dẫn của rất nhiều nhà đầu tư
nước ngoài. Với mức thu nhập bình quân đầu người trên 1.200 USD, hiện
Việt Nam đã ra khỏi danh sách những nước nghèo chậm phát triển và trở
thành một trong những nước có thu nhập bình quân đầu người đạt mức trung
bình. Các lĩnh vực văn hóa - xã hội đạt được những thành tựu quan trọng trên
nhiều mặt.
Tuy nhiên, trong những năm qua, phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam
vẫn còn dựa nhiều vào việc khai thác tài nguyên thiên nhiên; năng suất lao
động còn thấp; công nghệ sản xuất, mô hình tiêu dùng còn sử dụng nhiều
năng lượng, nguyên liệu và thải ra nhiều chất thải. Dân số tăng nhanh, tỷ lệ hộ
đói nghèo còn cao; các dịch vụ cơ bản về giáo dục và y tế hiện còn bất cập,
các loại tệ nạn xã hội chưa được ngăn chặn triệt để… đang là những vấn đề
bức xúc.
Nhiều nguồn tài nguyên thiên nhiên bị khai thác cạn kiệt, sử dụng lãng
phí và kém hiện quả. Môi trường thiên nhiên ở nhiều nơi bị phá hoại nghiêm
trọng, ô nhiễm và suy thoái đến mức báo động. Hệ thống chính sách và công
cụ pháp luật chưa đồng bộ để có thể kết hợp một cách hiệu quả giữa 3 mặt của
sự phát triển: kinh tế, xã hội và bảo vệ môi trường. Trong các chiến lược, quy
hoạch tổng thể và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của đất nước cũng như
của các ngành và địa phương, 3 mặt quan trọng trên đây của sự phát triển

cũng chưa thực sự được kết hợp và lồng ghép chặt chẽ với nhau.
Quá trình đô thị hóa hiện đang gặp những thách thức như sau:
Quy hoạch và đầu tư hạ tầng kỹ thuật đô thị ở hầu hết các đô thị Việt
Nam đều chậm hơn so với tốc độ phát triển kinh tế-xã hội đô thị và chưa đáp
ứng yêu cầu về bảo vệ môi trường, đặc biệt là tình trạng yếu kém và lạc hậu
8


của hệ thống cấp nước, thoát nước, thu gom và xử lý chất thải rắn, hệ thống
giao thông.
Mặc dù hạ tầng kỹ thuật đô thị ở các thành phố lớn đã được quan tâm
đầu tư cải tạo và nâng cấp, nhưng nhìn chung vẫn còn rất yếu kém, chưa đáp
ứng được những tiêu chuẩn của đô thị hiện đại. Tình trạng ô nhiễm môi
trường và phá vỡ cân bằng sinh thái đô thị, cảnh quan thiên nhiên đang là mối
lo ngại chung.
Chưa có sự lồng ghép quy hoạch bảo vệ môi trường trong quy hoạch đô
thị nên vừa làm tăng các vấn đề môi trường đô thị vừa gây khó khăn trong việc
khắc phục các hậu quả. Biểu hiện rõ nhất là tình trạng xây dựng xen kẽ các nhà
máy gây ô nhiễm môi trường trong các khu dân cư đông đúc, thiếu các cơ sở hạ
tầng và dịch vụ xử lý chất thải, gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng.
Đô thị hoá với tốc độ nhanh và sự gia tăng dân di cư từ nông thôn ra
thành thị gây nên sức ép ngày càng lớn về nhà ở và vệ sinh môi trường đô thị.
1.4. Những vấn đề cần tập trung giải quyết về phát triển đô thị bền vững
Về cơ bản phát triển bền vững đô thị cần tập trung giải quyết các vấn
đề: (1) Phát triển kinh tế đô thị ổn định, tạo công ăn việc làm cho người dân
đô thị, đặc biệt cho người có thu nhập thấp và người nghèo đô thi; (2) Đảm
bảo đời sống vật chất văn hóa tinh thần, giữ gìn bản sắc văn hóa truyền thống
dân tộc, đảm bảo công bằng xã hội; (3) Tôn tạo, gìn giữ và bảo vệ môi trường
đô thị xanh, sạch, đẹp với đầy đủ ý nghĩa vật thể và phi vật thể đô thị...
Để góp phần xây dựng thành công sự nghiệp CNH - HĐH đất nước,

công tác phát triển và quản lí phát triển đô thị đã được Đảng và Nhà nước đặc
biệt quan tâm nhằm xây dựng và phân bố hợp lý các đô thị tạo sự phát triển
bền vững, cân bằng giữa các vùng lãnh thổ, có sức cạnh tranh cao giữa các đô
thị, tạo môi trường sống tốt, lành mạnh cho người dân, đảm bảo phát triển
KT-XH với an ninh quốc gia... Phát triển đô thị bền vững đã trở thành một
yêu cầu chiến lược tất yếu trong định hướng phát triển hệ thống đô thị quốc
gia. Các lĩnh vực cần ưu tiên trong các chiến lược thuộc Chương trình nghị sự

9


21 của Chính phủ phải được lồng ghép và cụ thể trong chiến lược phát triển
bền vững đô thị quốc gia, cụ thể là:
Những lĩnh vực kinh tế trong khu vực đô thị cần ưu tiên nhằm phát
triển bền vững: Chuyển dịch cơ cấu và duy trì tăng trưởng kinh tế nhanh và
bền vững; Thay đổi mô hình sản xuất và thói quen tiêu dùng theo hướng thân
thiện với môi trường; Thực hiện quá trình “công nghiệp hóa sạch”; Tăng
cường mối liên kết giữa khu vực đô thị và nông thôn theo hướng bền vững;
Những lĩnh xã hội trong khu vực đô thị cần ưu tiên nhằm phát triển bền
vững: Xây dựng chương trình phát triển đô thị quốc gia khoa học, hợp lí
nhằm phát triển bền vững hệ thống đô thị; Phân bố hợp lí dân cư, lao động và
hệ thống đô thị theo nguồn lực, tiềm năng, ngưỡng phát triển từng vùng,
miền; Tập trung nỗ lực để giảm nghèo đô thị, đẩy mạnh thực hiện tiến bộ và
công bằng xã hội; Tiếp tục giảm mức tăng dân số và tạo thêm việc làm cho
người lao động; Nâng cao chất lượng giáo dục để nâng cao dân trí và trình độ
nghề nghiệp, phù hợp với yêu cầu của quá trình đô thị hóa; Phát triển về số
lượng và nâng cao chất lượng của dịch vụ y tế, chăm sóc sức khoẻ, cải thiện
điều kiện lao động và vệ sinh môi trường sống;
Những lĩnh vực sử dụng tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trường và
kiểm soát ô nhiễm trong khu vực đô thị cần ưu tiên nhằm phát triển bền vững:

Tiết kiệm nguồn tài nguyên đất đai; hạn chế phát triển đô thị, công nghiệp vào
khu vực đất nông nghiệp gắn với chiến lược an ninh lương thực quốc gia; sử
dụng hiệu quả và bền vững tài nguyên đất phát triển đô thị; Bảo vệ môi
trường nước và sử dụng bền vững tài nguyên nước; Bảo tồn đa dạng sinh học;
bảo vệ và phát triển hệ sinh thái rừng, nông nghiệp, biển, hải đảo, giữa các
khu vực đô thị và nông thôn; Giảm ô nhiễm không khí, tiếng ồn, đất, nước ở
các đô thị và khu công nghiệp; quản lí chất thải rắn và chất thải nguy hại;
Thực hiện các biện pháp giảm sự gia tăng biến đổi khí hậu và hạn chế những
ảnh hưởng có hại của biến đổi khí hậu (nhất là ảnh hưởng của mực nước biển
dâng, triều cường...), phòng và chống thiên tai; Đổi mới phương pháp lập quy
hoạch đô thị, nông thôn; Phát triển đô thị xanh, kiến trúc xanh...
10


Để nâng cao chất lượng đô thị hóa và phát triển đô thị bền vững tại Việt
Nam, trong Quyết định của Thủ tướng Chính phủ (số 445/QĐ-TTg, ngày
07/4/2009) phê duyệt “Điều chỉnh định hướng qui hoạch tổng thể phát triển
hệ thống đô thị Việt Nam đến năm 2025 và tầm nhìn đến năm 2050”, đã xác
định mục tiêu chiến lược phát triển hệ thống đô thị quốc gia là: “Từng bước
xây dựng hoàn chỉnh hệ thống đô thị Việt Nam phát triển theo mô hình mạng
lưới đô thị; có cơ sở hạ tầng kĩ thuật, xã hội phù hợp, đồng bộ, hiện đại; có
môi trường và chất lượng sống đô thị tốt; có nền kiến trúc đô thị tiến tiến,
giàu bản sắc; có mối quan hệ và vị thế xứng đáng, có tính cạnh tranh cao
trong phát triển kinh tế, xã hội quốc gia, khu vực và quốc tế, góp phần thực
hiện tốt hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng xã hội chủ nghĩa và bảo vệ tổ
quốc”. Việc hình thành và phát triển hệ thống đô thị Việt Nam đến năm 2025
và tầm nhìn đến năm 2050 phải đảm bảo:
Phù hợp với sự phân bố và trình độ phát triển lực lượng sản xuất cả
nước, với yêu cầu của quá trình CNH - HĐH và xu hướng hội nhập kinh tế
quốc tế của Việt Nam, tạo ra nguồn lực để phát triển kinh tế - xã hội;

Phát triển và phân bố hợp lý trên địa bàn cả nước, tạo ra sự phát triển
cân đối giữa các vùng. Coi trọng mối liên kết Đô thị - Nông thôn, đảm bảo
chiến lược an ninh lương thực quốc gia; nâng cao chất lượng đô thị, bảo tồn
và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống phù hợp với từng giai đoạn phát
triển chung của đất nước;
Phát triển ổn định, bền vững và trường tồn, trên cơ sở tổ chức hợp lý
môi sinh, sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên, đất đai, tiết kiệm năng
lượng; bảo vệ môi trường, giữ gìn cân bằng sinh thái; Xây dựng đồng bộ cơ
sở hạ tầng xã hội và hạ tầng kỹ thuật với trình độ thích hợp hoặc hiện đại, tuỳ
thuộc vào yêu cầu khai thác, sử dụng và chiến lược phát triển của mỗi đô thị;
Tăng cường vai trò quản lý nhà nước trong kiểm soát phát triển đô thị;
đổi mới cơ chế, chính sách; huy động các nguồn lực vào mục đích cải tạo và
xây dựng đô thị, đảm bảo cho các đô thị phát triển theo quy hoạch và pháp
11


luật; Đẩy mạnh việc ứng dụng các tiến bộ khoa học và công nghệ vào mục
đích cải tạo, xây dựng và hiện đại hóa đô thị; xây dựng chính quyền đô thị
điện tử; Kết hợp chặt chẽ với việc đảm bảo an ninh, quốc phòng và an toàn
xã hội; đối với các đô thị ven biển, hải đảo và các đô thị dọc hành lang biên
giới phải gắn với việc bảo vệ và giữ vững chủ quyền quốc gia.
Theo đó, hệ thống đô thị Việt Nam đến năm 2025 và tầm nhìn đến năm
2050 cơ bản được phát triển theo mô hình “mạng lưới đô thị”, đảm bảo sự kế
thừa các ưu điểm của định hướng phê duyệt năm 1998, phù hợp với các yêu
cầu phát triển KT - XH, phát triển bền vững của đất nước theo từng thời kì và
xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam. Định hướng phát triển
chung không gian đô thị cả nước theo hướng đảm bảo phát triển hợp lí các
vùng đô thị hóa cơ bản (được xác định dựa trên cơ sở 6 vùng kinh tế, xã hội
quốc gia), giữa miền Bắc, miền Trung và miền Nam; giữa phía Đông và phía
Tây, gắn với việc phát triển các cực tăng trưởng chủ đạo và thứ cấp quốc gia,

đồng thời đảm bảo phát triển theo mạng lưới, có sự liên kết tầng bậc theo cấp,
loại đô thị.
Giai đoạn từ năm 2010 đến năm 2015 ưu tiên phát triển các vùng kinh
tế trọng điểm, các vùng đô thị lớn và các KKT tổng hợp đóng vai trò là cực
tăng trưởng chủ đạo cấp quốc gia; từ năm 2016 đến năm 2025 ưu tiên phát
triển vùng đô thị hóa cơ bản, giảm thiểu sự phát triển phân tán, cục bộ theo
địa phương để chuyển dần sang phát triển theo mô hình “mạng lưới đô thị” ở
giai đoạn sau năm 2025... Mô hình này thể hiện chiến lược phát triển bền
vững hệ thống đô thị quốc gia trong quá trình đô thị hóa; hướng tới sự phát
triển cân bằng hơn giữa các vùng, giữa khu vực đô thị và nông thôn; đô thị có
sức cạnh tranh cao, có vị thế xứng đáng, có mối liên hệ với hệ thống đô thị
khu vực và thế giới

12


CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG VIỆC THỰC HỆN CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN ĐÔ
THỊ BỀN VỮNG Ở VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
2.1. Thực trạng đô thị hóa và phát triển đô thị Việt Nam
Việt Nam đang trong tiến trình phát triển thành một nước công nghiệp
hiện đại vào năm 2020. Tuy chịu ảnh hưởng tác động chung của suy thoái
kinh tế thế giới nhưng tổng sản phẩm trong nước (GDP) 6 tháng đầu năm
2014 ước tính tăng 5,18% so với cùng kỳ năm 2013, trong đó nguồn thu từ
các hoạt động kinh tế đô thị, đặc biệt các thành phố lớn, các đô thị gắn với
phát triển công nghiệp, thương mại, dịch vụ, du lịch chiếm tỷ lệ khá cao trong
cơ cấu GDP cả nước, khẳng định vai trò của hệ thống đô thị động lực chủ đạo
của Việt Nam. Tỷ lệ % GRDP của 05 thành phố trực thuộc Trung ương/tổng
DRDP cả nước, chiếm trên 50% GDP của cả nước (trong khi dân số đô thị
chiếm trên 1/3 dân số cả nước). Tổng thu ngân sách khu vực đô thị chiếm trên

70% tổng thu ngân sách toàn quốc.
Đô thị hóa mạnh mẽ tại các đô thị lớn đang tạo hiệu ứng thúc đẩy đô thị
hóa nhanh lan toả diện rộng trên phạm vi các tỉnh, các vùng và cả nước.
Nhiều đô thị mới, khu đô thị mới được hình thành phát triển; nhiều đô thị cũ
được cải tạo, nâng cấp hạ tầng cơ sở: đường xá, điện nước, cơ sở giáo dục, y
tế, vệ sinh môi trường…Các đô thị Việt Nam đang nỗ lực phát triển, nâng tầm
cao với kiến trúc hiện đại.
Các đô thị lớn như ở Hà Nội, TP.HCM, Đà Nẵng, Hải Phòng đã có nền
tảng phát triển kinh tế vững chắc, số lượng các cơ sở sản xuất công nghiệp và
dịch vụ thương mại cũng tăng mạnh hơn. Tại đây, các động lực phát triển mới
đang chuyển dịch mạnh mẽ sang các lĩnh vực giáo dục, dịch vụ tài chính –
ngân hàng, bất động sản, viễn thông và truyền thông… Các nơi có điều kiện
tự nhiên đặc biệt như Hạ Long, Nha Trang, Đà Lạt, Sa Pa, Phú Quốc… hay
các đô thị có di sản văn hóa - lịch sử tầm cỡ quốc gia và quốc tế như Huế, Hội
13


An, Hạ Long, Côn Đảo,…thì du lịch đã trở thành động lực phát triển chính.
Hạ tầng xã hội và hạ tầng kỹ thuật các đô thị loại II trở lên đã được tăng
cường, đô thị loại IV trở lên đã được nâng cấp, cải thiện điều kiện hạ tầng cơ
sở (điện đường, trường trạm, môi trường nước, rác…) nhờ các khoản đầu tư
trong và ngoài nước.
Các khu kinh tế cấp quốc gia như: Khu kinh tế Vân Đồn (Quản Ninh),
Đình Vũ – Cát Hải (Hải Phòng), Nghi Sơn (Thanh Hóa), Nghệ An (Bắc TP
Vinh), Vũng Áng (Hà Tĩnh), Hòn La (Quảng Bình), Chân Mây – Lăng Cô
(Thừa Thiên - Huế), Chu Lai (Quảng Nam), Dung Quất (Quảng Ngãi), Nhơn
Hội (Bình Định), Văn Phong (Khánh Hòa), Nam Phú Yên (Phú Yên), đảo Phú
Quốc (Kiên Giang), là các khu kinh tế tổng hợp đa ngành có quy mô sản xuất
lớn, có hạ tầng quan trọng là cảng biển có diện tích đất đai rất lớn là nền tảng
để hình thành và phát triển các đô thị mới.

Các khu công nghiệp tập trung và khu công nghệ cao cấp quốc gia, các
khu/cụm/ điểm công nghệ cấp địa phương do tỉnh/ huyện quản lý được phát
triển ở gần các đô thị hiện có hoặc dọc theo các tuyến giao thông quốc gia để
tận dụng các hạ tầng xã hội và kỹ thuật sẵn có như nguồn nhân lực, các cơ sở
y tế, gíao dục, đường bộ, đường sắt, cảng biển, sân bay. Các khu công nghiệp
Trung ương và địa phương thuộc Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam có tỷ lệ
lấp đầy tương đối cao, thu hút nhiều ngành công nghiệp và nhân công, mức
độ đô thị hóa ở đây cũng gia tăng rất nhanh. Đây là các tiền đề quan trọng để
hình thành và phát triển các vùng đô thị lớn, vùng kinh tế trọng điểm có khả
năng cạnh tranh với các trung tâm kinh tế lớn trong khu vực Đông Nam Á.
Bên cạnh đó, các khu công nghiệp Trung ương và địa phương ở các tỉnh có
đóng góp đáng kể vào tiến trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng
tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ, hình thành các đô thị mới hay khu đô thị
mới. Các cụm, điểm công nghiệp ở các tỉnh có tác động rất tích cực tới quá
trình công nghiệp hóa nông thôn các Vùng nơi có mạng lưới công nghiệp địa
phương, tiểu thủ công nghiệp và làng nghề phát triển khá dày đặc.
14


Trong nhiều năm qua thương mại quốc tế thông qua các cảng biển đã
thúc đẩy các đô thị ven biển có tiềm năng cảng phát triển mạnh. Trong những
năm gần đây, khối lượng thương mại quốc tế trên đất liền thông qua các cửa
khẩu đã được tăng cường đáng kể, thúc đẩy phát triển nhanh các đô thị cửa
khẩu quốc gia, quốc tế đã có từ trước như Lạng Sơn, Lào Cai hay mới được
hình thành như Cầu Treo (Hà Tĩnh), Bờ Y (Kon Tum), Bu Phơ Răng (Đắc
Nông), Mộc Bài (Tây Ninh), Xà Xía (Kiên Giang)… Một số đô thị cửa khẩu
kinh tế thuộc tiểu vùng sông Mê Kông mở như Lào Cai trên các hành lang
Côn Minh (Trung Quốc) -Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng; Lao Bảo trên hành
lang kinh tế Đông - Tây nối Mukdahan (Đông - Bắc Thái Lan) - Savanakhet
(Trung - Nam Lào) - Quảng Trị - Huế - Đà Nẵng; Bờ Y trên tuyến Đông Bắc

Campuchia - Pakse (Nam Lào) - Kon Tum - Quy Nhơn; hay Mộc Bài trên
hành lang Đông - Nam Campuchia - Tây Ninh - TP.HCM -Vũng Tàu. Các đô
thị cửa khẩu là các điểm tựa đô thị hóa quan trọng đối với các khu vực biên
giới miền núi vốn chậm phát triển ở nước ta và cũng là những mốc giới quan
trọng đảm bảo an ninh biên giới tổ quốc.
Về du lịch, kể cả du lịch quốc tế và du lịch trong nước, đã nổi lên như
một trong các động lực chính phát triển đô thị Việt Nam trong giai đoạn hiện
nay. Các giá trị truyền thống và bản sắc của một nền văn hóa lịch sử lâu đời,
cảnh quan thiên nhiên đa dạng, bờ biển dài và ấm quanh năm là các yếu tố
chính hấp dẫn khách du lịch quốc tế đến Việt Nam. Thêm vào đó, du lịch là
một ngành công nghiệp có nhiều ưu điểm nổi trội, khá phù hợp với khả năng
phát triển của Việt Nam và các yêu cầu bảo vệ môi trường nhằm phát triển
bền vững. Trong các năm qua lượng khách du lịch quốc tế và nội địa ở Việt
Nam tăng chậm hơn, giữ mức độ trung bình mức 15-20%/năm, phụ thuộc ít
vào các biến động thất thường của kinh tế, nhưng đang chịu ảnh hưởng không
nhỏ bởi các vấn đề an ninh quốc phòng trên không và trên biển. Có thể thấy,
ngoài các điều kiện tự nhiên các khu vực có điều kiện cơ sở hạ tầng đô thị và
cơ sở dịch vụ tốt hấp dẫn được khách du lịch.
15


Đánh giá chung phát triển đô thị hóa Việt Nam trong giai đoạn vừa qua
có nhiều chuyển biến số lượng. Năm 1999 cả nước có 629 đô thị đến nay có
772 đô thị, trong đó có 2 đô thị đặc biệt, 15 đô thị loại I, 14 đô thị loại II, 47
đô thị loại III, 64 đô thị loại IV và 630 đô thị loại V. Trong 6 tháng đầu năm,
có TP. Thanh Hóa nâng lên đô thị loại I, các TP. Rạch Giá, TP. Bạc Liêu, TP.
Ninh Bình, TP. Thái Bình nâng lên loại II, 3 đô thị loại V hình thành mới và 1
đô thị (thị trấn Cầu Diễn thuộc huyện Từ Liêm cũ sát nhập vào quận mới).
Về đơn vị hành chính đô thị do hiện nay Hiến pháp 2013 đã có hiệu lực
nên việc nâng cấp quản lý hành chính và điều chỉnh ranh giới hành chính đô

thị phải thông qua thường trực Quốc hội, 6 tháng đầu năm 2014 không có
biến động về cấp quản lý hành chính, cả nước có 5 thành phố trực thuộc
Trung ương, 63 thành phố thuộc tỉnh, 47 thị xã thuộc tỉnh, 613 thị trấn (trong
đó 27 thị trấn là đô thị loại IV). Tỉnh có nhiều thị trấn nhất là Thanh Hóa với
28 thị trấn. Tỉnh Ninh Thuận chỉ có 3 thị trấn, thành phố Đà Nẵng không có
thị trấn nào.
Về dân số thành thị (gồm dân số nội thành, nội thị và thị trấn) đạt
khoảng 30,4 triệu người, tập trung tại 2 đô thị loại đặc biệt và 15 đô thị loại I
khoảng 14,8 triệu người chiếm 49% dân số các đô thị trên toàn quốc). Tỷ lệ
đô thị hóa trung bình cả nước đạt khoảng 34%, tăng trung bình 1% năm. Đô
thị hóa tập trung cao nhất tại vùng Đông Nam Bộ (64,15%), thấp nhất tại
vùng Trung Du miền núi phía Bắc (21,72%). Các tỉnh, thành phố trực thuộc
trung ương có tỷ lệ dân số thành thị cao, cao nhất cả nước là TP. HCM 83%,
Bình Dương 71,6%, Quảng Ninh 68,86%,… Các tỉnh có tỷ lệ dân số thành thị
thấp nhất cả nước gồm: Thái Bình 10,7%, Tuyên Quang 12,41%, Sơn La
13,7%, Bắc Giang: 13,05%...
Về đất đô thị, tổng diện tích cả nước 331.698 km2, diện tích đất đô thị
không có biến động so với năm 2013, đến nay, tổng diện tích đất tự nhiên
toàn đô thị đạt 34,017 km2 chiếm khoảng 10,26% diện tích đất tự nhiên của
cả nước, nội thành nội thị 14.760 km2 chiếm khoảng 4,42% diện tích đất tự
16


nhiên của cả nước. Nhiều khu vực nội thành nội thị vẫn còn 50-60% diện tích
đất nông nghiệp hoặc để trống chưa sử dụng phát triển đô thị. Hiện tượng
chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuêu thế chấp, góp vốn bằng quyền sử dụng
đất đặc biệt vùng ven đô đang rất cần quản lý chặt chẽ.
2.2.

Những vấn đề tồn tại trong phát triển đô thị bền vững


Tuy nhiên hệ thống đô thị Việt Nam đang phát triển nhanh về số lượng
nhưng chất lượng đô thị còn đạt thấp. Đặc biệt, hệ thống hạ tầng kỹ thuật và
hạ tầng xã hội chưa đồng bộ; trình độ và năng lực quản lý và phát triển đô thị
còn thấp so với yêu cầu; Tốc độ xây dựng cơ sở hạ tầng ở phần lớn đô thị Việt
Nam đều chậm so với phát triển kinh tế xã hội. Tình trạng phát triển đô thị
hiện nay chưa đáp ứng với sự đổi thay về tư duy đô thị hóa, phát triển đô thị
theo hướng CNH, HĐH, phát triển đô thị gắn với bảo vệ chủ quyền quốc gia
tầm nhìn Đại Dương với 1 triệu km2 chủ quyền biển của Việt Nam và hàng
trục cửa khẩu suốt chiều dài 4500 km biên giới.
Phát triển đô thị và đô thị hóa trên phạm vi toàn quốc hiện chưa thể
hiện rõ bản sắc địa phương và đặc điểm khí hậu vùng, miền, tạo sự cách biệt
giữa đô thị và nông thôn. Bộ mặt kiến trúc cảnh quan đô thị còn lộn xộn, thiếu
thẩm mỹ. Tài nguyên đất bị khai thác triệt để để xây dựng đô thị, diện tích cây
xanh và mặt nước bị thu hẹp, nhu cầu sản xuất, dịch vụ ngày càng tăng làm
suy thoái nguồn tài nguyên thiên nhiên của đất nước. Hệ thống hạ tầng đô thị
bị quá tải gây nên các hiện tượng tắc nghẽn giao thông, úng ngập và vệ sinh
môi trường đô thị hóa lan rộng làm các khu vực này lại nằm lọt vào giữa khu
dân cư đông đúc. Việc mở rộng đô thị dẫn đến chiếm dụng đất nông nghiệp
ảnh hưởng đến an toàn lương thực quốc gia. Năng lực thu gom xử lý rác thải
rắn đặc biệt là các chất thải rắn nguy hại chưa được thực hiện đúng quy định.
Đặc điểm thói quen sử dụng giao thông cá nhân gây lãng phí nghiêm
trọng nguồn thiên nhiên, ô nhiễm môi trường không khí và tiếng ồn. Về kinh
tế, tài chính đô thị còn hoạt động kém hiệu quả, công tác điều phối vốn đầu tư
xây dựng còn bị dàn trải, việc huy động vốn từ các nguồn vốn vay, khối kinh
17


tế tư nhân và từ cộng đồng chưa tạo động lực kích hoạt quá trình phát triển.
Phát triển các khu kinh tế, đặc khu kinh tế, các khu công nghiệp tập trung cấp

quốc gia, cấp tỉnh còn giàn trải chưa có sự lựa chọn thích hợp cho thành công.
Đối với công tác quy hoạch, bất cập hiện nay là chưa xác định rõ mối
quan hệ giữa quy hoạch sử dụng đất với quy hoạch xây dựng. quy hoạch đô
thị, quy hoạch các ngành. Chưa có nhiều đồ án, dự án cải tạo, chỉnh trang đô
thị được thực hiện do loại hình dự án này khá phức tạp thiếu quy định luật
pháp, các nhà đầu tư chưa thực sự quan tâm.
Về quản lý đô thị còn chưa theo kịp thực tiễn, chưa đáp ứng xu thế phát
triển đô thị. Đầu tư phát triển đô thị, khu dô thị mới chưa có kế hoạch nhiều
nơi làm sai, chậm muộn so với quy hoạch. Chính quyền chưa có giải pháp
điều hòa các lợi ích nhà nước - chủ đầu tư và người dân, công tác khớp nối hạ
tầng kỹ thuật, không gian, kiến trúc đô thị chưa được thực hiện do thiếu quy
chế quản lý kiến trúc cảnh quan hoặc có quy chế nhưng triển khai áp dụng
còn hạn chế. Kết nối hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội triển khai chậm, thiếu
đồng bộ, công tác quản lý môi trường đô thị chưa chặt chẽ.
Tình trạng lãng phí đất đai trong các đô thị chưa được khắc phục, hiệu
quả đầu tư xây dựng còn thấp ảnh hưởng đến phát triển bền vững và diện mạo
đô thị. Nguồn lực cho phát triển đô thị còn dải trải. Nhu cầu vốn đầu tư cho hạ
tầng kỹ thuật đô thị lớn, việc xã hội hóa, huy động các nguồn lực trong xã hội
còn hạn chế. Tỷ lệ dân đô thị được cấp nước sạch còn thấp.

18


Ảnh: Quy hoạch thành phố hai bờ sông Hồng
Nguồn: Báo Dân trí
Tình trạng úng ngập cục bộ trong mùa mưa, ô nhiễm môi trường, ách
tắc giao thông, lấn chiếm đất công, xây dựng không phép, sai phép còn diễn
ra ở nhiều đô thị. Xử lý nước thải chưa được chú trọng tại hầu hết các đô thị,
thiếu sự đồng bộ trong xây dựng và khai thác hệ thống hạ tầng kỹ thuật dọc
các tuyến đường tại các đô thị. Hệ thống cây xanh công viên ở nhiều đô thị

chưa được quan tâm, thiếu quy hoạch và kế hoạch triển khai đầu tư. Hệ thống
cây xanh, mặt nước (sông, hồ) trong nhiều đô thị bị suy giảm. Đi đôi với tăng
trưởng và phát triển là những thách thức của sự phát triển nóng, thiếu ổn định,
bền vững của các đô thị và nông thôn. Chúng ta đang ép dân số ở khu vực
nông thôn từ 70% xuống còn 50% trong những năm 2020-2030 theo lộ trình
đô thị hóa. Để thực thi tốt lộ trình chuyển đổi này người nông dân cần được
đào tạo để chuyển đổi nghề.
Đô thị hóa ở Việt Nam hôm nay chưa tạo được nhiểu ngành nghề mới
cho lao động nông nghiệp. Những nghề người nông dân đang làm tại đô thị
như: “xe ôm, cửu vạn, phụ hồ, giúp việc… không có tác dụng đến nâng cao
tay nghề cho lực lượng sản xuất hay đẩy mạnh tiến trình tăng năng suất, chất
19


lượng lao động xã hội. Một số “nghề” còn cho thấy mặt trái, mầm mống xuất
hiện của “hình sự hoá” cộng đồng. Di dân gây áp lực về hạ tầng cho nhiều đô
thị, trong khi nông thôn không có người làm ruộng, xuất hiện tình trạng nhà
không có người ở, ruộng vườn bỏ không, nông thôn chỉ có người già và trẻ
nhỏ. Nếu định hướng phát triển công nghiệp, quy trình dậy nghề còn chưa rõ
ràng, thì ước mơ thoát làm nông dân sẽ khó thực hiện được.Tuy đã có một hệ
thống các văn bản quy phạm pháp luật đã và đang được nghiên cứu hoàn
thiện và đưa vào áp dụng thực tế tuy nhiên tại hiện trường nhiều chỉ tiêu sử
dụng lỗi thời.
Hiện nay đô thị Việt Nam còn đang phải đối mặt với các vấn đề biến
đổi khí hậu. BĐKH gây bão, lũ lụt và nước biển dâng tác động đến phát triển
hệ thống đô thị ven biển và các vùng đồng bằng lớn, trên 40 tỉnh có nguy cơ
ngập cao (ĐBSCL, ĐBSH, duyên hải ven biển miền Trung, Đông Nam bộ)
với khoảng 128 đô thị có nguy cơ ngập cao, 20 đô thị có nguy cơ ngập nặng;
BĐKH gây mưa lớn, lũ quét, sạt lở đất tác động đến phát triển hệ thống đô thị
vùng núi phía Bắc, Tây Nguyên và miền Trung, 31 tỉnh (thuộc các vùng:

Trung du và miền núi phía Bắc, Bắc trung Bộ và duyên hải miền Trung, Tây
Nguyên, Đông Nam Bộ) với khoảng 139 đô thị chịu ảnh hưởng 15 đô thị có
khả năng chịu tác động mạnh.
2.3. Những hoạt động ưu tiên trong chính sách để phát triển đô thị
bền vững
Rà soát lại quy hoạch tổng thể nhằm bảo đảm phát triển các đô thị bền vững.
Trong điều kiện đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, các
đô thị giữ vai trò đặc biệt quan trọng trong sự nghiệp phát triển kinh tế, xã
hội, văn hoá, bảo đảm an ninh, quốc phòng và bảo vệ môi trường.
Mục tiêu của quy hoạch tổng thể phát triển đô thị là xây dựng tương đối
hoàn chỉnh hệ thống đô thị cả nước, có cơ sở hạ tầng kinh tế, xã hội và kỹ
thuật hiện đại, môi trường đô thị trong sạch, được phân bố và phát triển hợp lý
trên địa bàn cả nước, bảo đảm cho mỗi đô thị theo vị trí và chức năng của
20


mình phát huy được đầy đủ các thế mạnh để phát triển ổn định, bền vững và
trường tồn.
Quy hoạch tổng thể phát triển đô thị phải được rà soát lại, đặc biệt dưới
góc độ các nguyên tắc phát triển bền vững, để bảo đảm cho toàn bộ hệ thống đô
thị của cả nước nói chung và mỗi đô thị nói riêng đều phải phát triển bền vững.
Quy hoạch tổng thể phát triển đô thị Việt Nam thời kỳ 1997-2020 đã
được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 10/1998/QĐ-TTg
ngày 23 tháng 01 năm 1998, theo đó việc hình thành và phát triển các đô thị ở
nước ta trong thời gian tới phải tuân theo những quan điểm chính sau đây:
Phù hợp với sự phân bố và trình độ phát triển lực lượng sản xuất;
Phân bố hợp lý các đô thị lớn, trung bình và nhỏ trên các vùng lãnh thổ,
kết hợp đẩy mạnh đô thị hóa nông thôn và xây dựng nông thôn mới, tạo ra sự
phát triển cân bằng giữa ba khu vực Bắc-Trung-Nam, từng bước giảm dần sự
chênh lệch quá lớn về trình độ phát triển kinh tế-xã hội giữa các vùng;

Có cơ sở hạ tầng đồng bộ với trình độ thích hợp hoặc hiện đại, tuỳ
thuộc vào yêu cầu khai thác và sử dụng các khu vực trong đô thị;
Phát triển ổn định, bền vững và trường tồn trên cơ sở tổ chức hợp lý
môi sinh và bảo vệ môi trường;
Kết hợp cải tạo với xây dựng mới; coi trọng giữ gìn bản sắc văn hóa và
truyền thống dân tộc với việc áp dụng các tiến bộ khoa học, công nghệ mới
trong việc cải tạo, xây dựng và hiện đại hóa đô thị phù hợp với điều kiện thực
tiễn của Việt Nam;
Kết hợp chặt chẽ với việc bảo đảm an ninh, quốc phòng và trật tự an
toàn xã hội.
Huy động mọi nguồn vốn để cải tạo, xây dựng đô thị, bảo đảm cho các
đô thị phát triển có trật tự, kỷ cương theo đúng quy hoạch đã được phê duyệt
và những quy định của pháp luật.
Giảm đến mức thấp nhất tác động của đô thị hoá tới môi trường
thông qua những hoạt động sau:
21


Từng bước nâng cấp hệ thống tiêu chuẩn vệ sinh môi trường xây dựng
trong thiết kế, quy hoạch thành phố và nhà ở. Thành lập và phát triển hệ thống
giám sát để bảo đảm tốt công tác vệ sinh môi trường phòng bệnh trong xây
dựng đô thị.
Đẩy mạnh công tác thu gom và xử lý chất thải rắn sinh hoạt và công
nghiệp tại các đô thị và khu công nghiệp, tìm nơi chôn lấp xa khu dân cư hoặc
sử dụng công nghệ tái chế để tái sử dụng hoặc chế biến làm phân bón.
Củng cố và tăng cường năng lực cho các cơ quan có nhiệm vụ quản lý
và bảo đảm vệ sinh môi trường đô thị.
Thành lập các ban liên ngành để quản lý vệ sinh môi trường đô thị với
người đứng đầu là lãnh đạo các cấp chính quyền tương ứng.
Định hướng các luồng di dân theo vùng lãnh thổ và nông thôn - đô

thị:
Di dân có vai trò tái phân bố dân cư để nâng cao hiệu quả sử dụng các
nguồn lực về tài nguyên, vốn, lao động…Tiền đề của di dân là do chênh lệch
về cơ hội việc làm, mức sống và điều kiện phát triển giữa các khu vực, các
vùng lãnh thổ. Động lực di dân chủ yếu là các lý do kinh tế. Đặc biệt, cũng
còn có một số nhóm đồng bào dân tộc ít người di cư do tập quán canh tác kiểu
du canh, du cư.
Mục tiêu của việc định hướng các dòng di dân là nhằm phân bố lại dân
cư và lao động, sử dụng tốt nhất các nguồn lực, đáp ứng yêu cầu của quá trình
phát triển.
Những hoạt động ưu tiên nhằm đạt được mục đích nêu trên là:
Thực hiện chiến lược phát triển kinh tế toàn diện, như là phương tiện
bền vững nhất nhằm điều chỉnh thành công các dòng di dân:
Phát triển nông thôn theo hướng hiện đại hoá đi đôi với việc bảo vệ và
giữ gìn nét đẹp truyền thống nông thôn; đa dạng hoá các ngành nghề có mức
sinh lợi cao; ưu tiên cho đầu tư phát triển ở các vùng nghèo khó, nơi có nhiều
người ra đi. Thúc đẩy quá trình đô thị hoá nông thôn làm cơ sở cho việc đẩy
22


nhanh quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế và phân công lao động ở nông
thôn. Khuyến khích dân cư nông thôn tự tạo việc làm ngay tại quê hương.
Nhà nước kích thích bằng việc hỗ trợ phát triển cơ sở hạ tầng, cho vay vốn để
sản xuất, kinh doanh và hoạt động dịch vụ.
Phát triển đô thị hợp lý thông qua khuyến khích phát triển các thành
phố qui mô trung bình và nhỏ.
Giảm bớt sự khác biệt giữa các vùng, khu vực nông thôn với thành thị,
giữa các cộng đồng dân cư và tạo sự hoà nhập xã hội bền vững.
Đẩy mạnh việc sử dụng đúng mức, hợp lý các nguồn tài nguyên thiên
nhiên tại chỗ phục vụ tốt cho sự phát triển kinh tế-xã hội của cộng đồng dân

cư ở các vùng sâu, vùng xa.
Có các chính sách và biện pháp quản lý phù hợp với qui luật và trình độ
phát triển của đất nước.
Đổi mới và tổ chức thực hiện các chính sách di dân: Đối với mỗi loại
hình di dân, các cấp chính quyền địa phương cần thực hiện đồng bộ nhiều
chính sách và biện pháp về kinh tế, xã hội, kỹ thuật, quản lý để một mặt phát
triển được sản xuất, tăng thêm cơ hội việc làm và thu nhập, phát triển cơ sở hạ
tầng và không làm trầm trọng thêm những vấn đề xã hội và môi trường tại các
địa phương có dân nhập cư; mặt khác cải thiện được điều kiện sống và làm việc
của người di cư, tổ chức việc thực hiện nghĩa vụ của người di cư đối với cộng
đồng nơi nhập cư, bảo vệ các quyền lợi chính đáng về việc làm, điều kiện sinh
sống và các quyền lợi khác của người di cư trong thị trường lao động.

23


CHƯƠNG 3
NHỮNG ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP TRONG PHÁT TRIỂN ĐÔ
THỊ BỀN VỮNG Ở VIỆT NAM
3.1. Định hướng chiến lược phát triển bền vững
3.1.1. Phát triển đô thị bền vững vì con người
Một trong các lĩnh vực ưu tiên của các định hướng chiến lược phát triển
bền vững quốc gia là phát triển đô thị bền vững. Trong quá trình phát triển, hệ
thống đô thị Việt Namđang đối mặt với nhiều thách thức.“Tốc độ tăng trưởng
và đô thị hóa cao đã dẫn đến sự mất cân đối trong khả năng đáp ứng của hệ
thống cơ sở hạ tầng kỹ thuật đô thị. Mạng lưới giao thông tại các đô thị lớn
chưa đủ khả năng phục vụ nhu cầu đi lại và vận chuyển, tình trạng tắc nghẽn
giao thông xảy ra thường xuyên, tỷ lệ vận tải hành khách công cộng còn thấp.
Chiếu sáng tại nhiều đô thị chưa được quan tâm đúng mức. Môi trường đô thị
chưa được kiểm soát chặt chẽ, các công trình xử lý nước thải sinh hoạt, nước

thải sản xuất tại nhiều đô thị chưa được đầu tư xây dựng, nhiều nhà máy xí
nghiệp vẫn xả trực tiếp nước thải không qua xử lý môi trường đã gây ô nhiễm
hệ thống sông, hồ. Tỷ lệ bãi chôn lấp chất thải hợp vệ sinh còn thấp. Nhiều đô
thị chưa quan tâm đến khí thải và tiếng ồn trong đô thị.
Công tác quản lý đô thị chưa theo kịp thực tiễn phát triển như khả năng
dự báo của công tác quy hoạch chưa đáp ứng xu thế phát triển đô thị. Phát
triển các khu đô thị mới chưa xuất phát từ quy hoạch, kế hoạch. Kết nối hạ
tầng giữa các khu đô thị chưa được quan tâm, hệ thống kết cấu hạ tầng kỹ
thuật và hạ tầng xã hội triển khai chậm, thiếu đồng bộ, công tác quản lý môi
trường đô thị chưa chặt chẽ. Tình trạng lãng phí đất đai trong các đô thị chưa
được khắc phục, hiệu quả đầu tư xây dựng còn thấp ảnh hưởng đến phát triển
bền vững và diện mạo đô thị…”.
Để giải quyết các thách thức trên và nhằm để phát triển đô thị Việt Nam
một cách bền vững, Bộ Xây dựng Việt Nam đang chủ trì xây dựng và triển

24


khai Chương trình phát triển đô thị bền vững, Chương trình phát triển đô thị
Quốc gia với những nhiệm vụ rất cụ thể. Xuyên suốt nội dung của các chương
trình này, con người được xác định là đối tượng để đô thị phục vụ và đồng
thời là chủ thể điều khiển và tác động lên quá trình phát triển, con người sáng
tạo ra đô thị, sử dụng và quản lý đô thị. Do vậy, quá trình phát triển đô thị bền
vững tại Việt Nambao gồm các yếu tố sau:
Phát triển đô thị bền vững trên cơ sở chính sách, thể chế, quản lý phát
triển đô thị bền vững;
Phát triển đô thị bền vững trên cơ sở đồng thuận tham gia thực hiện của
các tầng lớp dân cư, xã hội và các cấp chính quyền;
Phát triển đô thị bền vững trên cơ sở có hệ thống giám sát, đánh giá kịp
thời các tiêu chí phát triển đô thị bền vững.

Phát triển bền vững đô thị Việt Nam được thể hiện trong việc tổ chức
không gian phù hợp; chú trọng đầu tư các công trình hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng
xã hội đảm bảo đồng bộ, đầy đủ, hiện đại, kết nối tốt với khu vực xung quanh,
hệ thống giao thông tiếp cận đến các khu vực công cộng, khu ở cho mọi đối
tượng, đáp ứng trước mắt cũng như lâu dài; nâng cao chất lượng công trình;
bảo vệ và cải thiện chất lượng môi trường tại các khu đô thị; thực hiện tiết
kiệm trong đầu tư xây dựng như sử dụng vật liệu thân thiện với môi trường,
phù hợp với đặc điểm, điều kiện khí hậu địa phương, lựa chọn ứng dụng các
công nghệ tiên tiến, công nghệ thích hợp để tái chế, tái sử dụng và xử lý chất
thải rắn, nước thải; sử dụng năng lượng mặt trời, năng lượng gió; tiết kiệm
năng lượng, tiết kiệm đất đai bằng việc tổ chức và khai thác các không gian
trong khu đô thị hợp lý; nâng cao chất lượng dịch vụ, đời sống văn hoá tinh
thần của dân cư khu đô thị”; nghiên cứu và phát triển các mô hình đô thị mới
“đô thị thông minh (Smart city)”, “đô thị sinh thái (Eco-city)”; triển khai thiế
kế và xây dựng các mô hình kiến trúc xanh, công trình tiết kiệm năng lượng…
Xây dựng các tiêu chuẩn, quy chuẩn về kiến trúc xanh, công trình xanh, công
trình tiết kiệm năng lượng để thống nhất áp dụng và quản lý trong cả nước.
25


×