Tải bản đầy đủ (.pdf) (54 trang)

Pháp luật về đăng ký kết hôn qua thực tiễn tại xã hoà ninh, huyện hòa vang, thành phố đà nẵng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (752.28 KB, 54 trang )

ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
KHOA GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ

----------

KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP
Đề tài:
PHÁP LUẬT VỀ ĐĂNG KÝ KẾT HƠN
QUA THỰC TIỄN TẠI XÃ HỒ NINH,
HUYỆN HỒ VANG, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

Sinh viên thực hiện : Chướng Thị Cẩm Tiến
Lớp

: 19SCD

Người hướng dẫn

: TS. Nguyễn Văn Đông

Đà Nẵng, tháng 05 năm 2023


ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
KHOA GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ

----------

KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP


Đề tài:
PHÁP LUẬT VỀ ĐĂNG KÝ KẾT HƠN
QUA THỰC TIỄN TẠI XÃ HỒ NINH,
HUYỆN HỒ VANG, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

Sinh viên thực hiện : Chướng Thị Cẩm Tiến
Lớp

: 19SCD

Người hướng dẫn

: TS. Nguyễn Văn Đông

Đà Nẵng, tháng 05 năm 2023


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan Khóa luận này là cơng trình nghiên cứu của riêng tơi. Các kết
quả nêu trong Khóa luận chưa được cơng bố dưới bất kỳ hình thức nào. Các số liệu,
ví dụ và trích dẫn trong Khóa luận đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực.
Tơi xin chịu hồn tồn trách nhiệm nếu như có bất cứ vấn đề gì xảy ra liên quan
đến tính chính xác của Khóa luận này.
Tác giả

Chướng Thị Cẩm Tiến


LỜI CẢM ƠN
Để hồn thành Khóa luận này, tơi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến:

Ban giám hiệu trường Đại Học Sư phạm Đà Nẵng vì đã tạo điều kiện về cơ sở
vật chất với hệ thống thư viện hiện đại, đa dạng các loại sách, tài liệu thuận lợi cho
tơi trong việc tìm kiếm, nghiên cứu thơng tin.
Xin trân trọng cảm ơn Thầy đã hướng dẫn tôi là TS. Nguyễn Văn Đơng, thầy
đã tận tình hướng dẫn tơi trong quá trình học tập, giảng dạy tận tình, chi tiết để tơi có
đủ kiến thức và vận dụng chúng vào Khóa luận này.
Do chưa có nhiều kinh nghiệm làm đề tài cũng như những hạn chế về kiến thức,
trong bài Khóa luận chắc chắn sẽ khơng tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong nhận
được sự nhận xét, ý kiến đóng góp, phê bình từ phía Thầy cơ để bài Khóa luận được
hồn thiện hơn.
Xin chân thành cảm ơn!


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................... 1
2. Mục tiêu nghiên cứu và câu hỏi nghiên cứu ................................................. 2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................. 2
4. Phương pháp nghiên cứu............................................................................... 2
5. Kết cấu đề tài ................................................................................................. 2
6. Tình hình nghiên cứu đề tài …………………………………………………………2
CHƯƠNG 1. KHÁI QUÁT VỀ ĐĂNG KÝ KẾT HÔN .............................. 5
1.1. Khái niệm kết hôn và đăng ký kết hôn....................................................... 5
1.1.1. Khái niệm kết hôn.................................................................................... 5
1.1.2. Khái niệm Đăng ký kết hôn ................................................................... 10
1.1.3. Điều kiện kết hôn theo quy định pháp luật Việt Nam ........................... 12
1.2. Quy trình về đăng ký kết hôn và các thủ tục đăng ký kết hôn theo quy định
của pháp luật Việt Nam ................................................................................... 24
1.2.1. Quy trình về đăng ký kết hơn ................................................................ 24

1.2.2. Các thủ tục đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật Việt Nam .... 26
Tiểu kết chương 1............................................................................................ 31
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG ĐĂNG KÝ KẾT HƠN TẠI XÃ HỊA NINH,
HUYỆN HÒA VANG, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG ..................................... 32
2.1. Khái quát chung về xã Hòa Ninh, huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng
......................................................................................................................... 32
2.2. Thực trạng thực hiện đăng ký kết hơn tại xã Hịa Ninh ........................... 33
2.3. Những hạn chế chung và nguyên nhân .................................................... 34
Tiểu kết chương 2……………..…………………………………………..…35


CHƯƠNG 3. GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC THỰC
THI PHÁP LUẬT VỀ ĐĂNG KÝ KẾT HÔN TẠI XÃ HÒA NINH,
HUYỆN HÒA VANG, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG ..................................... 36
3.1. Quan điểm, chủ trương của Đảng ta về vấn đề hôn nhân ........................ 36
3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả công tác thực thi pháp luật về đăng ký kết hơn
tại Ủy ban nhân dân xã Hịa Ninh, huyện Hịa Vang, thành phố Đà Nẵng .... 38
3.2.1. Tăng cường đào tạo, nâng cao trình độ chun mơn cho cán bộ làm công
tác tư pháp, hộ tịch.......................................................................................... 38
3.2.2. Tuyên truyền, vận động người dân chấp hành các pháp luật về đăng ký
kết hôn ............................................................................................................. 40
3.2.3. Đẩy mạnh thực hiện công tác cải cách hành chính .............................. 41
Tiểu kết chương 3............................................................................................ 43
KẾT LUẬN .................................................................................................... 44
DANH MỤC TÀI LIỆU................................................................................ 45


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
STT


CHỮ VIẾT TẮT

NỘI DUNG ĐƯỢC VIẾT TẮT

1

ĐKKH

Đăng ký kết hôn

2

BLDS

Bộ luật Dân sự

3

UBND

Ủy ban nhân dân

4

HN&GĐ

Hơn nhân và gia đình

5


XHCN

Xã hội Chủ nghĩa

6

CHND

Cộng hịa Nhân dân

7

TAND

Tịa án Nhân dân

8

NĐ-CP

Nghị định- Chính phủ

9

NQ- HĐTP

Nghị quyết- Hội đồng Thẩm phán

10


TATC

Tòa án tối cao


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Gia đình đóng vai trị, vị trí hết sức quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển
của loài người chúng ta. Gia đình được sinh ra, tồn tại và phát triển với chức năng
đặc biệt mà xã hội và tự nhiên đã giao cho, khơng thiết chế xã hội nào có thể thay thế
được. Gia đình chính là nơi hình thành, giáo dục nhân cách của mỗi con người. Một
gia đình tốt thì sẽ có một xã hội tốt, nhưng để có một gia đình tốt thì yếu tố cơ bản đó
là kết hôn, đây là đánh dấu cột mốc của một gia đình.
Hiện nay, vấn đề kết hơn là một vấn đề rất đáng quan tâm. Không chỉ ở Việt
Nam ta mà các nước trên thế giới đều cần phải có sự đồng ý của pháp luật trước khi
kết hơn. Chính vì vậy, theo quy định hiện hành của pháp luật Việt Nam thì việc kết
hơn là một việc nam và nữ xác lập quan hệ vợ chồng với nhau theo quy định của Luật
về điều kiện kết hôn và đăng ký kết hơn.
Để xác định rõ về vai trị của kết hôn nên trong các văn kiện của Đảng và các
văn bản pháp luật của Nhà nước, thì kết hơn là một trong những vấn đề được quan
tâm sâu sắc trong xã hội, các vấn đề về kết hôn được quy định rất cụ thể. Tuy nhiên,
bên cạnh những kết quả đạt được, trong q trình triển khai Luật hơn nhân và Gia
đình thì vấn đề về đăng ký kết hơn vẫn có nhiều vướng mắc. Xuất phát từ những sự
khó khăn trên phương diện lý luận và thực tiễn thì yêu cầu về tăng cường sự quản lý
nhà nước về đăng ký kết hôn đối với các địa phương là điều rất cần thiết. Thông qua
vấn đề này sẽ cho thấy vai trò quan trọng của UBND xã trong công tác quản lý Hộ
tịch - Hộ khẩu khi tiến hành đăng ký kết hôn cho người dân, thực hiện các quy định
về ĐKKH của Luật Hôn nhân và gia đình hiện nay. Vấn đề ĐKKH đã và đang trở
thành một trong những vấn đề quan trọng rất được các cơ quan quản lý nhà nước, đặc
biệt là chính quyền địa phương thực hiện một cách cụ thể trong quá trình cải cách

hành chính trong thực tế. Chính vì vậy, để góp phần hồn thiện hơn q trình tăng
cường sự quản lý của Nhà nước trong vấn đề kết hôn này, tôi đã chọn “Pháp luật về
đăng ký kết hôn qua thực tiễn tại xã Hoà Ninh, huyện Hoà Vang, thành phố Đà
Nẵng” làm đề tài cho khóa luận của mình nhằm hồn thiện hơn về các quy định
ĐKKH, nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về ĐKKH tại địa phương.

1


2. Mục tiêu nghiên cứu và câu hỏi nghiên cứu
- Làm rõ về kết hôn và ĐKKH
- Thực tiễn triển khai việc ĐKKH tại UBND xã Hòa Ninh, huyện Hòa Vang,
thành phố Đà Nẵng
- Đề xuất được những kiến nghị hoàn thiện pháp luật về thủ tục ĐKKD và
nâng cao hiệu quả cơng tác ĐKKH tại UBND xã Hịa Ninh, huyện Hòa Vang,
thành phố Đà Nẵng
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của khóa luận là các vấn đề lý luận, thực tiễn thực hiện
đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật qua từ thực tiễn xã Hòa Ninh, huyện
Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng.
- Phạm vi nghiên cứu của khóa luận
Về khơng gian: Trên địa bàn xã Hòa Ninh, huyện Hòa Vang, thành phố Đà
Nẵng
Về thời gian: Từ năm 2018 đến năm 2022.
4. Phương pháp nghiên cứu
Khóa luận được thực hiện dựa trên cơ sở quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của
Nhà nước về quan hệ hơn nhân và gia đình để phân tích, lý giải các vấn đề.
5. Kết cấu đề tài
Đề tài khóa luận gồm 03 chương:

Chương 1. Khái quát về đăng ký kết hôn
Chương 2. Thực trạng đăng ký kết hôn tại xã Hòa Ninh, huyện Hòa Vang,
thành phố Đà Nẵng
Chương 3. Giải pháp nâng cao hiệu quả công tác thực thi pháp luật về đăng ký
kết hơn tại xã Hịa Ninh, huyện Hịa Vang, thành phố Đà Nẵng.
6. Tình hình nghiên cứu đề tài
Đăng ký kết hơn là hình thức nhà nước kiểm sốt việc kết hơn của cơng dân.
Chỉ những trường hợp kết hôn theo quy định của pháp luật mới được nhà nước công
nhận, bảo vệ. Thông qua việc đăng kí kết hơn, nhà nước có chính sách định hướng,
khuyến khích, tác động để việc kết hơn diễn ra đúng điều kiện và trình tự kết hơn do
pháp luật quy định.
2


Đăng ký kết hơn là hình thức bảo vệ quyền lợi của vợ chồng. Thông qua thủ
tục chặt chẽ, khoa học, nhà nước chứng nhận tính hợp pháp của hơn nhân và xác định
trách nhiệm của họ đối với nhau. Trên nền các quyền, nghĩa vụ của vợ chồng theo
luật định, các bên có trách nhiệm tơn trọng các quyền của nhau và thực hiện các nghĩa
vụ để cùng nhau xây dựng gia đình.
Vấn đề ĐKKH đã được một số tác giả nghiên cứu qua các bài viết như: “Kết
hôn theo quy định của pháp luật Việt Nam” (Luận văn cử nhân của Phạm Thị Minh
Châu năm 2003); “Nâng cao hiệu quả hoạt động đăng ký hộ tịch tại UBND cấp
xã trong giai đoạn hiện nay” (Luận văn cử nhân của Dương Thị Ngọc Hà năm 2011).
“Chế định kết hôn trong Luật Hơn nhân và gia đình năm 2000”, Luận văn
thạc sĩ Luật học của Khuất Thị Thu Hạnh, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội,
2008; “Gia đình theo luật hơn nhân và gia đình Việt Nam”, Luận văn Thạc sĩ Luật
học của Nguyễn Văn Duy, Đại học Quốc gia Hà Nội 2017,…có phạm vi nghiên cứu
rộng, đề cập đến nhiều khía cạnh khác nhau, có cơng trình chỉ giải quyết một khía
cạnh nhỏ trong vấn đề kết hơn, có cơng trình nghiên cứu riêng và có cơng trình nghiên
cứu chun sâu về vấn đề này. Các cơng trình đó, cho dù có những nội dung ưu việt,

tiên tiến nhưng cũng cịn nhiều vấn đề khơng bắt kịp nhịp sống xã hội vốn luôn chuyển
biến ảnh hưởng trực tiếp tới cuộc sống, đặc biệt là về vấn đề kết hơn.
Giáo trình Luật Hơn nhân và gia đình Việt Nam của Trường Đại học Luật Hà
Nội, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2012. Về sách, có thể kể tới một số sách chuyên
sâu như: “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về Luật Hôn nhân và Gia đình” năm
2000 của đồng tác giả Nguyễn Văn Cừ và Ngơ Thị Hường, Nxb Chính trị quốc gia
Hà Nội, 2002; “Bình luận khoa học Luật Hơn nhân và Gia đình” của tác giả Nguyễn
Ngọc Điện, tập 1, tập 2, Nxb Trẻ, 2002... Vấn đề kết hôn đã được phân tích một cách
chung chung, có tính chất tổng qt, có cuốn đi vào phân tích chuyên sâu và cụ thể
nhưng chưa nêu hết được những bất cập, hạn chế trước những biến đổi của đời sống
xã hội có ảnh hưởng tới vấn đề kết hơn. Đặc biệt chưa có cơng trình nào nghiên cứu
riêng, đầy đủ và tồn diện về vấn đề kết hôn theo Luật HN&GĐ năm 2014.
“Về độ tuổi kết hơn theo Luật Hơn nhân và gia đình năm 2000”, ThS. Bùi Thị
Mừng, Tạp chí Luật học, 2011; Bài viết của TS. Nguyễn Văn Cừ: “Hoàn thiện quy
định về điều kiện kết hôn theo Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000”, Tạp chí Tịa
án nhân dân, số 24/2013; Bài viết của TS. Các bài viết này thường phân tích rất sâu
3


một nội dung trong vấn đề kết hôn, nhưng do tính chất của một bài viết nghiên cứu,
các tác giả chỉ đề cập đến một khía cạnh hoặc một trường hợp cụ thể liên quan mà
khơng phân tích tồn diện các khía cạnh của vấn đề này.
Ngồi ra, “Một vài ý kiến về khái niệm và bản chất pháp lý của hôn nhân”
(2002) của tác giả Nguyễn Hồng Hải đã đề cập đến hệ thống pháp luật Anh – Mỹ
(Common law), quan niệm truyền thống về hôn nhân của Cơ đốc giáo, do Lord
Penzance đưa ra “Hôn nhân là sự liên kết tự nguyện suốt đời giữa một người đàn ơng
và một người đàn bà, mà khơng vì mục đích nào khác”
Phần lớn các tác giả thường thiên về việc phân tích, đánh giá thực trạng pháp
luật quy định về vấn đề kết hơn. Một số cơng trình nghiên cứu cũng đã có dẫn chiếu,
liên hệ thực tiễn áp dụng một số quy định pháp luật, tuy nhiên, sự liên hệ, phân tích

đó chỉ có tính chất minh hoạ cho một số trường hợp cụ thể mà chưa có sự soi chiếu
một cách tổng thể, toàn diện tất cả các khía cạnh của việc áp dụng quy định về vấn
đề này trong thực tiễn đặc biệt với Luật HN&GĐ năm 2014 mới có hiệu lực thi hành.
Chính vì vậy, việc đưa ra một cơng trình nghiên cứu về lý luận kết hôn, điều
kiện kết hôn, cũng như đánh giá những mặt tích cực, hạn chế từ đó đưa ra các kiến
nghị nhằm hoàn thiện các quy định về vấn đề này cho phù hợp với điều kiện kinh tế
- xã hội hiện nay là hồn tồn cần thiết. Do đó, cơng trình sẽ khơng phải là sự lặp lại
của bất kỳ cơng trình nào trước đó. Xuất phát từ những lý do trên, tác giả quyết định
lựa chọn đề tài: “Pháp luật về đăng ký kết hôn qua thực tiễn tại xã Hoà Ninh, huyện
Hoà Vang, thành phố Đà Nẵng” làm đề tài cho Khóa luận của mình.

4


CHƯƠNG 1. KHÁI QUÁT VỀ ĐĂNG KÝ KẾT HÔN
1.1. Khái niệm kết hôn và đăng ký kết hôn
1.1.1. Khái niệm kết hơn
Trong khoa học nói chung và khoa học Luật HN & GĐ nói riêng, việc đưa ra
một khái niệm đầy đủ về hơn nhân có ý nghĩa rất quan trọng. Nó phản ánh quan điểm
chung của Nhà nước về hôn nhân, tạo cơ sở lý luận cho việc xác định bản chất pháp
lý của hôn nhân; xác định nội dung, phạm vi điều chỉnh của các quy phạm pháp luật
HN & GĐ.
Trong thực tiễn khoa học Luật HN & GĐ ở Việt Nam và nước ngồi, nhiều
khái niệm hơn nhân đã được các nhà làm luật, các nhà nghiên cứu luật học đưa ra
Ở Việt Nam, các giáo trình Dân Luật dưới chế độ Sài Gòn cũ chưa đưa ra khái
niệm cụ thể về hôn nhân mà phần lớn là đưa ra khái niệm “giá thú”. “Giá thú (hay
hôn thú) là sự phối hợp của một người đàn ông và một người đàn bà theo thể thức
luật định” hoặc “giá thú cũng được hiểu: “sự trai gái lấy nhau trước mặt viên hộ lại
và phát sinh ra những nghĩa vụ tương hỗ cho hai bên về phương diện đồng cư, trung
thành và tương trợ”. Theo một số luật gia Sài Gịn, khái niệm “giá thú” bao gồm có

hai nghĩa: theo nghĩa thứ nhất gia thú là hành vi phối hợp vợ chồng (kết hơn). Theo
nghĩa thứ hai là tình trạng của hai người đã chính thức lấy nhau làm vợ chồng và thời
gian hai người ăn ở với nhau. Điều 99 Bộ dân luật 1972 ngày 20/12/1972 của Chính
quyền Sài gịn cũ quy định: “Khơng ai được phép tái hôn nếu giá thú trước chưa đoạn
tiêu”.
Trong pháp Luật HN & GĐ Việt Nam hiện hành, khái niệm hôn nhân đã được
nhà làm luật và các nhà nghiên cứu luật học quan tâm hơn. Luật HN & GĐ năm 2014
quy định: “Hôn nhân là quan hệ giữa vợ và chồng sau khi đã kết hơn”. Cịn theo Từ
điển giải thích thuật ngữ Luật học của trường Đại học Luật Hà Nội hôn nhân được
hiểu là: “Sự liên kết giữa người nam và người nữ dựa trên nguyên tắc tự nguyện, bình
đẳng, theo điều kiện và trình tự nhất định, nhằm chung sống với nhau suốt đời và xây
dựng gia đình hạnh phúc và hồ thuận”.
Các khái niệm hơn nhân nói trên mặc dù còn chứa đựng những quan điểm khác
nhau, song chúng có hai điểm chung sau:

5


Đều xuất phát từ vị trí của hơn nhân là một thiết chế xã hội: “Việc một người
đàn ông và một người đàn bà cam kết sống chung với nhau với những quyền và nghĩa
vụ đối với nhau cũng như đối với con cái”.
Hôn nhân qua các khái niệm này đều phản ánh năm đặc điểm cơ bản:
Thứ nhất, tính tự nguyện trong hôn nhân.
Hôn nhân là quan hệ giữa cá nhân với cá nhân, do đó việc thể hiện ý chí ưng
thuận giữa các bên trong hơn nhân là một trong các điều kiện căn bản để hôn nhân có
hiệu lực. Hiện nay, pháp luật về hơn nhân và gia đình của các nước đều ghi nhận:
Khơng có hơn nhân khi khơng có sự tự nguyện.
Tuy nhiên, tính tự nguyện trong hôn nhân được xem xét với nhiều quan điểm
khác nhau. Đối với nhà làm luật ở một số nước phương Tây, tự nguyện ở đây thường
gắn với tự nguyện trong hợp đồng. Ví dụ: áp dụng chế độ đại diện trong kết hôn, nếu

các bên nam, nữ kết hôn ở độ tuổi theo luật định bắt buộc phải có sự đồng ý của cha,
mẹ hoặc người giám hộ (thường ở độ tuổi chưa thành niên), thì việc kết hơn chỉ hợp
pháp khi có sự đồng ý của những người này. Tự nguyện trong pháp luật phương Tây
còn đồng nghĩa với tự do thỏa thuận, thông qua việc thừa nhận chế độ tài sản ước
định trong quan hệ vợ chồng, khi các bên không thoả thuận được pháp luật mới áp
dụng chế độ tài sản pháp định.
Nhà làm luật các nước XHCN cũng coi yếu tố tự nguyện trong hôn nhân là
một trong các nguyên tắc cơ bản của chế độ hơn nhân và gia đình. Tuy nhiên, họ lại
xác định tự nguyện trong hôn nhân là tự nguyện xuất phát từ tình cảm giữa nam và
nữ, vậy nên họ không thừa nhận chế độ đại diện trong kết hơn, mà việc kết hơn phải
do chính các bên nam, nữ quyết định.
Thứ hai, tính bền vững (tính chất suốt đời) của hơn nhân.
Có quan điểm cho rằng, đặc điểm này chỉ tồn tại trong hôn nhân XHCN. Trên
thực tế khơng hồn tồn như vậy, đặc điểm bền vững của hôn nhân cũng đã được nhà
làm luật tư sản đề cập đến từ rất lâu. Pháp luật về hôn nhân của nhiều nước tư sản
cũng ghi nhận đặc điểm này (ví dụ: Theo Luật hơn nhân năm 1961 của Australia: để
việc kết hơn có hiệu lực pháp lý, các bên kết hơn phải có mục đích chung sống suốt
đời).
Theo quan niệm tơn giáo có thể hiểu theo hai nghĩa: hơn nhân khơng thể chấm
dứt bằng ly hơn, do đó cấm ly hơn (quan điểm này hiện nay rất ít nước áp dụng) và
6


hơn nhân có tính bền vững nhưng vẫn có thể chấm dứt bằng ly hôn (đây là quan điểm
phổ biến hiện nay).
Tính bền vững của hơn nhân cũng có thể xuất phát từ đạo đức truyền thống và
văn hoá của người phương đơng coi trọng tình nghĩa vợ chồng và yếu tố bền vững
trong hơn nhân và gia đình
Tính bền vững của hôn nhân cũng được đặt ra xuất phát từ các vấn đề của nền
kinh tế - xã hội tư bản (nền kinh tế thị trường, sự đề cao chế độ tư hữu và tự do cá

nhân…) đã và đang đẩy hôn nhân trong xã hội tư sản rơi vào tình trạng khủng hoảng
(hơn nhân bền vững được thay thế bằng “hơn nhân thử”, tình trạng ly hơn tràn lan…).
Trước tình hình đó, đã u cầu các nhà làm luật (đặc biệt, ở các nước phương tây)
phải quan tâm và đề cao hơn nữa tính bền vững của hơn nhân.
Quan niệm phổ biến nhất (đặc biệt ở các nước XHCN) là do hôn nhân được
xây dựng trên yếu tố tình cảm giữa các chủ thể và hơn nhân có mục đích là xây dựng
gia đình (gia đình thường bắt đầu từ hôn nhân, từ quan hệ vợ chồng về tình cảm mà
phát sinh các quan hệ giữa cha mẹ và con, quan hệ giữa anh, chị, em…) đó là những
điều kiện đảm bảo cho sự liên kết hạnh phúc, bền vững trong hơn nhân, hơn nhân có
bền vững thì gia đình và xã hội mới ổn định và phát triển
Pháp luật HN & GĐ Việt Nam luôn coi trọng tính bền vững của hơn nhân, vì
truyền thống gia đình Việt Nam và xuất phát từ vai trị hơn nhân là cơ sở: xây dựng
gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc, bền vững.
Thứ ba, tính chất một vợ một chồng
Trong xu thế tiến bộ xã hội (đặc biệt sự bình đẳng giữa nam và nữ), sự khẳng
định cá nhân con người ngày càng lớn, đạo đức mới của con người không những phủ
nhận kiểu hôn nhân một chồng nhiều vợ, hoặc một vợ nhiều chồng như trước, mà địi
hỏi tình u nam, nữ phải biểu hiện trong mối quan hệ thuỷ chung một vợ, một chồng.
Vậy nên, hiện nay chế độ một vợ một chồng đã được ghi nhận trong hầu hết
pháp luật HN & GĐ của các nước. Pháp luật HN & GĐ Việt Nam coi một vợ, một
chồng là một trong các nguyên tắc cơ bản của chế độ hơn nhân và gia đình XHCN và
là một trong các điều kiện để thừa nhận việc kết hôn hợp pháp (Luật HN & GĐ Việt
Nam năm 2014).
Thứ tư, hôn nhân chỉ tồn tại giữa những người khác nhau về giới tính.

7


Thực chất và ý nghĩa của hôn nhân là mục đích xây dựng gia đình, thể hiện
trong việc sinh đẻ, nuôi dưỡng và giáo dục con cái, đáp ứng lẫn nhau những nhu cầu

vật chất và tinh thần trong cuộc sống hàng ngày. Vì vậy, hơn nhân là sự liên kết giữa
những người khác giới tính là một đặc điểm vừa mang tính tự nhiên vừa mang tính
xã hội. Để đảm bảo mục đích của hơn nhân được thực hiện; đồng thời, để bảo vệ yếu
tố đạo đức truyền thống và tính tự nhiên trong hơn nhân, pháp luật của đa số các nước
trên thế giới đều cấm kết hôn giữa những người cùng giới tính (Việt Nam quy định
tại khoản 5 Điều 10 Luật HN & GĐ năm 2000) nhưng đến Luật HN & GĐ năm 2014
thì khơng cịn cấm kết hôn giữa những người đồng giới nhưng cũng khơng thừa nhận.
Trong đó, một số nước coi hành vi kết hơn giữa những người cùng giới tính là tội
phạm. Tuy nhiên, hiện nay do xuất phát từ nhiều nguyên nhân, đặc biệt do quá coi
trọng quyền tự do cá nhân, có nước đã thừa nhận hơn nhân của những người cùng
giới (Luật hôn nhân sửa đổi của Hà Lan có hiệu lực từ ngày 01.04.2001 đã cho phép
những người cùng giới tính kết hơn với nhau…). Việc thừa nhận hôn nhân đồng giới
ở những nước này đã gặp sự phản đối của dư luận rộng rãi trên thế giới.
Thứ năm, tính chịu sự quy định của pháp luật
Với vị trí là một thiết chế xã hội, hơn nhân có vai trị là cơ sở xây dựng gia
đình - tế bào của xã hội. Điều đó khơng chỉ có ý nghĩa riêng tư mà cịn có ý nghĩa xã
hội. Bởi vì, trên cơ sở phát sinh quan hệ vợ chồng, các quan hệ thân thuộc trong gia
đình (quan hệ trực hệ và quan hệ giữa những người có họ hàng khác) và các quan hệ
thích thuộc (quan hệ giữa một bên vợ hoặc chồng với những người trong họ nhà vợ
hay trong họ nhà chồng) được thiết lập và làm phát sinh các quyền và nghĩa vụ đạo
đức, pháp lý giữa các chủ thể trong gia đình. Việc phát sinh tồn tại và chấm dứt hơn
nhân đều có những ảnh hưởng tích cực hoặc tiêu cực đến các quan hệ gia đình (trong
nhiều trường hợp hơn nhân có ảnh hưởng mang tính chất quyết định). Chủ nghĩa Mác
– Lênin đã khẳng định: “Nếu hôn nhân không phải là cơ sở của gia đình thì nó sẽ
khơng phải là đối tượng của lập pháp”. Vì vậy, cũng như các thiết chế xã hội khác
hôn nhân phải chịu sự điều chỉnh của pháp luật. Pháp luật HN & GĐ các nước đều
có các quy định chặt chẽ về kết hôn, quyền và nghĩa vụ của vợ chồng về chấm dứt
hôn nhân. Luật HN & GĐ Việt Nam năm 2014 quy định vấn đề kết hôn bao gồm điều
kiện kết hôn, nghi thức kết hôn, huỷ kết hôn trái pháp luật.


8


Ngồi năm đặc điểm trên, có quan điểm cho rằng hơn nhân cịn có đặc điểm
bình đẳng. Bình đẳng khơng phải là đặc điểm chung cho hôn nhân ở các nước có điều
kiện kinh tế – xã hội khác nhau. “Bình đẳng” là đặc điểm phản ánh rõ nét nhất bản
chất giai cấp, yếu tố tôn giáo, phong tục, tập quán trong quy định về hôn nhân ở mỗi
quốc gia. Pháp luật HN & GĐ các nước phương Tây thừa nhận bình đẳng trong hơn
nhân, nhưng đó chỉ là sự bình đẳng về hình thức. Có nhà nghiên cứu cho rằng: “Quan
điểm sở hữu thực chất không hề thay đổi: Người này coi người kia thuộc sở hữu của
mình và ngược lại. Và sự trùng hợp các ý nguyện của đơi bên thoạt nhìn có vẻ như
xuất phát từ tình yêu, từ niềm say mê, nhưng trong thực tế có thể chỉ là phản xạ đối
với truyền thống cũ, khi mà người vợ khơng được phép có ý thực riêng, có ý kiến
khác với người chồng”.
Dưới chế độ XHCN, bình đẳng có thể được coi là đặc điểm của hơn nhân
XHCN. Bởi vì, nhà làm luật XHCN xác định vợ chồng bình đẳng là một trong các
tiêu chí đánh giá tiến bộ xã hội và là một nguyên tắc cơ bản của chế độ hơn nhân và
gia đình XHCN, nội dung bình đẳng do pháp luật quy định trên cả quan hệ về nhân
thân và quan hệ về tài sản giữa vợ và chồng. Điều quan trọng hơn, các nước XHCN
có điều kiện chính trị - kinh tế - văn hoá - xã hội và cơ chế pháp luật để bình đẳng
trong hơn nhân được thực hiện trên thực tế.
Vì vậy, trong giai đoạn phát triển của xã hội hiện nay, khái niệm hôn nhân mà
nhà làm luật các nước đưa ra đã có sự tiếp cận nhau hơn. Tuy nhiên, hôn nhân là một
hiện tượng xã hội, chịu ảnh hưởng sâu sắc bản chất giai cấp, tôn giáo, phong tục, tập
quán, nên nội dung các đặc điểm của hôn nhân ở các nước có điều kiện chính trị kinh tế - xã hội khác nhau là khác nhau. Căn cứ vào các quy định về hôn nhân trong
Luật HN & GĐ Việt Nam năm 2014, chúng ta có thể hiểu hôn nhân theo pháp luật
HN & GĐ Việt Nam như sau: sự liên kết tự nguyện, bình đẳng, theo quy định pháp
luật giữa một người đàn ông và một người đàn bà, nhằm chung sống suốt đời với tư
cách là vợ chồng, vì mục đích xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh
phúc và bền vững.

Khoản 5 Điều 3 Luật Hơn nhân gia đình năm 2014 định nghĩa: “Kết hôn là
việc nam và nữ xác lập quan hệ vợ chồng với nhau theo quy định của Luật này về
điều kiện kết hôn và đăng ký kết hôn”.

9


Như vậy, có thể hiểu kết hơn là cơ sở pháp lý xác lập quan hệ vợ chồng giữa
một người nam và một người nữ. Khi xác lập quan hệ vợ chồng, các chủ thể phải đáp
ứng đầy đủ các yêu cầu về điều kiện khi kết hôn và đăng ký kết hôn.
1.1.2. Khái niệm Đăng ký kết hôn
Chủ nghĩa Mác - Lênin đã khẳng định: Không ai bị buộc phải kết hôn, nhưng
ai cũng bị buộc phải tuân theo luật hơn nhân một khi người đó kết hơn… hơn nhân
không thể phục tùng sự tùy tiện của người kết hôn mà trái lại sự tùy tiện của người
kết hôn phải phục tùng bản chất của hôn nhân. Sự tùy tiện mà chủ nghĩa Mác - Lênin
nhắc đến ở đây chính là tính tự do trong kết hơn, khơng ai bị ép buộc phải kết hôn tuy
nhiên khi đã kết hơn thì người đó buộc phải tn theo một khn khổ nhất định trong
đó điều kiện kết hơn chính là những điều kiện tiên quyết mà người kết hôn phải phục
tùng. Bởi trong xã hội có giai cấp, Nhà nước với tư cách đại diện cho giai cấp thống
trị sử dụng pháp luật để quy định các điều kiện kết hơn, địi hỏi các bên phải đáp ứng
nhằm xây dựng mơ hình gia đình phù hợp với lợi ích của giai cấp mình. Khi đó điều
kiện kết hơn phản ánh điều kiện kinh tế xã hội, sự phát triển khoa học kỹ thuật, văn
hóa truyền thống, phong tục tập quán của xã hội đương thời và ý chí của giai cấp
thống trị thơng qua mơ hình gia đình. Do vậy, ở mỗi một giai đoạn lịch sử nhất định
với mỗi hình thái kinh tế - xã hội nhất định thì các điều kiện kết kết hơn có những
điểm khác nhau. Nhưng dù thế nào thì những điều kiện kết hơn đó cũng đều được đặt
ra để áp dụng đối với các bên khi muốn xác lập quan hệ vợ chồng. Khi đáp ứng được
các điều kiện kết hơn thì họ sẽ trở thành chủ thể của việc kết hôn và được Nhà nước
thừa nhận, bảo vệ. Như vậy, có thể hiểu: Điều kiện kết hôn là các tiêu chuẩn pháp lý
do cơ quan nhà nước có thẩm quyền đặt ra thông qua các quy phạm pháp luật buộc

các bên nam nữ phải đáp ứng, trên cơ sở đó việc kết hôn của họ mới được công nhận
là hợp pháp. Đăng ký kết hôn là thủ tục cần thiết để hôn nhân hợp pháp, được Nhà
nước bảo hộ. Việc đăng ký kết hôn phải tuân thủ đúng thẩm quyền và thủ tục theo
như quy định của pháp luật.
Một số đặc điểm về đăng ký kết hôn như sau:
Một là, ĐKKH là thủ tục pháp lý cần thiết để Nhà nước công nhận quan hệ
hôn nhân của nam và nữ. Việc ghi nhận vào sổ ĐKKH được hiểu là việc nam nữ xác
lập quan hệ vợ chồng theo quy định của pháp luật về điều kiện kết hôn và đăng kết
hôn được quy định tại Khoản 1 Điều 8 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014. Kết hơn
10


là việc nam và nữ xác lập quan hệ vợ chồng với nhau theo quy định của Luật này về
điều kiện kết hôn và đăng ký kết hôn. Trước khi xác lập một quan hệ hôn nhân, các
điều kiện về nội dung của việc kết hôn phải được cơ quan nhà nước kiểm tra một cách
chặt chẽ thông qua các thủ tục về đăng ký kết hôn. Việc ban hành quy định về ĐKKH
khẳng định vai trò quan trọng của hoạt động quản lý nhà nước về hộ tịch và dân cư ở
nước ta hiện nay.
Hai là, mục tiêu của hoạt động ĐKKH nói chung là tăng cường hoạt động
quản lý nhà nước về dân cư. Đảm bảo quyền và lợi ích của quan hệ hơn nhân được
pháp luật thừa nhận. Bởi tính chất quan trọng của việc ĐKKH nên công tác này luôn
được coi là một trong những hoạt động quan trọng của NN, cá nhân, tổ chức và tồn
xã hội. Vì vậy, trong cơng tác ĐKKH đã có sự phối hợp lẫn nhau nhằm đáp ứng các
yêu cầu và thực hiện tốt các quy định về ĐKKH trong thời kỳ mới của đất nước.
Ba là, song song với hoạt động ĐKKH thì tăng cường hoạt động về quản lý
về đăng ký kết hôn, đảm bảo hoạt động kết hơn được thực hiện theo trình tự, thủ tục
đúng quy định và từ đó làm nền tảng hồn thiện hệ thống pháp luật về HN&GĐ ở
nước ta hiện nay. Thông qua hành vi ghi vào sổ ĐKKH sẽ tạo nên mối quan hệ pháp
lý ràng buộc giữa các bên trong q trình đăng ký kết hơn theo quy định pháp luật
hiện hành. Với trình tự thủ tục chặt chẽ với sự xác minh từ cơ quan ĐKKH tại địa

phương là nền tảng cơ bản để hình thành mối quan hệ hôn nhân giữa các chủ thể.
Đăng ký kết hôn là cơ sở pháp lý để pháp luật có thể bảo vệ quyền lợi và nghĩa
vụ cho mỗi người. Sau khi đăng ký kết hơn sẽ hình thành đời sống hơn nhân và bắt
đầu thời kỳ hôn nhân, vợ chồng sẽ phát sinh quyền và nghĩa vụ với nhau trong quan
hệ hơn nhân gia đình. Nếu hai người sống chung như vợ chồng mà không đăng ký
kết hôn, khi chia tay rất khó để phân chia tài sản trong thời gian sống chung. Điều
này sẽ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp khơng chỉ đối với cả hai mà cịn có ý nghĩa
đối với con chung. Hai người yêu nhau, kết hôn, con sinh ra sẽ được khai sinh, sống
dưới một gia đình hạnh phúc có cả cha lẫn mẹ về mặt tình cảm cũng như về mặt pháp
lý.
Đăng ký kết hơn là một nội dung quan trọng và có ý nghĩa rất lớn trong công
tác quản lý hộ tịch, đảm bảo cho những trường hợp xác lập quan hệ vợ chồng phù
hợp với quy định của pháp luật, theo trật tự pháp lý ổn định. Đồng thời đăng ký kết

11


hơn sẽ xóa bỏ những tư tưởng lạc hậu, những hủ tục tồn tại lâu dài trong xã hội, cản
trở q trình thực hiện chế độ hơn nhân tiến bộ trong xã hội.
1.1.3. Điều kiện kết hôn theo quy định pháp luật Việt Nam
1.1.3.1. Điều kiện kết hôn
Khái niệm điều kiện kết hơn Theo Từ điển giải thích từ ngữ luật học: “Điều
kiện kết hôn là điều kiện để Nhà nước công nhận việc kết hôn của hai bên nam nữ”.
Hay nói cách khác điều kiện kết hơn là những quy định của pháp luật đặt ra khi hai
bên nam nữ kết hôn, chỉ khi các bên đáp ứng đầy đủ các điều kiện đó thì việc kết hơn
mới được coi là hợp pháp và được pháp luật thừa nhận và bảo vệ.
Điều kiện kết hôn là một trong những nội dung quan trọng thuộc phạm vi điều
chỉnh của chế định kết hôn. Điều kiện kết hôn được quy định chặt chẽ phù hợp với
điều kiện kinh tế xã hội và phong tục, tập quán sẽ là đảm bảo để cuộc hơn nhân được
xác lập phù hợp với lợi ích của người kết hơn, lợi ích của gia đình và xã hội. Xét một

cách khái quát nhất, điều kiện kết hôn chỉ rõ, người kết hôn được phép xác lập quan
hệ hơn nhân khi có đủ những điều kiện gì; trong trường hợp nào thì họ khơng được
phép kết hơn. Nội dung các điều kiện kết hôn cụ thể phụ thuộc vào quan điểm của
nhà làm luật khi xác định vai trị của hơn nhân đối với đời sống gia đình và xã hội.
Theo từ điển Tiếng Việt, điều kiện được hiểu là “điều nêu ra như một đòi hỏi
trước khi thực hiện một việc nào đó”.Theo nghĩa này, điều kiện được hiểu là những
yêu cầu buộc người kết hôn phải tuân thủ.
Từ điển giải thích thuật ngữ luật học (phần Luật Dân sự, Luật HN&GĐ, Luật
Tố tụng dân sự) định nghĩa: “Điều kiện kết hôn là điều kiện để Nhà nước công nhận
việc kết hôn của các bên nam nữ”.
Xét trên phương diện ngôn ngữ, “điều kiện” thường được sử dụng để chỉ
những yêu cầu cần thiết phải có khi tiến hành một cơng việc. Với cách giải thích này,
điều kiện kết hôn được hiểu là những yêu cầu mà pháp luật đặt ra đối với người kết
hôn. “Không ai bị buộc phải kết hôn, nhưng ai cũng bị buộc phải tn theo Luật hơn
nhân một khi người đó kết hôn...hôn nhân không thể phục tùng sự tùy tiện của người
kết hôn mà trái lại sự tùy tiện của người kết hôn phải phục tùng bản chất của hôn
nhân”. Như vậy, người kết hôn buộc phải chấp hành những quy tắc xử sự mang tính
bắt buộc chung khi kết hôn. Việc quy định các điều kiện kết hôn là tất yếu khách
quan. Bởi vì, bản chất của hơn nhân chính là nội dung chi phối và mang tính chất
12


quyết định tới nội dung các quy phạm pháp luật về điều kiện kết hôn. Đây là điểm cơ
bản để chúng ta có thể lý giải rằng vì sao pháp luật của các kiểu nhà nước khác nhau
quy định về điều kiện kết hôn mang những sắc thái khác nhau. Nói một cách khác,
hơn nhân là một hiện tượng xã hội mang tính giai cấp cho nên các quy định về điều
kiện kết hơn cũng phản ánh rõ tính giai cấp, thể hiện quan điểm của nhà làm luật cũng
như những giá trị về hôn nhân mà giai cấp thống trị trong xã hội cần bảo vệ.
Điều 8 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014, cụ thể như sau:
Thứ nhất, Nam từ đủ 20 tuổi trở lên, nữ từ đủ 18 tuổi trở lên

Theo điểm a khoản 1 Điều 8: Bắt buộc nam phải từ đủ 20 tuổi và nữ từ đủ 18
tuổi trở lên mới được kết hôn.
Thực tế cho thấy việc thi hành quy định về tuổi kết hơn cịn rất nhiều bất cập
giữa quy định của pháp luật và tập quán về tuổi kết hôn. Ở một số địa phương, cộng
đồng người dân vẫn kết hôn theo độ tuổi trong tập quán dẫn tới tình trạng tảo hơn vẫn
cịn tồn tại, đặc biệt là ở vùng cao, nơi đồng bào dân tộc ít người sinh sống.
Thứ hai, Việc kết hôn do nam và nữ tự nguyện quyết định. Kết hôn phải dựa
trên sự tự nguyện của hai bên nam nữ. Những trường hợp nam và nữ kết hôn bị coi
là không tự nguyện :
Một bên bị ép buộc: vì bị đe dọa dùng vũ lực, uy hiếp tinh thần hoặc dùng vật
chất mà buộc đồng ý kết hôn.
Một bên bị lừa dối: lừa dối nếu kết hôn sẽ được bảo lãnh ra nước ngoài hay sẽ
được xin việc làm tốt...; khơng có khả năng sinh lý nhưng cố tình giấu; biết bị nhiễm
HIV nhưng cố tình giấu...nên đồng ý kết hôn.
Một bên hoặc cả hai bên nam, nữ bị người khác cưỡng ép: bố mẹ của người
nữ bắt phải cưới để gán nợ; do bố mẹ của hai bên có hứa hẹn với nhau nên cưỡng ép
con phải kết hôn...buộc người bị cưỡng ép kết hôn trái với nguyện vọng của họ.
Trên thực tế sự tự nguyện chỉ có thể được xác định thơng qua hành vi thể hiện
ý chí của người kết hơn trước cơ quan nhà nước có thẩm quyền cơng nhận việc kết
hơn. Bản thân yếu tố chủ quan bên trong như tình cảm, mong muốn, nguyện vọng
của người kết hôn như thế nào thì lại khó có thể biết. Do đó hiện nay vấn đề về việc
xác định như thế nào là tự nguyện hay những hành vi như thế nào là lừa dối trong hơn
nhân vẫn cịn gặp nhiều vướng mắc.
Thứ ba, Nam, nữ không bị mất năng lực hành vi dân sự
13


Theo quy định tại Điều 22 Bộ luật dân sự 2015 đã quy định như sau:
Khi một người do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận
thức, làm chủ được hành vi thì theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan

hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan, Tòa án ra quyết định tuyên bố người này là
người mất năng lực hành vi dân sự trên cơ sở kết luận giám định pháp y tâm thần.
Khi khơng cịn căn cứ tun bố một người mất năng lực hành vi dân sự thì
theo yêu cầu của chính người đó hoặc của người có quyền, lợi ích liên quan hoặc của
cơ quan, tổ chức hữu quan, Tòa án ra quyết định hủy bỏ quyết định tuyên bố mất năng
lực hành vi dân sự.
Người mất năng lực hành vi dân sự là người khơng có khả năng bằng hành vi
của mình xác lập thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự. Pháp luật cấm những người mất
năng lực hành vi dân sự không được kết hôn bởi lẽ họ không nhận thức, không điều
khiển được hành vi, khơng bày tỏ được ý chí vậy đương nhiên khơng thỏa mãn điều
kiện “tự nguyện”. Nhưng hiện nay thực tế vẫn cịn tồn tại thực trạng nhiều gia đình
khơng u cầu tịa án tun bố người thân của mình bị mất năng lực hành vi dân sự
nên vẫn có trường hợp người mất năng lực hành vi dân sự được đăng ký kết hơn, gây
khó khăn cho sau này giải quyết những việc liên quan khác.
Thứ tư, Việc kết hôn không thuộc một trong các trường hợp cấm kết hôn theo
quy định tại các điểm a, b, c và d khoản 2 Điều 5 của Luật HN & GĐ 2014
Theo khoản 2 Điều 5 quy định
Cấm các hành vi sau đây:
Kết hôn giả tạo, ly hôn giả tạo;
Kết hôn giả tạo là hành vi bị cấm, là việc lợi dụng kết hôn để xuất cảnh, nhập
cảnh, cư trú, nhập quốc tịch Việt Nam, quốc tịch nước ngoài; hưởng chế độ ưu đãi
của Nhà nước mà khơng nhằm mục đích xây dựng gia đình (Xem khoản 11 Điều 3
Luật Hơn nhân và gia đình năm 2014). Vì vậy, kết hơn giả tạo khơng phải là tự nguyện
kết hơn. Bởi vì tự nguyện kết hơn phải nhằm mục đích xây dựng gia đình.
Tảo hơn, cưỡng ép kết hơn, lừa dối kết hơn, cản trở kết hôn;
Tảo hôn: Theo quy định của Luật hơn nhân và gia đình năm 2014, tảo hơn là
việc lấy vợ, lấy chồng khi một bên hoặc cả hai bên chưa đủ tuổi kết hôn, cụ thể là
nam từ đủ 20 tuổi trở lên, nữ từ đủ 18 tuổi trở lên (điểm a khoản 1 Điều 8). Tảo hôn
không chỉ vi phạm pháp luật mà còn gây ra hậu quả rất lớn đối với cá nhân, gia đình
14



và xã hội; làm gia tăng nhanh số lượng và giảm chất lượng dân số, trực tiếp ảnh hưởng
đến việc chăm sóc, giáo dục trẻ em. Tảo hơn ảnh hưởng trực tiếp đến thể chất, tâm
sinh lý, sức khỏe sinh sản của người phụ nữ, nhất là trẻ em gái. Bởi chưa đủ tuổi
trưởng thành, cơ thể phát triển chưa hồn thiện, việc quan hệ tình dục sớm, mang
thai, sinh đẻ, ni con sớm làm chậm q trình phát triển thể chất tự nhiên của con
người, dẫn tới thối hóa và các di chứng bệnh tật, làm suy kiệt sức khỏe của bố, mẹ
và con
Tự nguyện hoàn toàn trong việc kết hơn là hai bên nam nữ tự mình quyết định
việc kết hơn và thể hiện ý chí là mong muốn trở thành vợ chồng của nhau. Mỗi bên
không chịu tác động của bên kia hay bất kì người nào khác khiến họ phải kết hôn trái
với nguyện vọng của họ. Sự thể hiện ý chí phải thống nhất với ý chí. Sự tự nguyện
kết hơn phải thể hiện rõ là họ mong muốn được gắn bó với nhau, cùng nhau chung
sống suốt đời nhằm thỏa mãn nhu cầu tình cảm của 2 người, đảm bảo cho họ được tự
do thể hiện ý chí và tình cảm khi kết hơn. Do đó, những người bị mất năng lực hành
vi dân sự thì pháp luật cấm họ kết hơn. Đối với trường hợp nam nữ bị chấn động về
thần kinh hoặc đang trong tình trạng say rượu, bia thì họ cũng tạm thời khơng được
đăng kí kết hơn cho đến khi hồi phục khả năng nhận biết và hoàn toàn tỉnh táo. Để
đảm bảo kết hơn được hồn tồn tự nguyện, Luật Hơn nhân và gia đình quy định cấm
việc cưỡng ép kết hôn, lừa dối kết hôn hoặc cản trở việc kết hôn.
Cưỡng ép kết hôn: Là việc đe dọa, uy hiếp tinh thần, hành hạ, ngược đãi, yêu
sách của cải hoặc hành vi khác để buộc người khác phải kết hôn trái với ý muốn của
họ, để ngăn cản việc kết hơn của người có đủ điều kiện kết hôn theo quy định của
Luật này
Như vậy, những hành này bị cấm là để đảm bảo nguyên tắc kết hôn giữa nam
và nữ là hoàn toàn tự nguyện, họ tự do thể hiện ý chí, nguyện vọng của bản thân chứ
khơng phải là do có sự tác động, ép buộc từ phía người khác. Quy định như vậy cũng
góp phần xóa bỏ chế độ hơn nhân phụ thuộc vào cha mẹ của gia đình phong kiến “
cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy” đã tồn tại từ rất lâu và xây dựng chế độ hơn nhân và

gia đình xã hội chủ nghĩa trên nguyên tắc tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng, vợ
chồng hạnh phúc.
Chỉ coi là có hành vi ép buộc kết hơn khi hành vi đó thể hiện tính chất quyết
liệt, làm cho người bị ép buộc khơng cịn có thể có cách lựa chọn nào khác nên phải
15


chấp nhận kết hôn với người mà họ không mong muốn kết hôn. Hành vi ép buộc kết
hôn trái với ngun tắc hơn nhân tự nguyện, tiến bộ. Vì vậy, Luật hơn nhân và gia
đình Việt Nam quy định trong việc kết hôn, không bên nào được ép buộc bên nào.
Lừa dối kết hôn: Lừa dối kết hôn là việc một trong hai người kết hơn đã nói
sai sự thật về người đó làm cho người kia lầm tưởng mà kết hơn. Có thể kể đến một
số ví dụ về sự lừa dối kết hôn như: một người bị nhiễm HIV hoặc khơng có khả năng
sinh con nhưng lại cố tình che dấu sự thật với bên kia hoặc một người đang có vợ, có
chồng nhưng lại nói với bên kia mình là người chưa có vợ hoặc có chồng.
Cản trở kết hôn: Cản trở kết hôn là việc đe dọa, uy hiếp tinh thần, hành hạ,
ngược đãi, yêu sách của cải hoặc hành vi khác để ngăn cản việc kết hơn của người có
đủ điều kiện kết hơn (Xem khoản 10 Điều 3 Luật Hơn nhân và gia đình năm 2014).
Như vậy, ngược lại với cưỡng ép kết hôn, cản trở kết hơn chỉ có thể là hành vi
của người thứ ba mà không phải là hành vi của chủ thể kết hơn bởi vì bản chất của
việc cản trở kết hôn là không cho phép người kết hôn được xác lập quan hệ hơn nhân
mặc dù họ có đủ điều kiện kết hơn. Ví dụ, mặc dù hai người có đủ điều kiện kết hơn
theo quy định của pháp luật nhưng bố mẹ của một trong hai bên đe dọa sẽ từ con nếu
như hai người kết hôn với nhau hoặc cố tình thách cưới thật cao khi biết người kia
không thể đáp ứng được yêu cầu về lễ vật mà buộc phải từ bỏ việc kết hôn...
Người đang có vợ, có chồng mà kết hơn hoặc chung sống như vợ
chồng với người khác hoặc chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hơn hoặc chung sống
như vợ chồng với người đang có chồng, có vợ; của hơn nhân đó là hơn nhân một vợ
– một chồng. Do đó, người nào đang có vợ, có chồng mà kết hơn với người khác hoặc
người chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hơn với người đã có chồng hoặc đã có vợ là

kết hơn trái pháp luật. Đây chính là bản chất tạo nên sự khác biệt cơ bản giữa pháp
luật về Hơn nhân và gia đình của nước ta – một nước xã hội chủ nghĩa so với nhà
nước phong kiến hoặc tư sản. Theo pháp luật Việt Nam, thì một người đã có vợ hoặc
có chồng nhưng vợ hoặc chồng đã chết, thì được kết hơn với người khác. Sự kiện một
người chết có thể hiểu theo hai ý, đó là chết sinh học và chết pháp lý. Điều cần lưu ý
ở đây chính là trường hợp chết pháp lý, tức là một người bị Tòa án tuyên bố chết
nhưng sau đó lại trở về. Một trường hợp nữa vẫn tồn tại ở Việt Nam đến tận bây giờ
đó là những quan hệ hơn nhân xác lập trước ngày Nghị quyết số 76 ngày 25/3/1977
của Quốc hội về việc “Thống nhất pháp luật giữa hai miền Nam Bắc” và công nhận
16


một số ít trường hợp quan hệ đa thê đối với những cán bộ miền nam tập kết ra Bắc
mà lấy lại vợ hoặc chồng khác. Trong những trường hợp này, pháp luật cần được vận
dụng một cách linh hoạt.
Kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng giữa những người cùng dịng máu về
trực hệ; giữa những người có họ trong phạm vi ba đời; giữa cha, mẹ nuôi với con
nuôi; giữa người đã từng là cha, mẹ nuôi với con nuôi, cha chồng với con dâu, mẹ vợ
với con rể, cha dượng với con riêng của vợ, mẹ kế với con riêng của chồng;
Tại khoản 2, Điều 5 Luật Hơn nhân và gia đình Việt Nam năm 2014 đã chỉ rõ
những trường hợp cấm kết hôn bao gồm: Kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng
giữa những người cùng dịng máu về trực hệ; giữa những người có họ trong phạm vi
ba đời; giữa cha, mẹ nuôi với con nuôi; giữa người đã từng là cha, mẹ nuôi với con
nuôi, cha chồng với con dâu, mẹ vợ với con rể, cha dượng với con riêng của vợ, mẹ
kế với con riêng của chồng; Xét về mặt khoa học, việc cấm kết hơn giữa những người
có quan hệ huyết thống để nhằm đảm bảo cho sự phát triển khỏe mạnh của con cái,
sự phát triển bền vững và hạnh phúc của gia đình. Xét về yếu tố phong tục, tập quán
và những quy định về chuẩn mực đạo đức, chuẩn mực văn hóa theo xã hội Việt Nam,
thì việc cấm những người có quan hệ huyết thống kết hơn với nhau cịn có tác dụng
làm lành mạnh các mối quan hệ trong gia đình, phù hợp với đạo đức và truyền thống

từ xưa đến nay của dân tộc Việt Nam. Ngày nay, hiện tượng kết hôn cận huyết vẫn
tồn tại ở một số dân tộc miền núi và vẫn là một vấn đề vô cùng đáng lo ngại.
Hai bên nam nữ chung sống với nhau sau ngày 01/01/2001 mà không đăng ký
kết hơn, khơng bị coi là người đang có vợ hoặc có chồng.
Như vậy, điều kiện kết hơn chỉ rõ những yêu cầu của pháp luật đối với người
kết hôn. Những yêu cầu này không chỉ xuất phát từ việc bảo vệ quyền tự do kết hôn
của mỗi cá nhân mà cịn đặt nó trong mối liên hệ với lợi ích của cộng đồng. Nói một
cách khác, điều kiện kết hôn cũng phản ánh trách nhiệm của người kết hơn đối với
gia đình và xã hội.
Điều kiện kết hơn là những yêu cầu của pháp luật thể hiện dưới dạng các quy
phạm pháp luật buộc người kết hôn phải tn thủ, nhằm mục đích thiết lập những
cuộc hơn nhân phù hợp với lợi ích của người kết hơn, lợi ích của gia đình và xã hội.
Định nghĩa trên cho thấy, tuân thủ pháp luật về điều kiện kết hôn là nghĩa vụ
mà mỗi cá nhân phải thực hiện. Tiếp cận dưới góc độ quyền, có thể kết luận rằng, cá
17


nhân khi thực hiện quyền kết hơn phải có nghĩa vụ tuân thủ pháp luật về điều kiện
kết hôn. Xét trên phương diện này, quyền kết hơn khơng cịn là quyền tự nhiên thuần
túy mà là “quyền con người” được pháp luật ghi nhận và bảo vệ. Bằng các quy định
điều kiện kết hôn, Nhà nước bảo vệ quyền được tự mình lựa chọn và quyết định việc
kết hơn của mỗi cá nhân. Pháp luật của hầu hết các nước trên thế giới đều ghi nhận
đây là một điều kiện để hơn nhân có hiệu lực. Một vài nước cho phép việc thể hiện ý
chí kết hơn thơng qua người đại diện (điển hình là các nước theo Đạo Hồi). Nhìn
chung, việc thể hiện ý chí có thể thơng qua người đại diện ảnh hưởng nhiều đến “sự
tự do ý chí” của người kết hơn. Vì thế, giải pháp này không được nhà làm luật đương
đại Việt Nam lựa chọn (trong lịch sử lập pháp Việt Nam, đã có thời kỳ giải pháp này
từng tồn tại. Ví dụ thời kỳ phong kiến, pháp luật trao quyền quyết định việc kết hôn
cho các bậc tôn thuộc chứ không phải là quyền của bản thân người kết hôn). Cùng
với “sự tự nguyện”, tuổi kết hôn cũng là một điều kiện quan trọng mà người kết hôn

phải tuân thủ. Điều kiện tuổi kết hơn có mối liên hệ nhất định với điều kiện về sự tự
nguyện. Vì xét ở một khía cạnh nhất định, tuổi kết hơn có mối liên hệ với khả năng
nhận thức của cá nhân. Theo đó, cá nhân mới có thể tự mình quyết định việc kết hơn
mà khơng bị ảnh hưởng bởi người khác. Xét ở khía cạnh rộng hơn, tuổi kết hơn cịn
thể hiện bởi sự phát triển tồn diện của người kết hơn cả về thể chất và trí tuệ. Từ đó,
khi kết hơn họ có thể sinh ra những thế hệ đời sau khỏe mạnh. Tuổi kết hơn do đó
khơng chỉ là bảo vệ quyền của người kết hơn mà một mặt cịn hướng tới lợi ích của
cộng đồng và xã hội. Bên cạnh đó, trong những trường hợp cần thiết vì quyền lợi của
mỗi cá nhân, gia đình và xã hội tùy thuộc vào điều kiện thực tế của mỗi quốc gia, các
trường hợp cấm kết hơn cũng được dự liệu. Ví dụ, pháp luật của các nước hầu hết các
quốc gia trên thế giới đều cấm kết hơn giữa những người có mối liên hệ huyết thống
về trực hệ hoặc có họ trong phạm vi 3 đời. Một số nước cấm kết hôn giữa những
người có họ trong phạm vi 4,5,6 đời.
Theo Điều 983 Bộ luật Dân sự Đài Loan thì những người có quan hệ thân thích
dưới đây khơng được kết hơn: Người có quan hệ dịng máu trực hệ và người có quan
hệ hơn nhân trực hệ; Người có quan hệ dịng máu họ hàng trong phạm vi 6 đời; Người
có quan hệ họ hàng bằng quan hệ hôn nhân trong phạm vi 5 đời của quan hệ khác chi.
Pháp luật Đài Loan cịn quy định: Người giám hộ khơng được kết hôn với người được

18


×