Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Sự ức chế tải lượng vi rút và một số yếu tố liên quan ở người nhiễm HIV đang điều trị ARV tại thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 20202021

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (24.83 MB, 8 trang )

DOI: />
SỰ ỨC CHẾ TẢI LƯỢNG VI RÚT VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN
Ở NGƯỜI NHIỄM HIV ĐANG ĐIỀU TRỊ ARV
TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH GIAI ĐOẠN 2020 – 2021
Nguyễn Ngọc Trinh1*, Nguyễn Lê Hạnh Nguyện1, Văn Hùng1, Đinh Quốc Thơng1,
Khưu Văn Nghĩa2, Nguyễn Hồng Minh3
1
Trung tâm Kiểm sốt bệnh tật Thành phố Hồ Chí Minh
2
Viện Pasteur Thành phố Hồ Chí Minh
3
Viện đào tạo Y học dự phịng và Y tế công cộng, Trường Đại Học Y Hà Nội

TÓM TẮT
Nghiên cứu nhằm xác định sự ức chế tải lượng vi rút (TLVR) và mô tả một số yếu tố liên quan ở người
nhiễm HIV, từ đó giúp đánh giá hiệu quả điều trị ARV tại Thành phố Hồ Chí Minh (TP.HCM). Nghiên cứu
cắt ngang được thực hiện từ 7/2020 đến 7/2021 trên 16.278 người nhiễm HIV có kết quả TLVR trong
thời gian nghiên cứu. Kết quả cho thấy tỷ lệ người nhiễm HIV đạt ngưỡng ức chế TLVR (< 1.000 bản
sao/ml) là 98,6%. Người nhiễm HIV là nam quan hệ tình dục đồng giới, hoặc là vợ/bạn tình người nguy
cơ cao có khả năng ức chế TLVR cao hơn nhóm tiêm chích ma t (TCMT) (ORHC: 2,04, 95%KTC: 1,32
- 3,17); (ORHC: 1,84, 95%KTC: 1,29 - 2,62). Người đã điều trị ARV từ 2 - 5 năm, hoặc ≥ 5 năm có khả
năng đạt ức chế TLVR cao hơn nhóm điều trị từ 1 - 2 năm (ORHC: 1,74, 95%KTC: 1,08 - 2,80); (ORHC:
1,61, 95%KTC: 1,01 - 2,57). Khả năng ức chế TLVR cao hơn được phát hiện ở nhóm bắt đầu điều trị
ở giai đoạn I và II (so với III hoặc IV) (ORHC: 5,89, 95%KTC: 4,06 - 8,55), và nhóm tuân thủ điều trị tốt
(ORHC: 3,40, 95%KTC: 2,29 - 5,03). Do vậy, các chương trình điều trị ARV cần đẩy mạnh hơn việc kết
nối điều trị ARV sớm và tư vấn tuân thủ điều trị cho người nhiễm HIV, đặc biệt nhóm TCMT, từ đó giúp
tăng tỷ lệ người nhiễm HIV đạt ức chế TLVR ở TP.HCM.
Từ khóa: Ức chế tải lượng vi rút; HIV; ARV; tuân thủ điều trị

I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Tình hình dịch HIV/AIDS tại Việt Nam


trong những năm gần đây có xu hướng giảm ở
các nhóm đối tượng nguy cơ cao. Tỷ lệ nhiễm
HIV ở nhóm phụ nữ bán dâm được khống chế
ở mức thấp (trên dưới 3%). Trong khi đó, tỷ lệ
này ở nhóm tiêm chích ma túy vẫn khá cao (trên
12%) [1]. Đặc biệt, tỷ lệ nhiễm HIV ở nhóm
nam quan hệ tình dục đồng giới tăng đáng kể
từ 6,7% năm 2014 lên 12,2% (2017) và 13,3%
(2020) [1]. Tính đến cuối năm 2021, Việt Nam
có 478 cơ sở điều trị ARV với 163.284 người
nhiễm HIV đang điều trị, và là một trong số
quốc gia đầu tiên đã và đang thực hiện cam kết

*Tác giả: Nguyễn Ngọc Trinh
Địa chỉ: Trung tâm Kiểm soát bệnh tật TP. Hồ Chí Minh
Điện thoại: 0985 886 223
Email:

182

của tổ chức UNAIDS về thực hiện mục tiêu
90-90-90. Cụ thể là đến năm 2020, 90% số
người nhiễm HIV biết được tình trạng nhiễm
của mình, 90% số người chẩn đốn HIV được
điều trị ARV, 90% số người điều trị ARV đạt
ngưỡng ức chế vi rút [2].
Việc đạt được ngưỡng ức chế tải lượng vi
rút cho người nhiễm HIV đang điều trị ARV là
vơ cùng quan trọng. Điều đó giúp người nhiễm
HIV phòng chống việc suy giảm hệ thống miễn

dịch, giảm tỷ lệ mắc các bệnh đồng nhiễm và
tử vong liên quan đến AIDS, và đặc biệt giảm
nguy cơ lây nhiễm HIV cho gia đình và cộng
đồng [3, 4]. Ngồi ra, việc đánh giá tỷ lệ ức chế

Ngày nhận bài: 25/10/2022
Ngày phản biện: 22/11/2022
Ngày đăng bài: 08/12/2022

Tạp chí Y học dự phòng, Tập 32, số 8 Phụ bản - 2022


tải lượng vi rút (TLVR) của người nhiễm HIV
góp phần phản ánh đúng kết quả của mục tiêu
90 thứ ba của TP.HCM, từ đó giúp cho các nhà
hoạt định chính sách có cái nhìn tổng qt hơn
để xây dựng kế hoạch chiến lược phù hợp chấm
dứt dịch bệnh AIDS vào năm 2030.

thống giám sát người nhiễm HIV tại Thành phố
Hồ Chí Minh.

Thành phố Hồ Chí Minh là một trong những
trung tâm kinh tế, văn hóa, xã hội lớn đứng đầu
cả nước. Hiện nay, TP.HCM có 42.956 người
nhiễm HIV đang điều trị ARV, chiếm 26% số
người nhiễm HIV của toàn quốc, từ đó đặt ra
nhiều gánh nặng và thách thức khơng nhỏ cho
thành phố trong cơng tác Phịng, chống HIV/
AIDS. Đặc biệt trong giai đoạn từ năm 2020 đến

hết năm 2021, TP.HCM bị ảnh hưởng nặng nề
bởi đại dịch COVID-19 nên việc điều trị ARV
và xét nghiệm TLVR cũng gặp khó khăn, và
có một thời gian phải tạm dừng thực hiện xét
nghiệm TLVR thường quy theo hướng dẫn tạm
thời của Cục phịng, chống HIV/AIDS [5]. Cho
đến nay, chưa có nghiên cứu nào đề cập đến kết
quả điều trị ARV tại TP.HCM trong giai đoạn
2020 - 2021, nên nghiên cứu này được thực hiện
nhằm xác định tỷ lệ đạt ức chế TLVR và mô tả
một số yếu tố liên quan ở người nhiễm HIV đang
điều trị ARV tại TP.HCM trong giai đoạn này.

2.5 Phương pháp chọn mẫu

II. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1 Đối tượng nghiên cứu
Bệnh nhân từ 16 tuổi trở lên, đang điều trị
ARV từ 6 tháng trở lên, có đầy đủ hồ sơ bệnh án
và có kết quả xét nghiệm TLVR trong thời gian
tiến hành nghiên cứu. Trường hợp người nhiễm
HIV có kết quả TLVR từ 2 lần trở lên thì sẽ lấy
lần gần nhất so với thời điểm cuối của giai đoạn
nghiên cứu (tháng 7/2021) để phân tích.
2.2 Địa điểm và thời gian nghiên cứu
Nghiên cứu được thực hiện tại các phịng
khám ngoại trú HIV ở Thành phố Hồ Chí Minh
từ tháng 7 năm 2020 đến tháng 7 năm 2021.
2.3 Thiết kế nghiên cứu
Một nghiên cứu cắt ngang được thực hiện

dựa trên cở sở dữ liệu được thiết lập cho hệ

2.4 Cỡ mẫu nghiên cứu
Có 16.278 đối tượng đủ tiêu chuẩn tham
gia nghiên cứu.

Thơng tin của tồn bộ người nhiễm HIV
đang điều trị ARV có đầy đủ hồ sơ bệnh án điện
tử tại các phòng khám ngoại trú của TP.HCM,
và có kết quả xét nghiệm tải lượng vi rút HIV
trong khoảng thời gian số liệu nghiên cứu được
thu thập.
2.6 Biến số nghiên cứu
Các biến số nghiên cứu được ghi nhận là
một phần của các chỉ số thông tin cần được
thu thập trong hệ thống giám sát ca bệnh quốc
gia tại Thành phố Hồ Chí Minh. Hệ thống
giám sát ca bệnh HIV được nhóm kỹ thuật
trung ương xây dựng và triển khai đảm bảo
các tiêu chuẩn về bảo mật thông tin và chất
lượng số liệu.
Biến số kết quả:
TLVR HIV là số lượng bản sao HIV trong
một đơn vị thể tích (ml) huyết tương của người
nhiễm HIV. Ức chế TLVR được định nghĩa khi
kết quả TLVR dưới 1.000 bản sao/ml huyết
tương ở bệnh nhân đã điều trị ARV ít nhất
6 tháng. Do vậy, TLVR được chia thành hai
nhóm bao gồm: “ức chế” và “không ức chế”.
Biến số độc lập:

Các dữ liệu của người tham gia nghiên cứu
được thu thập bao gồm: Các thơng tin nhân khẩu
học (tuổi, giới, nơi cư trú, nhóm đối tượng), và
các thông tin về điều trị (thời gian điều trị ARV,
giai đoạn lâm sàng lúc bắt đầu điều trị).
Ngoài ra, tuân thủ điều trị được định nghĩa
là việc người bệnh uống đúng thuốc, đúng liều,
đúng giờ, đúng cách theo chỉ định của bác sĩ,
đến khám và làm xét nghiệm theo lịch hẹn, và
được thu thập thông qua đánh giá của bác sĩ
điều trị tại lần tái khám gần nhất trong thời gian

Tạp chí Y học dự phịng, Tập 32, số 8 Phụ bản - 2022

183


nghiên cứu. Biến “tuân thủ điều trị” sẽ được
chia làm 2 nhóm bao gồm: “tuân thủ tốt” (tuân
thủ uống thuốc ≥ 95% hoặc ≤ 2 liều thuốc đã
quên trong 30 liều hoặc < 3 liều đã quên trong
60 liều) và “khơng tn thủ” (tn thủ uống
thuốc < 95% hoặc có trên 3 liều thuốc đã quên
trong vòng 30 liều).
2.7 Phương pháp thu thập thơng tin
Các thơng tin về q trình tham gia điều trị
của người nhiễm HIV được ghi nhận và quản
lý vào hệ thống theo dõi người đang điều trị
ARV- eClinica. Nhân viên y tế tham gia chăm
sóc người đang điều trị ARV được tập huấn kỹ

năng sử dụng hệ thống eClinica. Các thông tin
đối tượng nghiên cứu được ghi nhận định kỳ
vào hệ thống eClinica trong quá trình tham gia
điều trị bao gồm nhân khẩu học, thông tin điều
trị, tuân thủ điều trị như ở phần biến số trên
đây. Dữ liệu nghiên cứu được chiết xuất từ hệ
thống eClinica, sau đó được làm sạch, mã hóa,
và phân tích một cách bảo mật và chỉ được sử
dụng cho mục đích phân tích số liệu.
2.8 Xử lý và phân tích số liệu
Tồn bộ dữ liệu của người tham gia được
trích xuất sang Microsoft Excel 2016 để làm
sạch và lọc sự trùng lặp. Sau đó, phân tích mơ
tả được thực hiện để trình bày một số đặc điểm
của người tham gia theo tần số (n), phần trăm
(%), giá trị trung bình, và độ lệch chuẩn. Tiếp

theo, mơ hình hồi quy logistic đơn biến và đa
biến được dùng để khám phá một số yếu tố liên
quan đến tỷ lệ ức chế TLVR. Những biến độc
lập có mối tương quan với biến kết quả ở p <
0,05 trong mơ hình hồi quy đơn biến được chọn
để đưa vào phân tích trong mơ hình đa biến.
Giá trị p < 0,05 được chọn là mức thống kê có ý
nghĩa. Tất cả các phân tích được thực hiện bằng
phần mềm SPSS phiên bản 20.0 (IBM Corp,
Armonk, NY, USA).
2.9 Đạo đức nghiên cứu
Nghiên cứu này được thực hiện dựa trên
hệ thống giám sát người nhiễm HIV quốc gia

được thiết lập để theo dõi tình hình dịch và
cải thiện chương trình điều trị. Đề cương của
hệ thống giám sát người nhiễm HIV được hội
đồng đạo đức của Viện Vệ sinh dịch tễ Trung
ương (NIHE IRB-11/2020 ngày 03/08/2022)
và CDC – Atlanta Hoa Kỳ phê duyệt. Quy trình
triển khai hệ thống giám sát người nhiễm HIV
được nhóm kỹ thuật trung ương xây dựng đảm
bảo các tiêu chuẩn về bảo mật thông tin và an
ninh số liệu. Các dữ liệu thu thập được mã hóa
và phân tích một cách bảo mật, và chỉ được sử
dụng cho mục đích nghiên cứu.

III. KẾT QUẢ
3.1 Đặc điểm chung của đối tượng tham gia
nghiên cứu

Bảng 1. Đặc điểm nhân khẩu học và giai đoạn lâm sàng ở người nhiễm HIV đang điều trị ARV
tại Thành phố Hồ Chí Minh, 2020 - 2021 (n = 16.278)
Đặc điểm

Tần số (n)

Tỷ lệ (%)

Nam

12.145

74,6


Nữ

4.133

25,4

Giới tính

Tuổi
16 - 24

1.244

7,6

25 - 34

4.392

27,0

35 - 44

7.294

44,8

45 - 54


2.691

16,5

657

4,0

≥ 55
Trung bình (biến thiên)

184

37,7 (15 - 90)

Tạp chí Y học dự phịng, Tập 32, số 8 Phụ bản - 2022


Bảng 1. Đặc điểm nhân khẩu học và giai đoạn lâm sàng ở người nhiễm HIV đang điều trị ARV
tại Thành phố Hồ Chí Minh, 2020 - 2021 (n = 16.278) (tiếp)
Đặc điểm

Tần số (n)

Tỷ lệ (%)

Thành phố Hồ Chí Minh

10.792


66,3

Tỉnh khác

5.486

33,7

Tiêm chích ma túy

4.511

27,7

Nam quan hệ tình dục đồng giới

4.716

29,0

Quan hệ tình dục khác giới

1.333

8,2

Vợ/bạn tình của người nguy cơ cao

4.912


30,2

806

5,0

69

0,4

1.550

9,5

2 đến dưới 5 năm

4.388

27,0

≥ 5 năm

10.271

63,1

Nơi cư trú

Nhóm đối tượng


Khác
Thời gian điều trị ARV
< 1 năm
1 đến dưới 2 năm

Trung bình (biến thiên)

6,94 (0 - 21)

Trung vị (khoảng tứ phân vị)

6 (3 - 11)

Giai đoạn lâm sàng lúc bắt đầu điều trị ARV
Giai đoạn I

15.509

95,3

Giai đoạn II

247

1,5

Giai đoạn III

294


1,8

Giai đoạn IV

228

1,4

15.569

95,6

709

4,4

15.951

98,0

200 – 999 bản sao

102

0,6

≥ 1000 bản sao

225


1,4

Tuân thủ điều trị ARV
Tốt
Không
Tải lượng vi rút (bản sao/ml)
< 200 bản sao

ARV: Antiretroviral therapy

Nghiên cứu cho thấy độ tuổi trung bình của
người nhiễm HIV tham gia trong nghiên cứu
này là 37,7 tuổi, trong đó nhóm tuổi từ 35 - 44
chiếm nhiều tỷ lệ nhất, tiếp đến là nhóm tuổi 25
- 34, và 45 - 54. Thêm nữa, đa số người tham gia
là nam giới (74,6%), hai phần ba hiện đang sinh
sống tại TP.HCM (66,3%). Đối tượng nguy cơ
chiếm tỷ lệ cao nhất là vợ hoặc bạn tình của
người nguy cơ cao (30,1%), kế đến là MSM
(29,0%) và người tiêm chích ma túy (27,7%).

Về đặc điểm giai đoạn lâm sàng của người
nhiễm HIV, thời gian điều trị ARV trung bình
là 6,94 năm. Giai đoạn lâm sàng lúc bắt đầu
điều trị chủ yếu là giai đoạn I chiếm 95,3%, giai
đoạn muộn III và IV chỉ chiếm lần lượt là 1,8%
và 1,4%. Ngoài ra, số người tham gia tuân thủ
điều trị tốt đạt tỷ lệ khá cao 95,6%.
Tỷ lệ ức chế tải lượng vi rút của người
nhiễm HIV trong nghiên cứu chiếm tỷ lệ rất

cao 98,6%. Trong đó, tỷ lệ TLVR dưới 200

Tạp chí Y học dự phịng, Tập 32, số 8 Phụ bản - 2022

185


bản sao/ml là 98%, từ 200 - 999 bản sao/ml là
0,6%. Chỉ có 1,4 % người nhiễm HIV khơng
đạt ngưỡng ức chế TLVR (≥ 1.000 bản sao/ml).

3.2 Một số yếu tố liên quan đến sự ức chế tải
lượng vi rút

Bảng 2. Các yếu tố liên quan đến sự ức chế tải lượng vi rút ở người nhiễm HIV đang điều trị ARV
tại Thành phố Hồ Chí Minh, 2020 - 2021 (n = 16.278)
Ức chế tải lượng vi rút (< 1000 bản sao/ml)
Đặc điểm

OR
(95% KTC)

Giá trị p

ORHC
(95% KTC)

Giá trị p

Giới tính

Nam

1,0

Nữ

1,02 (0,75 - 1,39)

0,862

Nhóm tuổi
16 - 24

1,0

25 - 34

1,40 (0,84 - 2,33)

0,190

35 - 44

1,16 (0,72 - 1,86)

0,527

45 - 54

1,30 (0,75 - 2,24)


0,341

≥ 55

1,11 (0,52 - 2,37)

0,786

Nơi cư trú
Thành phố Hồ Chí Minh
Tỉnh khác

1,0
1,54 (1,13 - 2,09)

1,0
0,005

1,31 (0,94 - 1,83)

0,106

Nhóm đối tượng
Tiêm chích ma túy

1,0

1,0


Nam QHTD đồng giới

2,21 (1,54 - 3,17)

< 0,001

2,04 (1,32 - 3,17)

0,001

QHTD khác giới

1,61 (0,95 - 2,71)

0,330

1,50 (0,90 - 2,63)

0,114

Vợ/bạn tình người có nguy cơ

1,98 (1,40 - 2,80)

0,023

1,84 (1,29 - 2,62)

0,001


Khác

0,77 (0,48 - 1,25)

< 0,001

0,79 (0,47 - 1,30)

0,362

0,43 (0,12 - 1,45)

0,445

0,43 (0,11 - 1,55)

0,198

Thời gian điều trị ARV
Dưới 1 năm
1 đến dưới 2 năm

1,0

2 đến dưới 5 năm

1,82 (1,14 - 2,89)

0,003


1,74 (1,08 - 2,80)

1,0
0,022

≥ 5 năm

1,38 (0,92 - 2,05)

0,074

1,61 (1,01 - 2,57)

0,044

6,98 (4,90 - 9,94)

< 0,001

5,89 (4,06 - 8,55)

< 0,001

GĐLS lúc bắt đầu điều trị ARV
Giai đoạn I và II
Giai đoạn III và IV

1,0

1,0


1,0

1,0

Tn thủ điều trị ARV
Khơng


3,76 (2,57 - 5,51)

< 0,001

3,40 (2,29 - 5,03)

< 0,001

ARV: Antiretroviral; QHTD: Quan hệ tình dục; GĐLS: Giai đoạn lâm sàng; OR: Tỷ suất chênh; KTC: Khoảng tin cậy; ORHC: Tỷ
suất chênh hiệu chỉnh

186

Tạp chí Y học dự phịng, Tập 32, số 8 Phụ bản - 2022


Phân tích hồi quy logistic đa biến kết quả
nghiên cứu cho thấy người nhiễm HIV là MSM
hoặc là vợ/bạn tình của người nguy cơ cao có
khả năng có ức chế TLVR cao hơn so với nhóm
tiêm chích ma t (ORHC: 2,04, 95% KTC:

1,32 - 3,17, p = 0,001) và (ORHC: 1,842, 95%
KTC: 1,29 - 2,62, p = 0,001). Người nhiễm
HIV có thời gian điều trị ARV từ 2 đến dưới 5
năm hoặc ≥ 5 năm có khả năng ức chế TLVR
cao hơn so với nhóm điều trị từ 1 đến dưới 2
năm (ORHC: 1,74, 95% KTC: 1,08 - 2,80, p =
0,022) và (ORHC: 1,61, 95% KTC: 1,01 - 2,57,
p = 0,044). Thêm nữa, người nhiễm HIV bắt
đầu điều trị ARV ở giai đoạn lâm sàng I và II có
khả năng ức chết TLVR cao hơn nhóm bắt đầu
điều trị ở giai đoạn muộn III hoặc IV (ORHC:
5,89, 95% KTC: 4,06 - 8,55, p < 0,001). Nhóm
tuân thủ điều trị ARV tốt có khả năng đạt ức
chế TLVR cao hơn 3,4 lần so với nhóm tuân
thủ chưa tốt (ORHC: 3,40, 95% KTC: 2,29 5,03, p < 0,001).

IV. BÀN LUẬN
Tỷ lệ ức chế TLVR trong nghiên cứu này rất
cao chiếm 98,6%. Kết quả này cao hơn so với
các nghiên cứu khác trước đây [6, 7]. Ngoài ra,
giai đoạn 2020 - 2021 là thời gian TP.HCM bị
ảnh hưởng bởi dịch COVID-19 nên việc thực
hiện xét nghiệm TLVR cũng gặp khó khăn và
có thời gian phải tạm dừng thực hiện xét nghiệm
TLVR thường quy theo hướng dẫn tạm thời của
Cục phòng, chống HIV/AIDS [5]. Vì vậy, cỡ
mẫu của nghiên cứu này chỉ dựa trên số người
nhiễm HIV được làm xét nghiệm và có kết quả
TLVR tính đến cuối năm 2021 (16.278/42.956
tổng số đang điều trị ARV), từ đó kết quả này

có thể chưa phản ánh được tỷ lệ đạt ức chế
TLVR thực tế đạt được. Tuy nhiên, khi so sánh
với báo cáo kết quả cải tiến chất lượng HIV/
QUAL tại TP.HCM trong năm 2020 và 2021
thì tỷ lệ này cũng khá tương đồng, đều trên
98% [8, 9]. Đây là một tín hiệu rất khả quan
của TP.HCM trong việc hoàn thành mục tiêu
90% thứ ba trong mục tiêu 90-90-90.
Tuy nhiên, kết quả cũng cho thấy TP.HCM
cịn 1,4% người nhiễm HIV khơng đạt được

ngưỡng ức chế TLVR tức là họ thất bại điều
trị về mặt vi rút học và phải chuyển phác đồ
điều trị bậc cao hơn (Bảng 1). Đây là nhóm đối
tượng mà TP.HCM cần đặc biệt quan tâm nhiều
hơn nữa vì nguy cơ tiếp tục thất bại điều trị và
kháng thuốc rất cao. Ước tính giá thành trung
bình của phác đồ bậc 2 hiện nay khoảng gần 3
triệu/1 tháng và chủ yếu do Bảo hiểm Y tế chi
trả. Nếu số bệnh nhân này không cải thiện được
TLVR sau 1 - 3 tháng tư vấn tăng cường tuân
thủ điều trị hoặc bệnh nhân không mua được
thẻ Bảo hiểm Y tế thì sẽ làm tăng gánh nặng
kinh tế cho họ và gia đình, cũng như nguồn
ngân sách địa phương, từ đó ảnh hưởng đến các
chương trình điều trị ARV của TP.HCM.
Nghiên cứu chỉ ra rằng người nhiễm HIV
là MSM có khả năng đạt ức chế TLVR cao
hơn so với nhóm TCMT. Điều này có thể một
phần là do MSM hiện nay đa số có trình độ học

vấn cao, và có nhiều cơ hội tiếp cận các nguồn
thơng tin khác nhau nên hiểu biết về lợi ích
của việc điều trị ARV tốt hơn, tuân thủ điều trị
tốt hơn so với nhóm TCMT. Ngồi ra, chiến
dịch truyền thơng K = K (không phát hiện
bằng không lây truyền) phát động tại TP.HCM
cũng là động lực để các người nhiễm HIV có
nguy cơ lây truyền qua đường tình dục (như
MSM, vợ/bạn tình người nguy cơ cao) duy trì
TLVR dưới ngưỡng phát hiện để khơng làm
lây truyền HIV sang bạn tình. Từ đó góp phần
làm tăng tỷ lệ ức chế TLVR trên nhóm người
nhiễm HIV này.
Kết quả cũng cho thấy ngưỡi nhiễm HIV
điều trị ARV trên 2 năm có khả năng đạt ức chế
TLVR cao hơn so với nhóm điều trị từ 1 đến
dưới 2 năm. Phát hiện này có thể là do trong
năm đầu tiên điều trị, bệnh nhân chưa quen với
việc dùng thuốc hoặc gặp các tác dụng phụ của
thuốc. Thêm nữa, họ cũng chưa có kinh nghiệm
để vượt qua rào cản xã hội, sợ bị kỳ thị nên
ngại đến nhận thuốc hoặc lĩnh thuốc trễ, và
tuân thủ điều trị kém, từ đó dẫn đến tỷ lệ ức
chế TLVR thấp hơn. Ngồi ra, chúng tơi cũng
phát hiện thấy người nhiễm HIV bắt đầu điều
trị ở GĐLS sớm I và II có khả năng đạt ngưỡng
ức chế TLVR cao hơn so với nhóm có GĐLS
III hoặc IV (Bảng 2). Nghiên cứu của tác giả

Tạp chí Y học dự phịng, Tập 32, số 8 Phụ bản - 2022


187


Trương Thái Phương cũng chỉ ra kết quả tương
tự khi người nhiễm HIV bắt đầu điều trị ở giai
đoạn HIV tiến triển có đáp ứng điều trị thấp
hơn đáng kể [7].
Tuân thủ điều trị tốt có thể làm tăng hiệu
quả của thuốc, và là yếu tố quyết định việc
bệnh nhân có đạt được TLVR dưới ngưỡng
phát hiện hay khơng. Nghiên cứu này cho thấy
nhóm tuân thủ điều trị tốt có khả năng đạt ức
chế TLVR cao hơn so với nhóm khơng tn
thủ. Theo Hướng dẫn chăm sóc và điều trị HIV/
AIDS của Bộ Y tế năm 2017, ngưỡng tư vấn
tăng cường tuân thủ điều trị cho bệnh nhân là
≥ 1.000 bản sao/ml sau 3 tháng [10], đến năm
2019 ngưỡng này giảm xuống là ≥ 200 bản sao/
ml và sau 3 tháng [11], và hiện nay đang áp
dụng ngưỡng > 50 bản sao/ml và sau 1 tháng
[12]. Qua đó, cho thấy Bộ Y tế cũng đã kịp
thời điều chỉnh hướng dẫn nhằm đưa ra các can
thiệp sớm hơn và phát hiện sớm thất bại điều trị
ở người nhiễm HIV.
Nghiên cứu này có một số hạn chế: Do số
liệu được hồi cứu từ hồ sơ bệnh án điện tử, nên
một số biến quan trọng liên quan đến việc ức
chế TLVR không được thu thập như: Số lượng
CD4 ban đầu, các bệnh đồng nhiễm, phác đồ

điều trị ARV ban đầu. Ngoài ra, chỉ những
bệnh nhân có kết quả xét nghiệm TLVR trong
thời gian nghiên cứu mới được đưa vào phân
tích, từ đó kết quả của nghiên cứu có thể chưa
phản ánh được tỷ lệ ức chế TLVR một cách
toàn diện cho toàn bộ quần thể ở TP.HCM. Tuy
nhiên, với cỡ mẫu tương đối lớn, chiếm hơn
1/3 số bệnh nhân điều trị ARV của TP.HCM,
nghiên cứu này cũng phần nào gợi ý các bằng
chứng kịp thời cho thành phố xây dựng các
chiến lược can thiệp phù hợp cho các chương
trình điều trị ARV, từ đó giúp làm tăng tỷ lệ đạt
ức chế TLVR cho người nhiễm HIV.

V. KẾT LUẬN
Nghiên cứu cắt ngang được thực hiện từ
tháng 7/2020 đến tháng 7/2021 trên 16.278
người nhiễm HIV có kết quả tải lượng vi rút
trong thời gian nghiên cứu, kết quả cho thấy:
188

Tỷ lệ ức chế tải lượng vi rút của người nhiễm
HIV đang điều trị ARV tại TP.HCM trong giai
đoạn 2020 - 2021 khá cao, đạt 98,6%. Bốn yếu
tố liên quan đến khả năng đạt ức chế tải lượng
vi rút cao hơn bao gồm: (1) Đối tượng là MSM
hoặc vợ/bạn tình người nguy cơ cao, (2) Tuân
thủ điều trị tốt, (3) Thời gian điều trị ARV từ 2
năm trở lên, (4) Bắt đầu điều trị ARV sớm ở giai
đoạn lâm sàng I hoặc II. Do vậy, các chương

trình điều trị ARV cần đẩy mạnh và chú trọng
hơn việc kết nối để đưa vào điều trị ARV sớm,
tư vấn tuân thủ điều trị, và nâng cao nhận thức
về hiệu quả của điều trị ARV cho người nhiễm
HIV, đặc biệt là cho các đối tượng tiêm chích
ma túy, từ đó giúp tăng tỷ lệ đạt ngưỡng ức chế
tải lượng vi rút ở người nhiễm HIV tại Thành
phố Hồ Chí Minh
Lời cảm ơn: Chúng tôi xin chân thành cảm
ơn lãnh đạo và cán bộ khoa Phòng, chống HIV/
AIDS của Trung tâm Kiểm sốt bệnh tật Thành
phố Hồ Chí Minh; Cục Phòng, chống HIV/
AIDS; Viện Vệ sinh dịch tễ Trung ương; Viện
Pasteur Thành phố Hồ Chí Minh; Viện Đào tạo
Y học dự phịng và Y tế cơng cộng - Trường
Đại học Y Hà Nội; Trung tâm Kiểm soát bệnh
tật Hoa Kỳ thông qua Dự án hợp tác CDCRFA-GH 18-1852 - Chương trình Khẩn cấp của
Tổng thống về Cứu trợ AIDS (PEPFAR) và đặc
biệt là những người người tham gia nghiên cứu
đã giúp chúng tôi thực hiện nghiên cứu này.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Cục Phịng, chống HIV/AIDS. Hội nghị tổng
kết cơng tác phòng chống HIV/AIDS năm 2021
và nhiệm vụ trọng tâm năm 2022. Accessed
18/10/2022. />-t-cong-ta-c-pho-ng-cho-ng-hiv-aids-nam-2021va-nhie-m-vu-tro-ng-tam-nam-2022.html.
2. UNAIDS. 90-90-90 An ambitious treatment
target to help end the AIDS epidemic. Accessed
18/10/2022. />files/media_asset/90-90-90_en.pdf.
3. Engsig FN, Zangerle R, Katsarou O, et al. Longterm mortality in HIV-positive individuals virally
suppressed for > 3 years with incomplete CD4

recovery. Clin Infect Dis. 2014; 58 (9): 1312 - 1321.
4. Grinsztejn B, Hosseinipour MC, Ribaudo HJ et
al. Effects of early versus delayed initiation of

Tạp chí Y học dự phịng, Tập 32, số 8 Phụ bản - 2022


antiretroviral treatment on clinical outcomes of
HIV-1 infection: results from the phase 3 HPTN
052 randomised controlled trial. Lancet Infect.
Dis. 2014; 14 (4): 281 - 290.
5. Cục Phịng, chống HIV/AIDS. Cơng văn về việc
Hướng dẫn tạm thời điều trị thuốc ARV cho người
nhiễm HIV trong tình hình dịch COVID-19. Số
178/AIDS-ĐT, ngày 27 tháng 3 năm 2020.
6. Khưu Văn Nghĩa, Trần Phúc Hậu, Vũ Xuân
Thịnh, cộng sự. Kết quả lượng giá chỉ tiêu thứ
ba thuộc mục tiêu 90-90-90, chương trình phịng
chống HIV/AIDS của khu vực phía Nam, 2016
- 2018. Tạp chí Y học dự phòng. 2019; 29 (11):
329 - 336.
7. Trương Thái Phương. Theo dõi tải lượng HIV
thường quy ở bệnh nhân điều trị thuốc kháng vi
rút bậc một tại khu vực miền Bắc Việt Nam. Luận

8.
9.
10.
11.
12.


án Tiến sỹ Y học ngành Vi sinh Y học, Viện Vệ
sinh dịch tễ Trung ương. 2021.
Trung tâm Kiểm sốt bệnh tật Thành phố Hồ Chí
Minh. Báo cáo cải tiến chất lượng HIV/QUAL
năm 2020. 2020.
Trung tâm Kiểm sốt bệnh tật Thành phố Hồ Chí
Minh, Báo cáo cải tiến chất lượng HIV/QUAL
năm 2021. 2021.
Bộ Y tế. Quyết định về việc ban hành “Hướng
dẫn Điều trị và chăm sóc HIV/AIDS”. Số 5418/
QĐ-BYT, ngày 01 tháng 12 năm 2017.
Bộ Y tế. Quyết định về việc ban hành “Hướng
dẫn Điều trị và chăm sóc HIV/AIDS”. Số 5456/
QĐ-BYT, ngày 20 tháng 11 năm 2019.
Bộ Y tế. Quyết định về việc ban hành “Hướng
dẫn Điều trị và chăm sóc HIV/AIDS”. Số 5968/
QĐ-BYT, ngày 31 tháng 12 năm 2021.

HIV VIRAL LOAD SUPPRESSION AND SOME ASSOCIATED FACTORS
AMONG PEOPLE LIVING WITH HIV ON ANTIRETROVIRAL THERAPY
IN HO CHI MINH CITY DURING, 2020 - 2021
Nguyen Ngoc Trinh1, Nguyen Le Hanh Nguyen1, Van Hung1, Dinh Quoc Thong1,
Khuu Van Nghia2, Nguyen Hoang Minh3
1
Ho Chi Minh City Center for Disease Control and Prevention
2
Pasteur Institute in Ho Chi Minh City
3
School of Preventive Medicine and Public Health, Hanoi Medical University

This study aimed to determine the viral load
(VL) suppression and describe some associated
factors among HIV-infected people, thereby
helping to evaluate the effectiveness of ART
treatment in Ho Chi Minh City (HCMC). A
cross - sectional study was conducted from
July 2020 to July 2021 on 16,278 patients who
had the VL results in this period. The results
showed that the proportion of achieving VL
suppression (< 1.000 copies/ml) was 98.6%.
HIV-infected people who were men having
sex with men, or who were partners of highrisk people had a higher likelihood of having
VL suppression than those who inject drugs
(PWIDs) (AOR: 2.04, 95% CI: 1.32 - 3.17);
(AOR: 1.84, 95% CI: 1.29 - 2.62). People with a
duration of ART from 2 - < 5 years, or ≥ 5 years

were more likely to achieve VL suppression
than those on 1 - < 2 years of ART (AOR: 1.74,
95% CI: 1.08 - 2.80); (AOR: 1.61, 95% CI:
1.01 - 2.57). In addition, a higher likelihood of
achieving VL suppression was found in those
initiated ART at early clinical stages I and II
(compared to III and IV) (AOR: 5,89, 95% CI:
4.06 - 8,55), and those with good adherence
to ART (AOR: 3.40, 95% CI: 2.29 - 5.03).
Therefore, antiretroviral treatment programs
need to promote the connection of early ART,
and counseling on treatment adherence for
HIV-infected people, especially for PWIDs,

thereby helping to increase the proportion of
HIV viral load suppression in HCMC.
Keywords: Viral load suppression; HIV;
ART; treatment adherence

Tạp chí Y học dự phòng, Tập 32, số 8 Phụ bản - 2022

189



×