ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA
BÀI TẬP LỚN MÔN HỌC
LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
ĐỀ TÀI
LÀM RÕ QUÁ TRÌNH ĐẢNG TỪNG BƯỚC GIẢI QUYẾT XUNG ĐỘT
VỚI MỸ TRƯỚC KHI SỬ DỤNG BẠO LỰC CÁCH MẠNG 1959
VÀ PHÂN TÍCH NỘI DUNG ĐƯỜNG LỐI CHIẾN LƯỢC CHUNG
CỦA CÁCH MẠNG CẢ NƯỚC (9/1960)
LỚP: TT01 - NHĨM: 09 - HK222
GVHD: TS-GVC Đào Thị Bích Hồng
SINH VIÊN THỰC HIỆN
STT
MSSV
HỌ
1
1951213
Nguyễn Cơng
Trí
2
2053548
Nguyễn Thanh
Trúc
3
1951219
Tạ Minh
Trung
4
1851122
Lê Quang
Vinh
Thành phố Hồ Chí Minh, 2023
TÊN
MỤC LỤC
I.
Bối cảnh lịch sử Việt Nam sau khi ký hiệp định Giơ-ne-vơ (20/7/1954)............1
1.1. Bối cảnh thế giới.................................................................................................1
1.2. Bối cảnh Việt Nam.............................................................................................2
II. Quá trình Đảng từng bước giải quyết xung đột Mỹ.............................................6
2.1. Hành động hiếu chiến của Mỹ...........................................................................6
2.2. Quá trình Đảng giải quyết xung đột với Mĩ.......................................................9
2.3. Nhận xét............................................................................................................ 14
2.4. Tiểu kết.............................................................................................................15
III.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng (9/1960).............................16
1. Bối cảnh lịch sử................................................................................................16
2. Nội dung đường lối chiến lược chung.............................................................16
3. Tiểu kết..............................................................................................................18
IV.
Kết luận............................................................................................................20
TÀI LIỆU THAM KHẢO.........................................................................................24
I.
Bối cảnh lịch sử Việt Nam sau khi ký hiệp định Giơ-ne-vơ (20/07/1954)
1.1. Bối cảnh thế giới
Bối cảnh thế giới trước khi kí hiệp định Giơ-ne-vơ một hiệp định quốc tế được
ký kết vào ngày 28 tháng 6 năm 1919, phức tạp và đầy biến động. Hậu quả của chiến
tranh đã làm cho một số quốc gia châu Âu trở nên yếu đuối và suy thoái, việc xây
dựng lại các cơ sở hạ tầng phá hủy trong suốt thời gian chiến tranh là một cơng việc
khó khăn và tốn kém ,như Đế quốc Đức, sau khi bị đánh bại trong Chiến tranh thế giới
thứ nhất phải trả các khoản bồi thường khổng lồ cho các quốc gia đồng minh và bị giới
hạn quân sự, kinh tế và chính trị, hoặc Pháp đã mất hơn 1,3 triệu người và hơn 4 triệu
người bị thương trong Chiến tranh thế giới thứ nhất, và đã phải chịu các hậu quả của
cuộc khủng hoảng kinh tế tồn cầu sau đó.. Sự bùng nổ của các phong trào cách mạng,
chẳng hạn như Nga và Trung Quốc, đã làm cho nhiều quốc gia lo lắng về sự lan rộng
của chủ nghĩa cộng sản và sự ổn định chính trị. Sự phát triển của cơng nghệ vũ khí đã
làm tăng sức mạnh của các quốc gia trong khi đồng thời cũng tạo ra những lo ngại về
nguy cơ của chiến tranh hạt nhân. Tình trạng kinh tế của nhiều quốc gia, đặc biệt là ở
châu Âu, vẫn đang phục hồi từ hậu quả của chiến tranh tuy nhiên, cũng có một số quốc
gia như Hoa Kỳ và Nhật Bản đang trỗi dậy và đạt được sự thịnh vượng kinh tế. Việc
tăng trưởng kinh tế và sức mạnh quân sự của các quốc gia này đã làm cho các nước
châu Âu cũ cảm thấy đe dọa và đang tạo ra sự phân vùng thế giới.
Sau khi ký kết Hiệp định Giơ-ne-vơ vào ngày 28 tháng 6 năm 1919, thế giới đã
chứng kiến một số sự kiện quan trọng và thay đổi lớn, Trước tiên, Hiệp định này đã
đưa ra một số quy định về giới hạn quân sự và vũ khí của các quốc gia châu Âu. Tuy
nhiên, việc thực hiện các quy định này vẫn đối mặt với nhiều thách thức và bất đồng
quan điểm giữa các quốc gia. Hiệp định Giơ-ne-vơ đã chấm dứt Thế chiến I và tạo ra
một số quốc gia mới ở châu Âu, bao gồm cả Ba Lan, Áo, Czechoslovakia và Hungary.
Ngoài ra, các cường quốc châu Âu như Đức và Áo-Hungary đã bị giảm quyền lực và
bị buộc phải trả các khoản bồi thường chiến tranh đáng kể. Sau Hiệp định Giơ-ne-vơ,
các nước cố gắng khôi phục nền kinh tế của mình thơng qua việc xây dựng lại các cơ
sở hạ tầng, khuyến khích thương mại quốc tế và đầu tư vào các ngành công nghiệp
mới. Sau chiến tranh, sự thay đổi về tư tưởng. Mọi người bắt đầu nghi ngờ giá trị của
các giá trị truyền thống như chủ nghĩa quốc gia và quân đội. Thay vào đó, những ý
1
tưởng về hịa bình, hợp tác quốc tế và liên minh châu Âu trở nên phổ biến hơn. Sự phát
triển của khoa học và công nghệ, các nước trên thế giới đã tập trung vào việc phát triển
khoa học và công nghệ để đẩy mạnh sự phát triển kinh tế. Các phát minh và sáng chế
mới, như xe hơi và máy bay, đã có ảnh hưởng đáng kể đến cuộc sống của con người.
Tuy nhiên, sự hài lịng khơng kéo dài lâu, thì diễn ra Sự trỗi dậy của phong trào dân
tộc: Tại châu Á và Phi Châu, phong trào dân tộc và giải phóng quốc gia trỗi dậy, địi
hỏi chủ quyền và quyền tự trị cho các dân tộc bị đơ hộ. Trong khi đó, tại châu Âu, các
quốc gia đang phải đối mặt với những cuộc biểu tình và cuộc cách mạng trong nước
hoặc sự gia tăng của chủ nghĩa cực đoan và phát xít: Sau sự kiện kinh hoàng của Thế
chiến I, nhiều người cảm thấy mất lịng tin vào các chính trị gia và các chính phủ. Điều
này đã dẫn đến sự gia tăng của các phong trào cực đoan, đặc biệt là ở Đức với sự gia
tăng của Đảng Quốc xã. Đặc biệt là Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới, còn được gọi
là Đại khủng hoảng, bắt đầu vào năm 1929 tại Mỹ và lan rộng sang toàn cầu trong
những năm tiếp theo. Các nguyên nhân của cuộc khủng hoảng bao gồm: Khủng hoảng
tài chính là sự bùng nổ của các thị trường chứng khoán Mỹ dẫn đến việc cho vay với
lãi suất rất thấp. Những khoản vay này đã dẫn đến việc mua bất động sản và cổ phiếu
với giá cả rất cao. Khi thị trường chứng khoán bắt đầu sụp đổ, những người nợ tiền bị
thất thoát và các ngân hàng phá sản. Ngoài ra là do tăng trưởng kinh tế chậm lại, chính
sách thương mại bảo hộ và vấn đề chính trị và xã hội là nhiều quốc gia đang ở trong
tình trạng bất ổn chính trị và xã hội sau chiến tranh thế giới thứ nhất. Việc tăng thất
nghiệp và suy thoái kinh tế dẫn đến tăng các cuộc biểu tình và phản đối xã hội, và đặt
nền tảng cho sự bùng nổ của các chính phủ độc tài và các phong trào cực đoan.
Vì vậy, có thể nói rằng cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới đã góp phần dẫn đến
sự bùng nổ của Chiến tranh thế giới thứ hai thông qua việc làm gia tăng sự bất mãn,
phản đối chính trị và sự ủng hộ cho các phong trào cực đoan. Và sự bùng nổ của Thế
chiến II đã khiến thế giới rơi vào một cuộc khủng hoảng mới.
1.2. Bối cảnh Việt Nam
Trước Hiệp định Giơ-ne-vơ, Việt Nam là một thuộc địa của Pháp và chịu sự
kiểm soát và chi phối của đế quốc Pháp. Chính quyền Pháp ở Việt Nam được lập đặt
theo hình thức thực dân và sử dụng các biện pháp đàn áp, bao gồm việc áp đặt thuế
quá cao, cưỡng đoạt đất đai của người dân, giam giữ và tra tấn các nhà nước đấu tranh
2
cho độc lập.Về mặt chính trị, nền chính trị của Việt Nam trong thời kỳ này rất không
ổn định và chia rẽ. Các nhóm phản đối đối lập Pháp đã tổ chức các cuộc khởi nghĩa để
đấu tranh cho độc lập, trong đó phải kể đến cuộc khởi nghĩa của Thái Nguyên năm
1917 và cuộc khởi nghĩa Yên Bái năm 1919., phong trào Thanh niên Công nhân,
phong trào Việt Nam Quốc dân Đảng và nhiều phong trào đấu tranh khác. Các phong
trào này đều nhằm mục đích giành lại độc lập cho Việt Nam và chống lại sự chi phối
của đế quốc Pháp.Tuy nhiên, các phong trào này đều bị đàn áp bởi chính quyền Pháp
và khơng thành cơng trong việc giành lại độc lập cho Việt Nam trước Hiệp định Giơne-vơ. Về mặt kinh tế, Việt Nam cũng gặp phải nhiều khó khăn trong việc phát triển
kinh tế, Việt Nam đã trải qua một giai đoạn phát triển kinh tế và thương mại dựa vào
sự cai trị của thực dân Pháp. Nông nghiệp vẫn là ngành chủ đạo, tuy nhiên, nông sản
Việt Nam chủ yếu được sản xuất để xuất khẩu sang châu Âu, chứ không được sử dụng
để phát triển thị trường trong nước. Các nhà máy và xí nghiệp tư nhân cũng khơng
được đầu tư phát triển, dẫn đến sự lạc hậu về công nghiệp so với các quốc gia khác
trong khu vực. Các chính sách của Pháp tập trung vào việc khai thác tài nguyên và sản
xuất hàng hóa cho thị trường châu Âu. Việt Nam trở thành một cửa ngõ quan trọng để
các nhà thương mại châu Âu tiếp cận với thị trường Đông Nam Á. Do đó, trước Hiệp
định Giơ-ne-vơ, kinh tế Việt Nam vẫn còn rất phụ thuộc vào nước Pháp và chịu nhiều
hạn chế trong việc phát triển và mở rộng kinh tế độc lập.
Sau khi kí kết Hiệp định Giơ-ne-vơ, Việt Nam vẫn chịu sự kiểm soát của Pháp
và trở thành một trong các thuộc địa của Pháp. Tuy nhiên, việc Pháp áp đặt chính sách
thuế và khai thác tài nguyên Việt Nam đã gây ra sự phản đối của người dân Việt Nam,
dẫn đến các cuộc khởi nghĩa và cuối cùng là cuộc kháng chiến chống Pháp. Cuộc khởi
nghĩa Yên Bái (1930) và cuộc khởi nghĩa Hà Nội (1945) là hai sự kiện quan trọng
trong cuộc đấu tranh giành độc lập của dân tộc Việt Nam. Trong khi đó, các chính trị
gia và nhà hoạt động độc lập như Phan Bội Châu và Nguyễn Ái Quốc (Hồ Chí Minh)
đã tham gia các phong trào cách mạng và thành lập các tổ chức độc lập như Việt Nam
Quốc Dân Đảng và Việt Nam Cách Mạng Thanh Niên Hội để đấu tranh cho độc lập và
chống lại chính quyền Pháp. Tổ chức Duy Tân hội được thành lập vào năm 1920 để
đấu tranh cho độc lập của Việt Nam. Tuy nhiên, phong trào độc lập này chưa có sự
ủng hộ rộng rãi từ người dân Việt Nam và không thể đánh bại được ảnh hưởng của
3
Pháp đối với quốc gia. Các cuộc đấu tranh này gặp phải sự đàn áp và áp đặt của chế độ
thuộc địa Pháp. Nhiều nhà hoạt động yêu nước bị bắt giữ hoặc buộc phải lưu vong.
Tình hình chính trị của Việt Nam trong thời kỳ này vẫn chịu ảnh hưởng lớn từ
chính sách đơ hộ của Pháp và khơng có sự thay đổi lớn cho đến khi Chiến tranh thế
giới thứ hai bùng nổ. Nền kinh tế Việt Nam được chuyển từ một nền kinh tế tự cung tự
cấp sang một nền kinh tế hướng ngoại, phục vụ cho mục đích của thực dân Pháp. Pháp
tập trung vào việc khai thác tài nguyên và sản xuất các mặt hàng nông sản, gỗ, than đá,
cao su, lúa gạo, v.v. để xuất khẩu sang châu Âu. Việc khai thác tài nguyên và sản xuất
nông sản của Pháp đã gây ra những tác động tiêu cực đến nền kinh tế Việt Nam.
Những người nơng dân bị bóc lột nặng nề, và sản phẩm của họ bị xuất khẩu đến châu
Âu để bán với giá rẻ. Trong khi đó, người Việt khơng được hưởng lợi từ sự phát triển
kinh tế này, và nhiều người dân bị mắc kẹt trong tình trạng nghèo đói. Ngoài ra, sau
Hiệp định Giơ-ne-vơ, Việt Nam cũng bị đưa vào hệ thống thị trường toàn cầu, khiến
các sản phẩm nội địa cạnh tranh với các sản phẩm nhập khẩu. Điều này gây ra sự cạnh
tranh khốc liệt và ảnh hưởng đến các nhà sản xuất và nông dân Việt Nam. Những năm
sau đó, việc sản xuất và kinh doanh tại Việt Nam tiếp tục chịu ảnh hưởng tiêu cực từ
nền kinh tế thế giới đang khủng hoảng và tình hình chính trị bất ổn. Sự bùng nổ của
cuộc kháng chiến chống Pháp từ năm 1946 càng khiến tình hình kinh tế của Việt Nam
trở nên khó khăn hơn. Pháp cũng đầu tư vào các ngành công nghiệp như dệt may, chế
tạo thuốc lá, đóng tàu, xây dựng đường sắt, v.v. Nhưng các ngành công nghiệp này chỉ
là các nhà máy nhỏ và khơng phát triển lớn, do đó, nền kinh tế Việt Nam vẫn chủ yếu
là nơng nghiệp. Vì vậy, tình hình kinh tế Việt Nam sau Hiệp định Giơ-ne-vơ vẫn cịn
rất khó khăn và đầy thách thức.
Đánh giá chung:
Trước Hiệp định Giơ-ne-vơ ngày 28 tháng 6 năm 1919, thế giới đang trong tình
trạng hỗn loạn sau Thế chiến I với nhiều nước phải chịu sự tàn phá nặng nề và mất mát
lớn về nhân khẩu và tài sản. Tình hình chính trị và an ninh tồn cầu cũng đang bị ảnh
hưởng bởi những cuộc đổi lật chính và phong trào độc lập tại nhiều quốc gia. Tình
hình Việt Nam trước đó cũng tương tự, đang chịu sự áp đặt của đế quốc Pháp và nhiều
cuộc kháng chiến đã diễn ra nhằm chống lại sự áp bức và chiếm đóng của Pháp.Sau
Hiệp định Giơ-ne-vơ, tình hình thế giới đã có nhiều thay đổi tích cực nhờ vào sự can
4
thiệp của Hiệp hội Quốc tế và các nước phương Tây trong việc giải quyết những vấn
đề chính trị và kinh tế. Tuy nhiên, tác động của khủng hoảng kinh tế và các cuộc tranh
chấp chính trị vẫn tiếp tục kéo dài, đặc biệt là ở châu Á. Với Việt Nam, Hiệp định Giơne-vơ khơng mang lại nhiều lợi ích, vì đất nước vẫn tiếp tục chịu sự chiếm đóng của
Pháp. Sau đó, nhiều cuộc kháng chiến đã diễn ra nhằm chống lại sự áp bức của đế
quốc Pháp và địi độc lập cho dân tộc Việt Nam. Tình hình kinh tế của Việt Nam sau
Hiệp định Giơ-ne-vơ cũng không có nhiều thay đổi tích cực, vì Pháp tiếp tục khai thác
tài nguyên và cưỡng bức người dân Việt Nam làm việc cho họ. Tóm lại, tình hình thế
giới và Việt Nam trước và sau Hiệp định Giơ-ne-vơ đều đang trong tình trạng khơng
ổn định, tuy nhiên, các biến động chính trị và kinh tế sau đó đã tạo ra nhiều ảnh hưởng
tích cực và tiêu cực đến cả thế giới và Việt Nam.
5
II. Quá trình Đảng từng bước giải quyết xung đột Mỹ
2.1. Hành động hiếu chiến của Mỹ
Sau khi ký hiệp định Giơnevơ (7-1954), nước ta tạm thời chia hai miền Nam –
Bắc thông qua vĩ tuyến 17. Các bên tham gia Hội nghị nhấn mạnh rằng “Dù bất cứ
trường hợp nào, không qua vĩ tuyến 17. Các bên tham gia Hội nghị nhấn mạnh rằng
“Dù bất cứ trường hợp nào, khơng thể coi đó là biên giới chính trị hay lãnh thổ” 1. Sự
chia cắt đó chỉ là tạm thời. Hai miền phải thống nhất trước tháng 7 – 1956 bằng tổng
tuyển cử “tự do và dân chủ”. Quân Pháp rút quân khỏi miền Nam trong thời hạn 300
ngày, người dân có quyền lựa chọn ở miền Bắc hay miền Nam, trong thời gian đó, họ
được tự do đi lại. Nghiêm cấm quân đội nước ngoài xâm nhập lãnh thỏ Việt Nam.
Lợi dụng cơ hội đó, Mỹ đã thay Pháp thực hiện chiến lược “lấp chỗ trống” ở
miền Nam, đưa Ngơ Đình Diệm lên làm Tổng thống, lập ra chính quyền tay sai. Mỹ là
một đế quốc có tiềm lực: về kinh tế, quân sự đứng đầu thế giới và có chiến lược tồn
cầu. Phải đối đầu với kẻ thù mạnh nhất thế giới là một thử thách khắc nghiệt đối với
dân tộc Việt Nam ta lúc bấy giờ.
Sau khi ký hiệp định Giơnevơ (7-1954)
Âm mưu xâm lược: Mỹ muốn biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới, chia
cắt lâu dài Việt Nam; xây dựng miền Nam thành một căn cứ quân sự để tiến công ra
Bắc và hệ thống xã hội chủ nghĩa từ phía Đơng Nam khi có điều kiện; biến miền Nam
thành một mắt xích trong hệ thống căn cứ quân sự ở Đông Nam Á nhằm ngăn chặn
ảnh hưởng của chủ nghĩa xã hội xuống vùng này.
Thủ đoạn của Mỹ:
Đế quốc Mỹ sử dụng nhiều thủ đoạn về chính trị, kinh tế, văn hóa, qn sự,
nhất là nhanh chóng thiết lập bộ máy chính quyền tay sai Việt Nam Cộng hịa do Ngơ
Đình Diệm làm Tổng thống, đó là chính quyền dựa vào Mỹ, bất hợp pháp, xây dựng
lực lượng quân đội được trang bị vũ khí, phương tiện chiến tranh hiện đại của Mỹ. Bộ
máy chính quyền, lực lượng qn đội Sài Gịn trở thành cơng cụ đắc lực nhằm thi hành
chính sách thực dân mới của Mỹ ở miền Nam Việt Nam.
1
Đinh Phương, Hiệp định Giơnevơ năm 1954 về đình chỉ chiến tranh, lập lại hịa bình Đơng Dương,
truy cập ngày 26/01/2018
6
Đế quốc Mĩ và chính quyền Ngơ Đình Diệm ra sức chống phá các lực lượng
cách mạng, khủng bố dã man những người đòi hiệp thương tổng tuyển cử, thống nhất
đất nước. Chính quyền Ngơ Đình Diệm thực hiện chính sách “tố cộng”, “diệt cộng”,
lập “khu trù mật”, “khu dinh điền” nhằm mục đích bắt bớ, trả thù tất cả những người
yêu nước kháng chiến cũ. Với khẩu hiệu “giết nhầm cịn hơn bỏ sót”, chúng thẳng tay
giết hại các chiến sĩ cách mạng và những người dân vô tội. Chúng đàn áp phong trào
đấu tranh đòi thi hành Hiệp định Giơnevơ của các tầng lớp nhân dân; gây ra nhiều vụ
thảm sát đẫm máu ở Bến Tre, Quảng Nam, Phú n. Mỹ và chính quyền Ngơ
Đình Diệm đã xé bỏ Hiệp định Giơnevơ, cự tuyệt tổng tuyển cử thống nhất đất
nước. Ngày 13-5-1957, Ngơ Đình Diệm thăm Mỹ và tuyên bố: “Biên giới Hoa Kỳ kéo
dài đến vĩ tuyến 17”1, đó là lập trường và hành động bán nước trắng trợn.
Mỹ ra sức xây dựng các đô thị miền Nam, tạo ra bộ mặt kinh tế phồn vinh.
Nhưng thực chất, chúng muốn tranh giành đất, giành dân ở miền Nam. Từ đó, tạo
bước đệm cho các cuộc chiến tranh xâm lược miền Bắc, sang các nước láng giềng Lào
và Campuchia.
Giai đoạn 1954 – 1956
Tại hiệp định Gionevo, Mỹ ra sức phá hoại nhưng bất thành. Sau hiệp định Mỹ
tiếp tục âm mưu can thiệp vào Đông Dương, thông qua việc đẩy mạnh thành lập “khối
phịng thủ Đơng Nam Á” và “khối liên minh phòng thủ Song Cửu Long” (bao gồm
Thái Lan, Lào và Cao Miên). Với mục đích pha hủy hịa bình ở Đơng Dương, Mỹ lợi
dụng Chính phủ Ngơ Đình Diệm để vi phạm Hiệp định đình chiến ví dụ như là: Đàn
áp phong trào quần chúng hoan nghênh đình chiến, phá cơ sở hạ tần, dụ dỗ, bắt ép
đồng bào miền Bắc vào Nam, không chịu trả hết tù binh, cán bộ và dân thường bị Pháp
bắt… Vì vậy đặt ra một nhiệm vụ mới trong quá trình giải phóng dân tộc của nhân dân
ta.
Giai đoạn 1957 – 1958
Từ sau hội nghị Gionevo đến nay, tình hình nước ta có nhiều thay đổi lớn. Đế
quốc Mỹ trực tiếp can thiệp ngày một sâu vào Đông Dương. Thái độ chính trị của các
giai cấp trong nước đang có những chuyển biến mới. Quan hệ giai cấp đang có chỗ
thay đổi phức tạp hơn trước. Đồng thời, dưới sự lãnh đạo của Hồ Chủ tịch và của
Đảng, nhân dân đã thu được những thành tích đầu tiên trong sự nghiệp cũng cố hòa
7
bình, khơi phục kinh tế Hịa bình được lập lại ở Đông Dương, âm mưu kéo dài và mở
rộng chiến tranh Đông Dương của đế quốc Mỹ bị thất bại, chúng liền tìm mọi cách ép
buộc thực dân Pháp và trực tiếp can thiệp ngày một sâu vào Đông Dương Từ hội nghị
Mani, nhất là từ khi Manglet Phorangxo sang Mỹ về , thực dân Pháp để cho Mỹ trực
tiêp viện trợ và xây dựng qn đội cho Ngơ Đình Diệm chuẩn bị kéo miền Nam Việt
Nam vào khối liên minh Quân sự của Mỹ ở Đông Nam Á, đồng thời xuất tiếng Việc
trực tiếp can thiệp vào Lào, Cao miên, đế quốc Mỹ cử phái đồn Cơlin sang Đơng
Dương để thực hiện kế hoạch can thiệp trực tiếp vào Đông Dương và thi hành hiệp
ước ma ni ở Đông Dương. ở Việt Nam Nam Côlin đã giải quyết mâu thuẫn DiệmHinh bằng cách đẩy Nguyễn Văn Hinh đi, cũng cố chính quyền Ngơ Đình Diệm, cải
tổ qn đội Hinh và bắt đầu xây dựng ứng thêm sáu sư đoàn bảo an cho Diệm, dùng
đôla mua chuộc những phái chống lại Diệm.
Giai đoạn 1959 – 1960
Trong 4 năm hịa hỗn chưa quyết định đánh Mĩ. Ta vẫn chọn giải pháp hịa
bình thực hiện nghiêm chỉnh hiệp định đã ký, tạm chia cắt 2 miền, quyết định đánh cịn
khó khăn. Tình hình thế giới giải quyết xung đột vũ trang bằng biện pháp hịa bình, các
phe đang ở thế cân bằng chính vì vậy xu hướng hịa hỗn xuất hiện và họ muốn giữ
nguyên trạng miền nam Việt Nam không muốn ngọn lửa chiến tranh miền Nam thành
chiến tranh thế giới . Mặc khác Liên Xô và Trung Quốc đang căng thẳng hạn chế việc
ủng hộ Việt Nam chiến tranh Đầu năm 1959, với việc ban hành "Luật 10/59", Mỹ Diệm đã tăng cường sử dụng bạo lực phát xít, thẳng tay đàn áp, bắt giam và sát hại
quần chúng cách mạng. Hành động khủng bố thâm độc và tàn bạo của Mỹ - Diệm
chẳng những không khuất phục được nhân dân ta, không dập tắt được ngọn lửa đấu
tranh của quần chúng cách mạng miền Nam, mà còn phơi bày bản chất xâm lược và
bán nước của chúng. Đây là thời kỳ đen tối nhất của cách mạng miền Nam. Mặc dù
chịu nhiều tổn thất về lực lượng, nhưng về căn bản, phong trào cách mạng vẫn được
giữ vững, cơ sở của đảng vẫn được củng cố và phát triển. Qua thực tế đấu tranh với
địch, cán bộ, đảng viên và quần chúng cách mạng ngày càng có kinh nghiệm trong
việc vận dụng phương châm và hình thức đấu tranh cách mạng, từng nơi, từng lúc, đã
khéo tiến công vào chỗ yếu của địch, từng bước dồn chúng vào thế bị động. Trong
vịng kìm kẹp của Mỹ - Diệm, đơng đảo quần chúng cách mạng đã kết thành một khối,
8
siết chặt đội ngũ, chờ thời cơ, sẵn sàng hành động, quyết một phen sống mái với kẻ
thù.
Tháng 1/1959, Hội nghị lần thứ 15 Ban Chấp hành trung ương Đảng đã quyết
định để nhân dân miền Nam sử dụng bạo lực cách mạng để đánh đổ chính quyền Mĩ Diệm. Phong trào Đồng khởi nổ ra. Phong Phong trào nổi dậy từ chỗ lẻ tẻ ở từng địa
phương: Vĩnh Thạnh (Bình Định), Bác Ái (Ninh Thuận), Trà Bồng (Quảng Ngãi), rồi
lan ra khắp miền Nam thành cao trào cách mạng, tiêu biểu là cuộc “Đồng khởi” ở Bến
Tre. Tháng 1/1960, phong trào nổ ra ở ba xã điểm là Định Thủy, Phước Hiệp, Bình
Khánh (Mỏ Cày - Bến Tre), rồi lan nhanh ra các tỉnh, huyện khác. Quần chúng nổi dậy
giải tán chính quyền địch, thành lập Ủy ban nhân dân tự quản, thành lập lực lượng vũ
trang, tịch thu ruộng đất của địa chủ, cường hào chia cho dân cày nghèo.
2.2. Quá trình Đảng giải quyết xung đột với Mĩ
Sau hội nghị trung ương lần 6, đánh giá tình hình mới, Đảng đã xác định và chỉ
rõ kẻ thù mới của dân tộc ta là đế quốc Mỹ và tay sai với chính sách xâm lược thực
dân mới của chúng, sớm vạch ra một cách đúng đắn hai chiến lược cách mạng, phải
đồng thời tiến hành trên hai miền Nam Bắc nhằm giải phóng miền Nam, bảo vệ miền
Bắc, thống nhất đất nước. Ta khẩn trương ổn định, củng cố miền Bắc làm căn cứ địa
vững chắc, làm trung tâm lãnh đạo, chỉ đạo cách mạng cả nước. Đó là nhân tố cực kỳ
quan trọng trước khi cả nước ta bước vào cuộc chiến tranh chống Mỹ, cứu nước.
Tháng 9/1954, Bộ chính trị ra nghị quyết về “Tình hình mới, nhiệm vụ mới và
chính sách mới của Đảng”, vạch rõ những đặc điểm của cách mạng nước ta, trong đó
đặc điểm quan trọng nhất là đất nước tạm thời chia cách hai miền, từ nông thôn đến
thành thị, từ phân tán đến tập trung, đề ra nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn mới. Bộ
Chính Trị đề ra nhiệm vụ chủ yếu trước mắt của miền Bắc là hàn gắn vết thương chiến
tranh, phục hồi kinh tế quốc dân, trước hết là phục hồi và phát triển sản xuất nông
nghiệp ổn định xã hội, ổn định đời sống nhân dân, tang cường và mở rộng hoạt động
quan hệ quốc tế để sớm đưa miền Bắc trở lại bình thường sau 9 năm chiến tranh. Nông
nghiệp được coi là trọng tâm trong khôi phục kinh tế. Công nghiệp, tiểu thủ công và
giao thông vận tại được khôi phục, một số nhà máy mới được xây dựng.
Thời kỳ này ở miền Bắc, quân đội ta tập trung thực hiện một số nhiệm vụ trước
mắt, cùng toàn dân khắc phục hậu quả chiến tranh, chấn chỉnh tổ chức, cải tiến trang
9
bị, bước đầu xây dựng theo phương hướng chính quy, hiện đại. Việc tổng kết kinh
nghiệm chiến đấu trong kháng chiến chống Pháp bắt đầu được thực hiện. Công tác
huấn luyện quân sự, diễn tập thực nghiệm và thực binh được đẩy mạnh. Trình độ chiến
đấu, nghệ thuật quân sự của quân đội ta có bước phát triển, tiến bộ mới trên cơ sở tổng
kết kinh nghiêm, học tập kinh nghiệm của bạn và huấn luyện quân sự. Ở miền Nam,
lực lượng vũ trang mới hình thành, quy mơ tổ chứ của các đơn vị vũ trang tập trung
phổ biến là trung đội, đại đội và một số tiểu đoàn. Hình thức tác chiến chủ yếu là du
kích, hỗ trợ quần chúng đấu tranh chính trị và nổi dậy đồng khởi. Xuất hiện một số
trận phục kích (Giồng Thị Đạm, Gị Quản Cung), tập kích (Tua Hai), bao vây bứt rứt
đồn bảo an dân vệ, diệt ác ơn… Vũ khí chủ yếu là thu của địch và tự tạo. Một số trận
có kết hợp với vận động binh lính địch và nội ứng. Một số nơi đã xuất hiện chiến đấu
chống càn, phối hợp giữa đấu tranh chính trị trực diện của quần chúng có tổ chứ với
tác chiến du kích của lực lượng vũ trang.
Từ thực tiễn cách mạng miền Nam, tháng 8/1956, đồng chí Lê Duẩn đã dự thảo
Đề cương cách mạng Việt Nam ở miền Nam. Bản Đề cương đã được đưa ra thảo luận
tại Hội nghị Xứ ủy Nam Bộ họp tại Phnom Pênh tháng 12/1656. Trong đó, xác định:
“Muốn chống Mỹ - Diệm. ngồi con đường cách mạng, nhân dân miền Nam khơng có
con đường nào khác; dựa vào lực lượng chính trị của quần chúng làm căn bản; xây
dựng Mặt trận để đoàn kết nhân dân chống Mỹ và tay sai..”. Đề cương cách mạng
miền Nam là một trong những văn kiện quan trọng góp phần vào sự hình thành đường
lối kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 13 (tháng 12/1957), Đảng và Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã xác định ngày càng rõ hơn nhiệm vụ của cách mạng cả nước :”Nước ta
đồng thời tiến hành hai chiến lược cách mạng: cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và
cách mạng xã hội chủ nghĩa. Hai nhiệm vụ cách mạng nói trên đều quan trọng, coi nhẹ
một nhiệm vụ nào cũng đều sai lầm”. Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 15, diễn ra
trong 2 đợt: Đợt 1 vào tháng 1/1959 tại Hà Nội, do Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trì, một
số cán bộ Khu ủy khu V, vùng Tây Nguyên, Xứ ủy Nam Bộ cũng ra dự. Hội nghị đã
chỉ rõ nhiệm vụ cơ bản của miền Nam là : “Đoàn kết toàn dân, kiên quyết đấu tranh
chống đế quốc Mỹ xâm lược và gây chiến, đánh đổ Tập đồn thống trị độc tài Ngơ
Đình Diệm, tay sai của đế quốc Mỹ, thành q một chính quyền liên hiệp dân tộc dân
10
chủ nhân dân ở miền Nam, thực hiện độc lập dân tập và các quyền tự do dân chủ, tích
cực góp phần bảo vệ hoa bình ở Đơng Nam Á và thế giới”1
Phương pháp cách mạng miền Nam là khởi nghĩa giành chính quyền về tay
nhân dân bằng bạo lực của nhân dân : “cuộc khởi nghĩa của nhân dân miền Nam cũng
có khả năng chuyển thành đấu tranh vũ trang trường kỳ giữa ta và địch và thắng lợi
cuối cùng nhất định về ta. Trong khi lãnh đạo, Đảng phải thấy trước khả năng ấy để
chuẩn bị chu đáo và chủ động đối phó trong mọi tình thế”.
Đợt 2, vào tháng 7/1959, Hội nghị xác định: “Cuộc đấu tranh cách mạng ở miền
Nam lâu dài, gian khổ, khó khan và phức tạp, Đảng bộ miền Nam tin tưởng dưới sự
lãnh đạo của Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, cách mạng miền Nam nhất
định sẽ thắng lợi, hịa bình độc lập, dân chủ, thống nhất trong tồn quốc sẽ được thực
hiện”. 2 Trên cơ sở thống nhất ý kiến của hai đợt họp, tháng 7/1959 Hội nghị Trung
ương 15 chính thức thơng qua Nghị quyết. Trong đó xác định cách mạng Việt nam do
Đảng lãnh đạo có hai nhiệm vụ chiến lược song song tiến hành là cách mạng XHCN ở
miền Bắc và cách mạng dân tộc chủ nhân dân ở miền Nam. Hai nhiệm vụ tuy tính
chất khác nhau nhưng có quan hệ hữu cơ, cùng tác động, ảnh hưởng và hỗ trợ lẫn
nhau: “Hai miền tiến hành hai nhiệm vụ khác nhau nhưng đánh đổ chế độ thống trị Mỹ
- Diệm, giải phóng miền Nam là nhiệm vụ chung, vì lợi ích và nhu cầu chung của nhân
dân cả nước”. Đồng thời Nghị quyết xác định phương pháp tiến hành đấu tranh ở miền
Nam là: “ Khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân” và theo tình hình cụ thể và
yêu cầu hiện nay của cách mạng thì con đường đó là lấy sức mạnh của quần chúng,
dựa vào lực lượng chính trị của quần chúng là chủ yếu, kết hợp với lực lượng vũ trang
để đánh đổ quyền thống trị của đế quốc và phong kiến, dựng lên chính quyền cách
mạng nhân dân.
Hội nghị Trung ương lần thứ 15 đưa cách mạng miền Nam bước sang giai đoạn
phát triển mới. Sau Hội nghị, nhằm đáp ứng yêu cầu mới của cách mạng miền Nam,
Bộ Chính trị chủ trương lập đội vận tải quân sự dọc Trường Sơn (gọi tắt là Đoàn 559)
và đơn vị vận tải vượt biển Đông (gọi tắt là Đồn 759), sau đổi tên thành Đồn 125, có
vai trị và vị trí chiến lược trong tồn bộ cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Trong
2 năm (1959,1960), các con đường này đã đưa vào miền Nam hang nghìn cán bộ,
1
2
Đảng Cộng sản Việt Nam (20002), Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2.20, tr. 81,82
Đảng Cộng sản Việt Nam (20002), Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2.20, tr. 81,82
11
chiến sỹ và hang chục nghìn tấn hang quân sự đầu tiên chi viện cho phong trào cách
mạng ở miền Nam. Nghị quyết Hội Trung ương 15 đã đến với các địa phương ở miền
Nam bằng nhiều con đường, đi vào quần chúng đúng lúc họ đang ở vào tình thế
“không muốn sống như cũ” và đang khát khao mong đợi đường lối của Đảng. Cán bộ,
quần chúng hiểu nghị quyết với tinh thần là “Đảng cho đánh rồi”. Từ đó tạo nên phong
tào Đồng khởi rộng khắp các tỉnh miền Nam nhằm phá ách kìm kẹp của địch, xây
dựng chính quyền cách mạng, theo phương châm dựa vào lực lượng chính trị của
chúng là chủ yếu, kết hợp với sự hỗ trợ của lực lượng vũ trang, tiêu biểu là tỉnh Bến
Tre. Chỉ sau một tuần Đồng khởi, tỉnh đã có 22 xã được giải phóng hồn tồn, 29 xã
diệt ác vây, giải phóng nhiều ấp. Thắng lợi phong trào Đồng khởi tỉnh Bến Tre đã tác
động mạnh đến phong trào cách mạng ở hầu hết các tỉnh Nam Bộ. Lực lượng vũ trang
nhân dân phát triển mạnh với 3 hình thức: Các đội tự vệ, du kích xã; các đội vũ trang ở
huyện, tỉnh; các đơn vị bộ đội tập trung của khu ngày càng lớn mạnh, là sức mạng lớn
của phong trào cách mạng ở miền Nam.
Tóm lại, nghị quyết 15 đã đưa ra nhũng nội dung:
Về mâu thuẫn xã hội: Trên cơ sở phân tích đặc điểm tình hình cách mạng ở
miền Nam có hai mâu thuẫn cơ bản: mâu thuẫn giữa nhân dân ta với bọn đế quốc Mỹ
xâm lược và tập đoàn tay sai Ngơ Đình Diệm; mâu thuẫn giữa nhân dân, trước hết là
nông dân với địa chủ phong kiến.
Về lực lượng tham gia cách mạng: Nghị quyết xác định gồm giai cấp công
nhân, nông dân, tư sản dân tộc và tiểu tư sản lấy liên minh công – nông là cơ sở.
Về đối tượng của cách mạng: Đế quốc Mỹ, tư sản, địa chủ phong kiến và tay
sai của đế quốc Mỹ.
Nhiệm vụ cơ bản của cách mạng Việt Nam: là giải phóng miền Nam thốt khỏi
ách thống trị của đế quốc và phong kiến, thực hiện độc lập dân tộc và người cày có
ruộng, xây dựng một nước Việt Nam hịa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu
mạnh. Nhưng trên con đường dài thực hiện nhiệm vụ cơ bản ấy, cách mạng miền Nam
phải đi từng bước từ thấp đến cao.
Nhiệm vụ trước mắt của cách mạng miền Nam: là “đoàn kết toàn dân đánh đổ
tập đoàn thống trị độc tài Ngơ Đình Diệm, thành lập chính quyền liên hiệp dân tộc,
12
dân chủ ở miền Nam, thực hiện độc lập dân tộc và các quyền tự do dân chủ, cải thiện
đời sống nhân dân, thực hiến thống nhất nước nhà; tích cực góp phần bảo vệ hịa bình
ở Đơng Nam Á và thế giới.
Nghị quyết nhấn mạnh: Con đường phát triển cơ bản của cách mạng Việt Nam
ở miền Nam là con đường cách mạng bạo lực, giành chính quyền về tay nhân dân.
Theo tình hình cụ thể và yêu cầu hiện nay của cách mạng thì con đường đố là lấy sức
mạnh của quần chúng, dựa vào lực lượng chính trị của quần chúng là chủ yếu, kết hợp
với lực lượng vũ trang để đánh đổ chính quyền thống trị của đế quốc phong kiến, dựng
lên cơ quan cách mạng của nhân dân.
Trong và sau Đồng, công tác xây dựng, khôi phục tổ chức Đảng. phát triển
đảng viên ở các đảng bộ được tiến hành khẩn trương. Sự khôi phục, phát triển mạnh
mẽ về số lượng, chất lượng các tổ chức đảng đã nâng cao sức mạnh lãnh đạo, tạo
chuyển biến tồn diện, đơng lực mới cho các lực lượng chính trị, quân sự miền Nam
phát triển. Với kinh nghiệm trong Cách mạng tháng Tám và kháng chiến chống Pháp,
trong điều kiện Mỹ - Diệm thống trị bằng chủ nghĩa thực dân mới, bằng cuộc đồng
khởi ở địa bàn xã ấp, Đảng ta, nhân dân ta ở miền Nam đã sáng tạo và phát triển lên
trình độ mới một phương thức đấu tranh mới của cách mạng. Đó là kết hợp hai chân
(chính trị, vũ trang) và ba mũi (chính trị, quân sự, binh vận), tạo nên hiệu quả cao, đạt
được mục tiêu đề ra, chuyển cách mạng lên thế tiến cơng địch, phát triển nhanh chóng
lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang, đặt cơ sở để tiếp tục vận dụng, phát triển
phương thức đấu tranh này khi đế quốc Mỹ chuyển sang thực hiện chiến lược “chiến
tranh đặc biệt” và trong các giai đoạn sau cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
Đảng giữ vững và đẩy mạnh cuộc đấu tranh chính trị của đơng bào miền Nam.
Tình hình trong nước chịu nhiều khó khan trong cơng tác quản lý tại miền Bắc và tiến
hành rút quân Việt Nam ra khởi miền Nam, tạo điều kiện để Pháp rút qn. Bên cạnh
đó tình hình thế giới giai đoạn này, sau chiến tranh ở Triều Tiên và Đông Dương, đang
có xu hướng hịa bình hóa. Thế giới khơng muốn phải chia lại bản đồ sau chiến tranh
thế giới thứ hai, bên cạnh đó về phía đồng minh của ta là Liên Xơ thì chun tâm phát
triển Đơng Âu, cịn Trung Quốc thì chưa ổn định và đang xảy ra những mâu thuẫn với
Đảng Cộng Sản Liên Xơ. Chính vì vậy mà dù Mỹ đã dung Ngơ Đình Diệm lập nên
Việt Nam Cơng Hịa với mục đích chia cắt nước ta, phá vỡ Hiệp định Gionevo, thẳng
13
tay đàn áp các cuộc biểu tình đời dân chủ,… Nhưng Đảng vẫn chỉ đạo đồng thời “ giữ
vũng và đẩy mạnh đáu tranh chính trị” và “Thực hiên mở rộng mặt trận thống nhất dân
tộc ở miền Nam, duy trì và phát triển phong trào bảo vệ hịa bình trong Nam”. Tuy
nhiên như vậy, Đảng chỉ đạo đào tạo cán bộ và chuyển công tác một số cán bộ vào
Nam để củng cố quản lí và có thể thực hiện phản công.
2.3. Nhận xét
Nghị quyết 15 ra đời là vơ cùng cần thiết, đáp ứng địi hỏi của tình thế cách
mạng, giải quyết kịp thời yêu cầu phát triển của cách mạng Việt Nam ở Miền Nam,
khi tình thế đã đầy đủ và chín muồi, giải tỏa nỗi bức xúc bị kìm nén và nguyện vọng
tha thiết của cán bộ, chiến sĩ, đông bào ở miền Nam. Nghị quyết 15 như ngọn đuốc soi
sáng con đường phát triển của cách mạng Việt Nam ở Miền Nam, là cơ sở trực tiếp
cho phong trào Đồng khởi nổ ra và giành thắng lợi. Kết quả to lớn và dễ nhận thấy của
phong trào Đồng khởi là sự khôi phục hoạt động của Đảng bộ Miền Nam. Đội quân
đấu tranh chính trị, đặc biệt là “đội quân tóc dài”, một lực lượng vũ trang thứ ba thứ
quân từng bước củng cố, phát triển về số lượng và chất lượng.
Việc Đảng vẫn luôn chọn phương hướng đấu tranh hịa bình, đến tận Nghị
quyết 15 mới quyết định kết hợp đấu tranh vũ trang thể hiện sự khó khan trong quyết
định giải phóng miền Nam bằng quân sự. Trong giai đoạn này, tình hình thế giới
không ủng hộ chúng ta trong việc đáu tranh vũ trang chống đế quốc Mỹ. Cụ thể sau
thế chiến II xu hướng của các nước trên thế giới là xu hướng hịa bình, cùng với sự ảnh
hưởng cảu mâu thuẫn giữa Liên Xô và Trung Quốc đến chủ nghĩa cơng sản. Rõ rang ta
đang khơng có lợi dựa vào tình hình thế giới. Vả lại nước ta vẫn là nước nghèo nàn lạc
hậu so với một cường quốc đứng đầu thế giới về quân sự như Mỹ. Miền Bắc nước ta
chỉ vừa lập lại được hịa bình, cuộc sống của nhân dân dù thoát khỏi chiến tranh nhưng
vẫn chịu đói khổ, nền kinh tế vẫn cịn lạc hậu. Đảng vẫn cần có thời gian để thúc đẩy
phát triển kinh tế ở miền Bắc và cải tạo nền xã hội chủ nghĩa, xây dựng Đảng phát
triển mạnh hơn để có thể làm chỗ dựa cho nhân dân. Vậy nên việc phát đọng cuộc
chiến tranh lúc này vừa không được ủng hộ trên trường quốc tế, vừa phải đối diện với
kẻ thù lớn mạnh bậc nhất vừa phải tiêu hao nguồn lực và con người.
14
2.4. Tiểu kết
Đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai tìm mọi cách để phá hoại hiệp định Gionevo. Miền
Bắc chưa thật được cũng cố, miền Nam Việt Nam cũng như hai nước Lào và Cao
Miên đang sống dưới chế độ thực dân và phong kiến. Khó khăn tuy nhiều nhưng tạm
thời, Đảng và tồn dân quyết tâm thì nhất định khắc phục được. Bên cạnh khó khăn
vẫn có những thuận lợi , nhân dân đoàn kết, kiên quyết đấu tranh cho hịa bình,
thống nhất, độc lập, dân chủ,chính sách của Đảng đúng, được nước bạn giúp đỡ,
nhân dân Pháp và nhân dân u hịa bình trên thế giới và ủng hộ cuộc đấu tranh chính
của Đảng. Trước tình hình trong nước chưa ổn định, cịn nhiều khó khăn trong cơng
tác quản lý của chính quyền mới ở miền Bắc. Cịn về phía miền Nam thì qn và cán
bộ của Việt Nam buộc phải rút ra miền Bắc theo hiệp định Gionevo, gây khó khăn
trong cơng tác quản lý. Bên cạnh đó, cộng thêm chủ trương hịa bình hóa của thế giới,
dù chính quyền Mỹ-Diệm ra sức lật lọng, phá vỡ các điều khoản trong Hiệp định,
Đảng vẫn chủ trương nhân nhượng và thực hiện hiện chính sách hịa bình. Tuy nhiên,
Đảng và nhân dân hai miền cũng tích cực chuẩn bị vũ khí, quân đội để sẵn sàng cho
chiến tranh nổ ra ở miền Nam.
Hội nghị lần 8 tin rằng dưới sự lãnh đạo của Hồ Chủ Tịch và Trung ương Đảng,
toàn Đảng và toàn dân sẽ tăng cường đồn kết, nâng cao cảnh giác, nâng cao trí khí
hơn nữa, ra sức công tác, quyết giành thắng lợi to lớn trong việc củng cố hịa bình,
thực hiện thống nhất nước nhà bằng tổng tuyển cử tự do và hoàn thành độc lập, dân
chủ trong cả nước
15
III.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng (9/1960)
1. Bối cảnh lịch sử
Sau 9 năm kể từ kỳ Đại hội Đảng lần thứ II, Đảng đã lãnh đạo nhân dân Việt
Nam ta qua nhiều cuộc chiến đấu anh dũng. Nổi bật nhất là chiến dịch Điện Biên Phủ
năm 1954 đầy oanh liệt trước thực dân Pháp. Đây là trận chiến đã góp phần đẩy Pháp
lên bàn đàm phán và đặt bút ký vào hiệp định Geneve công nhận chủ quyền của nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Dù miền Bắc đã được giải phóng hồn tồn. Nhưng ở
miền Nam tổ quốc, người dân vẫn phải sống dưới ách thống trị của Mỹ - Diệm suốt 6
năm sau hiệp định. Bọn chúng đã trắng trợn phá hoại hiệp định Geneve. Đất nước ta
lúc này đang bị chia làm hai miền với hai chế độ chính trị khác nhau. Tuy nhiên, nhân
dân ta vẫn luôn đấu tranh để giành lại độc lập hịa bình cho đất nước.
Khi hịa bình lập lại, miền Bắc dưới sự lãnh đạo của Đảng đã chuyển sang giai
đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa. Nhiều người dân lao động được giải phóng sau sự
thắng lợi của cuộc cải cách ruộng đất. Đảng liên tục thành công trong công cuộc khôi
phục kinh tế và tiếp tục trên con đường hoàn thành kế hoạch ba năm phát triển kinh tế
và văn hóa. Miền Bắc lúc này đang dần củng cố sức mạnh và trở thành một điểm tựa
vững chải cho nhân dân miền Nam tiếp tục đấu tranh thống nhất đất nước.
2. Nội dung đường lối chiến lược chung
Nhiệm vụ chung
Nội dung trong văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ III có viết: "Nhiệm
vụ cách mạng của nhân dân ta trong giai đoạn hiện nay là: tăng cường đoàn kết toàn
dân, kiên quyết đấu tranh giữ vững hồ bình đẩy mạnh cách mạng xã hội chủ nghĩa ở
miền Bắc, đồng thời đẩy mạnh cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, thực
hiện thống nhất nước nhà trên cơ sở độc lập và dân chủ, xây dựng một nước Việt Nam
hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, thiết thực góp phần tăng cường
phe xã hội chủ nghĩa và bảo vệ hồ bình ở Đơng - Nam Á và thế giới"1.
Hai nhiệm vụ cách mạng ở miền Bắc và ở miền Nam thuộc hai chiến lược khác
nhau, song hai nhiệm vụ đó trước mắt đều có một mục tiêu chung là thực hiện hồ
bình thống nhất Tổ quốc, đều nhằm giải quyết mâu thuẫn chung của cả nước là mâu
1
Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Đảng tồn tập, tập 21, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 916
16
thuẫn giữa nhân dân ta với đế quốc Mỹ cùng bè lũ tay sai của chúng. Giải quyết mâu
thuẫn chung ấy là trách nhiệm của cả nước, song mỗi miền có nhiệm vụ chiến lược
riêng và có vị trí khác nhau.
Nhiệm vụ cách mạng ở miền Bắc
"Nhiệm vụ cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc... là nhiệm vụ quyết định
nhất đối với sự phát triển của toàn bộ cách mạng nước ta, đối với sự nghiệp thống nhất
nước nhà của nhân dân ta."1 Ta có thể thấy nhiệm vụ ở miền Bắc rất được Đảng quan
tâm trong công cuộc giành lại độc lập, bảo vệ và xây dựng tổ quốc.
Đưa miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội là một nhiệm vụ tất yếu sau khi đã hoàn
thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Đưa miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội,
làm cho miền Bắc được ngày càng vững mạnh về mọi mặt thì càng có lợi cho cách
mạng giải phóng miền Nam, cho sự phát triển của cách mạng trong cả nước, cho việc
gìn giữ và củng cố hịa bình ở Đơng Dương, Đơng - Nam á và thế giới. Vì vậy, tiến
hành cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc là nhiệm vụ quyết định nhất đối với
sự phát triển của toàn bộ cách mạng Việt Nam, đối với sự nghiệp thống nhất nước nhà.
Cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc tiến hành trong khi ở miền Nam phải ra
sức tập hợp mọi lực lượng dân tộc và dân chủ, mở rộng và củng cố khối đoàn kết dân
tộc, cô lập đế quốc Mỹ và bọn tay sai của chúng, thúc đẩy sự nghiệp đấu tranh củng cố
hòa bình, thống nhất Tổ quốc. Vì vậy phương châm tiến hành cách mạng xã hội chủ
nghĩa ở miền Bắc là: xây dựng miền Bắc, chiếu cố miền Nam.
Đại hội đã xác định đường lối chung của Đảng trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội ở miền Bắc là “đoàn kết toàn dân, phát huy tinh thần yêu nước nồng nàn
và truyền thống phấn đấu anh dũng, lao động cần cù của nhân dân ta, đồng thời tăng
cường đoàn kết với các nước xã hội chủ nghĩa anh em do Liên Xô đứng đầu, để đưa
miền Bắc tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội, xây dựng đời
sống ấm no hạnh phúc ở miền Bắc và củng cố miền Bắc thành cơ sở vững mạnh cho
cuộc đấu tranh thực hiện hịa bình thống nhất nước nhà, góp phần tăng cường phe xã
hội chủ nghĩa, bảo vệ hịa bình ở Đơng Nam Á và thế giới.”
1
Ban Tuyên giáo Thành ủy Trung ương, Tháng 9-1960: Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng, Tháng 91960: Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng | Tạp chí Tuyên giáo (tuyengiao.vn), truy cập ngày
27/04/2023.
17
Muốn đạt mục tiêu ấy phải sử dụng chính quyền dân chủ nhân dân làm nhiệm
vụ lịch sử của chuyên chính vơ sản để thực hiện cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với nông
nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp nhỏ và công thương nghiệp tư bản chủ nghĩa
tư doanh; phát triển thành phần kinh tế quốc doanh, thực hiện cơng nghiệp hóa xã hội
chủ nghĩa bằng cách ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý, đồng thời ra
sức phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ; đẩy mạnh cách mạng xã hội chủ nghĩa
về tư tưởng, văn hóa và kỹ thuật; biến nước ta thành một nước xã hội chủ nghĩa có
cơng nghiệp hiện đại, nơng nghiệp hiện đại, văn hóa và khoa học tiên tiến.”1
Nhiệm vụ cách mạng ở miền Nam
Trong văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ III có đoạn: "cách mạng miền
Nam có vị trí rất quan trọng. Nó có tác dụng quyết định trực tiếp đối với sự nghiệp giải
phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai, thực hiện hồ
bình thống nhất nước nhà, hoàn thành nhiệm vụ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân
trong cả nước".2
Trong sự nghiệp hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả
nước, thực hiện thống nhất nước nhà, đồng bào ta ở miền Nam có nhiệm vụ trực tiếp
đánh đổ ách thống trị của đế quốc Mỹ và bọn tay sai chính quyền bù nhìn của Diệm để
giải phóng miền Nam. Cuộc đấu tranh cách mạng của đồng bào miền Nam cịn có tác
dụng ngăn chặn âm mưu của Mỹ - Diệm gây lại chiến tranh, tích cực góp phần giữ gìn
hịa bình ở Đơng Dương, Đơng - Nam Á và cả thế giới.
3. Tiểu kết
Sau Hiệp định Geneve, Mỹ đã trắng trợn phá bỏ hiệp ước, xây lên một chế độ
bù nhìn ở miền Nam Việt Nam. Nước Việt Nam ta lại rơi vào một cuộc chiến mới khi
lúc này, cả 2 miền đã bị chia cắt và sống dưới 2 chế độ chính trị đối nghịch nhau. Hiểu
được khó khăn ấy, Đảng đã chủ trì Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III nhằm tháo gỡ
những nút thắt cũng như đề ra chiến lược cho Việt Nam ta.
Hai miền lúc này đảm nhận hai nhiệm vụ khác nhau, tuy nhiên, luôn tương trợ
với nhau. Miền Bắc lúc này tập trung vào xây dựng xã hội và từng bước tiến lên chủ
nghĩa xã hội. Kinh tế, văn hóa, cơng-nơng nghiệp được chú trọng để xây một miền Bắc
1
2
Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Hồ Chí Minh: Tồn tập, tập 12, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 673
Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 21, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 918
18