Tải bản đầy đủ (.pdf) (13 trang)

VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT TRONG NÊN KINH TẾ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (393.77 KB, 13 trang )

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
PHÂN VIỆN TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA PHÁP LUẬT HÀNH CHÍNH

BÁO CÁO THUYẾT TRÌNH

ĐỀ TÀI:
VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT TRONG NỀN KINH TẾ

Nhóm thực hiện:
GV:
HƯỚNG DẪN NỘI
DUNG
BÁO -CÁO
Khóa
học: 2019
2023KIẾN TẬP

1

Thành phố Hồ Chí Minh - 2023


BÀI LÀM

I. Vai trò kinh tế của Nhà nước.
1. Quản lý nhà nước là gì?
Quản lý nhà nước là sự tác động của các chủ thể có quyền lực nhà nước
bằng pháp luật đến các đối tượng được quản lý nhằm thực hiện các chức năng và
chức năng đối ngoại của nhà nước.
Chủ thể của hoạt động quản lý nhà nước gồm: cơ quan nhà nước, cá nhân


được ủy quyền thực hiện hoạt động quản lý nhà nước.
2. Kinh tế là gì?
Kinh tế là tổng hịa các mối quan hệ tương tác lẫn nhau của con người và xã
hội - liên qua trực tiếp đến việc sản xuất, trao đổi, phân phối, tiêu dùng các loại sản
phẩm hàng hóa và dịch vụ nhằm thỏa mãn nhu cầu ngày càng cao của con người
trong một xã hội với một nguồn lực có giới hạn. Kinh tế dùng để chỉ phương pháp
sản xuất bao gồm cả lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, chỉ tổng hợp quan hệ
vật chất trong xã hội phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Kinh
tế tạo ra doanh thu và lợi nhuận, đáp ứng nhu cầu của con người.
3. Quản lý nhà nước về kinh tế là gì?
Quản lý nhà nước về kinh tế là sự tác động có tổ chức, bằng pháp luật và
thơng qua hệ thống các chính sách với các công cụ quản lý kinh tế lên nền kinh tế
nhằm đạt được mục tiêu phát triển kinh tế đất nước, trên cơ sở sử dụng có hiệu quả
các nguồn lực trong và ngoài nước trong điều kiện mở cửa và hội nhập kinh tế
quốc tế. Quản lý nhà nước về kinh tế là một dạng quản lý xã hội của Nhà nước. Nó
rất quan trọng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, nhưng cũng rất
phức tạp. Nhà nước quản lý toàn bộ nền kinh tế quốc dân trên tất cả các ngành 247
kinh tế, các lãnh thổ kinh tế, các thành phần kinh tế và các chủ thể kinh tế hoạt
động trong toàn bộ nền kinh tế.

2


4. Vai trò của quản lý nhà nước về kinh tế rất quan trọng và có ảnh hưởng đến
nhiều khía cạnh của đời sống xã hội. Cụ thể, các vai trị chính của quản lý nhà
nước về kinh tế bao gồm:
* Quyết định chính sách kinh tế:
Chính sách kinh tế trong tiếng Anh là Economic policy.
Chính sách kinh tế là thuật ngữ được sử dụng để mô tả các hành động của Chính
phủ nhằm mục đích ảnh hưởng đến nền kinh tế của quốc gia.

Hiểu theo cách đơn giản, chính sách kinh tế là hành động của Chính phủ để đạt
được một hay nhiều mục tiêu kinh tế.
Quản lý nhà nước có trách nhiệm đưa ra các quyết định về chính sách kinh tế để
hướng dẫn hoạt động của nền kinh tế đất nước, bảo đảm sự ổn định và phát triển
bền vững của nền kinh tế.
Có ba nhiệm vụ mà một chính sách kinh tế hi vọng sẽ hồn thành.
- Tăng trưởng kinh tế: Điều này đơn giản có nghĩa là tăng tiền lương và thu nhập
theo thời gian.
- Toàn dụng lao động: Để dạt được trạng thái toàn dụng lao động trong một nền
kinh tế, mỗi cá nhân mong muốn được làm việc, phải có khả năng có được một
công việc.
- Ổn định giá cả: Đây là nhiệm vụ giữ cho mức giá chung không tăng hoặc giảm
mạnh. Nói cách khác, mục tiêu của Chính phủ là ngăn chặn lạm phát và/hoặc giảm
phát xảy ra.
* Quản lý ngân sách:
Quản lý ngân sách nhà nước là hoạt động của các chủ thể quản lý ngân sách
nhà nước thông qua việc sử dụng có chủ định các phương pháp quản lý và các
công cụ quản lý để tác động và điều khiển hoạt động của ngân sách nhà nước nhằm
đạt được các mục tiêu đã định. Quản lý ngân sách nhà nước thực chất là quản lý
thu, chi ngân sách nhà nước và cân đối hệ thống ngân sách nhà nước.
Ngân sách nhà nước là khâu tài chính tập trung quan trọng nhất, là kế hoạch
tài chính cơ bản, tổng hợp của Nhà nước. Nó giữ vai trị chủ đạo trong hệ thống tài
chính và có vai trị quyết định sự phát triển của nền KT-XH. Vai trò của Ngân sách
3


nhà nước được xác lập trên cơ sở chức năng và nhiệm vụ cụ thể của nó trong từng
giai đoạn cụ thể. Phát huy vai trò của Ngân sách nhà nước như thế nào là thước đo
đánh giá hiệu quả điều hành, lãnh đạo của Nhà nước.
Quản lý nhà nước phải quản lý và phân bổ ngân sách nhà nước để đảm bảo

các hoạt động kinh tế được triển khai hiệu quả và đáp ứng nhu cầu của đời sống xã
hội.
* Quản lý tài sản công:
Tài sản công là tiền thuộc ngân sách nhà nước, các quỹ tài chính nhà nước
ngoài ngân sách, dự trữ ngoại hối nhà nước được quản lý, sử dụng theo quy định
của pháp luật có liên quan. Việc quản lý, sử dụng tài sản công cần tuân thủ các quy
định, các nguyên tắc riêng để tài sản công được sử dụng một cách hiệu quả và phát
huy được vai trị của nó.
Mỗi loại tài sản cộng sẽ có những nguyên tắc quản lý và sử dụng khác nhau
nhưng kết quả quản lý tài sản chung và sử dụng tài sản chung một cách hiệu quả
thì vẫn phải tuân thủ theo nguyên tắc chung như sau:
- Các loại tài sản công được phép quản lý khi nhà nước giao quyền và nghĩa vụ cho
các cơ quan tổ chức theo quy định
- Thực hiện công tác quản lý tài sản chung một cách rõ ràng, minh bạch, khơng có
những hoạt động vì mục đích cá nhân.
- Phải thường xuyên kiểm kê, thống kê về hiện vật, ghi nhận thơng tin phù hợp với
tính chất, đặc điểm của tài sản
- Sử dụng tiết kiệm tài sản cộng, đúng mục đích, đúng đối tượng, đảm bảo việc sử
dụng hiệu quả theo quy định chung về quản lý tài sản chung
- Khai thác nguồn lực tài chính từ tài sản công cũng phải tuân theo các nguyên tắc
quản lý tài sản cơng như cơ chế thị trường, có hiệu quả, công khai, minh bạch,
đúng pháp luật,…
Quản lý nhà nước phải quản lý các tài sản công như đất đai, tài nguyên thiên
nhiên, hạ tầng kỹ thuật, trang thiết bị công cộng... để đảm bảo sự phát triển bền
vững và hỗ trợ hoạt động kinh tế.

4


* Quản lý thị trường: Quản lý nhà nước cần giám sát và quản lý hoạt động của thị

trường để đảm bảo sự cạnh tranh lành mạnh và bảo vệ quyền lợi của người tiêu
dùng.
Chính sách cạnh tranh đảm bảo duy trì tính năng động và hiệu quả của nền
kinh tế. Chính sách bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng: tạo điều kiện thuận lợi để tổ
chức, cá nhân chủ động tham gia vào việc bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.
Khuyến khích tổ chức, cá nhân ứng dụng, phát triển cơng nghệ tiên tiến để sản xuất
hàng hóa, cung ứng dịch vụ an toàn, bảo đảm chất lượng. Khi áp dụng cả hai loại
pháp luật này sẽ thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế- một nền kinh tế cạnh tranh
lành mạnh, thúc đẩy kinh doanh lành mạnh và giúp ổn định thị trường. Khơng có
các hành vi cạnh tranh không lành mạnh, nền kinh tế sẽ phát triển một cách lành
mạnh, quyền lợi của các doanh nghiệp, của người tiêu dùng được bảo đảm tốt
nhất. Việc ổn định của nền kinh tế thị trường cũng góp phần thúc đẩy nhu cầu tiêu
dùng của người tiêu dùng, giúp người tiêu dùng yên tâm hơn về chất lượng hàng
hóa, dịch vụ và cả về giá cả.
* Quản lý giá cả và lạm phát: Quản lý nhà nước có trách nhiệm giám sát và điều
chỉnh giá cả để đảm bảo sự ổn định của thị trường và hạn chế lạm phát.
Việc khảo sát, thu thập, đánh giá về công tác quản lý, điều hành giá của một số
quốc gia trên thế giới cho thấy, hầu hết giá cả các hàng hóa dịch vụ đều vận động theo cơ
chế giá thị trường. Chỉ có một số ít giá hàng hóa dịch vụ có sự quản lý điều tiết của Nhà
nước, chủ yếu là các mặt hàng quan trọng thiết yếu như giá điện, giá xăng dầu, giá khí,
sản phẩm dịch vụ cơng ích... với ngun tắc đầu tiên là bù đắp được các chi phí thực tế
phát sinh và mức lợi nhuận phù hợp. Nhà nước sẽ không bù lỗ và doanh nghiệp phải chịu
trách nhiệm về kết quả hoạt động kinh doanh của mình. Nhà nước thực hiện cơng tác
quản lý giá tại các mức độ nhất định thông qua các biện pháp kinh tế vĩ mơ (tài chính,
tiền tệ, đầu tư, xuất nhập khẩu…) cũng như chính sách pháp luật về giá.
Đến nay đã có nhiều quốc gia ban hành luật có nội dung điều chỉnh trong lĩnh vực
giá. Cụ thể, Trung Quốc ban hành Luật Giá năm 1997; Thái Lan ban hành Đạo Luật cạnh
tranh trong kinh doanh 1999; Hàn Quốc ban hành Luật Bình ổn giá cuối năm 1975;
Australia ban hành Đạo Luật kiểm soát giá cả năm 1983; Malaysia ban hành Đạo luật
kiểm soát giá cả năm 1946; Singapore ban hành Đạo luật Kiểm soát giá năm 1950. Một

5


số đạo luật về giá chỉ thực hiện trong những thời điểm nhất định, tuy nhiên, đa số các đạo
luật vẫn đang được thi hành cùng với những sửa đổi, bổ sung phù hợp trong từng giai
đoạn lịch sử cụ thể.
Các biện pháp quản lý giá thường được áp dụng tại các nước này bao gồm: định
giá, hướng dẫn tính giá một số loại hàng hóa dịch vụ thiết yếu, quan trọng; thực hiện bình
ổn giá như điều hịa cung cầu, kiểm sốt yếu tố hình thành giá, thúc đẩy cạnh tranh, thông
tin về giá; xử lý nghiêm những vi phạm pháp luật về giá; áp dụng chính sách lạm phát
mục tiêu.

* Quản lý thương mại: Vai trò quản lý kinh tế của Nhà nước đã được khẳng định
cả về lý luận và thực tiễn. Quản lý nhà nước cần tham gia vào các hoạt động
thương mại quốc tế để đảm bảo lợi ích của đất nước và bảo vệ quyền lợi của các
doanh nghiệp trong nước.
Một là, Nhà nước tạo môi trường và điều kiện cho thương mại phát triển.
Nhà nước bảo đảm sự ổn định về mặt kinh tế, chính trị, xã hội cho thương mại phát
triển. Nhà nước thực thi cơ chế, chính sách để hạn chế tình trạng thiểu cầu, giảm
lạm phát, khuyến khích sản xuất và tiêu dùng. Nhà nước tập trung xây dựng kết
cấu hạ tầng, bao gồm kết cấu hạ tầng vật chất, tài chính, giáo dục, luật pháp… cho
thương mại. Tạo lập mơi trường cạnh tranh bình đẳng, mơi trường vĩ mơ phù hợp
với xu hướng phát triển của thương mại trong cơ chế thị trường.
Hai là, Nhà nước định hướng cho sự phát triển của thương mại. Sự định
hướng này được thực hiện thông qua việc xây dựng và tổ chức thực hiện các chiến
lược kinh tế xã hội, các chương trình mục tiêu, các kế hoạch ngắn hạn và dài hạn.
Định hướng dẫn dắt sự phát triển của thương mại cịn được bảo đảm bằng hệ thống
chính sách, sự tác động của hệ thống tổ chức quản lý thương mại từ
Ba là, Nhà nước điều tiết và can thiệp vào quá trình hoạt động thương mại
của nền kinh tế quốc dân. Nhà nước có vai trị củng cố, bảo đảm dân chủ, công

bằng xã hội cho mọi người, mọi thành phần kinh tế hoạt động thương mại trên thị
trường. Xây dựng một xã hội văn minh, dân chủ rộng rãi, khuyến khích và đề cao
trách nhiệm cá nhân là điều kiện cho sự phát triển toàn diện kinh tế xã hội. Trong
kinh tế thị trường sự phân hoá giàu nghèo giữa các tầng lớp xã hội là rất lớn. Nhà
nước cần có sự can thiệp và điều tiết hợp lý nhằm bảo đảm cuộc sống ổn định,
6


nhân cách của con người được tôn trọng, đồng thời bảo đảm tính tự chủ, sáng tạo
và ham làm
giàu của mọi công dân.
Bốn là, quản lý trực tiếp khu vực kinh tế Nhà nước. Nhà nước quy định rõ
những bộ phận, những ngành then chốt, những nguồn lực và tài sản mà Nhà nước
trực tiếp quản lý. Đất đai, các nguồn tài nguyên, các sản phẩm và ngành có ý nghĩa
sống còn với quốc gia thuộc sở hữu Nhà nước. Ở đây Nhà nước phải quản lý và
kiểm soát việc sử dụng tài sản quốc gia nhằm bảo tồn và phát triển các tài sản đó.
Nhà nước trực tiếp quản lý các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế Nhà nước.
Thành phần kinh tế Nhà nước giữ vai trò nòng cốt trong công cuộc xây dựng và
phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ở nước ta. Vai trò chủ đạo của
kinh tế Nhà nước là nội dung quan trọng của định hướng xã hội chủ nghĩa. Duy trì
vai trị chủ đạo của thành phần kinh tế Nhà nước là công việc quan trọng để vượt
qua nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa. Thông qua các doanh nghiệp Nhà
nước, Nhà nước có thể hướng dẫn, chỉ đạo sự phát triển của các doanh nghiệp
thuộc các thành phần khác, tập trung mọi nguồn lực cho sự công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước.
Thơng qua thành phần kinh tế Nhà nước, Nhà nước nắm và điều tiết một bộ
phận lớn các hàng hóa – dịch vụ chủ yếu có ý nghĩa quan trọng và then chốt của
nền kinh tế quốc dân, bảo đảm cho nền kinh tế hoạt động nhịp nhàng và phát triển
cân đối với nhịp độ cao.
II. Vai trò kinh tế của pháp luật

1. Pháp luật là gì?
Pháp luật là cơng cụ chuyện chính giai cấp, là phương tiện để nhà nước quản
lý nền kinh tế thị trường vì sự tồn tại và phát triển của xã hội và đất nước. Vai trò
của pháp luật là hết sức quan trọng, cụ thể vai trò của pháp luật đối với kinh tế hiện
nay được thể hiện như sau:
2.1. Pháp luật tạo ra các khung pháp lý để cho các cơ quan quản lý nhà nước
về kinh tế tiến hành hoạt động quản lý hoạt động sản xuất kinh doanh, quản
lý vĩ mô nền kinh tế.
7


- Pháp luật là một phương tiện để nhà nước quản lý kinh tế, nhà nước không
thể quản lý được nền kinh tế phức tạp nếu như không dựa vào pháp luật. Chỉ có
pháp luật với những thuộc tính đặc thù của mình mới có khả năng đảm bảo cho nhà
nước thực hiện được chức năng quản lý trong lĩnh vực kinh tế. Thông qua pháp
luật, nhà nước hoạch định các chính sách kinh tế, trật tự hố các hoạt động sản xuất
kinh doanh của các tổ chức và cá nhân, định hướng cho các quan hệ kinh tế phát
triển theo những mục đích mong muốn.
- Thơng qua pháp luật, nhà nước xác định các hình thức sở hữu trong xã hội
từ đó tác động đến quan hệ sở hữu, đặc biệt là đối với tư liệu sản xuất chủ yếu
trong nền sản xuất xã hội, quy định các hình thức tổ chức sản xuất, xác định các
thành phần kinh tế, quy định địa vị pháp lý của các tổ chức, đơn vị kinh tế, chế độ
tài chính...đối với họ.
- Chính sách quản lý vĩ mơ, theo nghĩa hẹp, bao gồm các chính sách thuế và
chi tiêu ngân sách của Nhà nước nhằm điều tiết chu kỳ kinh tế, đảm bảo công ăn
việc làm, ổn định giá cả và tăng trưởng liên tục của nền kinh tế. Để đạt được hiệu
quả quản lý vĩ mô nền kinh tế, Nhà nước tạo ra một cơ chế ổn định bằng hệ thống
pháp luật thống nhất, chặt chẽ và phù hợp với nền kinh tế của nước ta hiện nay.
2.2. Pháp luật là công cụ hữu hiệu giúp cho nhà nước khắc phục được các
nhược điểm của nền kinh tế thị trường, tạo ra sự công bằng xã hội.

- Nền kinh tế được coi như một hệ thống các quan hệ kinh tế. Khi các quan
hệ kinh tế giữa các chủ thể biểu hiện qua mua, bán hàng hóa, dịch vụ trên thị
trường (người bán cần tiền, người mua cần bản và họ phải gặp nhau trên thị trường)
thì nền kinh tế đó gọi là nền kinh tế thị trường
- Nhược điểm của nền kinh tế thị trường:
+ Kinh tế thị trường chú trọng đến những nhu cầu có khả năng thanh tốn,
khơng chú ý đến những nhu cầu cơ bản của xã hội.
+ Kinh tế thị trường đặt lợi nhuận lên hàng đầu, cái gì có lãi thì làm, ko có
lãi thì thơi nên nó khơng giải quyết được cái gọi là “hàng hóa cơng cộng" (đường
xá, các cơng trình văn hóa, y tế giáo dục,...).

8


+ Trong nền kinh tế thị trường có sự phân biệt giàu nghèo rõ rệt: giàu ít,
nghèo nhiều, bất cơng xã hội. Do tính tự phát vốn có, kinh tế thị trường có thể
mang lại suy thối, khủng hoảng và xung đột xã hội nên cần có sự can thiệp của
nhà nước, và pháp luật là công cụ hữu hiệu giúp cho nhà nước khắc phục được các
nhược điểm đó. Sự can thiệp của pháp luật sẽ đảm bảo hiệu quả cho sự vận động
của thị trường được ổn định, nhằm tối đa hóa hiệu quả kinh tế, bảo đảm định
hướng chính trị của sự phát triển kinh tế, sửa chữa những nhược điểm vốn có của
kinh tế thị trường, tạo ra sự công bằng xã hội và những công cụ quan trọng để điều
tiết thị trường ở tầm vĩ mơ. Bằng cách đó nhà nước mới có thể kiềm chế tính tự
phát của kinh tế thị trường, đồng thời kích thích đối với sản xuất thơng qua trao đổi
hàng hóa dưới hình thức thương mại.
2.3. Pháp luật là cơng cụ giúp nhà nước giải quyết có hiệu quả các tranh chấp
kinh tế nảy sinh trong nền kinh tế thị trường.
Pháp luật điều chỉnh các hợp đồng kinh tế, quy định trình tự và thủ tục giải
quyết các tranh chấp kinh tế để bảo vệ lợi ích kinh tế chính đáng của các chủ thể.
Nhờ các quy định đó mà nhà nước có thể tổ chức và quản lý được nền kinh tế, tạo

điều kiện cho nền kinh tế tặng trưởng trong sự ổn định, cân đối và điều tiết theo
chiều hướng mà nó mong muốn.
2.4. Pháp luật có tác dụng tạo dựng mội trường pháp lý cho các hoạt động
kinh tế của các tổ chức và cá nhân được tiến hành thuận lợi, có trật tự và đạt
hiệu quả kinh tế cao.
Pháp luật phải thừa nhận sự tồn tại của các thành phần kinh tế khác nhau, tạo
điều kiện cho chúng cùng tồn tại và phát triển, không nên loại trừ hay hạn chế
chúng mà phải cố gắng kiểm soát chúng, định hướng, điều tiết sự phát triển của
chúng, khai thác tối đa tính năng động, tính hiệu quả của chúng. Điều này có ảnh
hưởng rất lớn tới sự tăng trưởng của nền kinh tế, góp phần tăng thu nhập quốc dân
và nâng cao đời sống nhân dân. “sự quản lý của nhà nước đối với nền kinh tế chỉ
có thể thực hiện và phát huy đầy đủ nhất, có hiệu quả nhất khi được xác nhập giữa
một hình thức pháp luật nhất định và được bảo đảm thực hiện bởi một cơ chế pháp
luật thích hợp”. Có thể nói, trong thời đại hiện nay pháp luật đã trở thành một bộ
9


phận cấu thành của nền kinh tế. Thiếu pháp luật, nền kinh tế, nhất là nền kinh tế thị
trường rất khó vận hành hoặc vận hành khơng có hiệu quả, các hoạt động kinh tế sẽ
trở nên hỗn loạn, không thể kiểm soát. Đưa ra những biện pháp kiểm tra, giám sát
đối với các hoạt động kinh tế của các tổ chức và cá nhân như chủ thể nào có thẩm
quyền kiểm tra, giám sát? kiểm tra giám sát những hoạt động kinh tế gì? Đối với
các tổ chức đơn vị kinh tế nào? Quy định các biện pháp bảo vệ lợi ích của các chủ
thể sản xuất kinh doanh, bảo vệ lợi ích của người tiêu dùng và lợi ích chung của
toàn xã hội. Xử lý những hiện tượng tiêu cực trong quá trình hoạt động kinh tế của
các chủ thể kinh tế. Pháp luật thường xác định chủ thể có thẩm quyền xử lý và các
biện pháp mà họ có thể áp dụng để ngăn ngừa và trừng phạt những hành vi vi
phạm pháp luật, những hoạt động tiêu cực trong các hoạt động kinh tế.
Đối với các tổ chức, đơn vị kinh tế khi tiến hành các hoạt động sản xuất,
kinh doanh đều phải dựa trên những quy định của pháp luật. Pháp luật là cơ sở

pháp lý để các chủ thể thực hiện các hoạt động sản xuất, kinh doanh. Những quy
định pháp luật về trình tự, thủ tục trong đăng ký kinh doanh, liên quan đến các hoạt
động kinh tế ngày càng trở nên đơn giản, thuận lợi, thơng thống hơn đã làm cho
các hoạt động đầu tư trong và ngoài nước tăng lên, tiết kiệm được thời gian, công
sức, tiền bạc của các tổ chức và nhân dân.
2.5. Pháp luật giúp cho thành phần kinh tế nhà nước vươn lên hoạt động hiệu
quả hơn để cùng cạnh tranh lành mạnh với các thành phần kinh tế khác.
Khi nhà nước tuyên bố các thành phần kinh tế bình đẳng, pháp luật cho phép
các doanh nghiệp nước ngoài đầu tư tại Việt Nam đã thu hút được vốn, cơng nghệ
của nước ngồi đầu tư vào Việt Nam, kích thích sự tăng trưởng của nền kinh tế
Việt Nam; việc giao quyền tự chủ cho các đơn vị sản xuất, kinh doanh đã nâng cao
tính năng động sáng tạo, trách nhiệm và hiệu quả trong hoạt động kinh tế của các
đơn vị kinh tế. Tóm lại, khi pháp luật phản ánh đúng, đầy đủ, kịp thời tình hình
kinh tế của đất nước nó sẽ thúc đẩy, tạo điều kiện thuận lợi cho kinh tế phát triển.
Quan hệ pháp luật với kinh tế ở Việt Nam khơng nằm ngồi mối quan hệ
giữa pháp luật với kinh tế nói chung. Hiện nay hệ thống pháp luật của đất nước đã
trở nên đồng bộ, hoàn thiện hơn so với các giai đoạn trước, nhiều văn bản pháp
10


luật trong lĩnh vực kinh tế được ban hành đã phát huy được vai trị của mình trong
việc ổn định kinh tế thị trường, tạo điều kiện cho sự phát triển kinh tế đất nước.
Với hệ thống pháp luật hoàn chỉnh hơn, nền kinh tế nước ta có bước phát triển
đáng kể, của cải, vật chất được tạo nên nhiều hơn, đời sống nhân dân ngày càng
được nâng cao. Pháp luật về kinh tế ngày càng phân định rõ chức năng quản lý nhà
nước của các cơ quan quản lý nhà nước và hoạt động kinh doanh của các doanh
nghiệp, khuyến khích mọi tổ chức cá nhân đầu tư vào hoạt động kinh doanh, khẳng
định nguyên tắc công dân được làm tất cả những gì mà pháp luật khơng cấm.
2.6. Hai nhóm ngành kinh tế chịu sự điều tiết
* Nhóm ngành thương mại và đầu tư:

Luật thương mại và luật đầu tư là những lĩnh vực pháp luật quan trọng để
đảm bảo sự công bằng và cạnh tranh trong hoạt động thương mại và đầu tư. Những
quy định về mua bán, thanh tốn, vận chuyển hàng hóa, sở hữu trí tuệ và bảo vệ
người tiêu dùng được đưa ra để tạo ra một môi trường kinh doanh đầy cạnh tranh
và hấp dẫn với các nhà đầu tư nước ngồi.
* Nhóm ngành tài chính:
Luật ngân hàng, luật chứng khốn và các lĩnh vực khác liên quan đến ngành
tài chính đóng vai trị quan trọng trong việc tạo ra một mơi trường kinh doanh ổn
định và an toàn cho các nhà đầu tư. Các quy định về tiền tệ, tài chính, chứng khoán
và bảo vệ người tiêu dùng được đưa ra để đảm bảo sự minh bạch và an toàn trong
hoạt động tài chính, giúp thu hút được các nhà đầu tư nước ngoài và tăng cường sự
hội nhập quốc tế.
III. Các vấn đề thực tế liên quan đến vai trò của Nhà nước và pháp luật
* Tình hình giá xăng dầu bất ổn ảnh hưởng đến nền kinh tế:
Trong nửa cuối năm 2022, tình hình xăng dầu thế giới có nhiều biến động. Hàng
loạt các cửa hàng xăng dầu tại TP.HCM và các tỉnh thành lân cận đóng cửa gây bất
ổn cho thị trường, với tình trạng thiếu hụt xăng dầu vẫn diễn ra cục bộ ở một số địa
phương; chưa chủ động được nguồn cung; hàng dự trữ lưu thông theo quy định có
những thời điểm khơng đạt, có tình trạng doanh nghiệp vi phạm về bảo đảm dự trữ
bắt buộc; biến động giá xăng dầu trong nước luôn chậm hơn so với xu hướng
11


chung của thế giới, tốc độ tăng/giảm không đồng bộ. Thực trạng trên đặt ra yêu cầu
bức thiết phải đánh giá lại tình hình thị trường xăng dầu và kết quả thực hiện
nhiệm vụ, giải pháp trong công tác quản lý nhà nước về xăng dầu để tìm ra nguyên
nhân khách quan, chủ quan, nguyên nhân từ cơ chế chính sách, đến tổ chức thực
hiện để đề ra giải pháp căn cơ, tồn diện khắc phục.
Tại phiên giải trình ngày 28/2 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội về tình hình thị
trường xăng dầu và kết quả thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp trong công tác quản

lý nhà nước về xăng dầu. Bộ trưởng Bộ Công thương Nguyễn Hồng Diên đã báo
cáo kết quả thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp theo Nghị quyết số 499 trong công
tác quản lý nhà nước về xăng dầu và cho biết, sự phối hợp với Bộ Tài chính tiếp
tục hồn thiện nội dung dự thảo tờ trình, dự thảo nghị định trên cơ sở ý kiến góp ý
của các bộ, cơ quan ngang bộ, sở công thương các tỉnh, TP trực thuộc trung ương
và các DN, hiệp hội để bảo đảm việc sửa đổi nghị định lấy đủ ý kiến của các đối
tượng chịu tác động, phù hợp với tình hình thực tiễn, cơng khai, minh bạch, hiệu
quả, hài hịa lợi ích Nhà nước, người dân và DN theo chỉ đạo của Chính phủ, Thủ
tướng Chính phủ.
Hai bộ trưởng cũng giải trình, làm sáng tỏ nhiều vấn đề cụ thể trong công tác quản
lý nhà nước về xăng dầu, đồng thời đưa ra những kiến nghị, đề xuất liên quan đến
bảo đảm nguồn cung, phương pháp tính giá, thời gian giữa hai kỳ điều hành giá, về
dự trữ xăng dầu, phân công trách nhiệm trong quản lý nhà nước…
* Thủ tướng Chính phủ tháp gỡ khó khăn cho bất động sản:
Những tháng đầu năm 2023 là những tháng gặp khó khăn của ngành bất động sản
khi thị trường chứng khoán tuột dốc, doanh nghiệp BĐS bị mất thanh khoản, gặp
nhiều khó khăn và vướng mắc. Với tình trạng này Chính phủ đã tổ chức hội nghị
Hội nghị trực tuyến toàn quốc tháo gỡ và thúc đẩy thị trường bất động sản phát
triển lành mạnh, bền vững do Thủ tướng Phạm Minh Chính chủ trì. Cùng tham dự
hội nghị cịn có các Phó Thủ tướng Lê Minh Khái và Trần Hồng Hà, Bộ trưởng các
Bộ: Xây dựng, Tài nguyên và Môi trường (TN-MT), Tài chính, Kế hoạch và Đầu
tư (KH-ĐT), Cơng an, Tư pháp, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
(NHNN), Ủy ban Kinh tế và Ủy ban Pháp luật của Quốc hội, chủ tịch UBND các
12


tỉnh, thành phố. Hiệp hội Bất động sản Việt Nam (VNREA) và Hiệp hội Bất động
sản TP.HCM (HoREA).
Ngày 27/3/2023, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính ký văn bản số 178/TTgCN về việc thúc đẩy và tháo gỡ thị trường bất động sản.
Theo đó, Thủ tướng yêu cầu Ngân hàng Nhà nước Việt Nam khẩn trương triển

khai thực hiện Chương trình tín dụng khoảng 120.000 tỷ đồng để chỉ đạo các ngân
hàng thương mại cho chủ đầu tư và người mua nhà của các dự án nhà ở xã hội, nhà
ở công nhân, dự án cải tạo, xây dựng lại chung cư cũ vay với lãi suất ưu đãi theo
Nghị quyết số 33/NQ-CP 11/3/2023 của Chính phủ. Ngân hàng Nhà nước Việt
Nam chỉ đạo các tổ chức tín dụng tạo điều kiện thuận lợi cho các chủ đầu tư dự
án bất động sản, người mua nhà tiếp cận nguồn vốn tín dụng; tiếp tục dành vốn tín
dụng cho các dự án bất động sản đủ điều kiện pháp lý, có khả năng tiêu thụ sản
phẩm và đảm bảo kế hoạch trả nợ; nhất là các dự án nhà ở xã hội, nhà ở công nhân,
nhà ở phù hợp với thu nhập của người dân và các loại hình bất động sản phục vụ
mục đích sản xuất, kinh doanh, an sinh xã hội có hiệu quả cao, có khả năng trả nợ
theo đúng chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại Cơng điện số 1164/CĐ-TTg ngày
14/12/2022 về tháo gỡ khó khăn cho thị trường bất động sản và phát triển nhà ở.

13



×