Tải bản đầy đủ (.pdf) (26 trang)

Văn hóa nam bộ TÍN NGƯỠNG THỜ MẪU QUA HÌNH TƯỢNG CHÚA XỨ THÁNH MẪU Ở TÂY NAM BỘ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (781.28 KB, 26 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA VĂN HÓA HỌC
--------------------------------------------

TIỂU LUẬN CUỐI KỲ

BỘ MƠN: VĂN HĨA NAM BỘ
TÊN ĐỀ TÀI: TÍN NGƯỠNG THỜ MẪU QUA HÌNH TƯỢNG CHÚA XỨ
THÁNH MẪU Ở TÂY NAM BỘ

Giảng viên : ThS. Trương Thị Lam Hà
Sinh viên

: Nguyễn Ánh Thoa

MSSV

: 2156140153

Lớp

: K15.1

Năm học 2022 – 2023


MỤC LỤC
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT ...................................................................................................................3
1. Dẫn nhập...................................................................................................................................................4
1.1. Lý do chọn đề tài ...............................................................................................................................4


1.2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ................................................................................................................4
1.3. Mục đích nghiên cứu.........................................................................................................................5
1.4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu....................................................................................................6
1.5. Bố cụ của đề tài..................................................................................................................................6
2. Tín ngưỡng thờ Mẫu ở Tây Nam Bộ ......................................................................................................6
2.1. Khái niệm tín ngưỡng thờ Mẫu .......................................................................................................6
2.1.1. Khái niệm tín ngưỡng ................................................................................................................6
2.1.2. Tín ngưỡng dân gian Việt Nam .................................................................................................7
2.1.3. Khái niệm tín ngưỡng thờ Mẫu.................................................................................................8
2.2. Khái quát tín ngưỡng thờ Mẫu ở Tây Nam Bộ ..............................................................................9
2.2.1. Tín ngưỡng thờ Chúa Xứ Thánh Mẫu ở Tây Nam Bộ ...........................................................9
2.2.2. Những câu chuyện linh thiêng liên quan đến Chúa Xứ Thánh Mẫu...................................10
3. Tín ngưỡng thờ Mẫu qua hình tượng Chúa Xứ Thánh Mẫu ở Tây Nam Bộ ..................................11
3.1. Truyền thuyết về Chúa Xứ Thánh Mẫu .......................................................................................11
3.2. Hình tượng Chúa Xứ Thánh Mẫu .................................................................................................12
3.3. Hệ thống điện thờ Chúa Xứ Thánh Mẫu ở Tây Nam Bộ ............................................................14
3.4. Lễ vía Chúa Xứ Thánh Mẫu ở núi Sam Châu Đốc ......................................................................16
4. Bàn luận về tín ngưỡng thờ Chúa Xứ Thánh Mẫu ở Tây Nam Bộ ...................................................19
4.1. Những giá trị truyền thống tốt đẹp trong tín ngưỡng thờ Mẫu (Chúa Xứ Thánh Mẫu) .........19
4.2. Du lịch - động lực cho bảo tồn và phát triển của tín ngưỡng thờ Chúa Xứ Thánh Mẫu .........20
4.2.1. Tình hình khai thác giá trị văn hóa của tín ngưỡng thờ Chúa Xứ Thánh Mẫu .................20
4.2.2. Giải pháp bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa tín ngưỡng thờ Mẫu ...................................21
5. Tạm kết ...................................................................................................................................................23
TÀI LIỆU THAM KHẢO .........................................................................................................................26

2


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
1. BQT


: Ban Quản trị

2. HCM

: Hồ Chí Minh

3. KHXH

: Khoa học xã hội

4. ĐBSCL

: Đồng bằng sông Cửu Long

5. BQL

: Ban Quản Lý

6. NXB

: Nhà xuất bản

7. TP

: Thành phố

8. TNB

: Tây Nam Bộ


3


1. Dẫn nhập
1.1. Lý do chọn đề tài
Tây Nam Bộ (hay vùng ĐBSCL) là một vùng đất được khai phá cách đây hơn 300 năm, quá trình
ấy của cũng là q trình cư dân mang theo hành trang văn hóa từ nhiều vùng, miền khác nhau khi
đến vùng đất này. Sinh hoạt tín ngưỡng ở TNB cũng vì vậy càng phong phú, đa dạng. Bên cạnh đó,
tín ngưỡng ở TNB là sản phẩm của sự giao thoa và tiếp biến văn hóa giữa những cộng đồng cư dân
sống cộng cư và cận cư. Có thể thấy, việc định hình thể loại, diện mạo của các tín ngưỡng thờ nữ
thần như thờ Mẫu ở TNB có ảnh hưởng đáng kể từ các thành tố có trong tín ngưỡng từng tộc người
sinh sống ở Nam Bộ như Kinh, Hoa, Chăm, Khmer.
Theo các nhà nghiên cứu, tục thờ Chúa Xứ Thánh Mẫu ở TNB có nguồn gốc từ tín ngưỡng thờ
Mẫu, sâu xa hơn là tín ngưỡng “cha trời - mẹ đất” truyền thống của người Việt. Theo chân những
lớp người đầu tiên khai hoang và mở cõi, họ mang theo hình thức tín ngưỡng này, như một “hành
trang tinh thần” từ quê cha, đất tổ. Khi vào đến dải đất miền Trung được giao lưu, tiếp biến văn
hố với tín ngưỡng thờ Mẹ xứ sở (vốn là nữ thần Pô Inư Nagar) của người Chăm, quá trình “Nam
tiến” lại tiếp tục diễn ra cùng với sự “gặp gỡ” giữa các nền văn hoá Việt - Chăm - Khmer - Hoa…
Trên vùng đất mới đã làm biến đổi nhiều yếu tố gốc của tín ngưỡng thờ mẫu truyền thống.
Chúa Xứ Thánh Mẫu là vị nữ thần quan trọng trong tâm thức của cư dân vùng linh thiêng này.
Truyền thuyết về Chúa Xứ Thánh Mẫu ở Núi Sam (An Giang) đã có hàng trăm năm nay, Bà được
đồng bào nơi đây vô cùng tôn kính. Mang trong mình những giá trị văn hóa truyền thống đậm đà,
sinh hoạt tín ngưỡng thờ Chúa Xứ Thánh Mẫu phản ánh một cách sinh động về đời sống kinh tế văn hóa - xã hội của cộng đồng cư dân TNB. Những câu chuyện xoay quanh sự linh ứng của Bà
Chúa Xứ được lưu truyền trong dân gian ngày càng nhiều, độ hấp dẫn, huyền bí ngày một tăng lên
khiến những người hiếu kỳ càng có thêm lý do tụ hội về đây chiêm bái.
Chính vì những giá trị về mặt văn hóa cũng như kinh tế của tín ngưỡng này mang lại, tơi quyết định
chọn đề tài “Tín ngưỡng thờ Mẫu qua hình tượng Chúa Xứ Thánh Mẫu ở Tây Nam Bộ”. Góp phần
thúc đẩy phát những giá trị về tín ngưỡng, tơn giáo nói riêng, văn hóa nói chung. Tạo động lực cho
phát triển đời sống tinh thần, du lịch tham quan, chiêm bái của xã hội.

1.2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Một số cơng trình nghiên cứu về “Tín ngưỡng thờ Mẫu ở Việt Nam”:
Cơng trình nghiên cứu “Đạo Mẫu ở Việt Nam” của Ngơ Đức Thịnh (1996), được coi là cơng trình
nghiên cứu chun sâu, toàn diện về Đạo Mẫu ở Việt Nam. Tập 1 gồm 02 phần: Phần thứ nhất là
những lý luận chung về Đạo Mẫu; phần thứ 2, tác giả trình bày khá đầy đủ, chi tiết về tín ngưỡng
thờ Mẫu của cả nước. Tác giả cũng dành một số lượng trang viết nhất định để nói về tín ngưỡng
4


thờ nữ thần, Mẫu thần ở vùng đất Nam bộ. Nội dung đó giúp học viên có cái nhìn, so sánh để tìm
sự khác biệt giữa hai miền Bắc và miền Nam.
Cơng trình nghiên cứu “Nữ thần và các thánh Mẫu Việt Nam” của Vũ Ngọc Khánh (2002) cho ta
thấy một cách khái quát, hệ thống về nguồn gốc, các thần tích của các nữ thần, thánh Mẫu được
thờ phụng ở Việt Nam; đồng thời xác định việc thờ phụng nữ thần, thánh Mẫu ở Việt Nam “Thực
chất là thờ những người có cơng với dân, với nước trong suốt q trình khai hoang, mở cõi”.
Cơng trình “Về tín ngưỡng và lễ hội cổ truyền” của Ngô Đức Thịnh (2007). Phần thứ nhất nói về
tín ngưỡng dân gian; phần thứ hai nói về đạo Mẫu và lên đồng và phần thứ ba là nói về lễ hội cổ
truyền. Trong cuốn sách này, tác giả trình bày từ cái đơn giản nhất, căn bản nhất về khái niệm, cơ
sở về tôn giáo, các loại tín ngưỡng dân gian; phần thứ hai và phần thứ ba là tìm hiểu rõ hơn, chuyên
sâu hơn về sự giống nhau và khác nhau của cùng tín ngưỡng thờ Mẫu và lễ hội ở từng tộc người
(dân tộc) ở mỗi vùng miền.
Cơng trình nghiên cứu “Người Việt Nam Bộ” của Phan An (2017), viết về con người Nam bộ dưới
nhiều góc nhìn khác nhau của tác giả. Những nét riêng biệt của tín ngưỡng thờ nữ thần (thờ Mẫu)
của cư dân Nam bộ so với các vùng, miền khác của cả nước; đặc biệt, là miền Trung, nơi cội nguồn
của tín ngưỡng này được các lưu dân mang đến vùng đất Nam bộ từ hơn 300 năm trước, bắt đầu
khi Chúa Nguyễn điều người lần đầu tiên đi vùng đất này.
Một số tác phẩm viết về “Chúa Xứ Thánh Mẫu”:
Tác phẩm “Lịch sử xây dựng và phát triển Miếu Bà Núi Sam” (2013), NXB Văn hóa nghệ thuật
Châu Đốc. Trong tác phẩm này, tác giả đã hệ thống tất cả các vấn đề về tín ngưỡng thờ Bà Chúa
Xứ. Thơng qua việc tìm hiểu về nguồn gốc, truyền thuyết Bà Chúa Xứ với những nghi lễ truyền

thống đã làm bật lên tinh hoa văn hóa tinh thần cho cộng đồng người An Giang nói riêng và người
dân cả nước nói chung.
Tác phẩm “Tín ngưỡng thờ Mẫu ở Nam Bộ - bản sắc và giá trị” (2014), NXB Đại học quốc gia
TP.HCM, của tác giả Ngô Đức Thịnh - Võ Văn Sen (đồng chủ biên). Trong đó bao gồm rất nhiều
bài viết của các tác giả về tín ngưỡng thờ Mẫu ở Nam Bộ nói chung và việc thờ Bà Chúa Xứ nói
riêng. Tác phẩm thể hiện các giá trị về văn hóa, nghệ thuật, đạo đức, thẩm mỹ,... của một nét đẹp
tín ngưỡng bản địa - tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt.
1.3. Mục đích nghiên cứu
Tìm hiểu những nét độc đáo và tinh tế những giá trị tâm linh trong tín ngưỡng thờ Mẫu qua hình
tượng Chúa Xứ Thánh Mẫu. Góp phần gìn giữ những nét đẹp về bản sắc văn hóa lễ hội truyền
thống và phát triển kinh tế - xã hội TNB qua tín ngưỡng bản địa lâu đời của Việt Nam.

5


1.4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
 Đối

tượng nghiên cứu: Tín ngưỡng thờ Mẫu qua hình tượng Chúa Xứ Thánh Mẫu ở TNB.

 Phạm

vi nghiên cứu:

Về không gian: Tiểu vùng Tây Nam Bộ của Nam Bộ, đặc biệt tập trung ở núi Sam thuộc Châu Đốc,
An Giang.
Về thời gian: Giới hạn từ những năm cuối thế kỉ XX khi nước ta tiến hành cải cách đổi mới đất
nước (1986) cho đến nay, đặc biệt tập trung giai đoạn từ đầu thế kỉ XXI.
Về nội dung: Tín ngưỡng thờ Mẫu ở vùng TNB qua tục thờ Chúa Xứ Thánh Mẫu. Tập trung vào
các khía cạnh: Truyền thuyết về Bà, hệ thống thờ tự và lễ Vía Bà được diễn ra hằng năm. Từ đó

làm nổi bật lên các giá trị truyền thống tốt đẹp cũng như các tồn tại cần giải pháp để bảo tồn, phát
huy tín ngưỡng bản địa của Việt Nam nói chung và tín ngưỡng thờ Chúa Xứ Thánh Mẫu nói riêng.
1.5. Bố cụ của đề tài
Bố cục ngoài phần dẫn nhập và tạm kết, phần nội dung có các nội dung chính như sau:
1. Tín ngưỡng thờ Mẫu ở Tây Nam Bộ: Mở đầu là nội dung về tín ngưỡng thờ Mẫu nói chung
một tín ngưỡng bản địa lâu đời. Phần lớn tập trung vào trình bày khái qt, sơ lược về tình
hình sinh hoạt tín ngưỡng thờ Mẫu (đặc biệt là thờ Chúa Xứ Thánh Mẫu) ở tiểu vùng TNB.
2. Tín ngưỡng thờ Mẫu qua hình tượng Chúa Xứ Thánh Mẫu ở Tây Nam Bộ: Phần này tập
trung vào nội dung phân tích trọng tâm của bài tiểu luận. Khai thác các khía cạnh: Truyền
thuyết về Bà, hình tượng, hệ thống thờ tự, lễ Vía Bà thường niên ở TNB (Châu Đốc, An
Giang).
3. Bàn luận về tín ngưỡng thờ Chúa Xứ Thánh Mẫu ở Tây Nam Bộ: Bàn luận về 2 nội dung
chính: (1) Những giá trị truyền thống tốt đẹp; (2) Hoạt động khai thác du lịch ở khu vực Núi
Sam lấy lễ hội làm trung tâm và sự linh hoạt của cộng đồng địa phương trước xu thế phát
triển.
2. Tín ngưỡng thờ Mẫu ở Tây Nam Bộ
2.1. Khái niệm tín ngưỡng thờ Mẫu
2.1.1. Khái niệm tín ngưỡng
Theo GS. Đặng Nghiêm Vạn, ở Việt Nam người ta thường dùng chữ đạo như ở Trung Hoa để chỉ
các tơn giáo hay chỉ một ngun lí sống, một con đường phải theo dù thuộc thế giới vơ hình hay
hữu hình như: đạo Cơng giáo, đạo Nho, đạo thầy trò, đạo đối với người đã khuất, thậm chí đạo vợ
chồng… Ngồi ra, cịn một thuật ngữ nữa là thờ hay thờ cúng nghiêng về thực hành nhằm chỉ thái
độ đối với người đã khuất, với các siêu nhiên, không ngoại trừ đối với những người hay vật được

6


mình coi là biểu tượng, là gương mẫu để noi theo như: thờ thầy dạy, thờ cha mẹ, thờ một vĩ nhân,
anh hùng dựng nước, thần, thánh, ma, quỷ… [1, tr. 5]
Ơng cho rằng: ở Châu Âu khái niệm tín ngưỡng có hai nghĩa: khi nói tín ngưỡng, người Châu Âu

hiểu đó là niềm tin nói chung (belief, believes (Anh), verơvanhie (Nga) hay croyance religieuse
(Pháp)…) ; nhưng cũng có thể hiểu belief là tín ngưỡng và cũng là tơn giáo, nên khi nói tự do tín
ngưỡng thường được dịch ra tiếng Pháp là tự do tôn giáo (liberté de la religion). Như vậy, “tín
ngưỡng” như một số tác giả Việt Nam bây giờ hiểu là mức thấp hơn tôn giáo và các tơn giáo.
Nhưng cũng có thể hiểu theo nghĩa hẹp là niềm tin tôn giáo (foi hay croyance religieuse), một yếu
tố cơ bản, chủ chốt của một tôn giáo.
T [2]ín ngưỡng là một hình thức văn hóa phi vật thế mang tính độc đáo và biểu hiện khá rõ được
đời sống vật chất, tinh thần của con người, nhất là trong hồn cảnh riêng của văn hóa và con người
Việt Nam. Ngồi ra, tín ngưỡng cịn đóng góp vào việc hình thành nên các giá trị truyền thống của
văn hố và tính cách dân tộc, kết nối cả cộng đồng lại với nhau.
Tóm lại, có thể hiểu tín ngưỡng như sau: “Tín ngưỡng là niềm tin của con người được thể hiện
thông qua những lễ nghi gắn liền với phong tục, tập quán truyền thống để mang lại sự bình an về
tinh thần cho cá nhân và cộng đồng” (Khoản 1 và 5 Điều 2 Luật Tín ngưỡng, tơn giáo năm 2016).
Và phân biệt với tôn giáo: “Tôn giáo là niềm tin của con người tồn tại với hệ thống quan niệm và
hoạt động bao gồm đối tượng tôn thờ, giáo lý, giáo luật, lễ nghi và tổ chức.” (Khoản 1 và 5 Điều 2
Luật Tín ngưỡng, tơn giáo năm 2016).
2.1.2. Tín ngưỡng dân gian Việt Nam
Tín ngưỡng dân gian được hiểu là những hình thái tơn giáo sơ khai, chúng được xây dựng trên nền
tảng tâm cách nguyên thủy (primitive mentality) để nhận thức hiện thực và tác động đến hiện thực
bằng các kỹ xảo (các biện pháp ma thuật) của thuyết hồn linh. Tín ngưỡng dân gian khác hẳn tín
ngưỡng, tơn giáo chính thống của nhà nước phong kiến thiết lập và quản lý, nó thuộc về tầng lớp
bình dân trong xã hội,.
Nghiên cứu về tín ngưỡng thờ Mẫu cũng như tín ngưỡng dân gian Việt Nam nói chung khơng thể
khơng nhắc đến vai trị của các triều đại phong kiến nước ta như: Đinh, Lý, Trần, Lê, Nguyễn. Các
triều đại phong kiến Việt Nam đã sắc phong các vị Mẫu và cho nhiều nhân vật có công với đất
nước trong các cuộc chống giặc ngoại xâm, được thờ ở nhiều làng, xã, thậm chí là các thành thị
Việt Nam. Với tính chất cốt lõi và đặc sắc này của tín ngưỡng dân gian Việt Nam mà tác giả Phan
Hữu Dật đã nhận định như sau: “Về thực chất, tín ngưỡng là một bộ phận cấu thành của văn hóa
dân gian.” [2, tr. 328]


7


2.1.3. Khái niệm tín ngưỡng thờ Mẫu
Tín ngưỡng thờ hình tượng người phụ nữ (là cơ sở đầu tiên cho tín ngưỡng thờ Mẫu) xuất hiện từ
khi con người có ý niệm về linh hồn người chết vào thời kỳ nguyên thủy. Đã có nhiều lời giải cho
sự ra đời, nguồn gốc hình thành tín ngưỡng thờ Mẫu. Có ý kiến cho rằng: “nguyên nhân khởi phát
tín ngưỡng thờ Mẫu là từ chế độ mẫu hệ. Trong thời kỳ nguyên thủy khi mà người phụ nữ đóng vai
trị là chủ gia đình, là người có quyền quyết định mọi vấn đề to lớn trong gia đình, bộ tộc thì họ
cũng góp phần quyết định vào sự tồn tại của xã hội” [3, tr. 12].
Tín ngưỡng thờ Mẫu là kết quả của xã hội nông nghiệp, tồn tại những tàn dư của xã hội theo chế
độ mẫu hệ, và vai trò của người phụ nữ được coi trọng, tôn vinh các nhân vật như: Quốc Mẫu,
Vương Mẫu, Thánh Mẫu… Theo đó, các thần linh (như trời, đất, sông nước, rừng núi...) có khả
năng siêu phàm cầm trịch được thiên nhiên. Trong q trình mưu sinh dựa vào đặc tính của vùng
nơng nghiệp canh tác lúa nước, người Việt luôn phụ thuộc vào thiên nhiên; họ tôn thờ các hiện
tượng tự nhiên, coi tự nhiên là Nữ thần và Mẫu thần để cầu mong được bảo trợ và cứu giúp khỏi
mọi khổ đau.
Hiện nay, chưa thể nghiên cứu chính xác tín ngưỡng thờ Mẫu có từ khi nào, nhưng nhiều nhà
nghiên cứu cho rằng, tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt xuất hiện vào khoảng thế kỷ thứ III hoặc
thứ II trước Cơng ngun. Tín ngưỡng thờ Mẫu có nguồn gốc ở miền Bắc từ lúc người Việt khai
thác đồng bằng Bắc Bộ. Bên cạnh đó, một số nhà nghiên cứu cho rằng, tín ngưỡng thờ Mẫu lưu
giữ kho tàng văn hóa dân gian của nhiều dân tộc, trong kho tàng đó có nhiề u truyên ̣ kể về nguồn
gốc ra đời của các tộc người. Chẳng hạn như, truyện về “quả bầu mẹ” sinh ra các tộc người; về
“đôi chim thần” đẻ trứng trăm, trứng nghìn, nở ra người Việt, người Mường, người Xá, người Thái,
người Lư; về “bọc trăm trứng” nở trăm trai [4, tr. 30]. Trên cơ sở đó, họ cho rằng, huyền thoại nỗn
sinh chính là cội rễ của mọi tục thờ “Thần Nữ”, “Thần Mẫu”, “Thánh Mẫu”, “Mẹ Trời”, “Mẹ Đất”,
“Mẹ Nước”,...
Phát triển từ thờ Nữ thần, thờ Mẫu thần là lớp thờ thứ hai trong tín ngưỡng thờ Mẫu, mang biểu
tượng cho sự sinh sôi, bảo trợ và che chở cho con người. Tín ngưỡng thờ Mẫu là sự bày tỏ lịng
kính trọng, tơn vinh đối với người phụ nữ, đồng thời là khát vọng của con người luôn muốn vươn

tới những điều tốt lành trong cuộc sống.
Xuất thân từ một dân tộc có truyền thống nơng nghiệp trồng lúa nước, người Việt ln ước vọng
có cơm no áo ấm, mưa thuận gió hịa, vụ mùa bội thu. Vì thế, người Việt đã mang lịng tin của
mình đặt vào lực lượng siêu nhiên đầy quyền năng; họ tơn thờ các vị thần linh thiên nhiên (hình
tượng các nữ thần Mây, Mưa, Sấm, Chớp là một trong số đó), đại diện cho các hiện tượng tự nhiên.
8


Thần thánh trong tín ngưỡng thờ Mẫu mang hình ảnh của người Mẹ, người phụ nữ đôn hậu với
quyền năng sinh sôi, sáng tạo, bao bọc, ban phúc và che chở cho con người. Cùng với sự biến đổi
của xã hội, xã hội phụ quyền thay thế xã hội mẫu quyền, nhưng vai trị của người phụ nữ trong gia
đình và xã hội vẫn không thay thế được. Những người phụ nữ tài giỏi, có cơng giữ nước hay dạy
nghề cho dân làng khi mất được nhân dân tôn thờ thành các thánh Mẫu.
Trải qua quá trình hình thành và phát triển, tín ngưỡng thờ Mẫu khơng những tiếp nhận sự ảnh
hưởng tích cực của các tơn giáo (như Phật giáo, Đạo giáo và Nho giáo), mà cịn tích hợp được văn
hóa đặc sắc của các tộc người ở Việt Nam. Nhờ đó tín ngưỡng thờ Mẫu có vị trí trong đời sống tâm
linh của người Việt và trở thành một bộ phận không thể thiếu trong bản sắc văn hóa truyền thống
của dân tộc Việt Nam. Năm 2016, tại TP Addis Ababa (Cộng hòa Dân chủ Liên bang Ethiopia),
UNESCO đã chính thức được UNESCO cơng nhận di sản “Thực hành Tín ngưỡng thờ Mẫu Tam
phủ của người Việt” là Di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại.
2.2. Khái quát tín ngưỡng thờ Mẫu ở Tây Nam Bộ
2.2.1. Tín ngưỡng thờ Chúa Xứ Thánh Mẫu ở Tây Nam Bộ
Bà chúa Xứ được gọi với nhiều tên khác nhau như: Chúa Xứ Thánh Mẫu, Thánh Mẫu Chúa xứ
Nương nương, Chúa xứ Thánh nương nương; Nương nương…Đầu thế kỷ XIX, Trịnh Hồi Đức
ghi nhận trong tín ngưỡng thờ Bà ở TNB có bốn nữ thần (Chùa Ngọc, Chúa Động, Hoa Tỉnh, Thủy
Tinh) và hai Cô (Hồng, Hạnh) được người Việt tôn thở và nhấn mạnh rằng các vị này được gọi với
tính cách tơn trọng là Bà (khơng gọi là Mẫu). Đến năm 1895, Huỳnh Tịnh Của kiểm tra thấy tăng
lên đến 7 vị (Chúa Tiên, Chúa Ngọc, Chúa Xứ, Chùa Động, Cổ Hy, Thủy, Hỏa) và hai Cậu (Cậu
Trái Tài/Chài, Cậu Quỷ đều là con của Bà Chúa Ngọc...) [5, tr. 561]. Hiện nay, dù đối tượng tín
ngưỡng nữ thần Nam Bộ có tăng lên hoặc thay đổi danh xưng, nhưng nội dung tín ngưỡng khơng

có gì biến động lớn và điều nổi bật ở đây là tín ngưỡng Bà Chúa Xứ là sinh hoạt tâm linh bao trùm.
Theo nhà nghiên cứu Ngơ Đức Thịnh, ơng cho rằng: Nhìn vào các lớp văn hóa tạo nên biểu tượng
tâm linh Bà Chúa Xứ, chúng ta đều thấy thấp thống hình bóng Bà Mẹ Xứ Sở - Po Ina Nagar của
người Champa. Thảnh mẫu Thiên Yana của người Việt, nữ thần Neang Khmau (Bà Đen), tục thờ
Neak Tà của người Khmer và xa xưa hơn, nhưng cũng biểu hiện hơn là tất cả các biểu tượng trên
đều được quy tụ trong lĩnh tượng Shiva Linga và Sakti của Shiva là nữ thần Uma của Bàlamôn
giáo, mà truyền thuyết bức tượng Bà Chúa Xứ An Giang đã mách bảo chúng ta những điều như
vậy, cho dù bề ngồi bức tượng đó cũng đã được cải trang dưới hình dáng Thánh Mẫu của người
Việt [6, tr. 282].
Việc thờ cúng Bà Chúa Xứ trong lễ hội Núi Sam, chính là bắt nguồn từ nhu cầu tín ngưỡng dân
gian thờ Mẹ vẫn ẩn sâu trong tiềm thức của người Việt. Từ đó, họ sẵn sàng chấp nhận pho tượng
9


đá tượng trưng cho vị nữ thần mà không cần xem xét truy nguyên gốc gác của pho tượng ấy thuộc
nền văn hóa nào, của người Phù Nam hay của một tộc người nào khác, dù rằng mọi người đều biết
chất liệu đá của bức tượng không phải là thứ đã ở trong vùng, còn phong cách được thể hiện trên
bức tượng cũng khơng có nét gì là Việt [7, tr. 103].
Với gốc là trục thờ Mẫu, tín ngưỡng thờ Bà Chúa Xứ đã đáp ứng được nhu cầu tâm linh khơng chỉ
của người Việt mà cịn của tất cả các tộc người Khmer Chăm, Hoa trong vùng. Chúa Xứ Thánh
Mẫu trở thành hình ảnh một bà mẹ nhân từ phúc hậu đầy quyền uy. Đến với Bà, người ta tin rằng
sẽ được Bà phù hộ và ban cho tài lộc, sức khỏe, sự thành công trong làm ăn buôn bản, trong cơng
việc và cuộc đời [7, tr. 226]. Vì vậy, hầu như khắp các tỉnh thành ở TNB từ Đồng Tháp, Tiền Giang,
Kiên Giang, Trà Vinh, Bến Tre, Cà Mau... cho đến An Giang, đâu đâu cũng có điện thờ Mẫu, gian
thờ Mẫu hay miếu thờ Mẫu. Không những thế, “Người miền Nam nói rằng Bà là một vị thần linh
thiêng nhất cả nước, một minh chứng cho điều này là khách hành hương từ Huế cho đến Hà Nội
cũng vào dâng lễ vật cho Bà” [8, tr. 4].
2.2.2. Những câu chuyện linh thiêng liên quan đến Chúa Xứ Thánh Mẫu
Ngơi miếu cũng như pho tượng lạ lẫm có một không hai xuất hiện ở nước ta vào thời kỳ mà ánh
sáng khoa học chưa soi rọi tới nhiều, nên mọi hiện tượng đều được lý giải theo trí tưởng tượng lãng

mạn của dân gian. Bởi vậy dân gian xem pho tượng Bà như một phép màu huyền diệu mà trời đất
đã ban cho người dân. Và khi Bà trở nên nổi tiếng, được dâng cúng nhiều vật trang sức đắt tiền thì
lại sinh thêm một mỗi lo cho các vị có nhiệm vụ bảo vệ miễu. Để cảnh báo và đe dọa phường Đạo
Chích, người ta kể rằng Bà rất linh thiêng, đã bẻ cổ chết tại chỗ những tên toàn trộm đồ thờ trong
miếu Bà. Tưởng câu chuyện ấy có thể ngăn cản được bước chân của những kẻ có ý đồ xấu, ai ngờ
một ngày kia, chuỗi vịng vàng trên cổ Bà khơng cánh mà bay và kẻ cắp khơng hề bị phát giác. Để
giải thích cho việc này, người ta kể tiếp, ngay khi ấy Bà đạp đồng lên cho biết Bà thấy tên ấy tới
gần, nhưng lạ thay hắn không giống người, không thấy đầu cổ hắn đâu cả, chỉ thấy hai que gì như
hai cái chân người đưa thẳng lên trời. Vậy là tên trộm đã “trồng chuối” khi đến gần Bà vì sợ bị bẻ
cổ, vả khi Bà cịn bận tìm đầu của hắn để bẻ, hắn đã nhanh tay gỡ mất chuỗi vịng vùng trên cổ Bà.
Nhưng sau đó vài giờ, tên trộm đã bị bắt ngay trong khu vực miếu. Từ đó đến nay cũng xảy ra vài
vụ mất cắp, nhưng rốt cuộc thủ phạm cũng khơng thốt khỏi được. Ông Mai Văn Chơi nguyên là
Phó BQT kể lại hai câu chuyện sau:
Chuyện thứ nhất xảy ra vào thời kỳ trước giải phóng. kẻ trộm đã vào ăn cắp 7 bộ lư đồng trong
miễu mang ra chợ Châu Đốc bán. Y bảo rằng mình đã mang từ Campuchia về. Nhưng sau đó BQT
phát giác và những thương bn đã mang trả lại cùng với hương đăng trả quả để tạ lỗi với Bà.

10


Chuyện thứ hai, xảy ra năm 1979, có một cơ gái mang chiếc vòng cẩm thạch đến dâng cúng nhưng
quá đơng người, cơ khơng vào được chính điện. Liền lúc đó có một người xưng là người của miếu
ngỏ ý muốn giúp cô đem phẩm vật vào. Cô đồng ý và đưa chiếc vòng cẩm thạch đặt trên một cái
đĩa cho người đàn ông đỏ. Cho tới 12 giờ khuya, khi người thưa bớt, cô mới vào hỏi xem vật phẩm
đã được đăng Bà chưa thì mới hay tên lừa đảo đã lấy đi chiếc vịng của cơ. Liền khi ấy, BQT cho
mới chính quyền địa phương (trong đó có cả ơng Bảy Vân là Phó Ban Cơng an xã Vĩnh Tế), để lập
biên bản về việc lừa đảo trên. Sau ba tiếng đồng hồ, ông Bảy Vân đã bắt được tên lừa đảo với hiện
vật y giấu kín trong người ở khu vực Lăng Ơng. Cơ gái đến nhận dùng chiếc vịng của mình khơng
thể lầm lẫn được vì đây chính là vật gia bảo của gia đình cơ, mà bà nội có có lời nguyện vái là sẽ
dâng cúng Bà nếu những điều cầu xin được thực hiện. Từ những câu chuyện trên cho ta thấy lòng

ngưỡng mộ, tôn sùng của nhân dân đối với “Bà” rất lớn, đã trở thành bức tường thành kiên cổ bảo
vệ và ngăn chặn mọi ý để quấy phá, trộm cắp của kẻ gian. Và cũng là bài học để cho những tên
tham lam trộm cắp tự giác sửa đổi [9, tr. 10-15]
Những khám phá của các nhà khoa học. Có nhiều truyền thuyết liên quan đến một tượng đã được
coi là Bà Chúa Xứ ở Núi Sam. Đây là loại tượng thần Shiva Linga thường thấy ở Ấn Độ,
Campuchia, Lào... được tạc bằng đá sa thạch dáng ngồi nghỉ ngơi của người đàn ông vương giả,
đầy sức sống, ngực nở, bụng hơi phệ. Tuy trái để ở tư thế chống vào nách, tay phải để tự nhiên, bàn
tay úp trên đầu gối phải [5, tr. 62]...
3. Tín ngưỡng thờ Mẫu qua hình tượng Chúa Xứ Thánh Mẫu ở Tây Nam Bộ
3.1. Truyền thuyết về Chúa Xứ Thánh Mẫu
Truyền thuyết thứ nhất, trên núi Sam ngày xưa có một bệ tượng hình vuông bằng đá sa thạch. Vào
những năm đầu thế kỷ XIX, giặc Xiêm thường sang khu vực này để quấy nhiễu. Trong một lần lên
núi và bắt gặp tượng Bà, họ liền có ý định cậy tượng ra khỏi bệ đá để đem xuống núi. Nhưng kỳ lạ
thay tượng trở nên nặng vô cùng, họ không cách nào khiêng được mặc dù có bao nhiêu lính tráng
khỏe mạnh. Trong lúc tức giận, một quân lính người Xiêm đã vớ một khúc gỗ phang vào tượng
làm sứt một miếng ở cánh tay. Ngay lập tức người lính Xiêm này hộc máu chết tại chỗ [10, tr. 419].
Sau đó, một hơm dân làng lên núi thấy tượng Bà bèn cùng nhau khiêng tượng về lập miếu thờ. Tuy
nhiên, cũng như lần trước, tượng nặng vô cùng, bao nhiêu trai tráng trong làng góp sức nhưng cũng
khơng khiến cho bức tượng xê dịch được. Khi đó, bỗng một phụ nữ lên đồng, tự xưng là Bà Chúa
Xứ và phán rằng, muốn thỉnh Bà xuống thì cần phải có 40 cơ gái đồng trinh tắm rửa sạch sẽ mới
có thể khiêng Bà xuống. Dân làng tin lời và làm theo. Quả thật linh nghiệm; tuy nhiên, đến chân
núi Sam thì tượng Bà lại trở nên nặng trịch, không thể khiêng tiếp được nữa. Hiểu được dụng ý của
Bà, dân làng liền cho lập đền thờ ở khu vực này [6, tr. 276-277].
11


Truyền thuyết thứ hai kể lại rằng cách đây gần 200 năm, có một cơ gái trong làng Vĩnh Tế bỗng
lên đồng, tự xưng là Bà Chúa Xứ về núi Sam để cứu dân độ thế. Bà cịn nói thêm là hiện nay, tượng
Bà đang ngự trên núi, yêu cầu dân làng lên núi thỉnh về để thờ phụng. Dân làng liền phái 40 chàng
thanh niên lực lưỡng lên núi để khiêng tượng, nhưng cũng không thể xê dịch bức tượng. Lúc đó,

cơ gái lại lên đồng và cho dân làng biết chỉ cần 9 cô gái đồng trinh là có thể khiêng được. Quả thật
linh nghiệm; đến chân núi Sam, dây khiêng tượng bị đứt, thế là dân làng hiểu ý Bà mà cho lập miếu
thờ Bà ở đây.
Truyền thuyết thứ ba thì kể về việc một thiếu phụ Cao Miên đã hóa đá ở chân núi này khi đi tìm
chồng. Sau đó, linh hồn người phụ nữ này nhập vào cốt đồng để nói về quá khứ và tương lai để
giúp đỡ những người hiền và trừng phạt những người xấu. Dân làng liền lập miếu thờ và gọi bà là
Bà Chúa Xứ.
Trong cuốn Địa chí du lịch An Giang thì mơ tả truyền thuyết về Bà tương đồng với truyền thuyết
thứ ba mà tác giả đã đề cập ở trên, duy chỉ có khác ở việc là Bà Chúa Xứ đã nhập vào một bé gái
chứ không phải là một cô gái như thuyết thứ ba đã đề cập [11, tr. 51]. Các học giả đi trước đã có
những mơ tả khác nhau về nguồn gốc thần tích của Bà Chúa Xứ trong những cơng trình của mình;
tác giả sẽ khơng đi sâu vào việc lý giải những thần tích nào đúng, hợp lý hay những thần tích nào
là phi lý. Bởi vì xét cho cùng thì những truyền thuyết đó cũng chỉ là nhằm linh thiêng, thiêng liêng
hóa vị Mẫu này mà thơi; căn ngun cũng là thể hiện tính nhân văn – một đặc điểm của tín ngưỡng
thờ Mẫu mà nhóm tác giả đã phân tích ở trên. Ngay cả trong danh xưng Chúa Xứ cũng đã thể hiện
điều đó, Bà là người cai quản một xứ (vùng) cũng giống như Mẫu Địa trong tín ngưỡng thờ Mẫu
Tam phủ, Tứ phủ ở vùng Bắc Bộ. Hơn nữa, nói như Sơn Nam thì trong nhiều trường hợp, các giai
thoại thường đàm lại chứa đựng sự thật, là sử liệu biến chất nhưng còn cái lõi tốt. Nó che giấu, bảo
tồn những điều mà nhà cầm quyền phong kiến hay thực dân giấu giếm, không dám cho phổ biến
trên sách vở, báo chí. Một thứ bia miệng lắm khi bền chắc hơn bia đá [12, tr. 299].
3.2. Hình tượng Chúa Xứ Thánh Mẫu
Đối với hệ thống thần linh ở vùng TNB, đặc biệt là khi nghiên cứu các nữ thần, chúng ta khơng chỉ
thấy rõ tính đa dạng trong hệ thống các vị thần linh, mà xen kẽ vào đó cịn là tính phức hợp. Tính
phức hợp này được thể hiện thông qua sự giao thoa các hình tượng của các nữ thần, mà cụ thể hơn
là những Mẫu trong cơng trình này đề cập đến. Sự phức tạp được thể hiện qua việc xác định nguồn
gốc, danh xưng, sự tiếp biến và hỗn dung văn hóa ngay ở hình tượng của các Mẫu. Bà Chúa Xứ là
một điển hình cho sự phức tạp ấy.
Nghiên cứu hình tượng của Chúa Xứ Thánh Mẫu, có lẽ trước tiên chúng ta cần làm rõ nguồn gốc
của pho tượng. Ý kiến thứ nhất như đã đề cập ở phần truyền thuyết của Bà thì cho rằng, đây vốn là
12



cốt tượng đã được Thoại Ngọc Hầu cho quân lính chở từ thành Trấn Tây về. Ý kiến này đúng hay
sai, cần phải nghiên cứu thêm [10, tr. 420]. Tác giả đồng ý với ý kiến thứ hai hơn rằng, đây vốn là
tượng của một vị nam thần, mà cụ thể hơn chính là thần Vishnu – một trong ba vị thần tối cao trong
Bàlamôn giáo. Đây là nhận định của nhà nghiên cứu người Pháp là ông Malleret khi đến đây để
nghiên cứu vào năm 1941.
Về bức tượng hiện nay được thờ trong chính điện tại miếu Bà Chúa Xứ núi Sam ở TP Châu Đốc
mà tác giả tiếp cận, tượng cao khoảng 1,25 mét và được làm bằng đá “son” (đá xanh đen) nguyên
khối, được tạc trong tư thế ngồi nghĩ ngợi, dáng người vương giả, ngực nở, bụng hơi phệ. Tay trái
để ở tư thế chống vào nách, tay phải để tự nhiên, bàn tay úp trên đầu gối phải; tượng được đặt trên
bệ cao ở chính điện. “Chất liệu làm tượng bằng loại đá quý, có giá trị nghệ thuật cao, được tạc
vào cuối thế kỷ VI đầu thế kỷ VII…” [13, tr. 296].
Mặt khác, khi xem xét hình tượng của Bà Chúa Xứ dưới góc độ là một đối tượng thể hiện sự giao
lưu và hỗn dung văn hóa trong tín ngưỡng của các tộc người, theo Ngơ Đức Thịnh thì hình tượng
Bà Chúa Xứ ở Nam Bộ đã thể hiện ba lớp văn hóa trong đó, bao gồm: Lớp văn hóa Chăm, lớp văn
hóa Khmer và lớp văn hóa của người Việt. Qua đó, lớp văn hóa Chăm được thể hiện thơng qua
hình tượng bà Po Inư Nagar (sau này là bà Thiên Yana Diễn Ngọc Phi – một hóa thân của nữ thần
Po Inư Nagar khi mà lưu dân Việt đem theo tín ngưỡng thờ Mẫu ở Bắc Bộ di cư vào Nam); lớp
văn hóa Khmer được biểu hiện qua hình tượng vị nữ thần Neang Khmau (Linh Sơn Thánh Mẫu);
bên cạnh hai lớp văn hóa của Chăm và Khmer cịn có lớp văn hóa Việt là vì trong cộng đồng người
Việt khi di chuyển vào vùng đất này để định cư đã mang sẵn tâm thức thờ Mẫu ở vùng ngoài. Bởi
vậy, khi di cư vào đây, cùng chung sống với nhau đã cho ra đời một người mẹ duy nhất trong tâm
thức người Việt, đó chính là hình tượng Chúa Xứ Thánh Mẫu.
Với phương thức tạc tượng như vậy, khơng khó để thấy rằng đây khơng phải là mơ – típ tạc tượng
của người Việt. Như thế thì vấn đề được đặt ra là tại sao người Việt trong nhiều thế kỷ qua lại chấp
nhận tôn thờ một pho tượng không rõ nguồn gốc hay lại cố tình Việt hóa vị nam thần ấy để biến
thành một vị nữ thần thông qua các thao tác như: Khoác lên bộ trang phục của nữ chúa, trang điểm
thật lộng lẫy với nhiều đồ trang sức sang trọng, quý phái nhằm biến vị Nam thần ấy thành nữ sao
cho thật phù hợp với hình tượng một vị nữ thần. Thực tế, đây vốn là … tượng thần Vishnu nên có

diện mạo và dáng vẻ của đàn ông rất lực lưỡng…” [13, tr. 296]. Giải thích lý do này, theo quan
điểm của tác giả thì do rằng trong tâm thức của người Việt đã có sẵn hình ảnh người mẹ. Mẹ là
người mang lại cho con người sức khỏe, tài lộc và bình an. Trong hoàn cảnh đến với vùng đất mới
đầy hoang vu, lại không chịu sự ràng buộc từ làng xã cổ truyền ở vùng ngoài, cộng thêm việc “gặp”
được cộng đồng cư dân bản địa nơi đây, những lưu dân Việt đó muốn tự do sáng tạo trong lao động
13


cũng như trong sinh hoạt tinh thần. Mặt khác, họ cũng muốn hịa hợp và chấp nhận những hình
tượng Mẫu của người Chăm và người Khmer để “phủ” lên đó thứ tín ngưỡng thờ Mẫu ở q hương.
Đó chính là nguyên nhân dẫn đến sự phức hợp trong hình tượng Bà Chúa Xứ ở vùng đất Nam Bộ.
Nhìn chung, mối quan hệ giữa việc giao lưu và hỗn dung văn hóa giữa ba cộng đồng người Việt –
Chăm – Khmer trong hình tượng Chúa Xứ Thánh Mẫu là vơ cùng phức tạp như chính Ngơ Đức
Thịnh đã gọi Ngài là “Mẫu thần đa văn hóa”. Tuy nhiên, có một thực tế rằng, linh tượng của Bà
vô cùng linh thiêng. Sự linh thiêng đó đã thể hiện thơng qua câu đối:
Cầu tất ứng, thí tất linh, mộng trung chỉ thị
Xiêm khả kính, Thanh khả mộ, ý ngoại nan lường.
3.3. Hệ thống điện thờ Chúa Xứ Thánh Mẫu ở Tây Nam Bộ
PGS.TS. Nguyễn Hữu Hiếu đã từng viết: “… gần như hầu hết làng xã ở Nam Bộ đều có miễu
(miếu) Bà Chúa Xứ, và trong khn viên đình, chùa cũng đều có miễu thờ vị Nữ thần này bên cạnh
miếu Ngũ hành, miếu Thổ địa” [14, tr. 224]. Thực tế đó đã phản ánh tình trạng một thứ tín ngưỡng
phái sinh của tín ngưỡng thờ Mẫu là dạng thức thờ Chúa Xứ Thánh Mẫu (Bà Chúa Xứ). Chính
dạng thức thờ Bà Chúa Xứ đã chi phối mạnh mẽ, và gần như toàn bộ đời sống tâm linh của cộng
đồng dân cư đã và đang sinh sống ở khu vực Nam Bộ hiện nay.
Các cơ sở thờ tự có thờ Bà có mật độ dày đặc ở khu vực Nam Bộ, đặc biệt là vùng Tây Nam
Bộ. Theo thống kê từ năm 2002, ở Tiền Giang có 233 miếu thờ các vị thần thì trong đó có 180 miếu
có thờ Bà; ở Bến Tre có 72 miếu thờ Bà (trong đó riêng huyện Ba Tri là 24 miếu, huyện Mỏ Cày
có 13 miếu)… Đó là chưa kể việc thờ Bà riêng lẻ trong phạm vi những hộ gia đình [13, tr. 275].
Hai cơ sở thờ tự hiện nay rất nổi tiếng của Bà Chúa Xứ, có ảnh hưởng ra khỏi phạm vi của một
thôn ấp và được xem như là hai trung tâm thờ Bà ở khu vực TNB chính là miếu Bà Chúa Xứ ở núi

Sam (thuộc TP Châu Đốc của tỉnh An Giang) và miếu Bà ở Gò Tháp (tỉnh Đồng Tháp).
Miếu thờ Chúa Xứ Thánh Mẫu hiện nay nằm ở dưới chân núi Sam (thuộc phường Núi Sam,
TP.Châu Đốc, tỉnh An Giang). Lúc ban đầu, khi mới được xây dựng, miếu được cất bằng tre lá khá
đơn sơ. Miếu nằm trên địa hình đất trũng, quay lưng về vách núi, chính điện phóng tầm mắt ra cánh
đồng bát ngát. Sau nhiều lần trùng tu, đặc biệt là những năm 1962, 1965 và 1966, miếu Bà ngày
càng được mở rộng và khang trang hơn. Đến mãi năm 1870, miếu được xây dựng lại và lợp ngói,
thu hút nhiều du khách đến chiêm bái. Đến năm 1960, được trùng tu bằng đá miếng và cho lợp ngói
âm dương. Dáng vẻ hiện nay của cơng trình này là thành quả của đợt trùng tu cuối cùng tính đến
hiện nay vào các năm 1972 – 1976. Trong giai đoạn 1972 này, miếu đã được xây dựng đồ sộ và
nguy nga theo lối kiến trúc cổ kính của phương Đơng. Việc xây dựng này được thực hiện theo đồ
14


án thiết kế của hai kiến trúc sư là ông Huỳnh Kim Mãng và ông Nguyễn Bá Lăng, nhưng xây dựng
dở dang. Mãi đến năm 1995, BQT lăng miếu núi Sam mới tiếp tục xây dựng phần còn lại.
Miếu Bà Chúa Xứ núi Sam về tổng quan là một tòa tháp với lối kiến trúc được xây dựng
theo hình chữ “Quốc” (國) có dạng hình bơng sen nở, mái tam cấp ba tầng lầu, lợp ngói màu xanh
hài hịa với kiến trúc. Khuôn viên của miếu rộng khoảng 3000 mét vng, bao gồm: Chính điện,
nhà võ ca, các nhà trưng bày lễ vật và khu nhà làm việc của BQL Di tích. Bên trong lát đá hoa,
gạch bơng nhập từ nước ngoài. Các khung và cửa đều được làm bằng gỗ q, được chạm trổ rất
cơng phu, mang tính nghệ thuật cao.
Chính điện cao rộng, thống khí; nơi cao nhất ở trung tâm chính điện đặt pho tượng của Bà mặc áo
bào thêu rồng phượng kiểu vua chúa, đầu đội mão có đính kim tuyến sáng lấp lánh. Tượng Bà ngồi
ở giữa theo tư thế mà tác giả đã đề cập khi nhắc đến nguồn gốc của pho tượng ở phần trên. Hai bên
có đơi hạc trắng đứng hầu để tạo sự linh thiêng nơi không gian thờ tự. Bên trái (nhìn theo hướng
từ chính điện nhìn ra) là bàn thờ Cậu, bên phải là bàn thờ Cơ. Ngồi ra, cũng như những miếu và
đình thần khác ở Nam Bộ, hai bên chính điện là ban thờ Tiền hiền khai khẩn và Hậu hiền khai cơ.
Phía trước thiết kế một bàn thờ Hội đồng, trên có đặt một cái lư hương, hai bên có đơi phượng
hồng dang cánh. Ở phía ngồi có một hương án làm nơi đặt bài vị của Thoại Ngọc Hầu và hai
người vợ của ông là bà Châu Thị Tế và Trương Thị Miệt trong những ngày diễn ra lễ hội vía Bà.

Ngồi ra, trên các trụ cột trong chính điện cịn treo nhiều câu đối bằng chữ Hán, tất cả đều mang ý
nghĩa ca ngợi cơng đức của Bà. Ở phía trên chính điện có treo nhiều bảng viết bằng chữ Hán như:
“Chúa Xứ Thánh Mẫu”, “Vị quốc vị dân”, “Thần linh hích trạc”…
Trong hệ thống điện thờ, ngoài pho tượng Bà là quan trọng nhất, việc thờ Cậu và Cô cũng là một
phần quan trọng chúng ta cần lưu tâm khi nghiên cứu về hệ thống điện thờ trong miếu Bà. Như
chúng ta đã biết, hình tượng Cậu được thờ trong điện thờ chung với Bà Chúa Xứ vốn là một linga
(sinh thực khí nam) – là một đối tượng được thờ trong tín ngưỡng phồn thực của người Việt hay
còn là biểu tượng của thần Shiva trong Bàlamôn giáo. Học giả Nguyễn Quang Lê đã nhận xét về
linh tượng bằng đá này như sau: “… bên trái là bàn thờ Cậu đặt một linh tượng linga bằng đá, có
phủ lên một tấm vải đỏ; cịn bên phải là bàn thờ Cơ lại rất trùng hợp với truyền thuyết về bà Thiên
Yana ở Tháp Bà Nha Trang rằng, bà đã phiêu bạt đến Bắc hải, rồi kết duyên với thái tử nước Tàu,
sinh được hai người con: một trai (Cậu) tên là Trí, và một gái (Cô) tên là Quý” [13, tr. 297]. Bên
cạnh đó, có một số tài liệu cho rằng hai người con của Nữ thần Po Inư Nagar (hay Thiên Yana) sau
này tên Tài và Quý đều là Cậu (tức là hai người con trai chứ không phải một trai, một gái). Qua
nhận định đó, ta thấy được rằng hình tượng Bà Chúa Xứ chính là biến thể của Thánh Mẫu Yana ở

15


khu vực duyên hải Nam Trung Bộ. Khi vào vùng đất này, hình tượng của vị Mẫu này đã trở nên đa
dạng hơn khi đã diễn ra sự tiếp xúc, giao lưu văn hóa.
3.4. Lễ vía Chúa Xứ Thánh Mẫu ở núi Sam Châu Đốc
Trong không gian vùng đất TNB, lễ hội vía Bà Chúa Xứ hằng năm có thể được xem là lễ hội có
quy mơ lớn nhất trong khu vực. Điều này cũng dễ hiểu khi mà như tác giả đã đề cập, Bà Chúa Xứ
đã trở thành đối tượng thờ cúng chính của một “tín ngưỡng” chính là “tín ngưỡng” thờ Bà Chúa
Xứ. Lễ vía Bà được tổ chức tương tự như lễ hội Kỳ Yên – một hình thức lễ hội rất phổ biến tại các
đình làng ở Nam Bộ.
Theo thơng lệ, lễ hội Vía Bà Chúa xứ Núi Sam trước đây diễn ra từ đêm 23 đến 27 tháng 4 Âm
lịch, ngày vía chính là ngày 25 tháng 4 Âm lịch [15, tr. 26]. Bắt đầu từ năm 2001, khi lễ hội Vía
Bà Chúa Xứ Núi Sam được Bộ Văn hóa Thơng tin và Tổng cục Du lịch Việt Nam công nhận là Lễ

hội cấp quốc gia, chính quyền TP Châu Đốc nói riêng và tỉnh An Giang nói chung đã quyết định
tổ chức thêm lễ phục hiện rước tượng Bà trên đỉnh núi Sam xuống miếu thờ vào ngày 22 tháng 04
Âm lịch nhằm giúp du khách gần xa hồi tưởng lại cảnh người dân đưa tượng Bà xuống miếu thờ.
Từ đó đến nay, lễ hội cấp quốc gia Vía Bà Chúa Xứ Núi Sam chính thức được bắt đầu từ ngày 22
đến ngày 27 tháng 4 Âm lịch hàng năm. Lễ hội Vía Bà Chúa Xứ Núi Sam là một lễ hội hoàn chỉnh
với cả phần lễ và phần hội. Trong đó:
Phần lễ: chương trình phần lễ vẫn giữ theo nghi thức truyền thống nhưng nội dung và hình thức
được nâng chất với xu hướng tạo điều kiện để du khách và nhân dân cùng tham gia, tạo sự hấp dẫn
để thu hút khách du lịch. Phần lễ hiện nay bao gồm các nghi lễ với trình tự như sau:
Lễ phục hiện rước tượng Bà: đây là nghi lễ được bổ sung khi lễ hội được công nhận là lễ hội cấp
quốc gia. Thời gian tiến hành lễ rước tượng Bà Được tiến hành vào chiều ngày 22 tháng 4 Âm lịch.
Nói là lễ phục hiện rước tượng Bà nhưng thực chất là rước áo, mão của Bà từ trên đỉnh núi Sam về
miếu để các tín nữ trong ban Quý tế mặc cho Bà sau lễ tắm Bà . Để bắt đầu cho lễ phục hiện, sau
khi làm lễ tại Nhà bia liệt sĩ , đồn rước đưa long đình được sơn son thếp vàng tiến lên đỉnh núi
Sam. Sau khi lên đỉnh núi, đến bệ đá nơi Bà ngự trước đây, đại diện BQT lăng miếu cùng các vị bô
lão, chức sắc đến trước bệ thờ và thắp hương khấn vái xin phép đưa áo mão Bà xuống núi.
Lễ Mộc dục, hay còn gọi là “lễ tắm bà” được tổ chức vào lúc 24 giờ đêm ngày 23, rạng sáng ngày
24 tháng 4 Âm lịch [15, tr. 28]. Đúng 0 giờ, các vị bô lão, chức sắc tiến hành làm lễ dâng trà, rượu
và bắt đầu nghi thức tắm Bà. Nước tắm Bà là một loại nước thơm nấu bằng nước mưa hứng ngồi
trời với nhiều loại hoa thơm và có thêm nước hoa hàng hiệu thơm ngát. Sau khi làm lễ xong, chín
người phụ nữ được tuyển chọn là những người có đức, hiền hậu vào bên trong nơi đặt tượng Bà để
thay áo mão đã cũ và dùng nước thơm để lau sạch bụi bám trên cốt tượng Bà. Lau bụi xong, tượng
16


Bà được thay bộ áo mão mới, đó là bộ áo mão rước từ trên đỉnh núi đem về. Đây khơng phải là bộ
áo mão duy nhất được khốc lên tượng Bà, trong năm nếu có vị khách nào dâng cúng áo mão cho
Bà đều được khoác chồng lên, đến khi nào nhiều thì mới cởi xuống. Tồn bộ “lễ tắm Bà” kéo dài
trong khoảng một giờ; sau đó, mọi người được tự do chiêm bái. Để giữ sự tôn nghiêm cho Bà, tất
cả những người đến dự lễ, kể cả các vị bô lão, chức sắc đều không được xem cảnh lau bụi và thay

áo mão cho Bà. Toàn bộ quá trình mộc dục cho Bà đều được thực hiện sau bức màn che, nhưng có
đến hàng nghìn người chen chúc nhau đến để đứng ngồi vịng rào chính điện để xem.
Sau lễ Mộc dục chính là lễ thỉnh sắc Thoại Ngọc Hầu về miếu Bà. Lễ này được tiến hành
vào lúc 15 giờ ngày 24 [15, tr. 28]; tại miếu Bà, tất cả các bô lão của làng Vĩnh Tế cùng BQT lăng
miếu lễ phục chỉnh tề (áo dài khăn đóng – lễ phục cổ truyền) tập trung đông đủ và xếp thành hai
hàng hai bên tượng Bà để chuẩn bị sang lăng Thoại Ngọc Hầu dự lễ thỉnh sắc. Dẫn đầu đoàn thỉnh
sắc là đội múa lân, theo sau là ông Hương lễ bưng khay trầu rượu, học trị lễ đi hai bên, rồi đến hai
ơng Chánh tế, ba ơng Bồi tế, ba ơng Chấp kích cùng các bô lão và đại diện dân làng Vĩnh Tế tiếp
nối đi theo phía sau. Khi đồn đến trước lăng Thoại Ngọc Hầu thì các bơ lão lần lượt vào dâng
hương và xin phép thỉnh bài vị. Sau đó, đồn thỉnh bốn sắc (bài vị) lên long đình để về miếu Bà.
Bốn bài vị đó bao gồm: Bài vị của ông Thoại Ngọc Hầu, bài vị của bà Chánh phẩm Châu Thị Tế,
bài vị của bà Nhị phẩm Trương Thị Miệt và bài vị của Hội đồng. Khi các bài vị được thỉnh về và
an vị trong ngơi chính điện, Ban Quản trị của miếu Bà dâng hương thỉnh an và phần lễ thỉnh sắc
kết thúc.
Lễ Túc yết được bắt đầu vào lúc 0 giờ ngày 25, rạng sáng ngày 26 tháng 4 Âm lịch [15, tr. 28]. Tất
cả các bô lão và BQT khu lăng miếu lễ phục chỉnh tề, đứng xếp hàng hai bên tượng Bà. Vật cúng
gồm có: Một con heo trắng đã được cạo lơng sạch sẽ, chưa nấu chín; một đĩa đựng một ít huyết có
chút lơng (mao huyết); một mâm xơi; một mâm trái cây, một mâm trầu cau và một đĩa gạo muối.
Toàn bộ lễ vật được bày trên bàn trước tượng Bà. “Vào lễ cúng, ông chánh bái và các vị bô lão
đến niệm hương trước bàn thờ. Kế đến là các phần khởi cỗ. Sau khi đánh ba hồi trống và ba hồi
chiêng, nhạc lễ bắt đầu nổi lên là lễ dâng hương, chúc tửu, hiến trà… Một người trong Ban quản
trị lăng miếu đọc văn tế. Dứt bài văn tế, ông chánh bái đốt văn bản này và một ít giấy vàng bạc;
heo cúng trên bàn thờ được lật ngửa ra trước và khiêng đi, phần cúng túc yết đã xong” [6,tr.290291].
Sau khi lễ Túc yết kết thúc thì diễn ra lễ Xây chầu. Lễ vật dâng cúng cũng là một con heo trắng để
nguyên con, một mâm xôi và một mâm cỗ đủ món. Tại gian võ ca, những người tham dự ăn mặc
chỉnh tề và xếp thành hai hàng. Sai khi ơng Chánh tế vái xong thì lấy roi chầu vác lên vai rồi hô
lớn “Phụng mạng”. Sau đó, ơng bước ra đặt roi chầu lên khay; sau đó là đến các lễ dâng hương,
17



dâng rượu và trà. Phía bên trái bàn thờ có một tơ nước và một cành dương liễu. Ơng Chánh tế ca
công cầm cành dương liễu đưa ngang trán và khấn vái rồi cầm cành dương liễu nhúng vào tô nước
và vẩy nước ra xung quanh; vừa vẩy vừa xướng to:
“Nhất xái thiên thanh” (Thứ nhất, vẩy nước lên trời mong cho trời ln thanh bình, mưa thuận gió
hịa);
“Nhị xái địa ninh” (Thứ hai, vẩy nước xuống đất, cầu cho đất thêm tươi tốt, mùa màng bội thu);
“Tam xái nhơn trường” (Thứ ba, vẩy nước cho loài người sống trường thọ);
“Tứ xái quỷ diệt hình” (Thứ tư, vẩy nước vào lồi quỷ dữ cho chúng bị tiêu diệt).
Đọc xong, ơng Chánh bái ca công đặt tô nước, cành dương liễu về lại bàn thờ; sau đó đánh ba hồi
trống và xướng “Ca cơng tiếp giá”, đồn hát bội “Dạ” một tiếng thật to. Ngay lập tức, đồn ca
cơng hát bội nổi chiêng trống và chương trình hát bội bắt đầu. “… Tất cả các vở tuồng hát đều là
tuồng hay, có ý nghĩa sâu xa, nhưng trong năm buổi diễn bắt buộc phải có vở Thứ ba San Hậu,
đào kép phải hát đúng nguyên bản không được tùy tiện sửa đổi…” [13, tr. 306].
Tiếp theo là lễ Chính tế. Lễ được tổ chức trọng thể vào lúc 4 giờ sáng ngày 27 tháng 4 Âm lịch [15,
tr. 28]. Chương trình tế lễ này tương tự như nghi lễ cúng Túc yết và có thêm phần “ẩm phước” với
ý nghĩa phần thưởng của Bà ban cho nhân dân và vị Chánh tế ra nhận thay. Sau khi tế lễ chính xong
thì có phần lễ tạ Mẫu và các vị thần linh; sau đó chuẩn bị cử hành lễ Hồi sắc.
Lễ Hồi sắc được cử hành vào buổi chiều ngày 27 (15 giờ). “BQT lại tề tựu đơng đủ, áo dài khăn
đóng (mặc lễ phục cổ truyền) chỉnh tề làm lễ Tôn Vương. Khi đó, ơng Chánh tế ca cơng nhận hàm
ấn và gươm lệnh của Hoàng tử trong vở hát bội Thứ ba San Hậu dâng lên bàn thờ bà Chúa Xứ.
Sau đó, ơng đốt văn xây chầu và chấm dứt phần hát bộ. Đến khi làm lễ hồi sắc thì chủ lễ thỉnh bài
vị Thoại Ngọc Hầu, bài vị hai vị phu nhân và bài vị Hội đồng đưa lên long đình. Rồi đồn đưa sắc
dàn đội hình rước sắc hồi lăng Thoại Ngọc Hầu theo thứ tự giống như rước sắc về miếu hôm mở
hội… Nghi lễ hồi sắc là nghi lễ cuối cùng kết thúc lễ hội vía bà Chúa Xứ núi Sam” [13, tr. 307].
Lễ hội Vía Bà Chúa Xứ Núi Sam thoạt đầu chỉ do dân làng Vĩnh Tế tham gia cúng tế, dần dần
lượng khách từ khắp nơi trên cả nước đổ về đây rất đơng, có thể nói đây là một lễ hội truyền thống
lớn nhất An Giang nói riêng và ĐBSCL nói chung. Với giá trị văn hóa độc đáo, lễ hội Vía Bà Chúa
Xứ Núi Sam đã được Bộ Văn hoá Thể thao và Du lịch công nhận là “Di sản văn hóa phi vật thể
quốc gia” vào năm 2014.
Phần hội: Song song với phần lễ tại Miếu Bà là phần hội bao gồm nhiều hoạt động như: biểu diễn

văn nghệ liên quan đến bốn dân tộc, các hoạt động thể thao, vui chơi giải trí, triển lãm tranh nghệ
thuật, các cuộc thi tài về ẩm thực,… rất hấp dẫn, thu hút đông đảo khách du lịch tham gia và đáo
lệ hàng năm.
18


4. Bàn luận về tín ngưỡng thờ Chúa Xứ Thánh Mẫu ở Tây Nam Bộ
4.1. Những giá trị truyền thống tốt đẹp trong tín ngưỡng thờ Mẫu (Chúa Xứ Thánh Mẫu)
Ở Tây Nam Bộ, hình tượng thờ Mẫu khá khác biệt so với miền Bắc và miền Trung. Tín ngưỡng
thờ Mẫu ở Nam Bộ có kế thừa, tiếp thu và sáng tạo. Tín ngưỡng thờ Mẫu TNB thể hiện mối quan
hệ, giao lưu văn hố giữa Việt-Khmer (Miếu ơng Tà trong sân miếu Bà Chúa Xứ núi Sam) tạo ra
một quần thể tín ngưỡng hay một điện thờ đa văn hố. Ta thấy “có hiện tượng tích hợp nhiều lớp
văn hố - tín ngưỡng khác nhau: lớp văn hố Phù Nam, lớp văn hoá cổ truyền Khmer, lớp văn hoá
Chăm và lớp văn hố Việt [6, tr. 286].
Lễ hội Vía Bà Chúa Xứ núi Sam chứa đựng những cứ liệu sinh động về dấu ấn lịch sử thời kỳ
người Việt đến vùng đất An Giang, với sự giao lưu, hội nhập về các mặt kinh tế, văn hóa, chính trị
và quân sự cùng các dân tộc Khmer, Chăm, Hoa để rồi tạo ra sự đồng thuận trong quá trình dựng
nước và giữ nước, sự hài hòa trong quan hệ cộng đồng về mặt văn hóa, vừa kế tục được sự nghiệp
văn hóa của người cổ xưa, vừa tơn tạo, bồi đắp được nền văn hóa mang bản sắc Việt độc đáo.
Lễ hội Vía Bà bên cạnh các hoạt động sinh hoạt tín ngưỡng hướng tới chủ điện thờ là một nhân vật
huyền thoại, còn gắn với những nhân vật lịch sử - những người có cơng khai phá và bảo vệ vùng
đất này - là vợ chồng danh tướng Thoại Ngọc Hầu cùng các bộ tướng và binh sĩ. Những hành trang
đích thực được gắn kết với đời sống văn hóa tâm linh, đã góp phần lưu giữ những giá trị lịch sử
phát triển vùng đất phía tây - nam của Tổ quốc trong xã hội đương đại.
Lễ hội mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc của cư dân vùng sông nước TNB, thu hút hàng chục
ngàn người dân và du khách tham gia. Thông qua các hoạt động Lễ hội Vía Bà Chúa Xứ núi Sam,
mong muốn quảng bá, giới thiệu với bạn bè trong nước, quốc tế về tiềm năng, thế mạnh, danh lam
thắng cảnh, di tích lịch sử, văn hóa, con người miền TNB... qua đó, thu hút đầu tư, khách tham
quan.
Cuối tháng 3/2022 vừa qua, Chính phủ đã đồng ý đệ trình UNESCO cơng nhận Lễ hội Vía Bà Chúa

Xứ núi Sam, tỉnh An Giang là Di sản Văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại. Đây là sự kiện có
ý nghĩa quan trọng trong đời sống văn hóa tinh thần của người dân, một lần nữa khẳng định vai trò,
tầm quan trọng của Lễ hội Vía Bà Chúa Xứ núi Sam, tỉnh An Giang nói riêng và tín ngưỡng Bà
nói chung ở Nam bộ.
Rất nhiều năm trơi qua, nhưng lễ hội Vía Bà Chúa Xứ núi Sam vẫn luôn là nét văn hóa cộng đồng
đặc sắc của các dân tộc, nét hành hương tâm linh đặc trưng của đồng bào Nam bộ. Lễ hội khơng
chỉ dừng lại ở văn hóa tâm linh mà còn thể hiện niềm tự hào dân tộc với những trang sử vẻ vang
chói lọi cũng như các đóng góp cho xã hội. Đến với Lễ hội khơng chỉ là tham gia một nét văn hóa

19


vùng miền, mà còn tận mắt chứng kiến các chứng tích lịch sử mà ơng cha ta đã dày cơng xây dựng
và giữ gìn.
4.2. Du lịch - động lực cho bảo tồn và phát triển của tín ngưỡng thờ Chúa Xứ Thánh Mẫu
4.2.1. Tình hình khai thác giá trị văn hóa của tín ngưỡng thờ Chúa Xứ Thánh Mẫu
Hiện nay, Việt Nam đang trong xu thế mở cửa và hội nhập, trong đó du lịch đóng vai trị đặc biệt
quan trọng cả trong phát triển kinh tế lẫn văn hóa. Để hoạt động du lịch phát triển theo hướng bền
vững, người làm du lịch đã khai thác các giá trị văn hóa từ nhiều bình diện khác nhau. Một địa
điểm du lịch có sức thu hút du khách thường là địa điểm có những giá trị tổng hịa giữa các tài
nguyên tự nhiên và tài nguyên văn hóa. Ở An Giang, Núi Sam với miếu Bà Chúa Xứ và lễ hội Vía
Bà đã hội tụ đủ các giá trị cho một điểm du lịch hấp dẫn du khách gần xa và là một nguồn tài
nguyên du lịch văn hóa quý giá đối với hoạt động du lịch của tỉnh. Tính hấp dẫn của tài nguyên
này chính là dựa vào khía cạnh tâm linh mang nét đặc thù nhất định của tín ngưỡng thờ Bà Chúa
Xứ, gắn với các giá trị lịch sử - văn hóa của hệ thống di tích nơi đây. Cụ thể sức hấp dẫn đó là:
- Đầu tiên, qua lễ hội Vía Bà Chúa Xứ Núi Sam có thể khai thác giá trị văn hóa của tín ngưỡng thờ
Bà Chúa Xứ, giúp du khách hiểu được niềm tin của người dân nơi đây vào Bà Chúa Xứ Núi Sam
và thẩm nhận được yếu tố tâm linh, linh thiêng trong lễ hội. Yếu tố này thể hiện rõ nhất qua truyền
thuyết chín cơ gái đồng trinh khiêng tượng Bà xuống núi theo lời mách bảo của Bà. Chính việc Bà
chọn nơi ngự đã tạo nên một niềm tin vững chắc cho du khách gần xa. Họ tấp nập đến với miếu Bà

là để khấn vái, cầu xin sự bình an, sn sẻ trong cuộc sống và trong cơng việc. Bên cạnh đó, nhiều
du khách gần xa cịn đặt niềm tin tuyệt đối vào Bà khi đến để cầu duyên, cầu phúc đức và thậm chí
là cầu con cái khi hiếm muộn. Do đó, đối tượng khách đến với miếu Bà cũng vô cùng đa dạng, đủ
mọi lứa tuổi, nghề nghiệp, giới tính, trình độ học vấn,…Họ đến đây với cả lịng thành kính, tin
tưởng vào một thế giới siêu nhiên mà ở đó, Bà Chúa Xứ ln lắng nghe và phù hộ cho họ. Yếu tố
tâm linh, tính thiêng còn thấy rõ trong việc du khách từ mọi miền đất nước đổ về miếu Bà để vay
mượn tiền của Bà Chúa Xứ để về làm ăn, buôn bán. Mọi người truyền nhau về việc xin gì được
nấy đã gây sự tò mò và thu hút càng nhiều khách đến để vay mượn, cầu nguyện. Có vay thì phải
có trả và tạ lễ, chính niềm tin này dẫn đến việc niềm tin vào Bà Chúa Xứ và lượng khách đến miếu
Bà không bao giờ suy giảm.
- Đối với lễ hội Vía Bà Chúa Xứ Núi Sam - lễ hội được công nhận là lễ hội cấp quốc gia và là một
giá trị văn hóa vùng đặc sắc, thu hút hàng triệu lượt khách hành hương, khách du lịch trong và
ngoài nước đến tham dự. Khi xây dựng các điểm du lịch, người ta thường tính đến sự tiện nghi hiện
đại. Tuy nhiên, chính sự độc đáo và lạ lẫm trong văn hóa vùng miền lại là yếu tố thu hút khách du
lịch trong và ngồi nước tìm đến tham dự. Trong thời gian diễn ra lễ hội Vía Bà, bên cạnh phần lễ
20


long trọng, nghiêm trang, nhiều nơi ở TNB nói chung và TP Châu Đốc nói riêng cịn tổ chức các
hoạt động thể thao, văn nghệ, ẩm thực,…sôi nổi để phục vụ nhân dân và khách du lịch. Du khách
từ các nơi về đây khơng chỉ có thể xin lộc Bà mà cịn có thể tham quan các di tích lịch sử gần đó,
đến thăm và thẩm nhận các sản phẩm văn hóa ở các làng nghề, kết hợp với việc mua sắm đặc sản
của tỉnh như đường thốt nốt, các loại mắm,…Từ đó có thể thấy rằng, từ tín ngưỡng thờ Chúa Xứ
Thánh Mẫu có thể khai thác phát triển loại hình du lịch lễ hội. Tour du lịch đến với miếu Bà và
tham gia lễ hội Vía Bà vừa đáp ứng nhu cầu tín ngưỡng (dự lễ), vui chơi giải trí (tham dự hội) và
tham quan, tìm hiểu (đi thăm các danh thắng và di tích lịch sử) cùng nhu cầu mua sắm hàng hóa,
đặc sản địa phương (các chợ và trung tâm thương mại).
- Đối với An Giang, lễ hội Vía Bà Chúa Xứ Núi Sam ngày nay khơng cịn là lễ hội trong phạm vi
của tỉnh mà là cả vùng TNB và thậm chí là của cả nước kể từ khi lễ hội được công nhận là lễ hội
cấp quốc gia và đón nhận bằng Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia. Kể từ năm 2001, việc tổ chức

lễ hội Vía Bà Chúa Xứ Núi Sam đã trở thành công nghệ tổ chức du lịch lễ hội với các tour hấp dẫn
là du lịch lễ hội kết hợp với tham quan di tích vùng Bảy Núi và mua sắm tại chợ biên giới. Hầu hết
các tour du lịch từ TP HCM và các tỉnh trong khu vực ĐBSCL đến đây đều là tour du lịch liên
hồn. Đường giao thơng tương đối thuận tiện, dịch vụ lưu trú và ăn uống cũng đầy đủ và thuận lợi
để phục vụ du khách.
Tuy nhiên, hiện nay vấn đề khai thác tín ngưỡng thờ Bà Chúa Xứ và lễ hội Vía Bà Chúa Xứ Núi
Sam vào phục vụ du lịch đã vấp phải những khó khăn và hạn chế nhất định, làm ảnh hưởng đến giá
trị văn hóa của tín ngưỡng và lễ hội. Tình trạng q tải về khách du lịch, tình trạng mất an ninh trật
tự, chèo kéo, móc túi, bán hàng rong,…vẫn cịn tiếp diễn đã ảnh hưởng khơng nhỏ đến tính nghiêm
trang và vẻ đẹp thanh tịnh bên trong khuôn viên miếu Bà. Hơn nữa, vấn đề nhận thức sai lệch của
đại bộ phận khách du lịch, khách hành hương ngày nay về tính linh thiêng của Bà cũng làm ảnh
hưởng khơng nhỏ đến tính giá trị của tín ngưỡng và lễ hội. Nhiều người mê muội và cho rằng,
muốn được Bà ban phước, phù hộ thì phải có lễ vật thật lớn, nhiều người ở xa đến họ sẵn sàng thuê
lễ vật và một người vào cúng lễ, xin lộc, vay vốn làm ăn. Đó chỉ là tín ngưỡng, là niềm tin của
người dân vào Chúa Xứ Thánh Mẫu nhưng vơ tình lại biến thành hiện tượng mê tín dị đoan và đem
đến cái lợi cho những người sống quanh miếu Bà muốn trục lợi từ niềm tin của khách hành hương,
khách du lịch vào sự linh thiêng của Bà.
4.2.2. Giải pháp bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa tín ngưỡng thờ Mẫu
Du lịch ngày nay đã trở thành một hiện tượng mang tính tồn cầu và là một nhân tố quan trọng góp
phần vào sự phát triển kinh tế, xã hội của một quốc gia, một địa phương. Trên thực tế, du lịch là
một hiện tượng mang tính hai mặt: vừa đóng góp tích cực vào sự phát triển kinh tế, văn hóa - xã
21


hội, đồng thời cũng chính du lịch là nhân tố dẫn đến sự suy thối về mơi trường tự nhiên, mơi
trường văn hóa - xã hội, khai thác du lịch dễ làm mất dần đi bản sắc văn hóa của từng địa phương
và từng dân tộc. Vì lẽ đó, khi khai thác các giá trị văn hóa vào phục vụ du lịch, con người cần nhận
thức rằng: du lịch chính là để tìm hiểu các giá trị văn hóa của các di tích, tín ngưỡng, lễ hội,…và
phát triển du lịch là phải gắn với việc bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa vốn có. Từ đó, tạo ra
ý thức tơn trọng và bảo tồn văn hóa địa phương cũng như của các tộc người sinh sống ở địa phương

đó. Đối với tín ngưỡng thờ Bà Chúa Xứ và lễ hội Vía Bà Chúa Xứ Núi Sam cũng vậy, trong quá
trình khai thác phục vụ du lịch cũng cần những giải pháp bảo tồn và phát huy giá trị vốn có của tín
ngưỡng và lễ hội này. Sau đây là một số giải pháp được đề xuất:
- Nâng cao hiệu quả quản lý về công tác quản lý di tích, tổ chức lễ hội và phát triển du lịch
Triển khai thực hiện tốt và nghiêm chỉnh các quy định quản lý di tích. Nghiêm cấm và ngăn chặn
kịp thời tình trạng bày bán hàng rong, lấn chiếm khn viên di tích, làm mất đi mỹ quan và tính
trang nghiêm của di tích.
Đối với cơng tác tổ chức và quản lý lễ hội: các ban, ngành cần tạo sự chuyển biến trong việc quản
lý nội dung và ý nghĩa hoạt động lễ hội. Việc tuyên truyền các giá trị lịch sử văn hóa của lễ hội Vía
Bà cần chú trọng cũng như những quy định của pháp luật có liên quan. Tương tự, việc tuyên truyền
giới thiệu về tín ngưỡng thờ Bà Chúa Xứ Núi Sam, lễ hội Vía Bà và di tích miếu Bà phải được sưu
tầm, nghiên cứu một cách khoa học, thận trọng trước khi tuyên truyền để bảo tồn nét đặc trưng,
đảm bảo tính giá trị của tín ngưỡng và lễ hội. Tăng cường tuyên truyền thực hiện nếp sống văn hóa,
văn minh trong lễ hội để nâng cao nhận thức của nhân dân và du khách khi tham gia lễ hội. Cần
nhận thức đúng đắn ý nghĩa của việc tổ chức lễ hội để việc tổ chức lễ hội ngày càng an toàn, văn
minh, thực sự trở thành ngày hội văn hóa của nhân dân, góp phần tích cực vào sự phát triển kinh tế
- xã hội của địa phương.
Đối với việc khai thác và phát triển du lịch: Triển khai thực hiện tốt các quy định về du lịch (không
nâng ép giá , không đeo bám chèo kéo khách du lịch, không bán hàng rong, không làm tổn hại môi
trường, không phá hủy di tích, khơng làm mất trật tự an tồn xã hội,…). Tiếp tục tổ chức các đoàn
kiểm tra, giám sát tình hình an ninh trật tự , bảo đảm an tồn cho du khách tại các điểm di tích và
trong thời gian diễn ra lễ hội, tránh tình trạng giật đồ , móc túi, chèo kéo, lừa gạt gây ấn tượng
không tốt trong mắt du khách.
- Bảo tồn nét văn hóa, tín ngưỡng thờ Bà Chúa Xứ Núi Sam
Rất đơng người dân Nam Bộ nói chung và An Giang nói riêng sinh sống bằng các nghề buôn bán,
thủ công nghiệp, dịch vụ gắn với yếu tố thị trường nên thường xun đối mặt với những rủi ro.
Chính vì lẽ đó mà nhu cầu tín ngưỡng của họ thơng qua hoạt động thờ cúng tại miếu Bà Chúa Xứ
22



Núi Sam rất cao. Hoạt động tín ngưỡng này giúp họ vững tin hơn vào thành công và may mắn trong
các hoạt động thương mại. Về khía cạnh tâm linh, tín ngưỡng thờ Bà Chúa Xứ là một trong những
tín ngưỡng được đông đảo người dân Nam Bộ tin tưởng gần như tuyệt đối. Từ nhiều năm nay, tín
ngưỡng thờ Bà Chúa Xứ mà tâm điểm là lễ hội Vía Bà đã trở thành lễ hội có tầm ảnh hưởng rộng
trong cả khu vực Nam Bộ và thậm chí là cả nước.
Sau 200 năm tạo dựng và phát triển, miếu Bà Chúa Xứ đã trở thành tâm điểm thu hút ngày càng
nhiều lượt khách du lịch đến với An Giang. Do vậy, trong thời gian tới BQL di tích cần phối hợp
với chính quyền địa phương ngăn chặn và xử lý triệt để tình trạng hoạt động mê tín dị đoan như
bói quẻ, xem chỉ tay, coi tướng số,… vẫn đang diễn ra xung quanh khu vực miếu Bà. Vấn đề này
về lâu dài khơng có lợi cho việc bảo tồn giá trị văn hóa của tín ngưỡng thờ Bà Chúa Xứ và lễ hội
Vía Bà.
5. Tạm kết
Người Việt khi đặt chân đến TNB đã mang theo những nét văn hóa, phong tục tập qn, tín ngưỡng
độc đáo, trong đó có tín ngưỡng thờ Chúa Xứ Thánh Mẫu. Đã 200 năm kể từ khi ngôi miếu thờ Bà
Chúa Xứ được xây dựng dưới chân núi Sam, việc thờ cúng và tổ chức lễ hội Vía Bà vẫn là tâm
điểm thu hút ngày càng nhiều du khách thập phương đến cúng bái, cầu nguyện. Bên trong miếu,
Bà Chúa Xứ được thờ rất trang nghiêm. Những biểu tượng mang tính hiển linh của Bà như tượng
Bà, câu đối, các hình chạm khắc, hoa văn trang trí,… trong miếu thờ Bà và cả những câu chuyện
truyền thuyết kể về sự hiển linh của Bà, tất cả đã tạo nên một tín ngưỡng đặc sắc của cộng đồng cư
dân TNB - tín ngưỡng thờ Bà Chúa Xứ Núi Sam. Từ thuở ban đầu, tín ngưỡng thờ Bà Chúa Xứ,
miếu Bà và lễ hội Vía Bà đóng một vai trị quan trọng trong tâm thức của người dân miền sông
nước (TNB). Khi xã hội phát triển, nhu cầu về đời sống tinh thần của người dân ngày càng cao,
nắm bắt được nhu cầu đó, ngành du lịch đã và đang khai thác tín ngưỡng và lễ hội Vía Bà tạo ra
một sản phẩm du lịch vô cùng độc đáo, thu hút hàng triệu lượt khách du lịch đến tham quan, tìm
hiểu. Hy vọng, cơng tác bảo tồn và phát huy giá trị của tín ngưỡng thờ Chúa Xứ Thánh Mẫu trong
thời gian tới đạt nhiều hiệu quả và tín ngưỡng thờ Bà Chúa Xứ Núi Sam, miếu Bà và lễ hội Vía Bà
ln là trọng điểm thu hút khách du lịch tỉnh An Giang./.

23



TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đặng Nghiêm Vạn (Chủ biên, 1996), Về tơn giáo tín ngưỡng Việt Nam hiện nay, NXB.
KHXH, Hà Nội.
2. Phan Hữu Dật (1999), Một số vấn đề về Dân tộc học Việt Nam, Hà Nội, NXB Đại học Quốc
gia Hà Nội.
3. Đinh Gia Khánh (1995), Văn hóa dân gian Việt Nam với sự phát triển của xã hội Việt Nam,
NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
4. Ngơ Đức Thịnh (Chủ biên) (2010), Bảo tồn, làm giàu và phát huy các giá trị văn hóa truyền

thống Việt Nam trong đổi mới và hội nhập, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội
5. Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn TP.HCM (2014), Kỷ yếu hội thảo Tín ngưỡng
thờ Mẫu ở Nam Bộ - Bản sắc và giá trị, NXB Đại học Quốc gia TP.HCM, TP.HCM.
6. Ngô Đức Thịnh (2009), Đạo Mẫu Việt Nam (tập 1), NXB Tôn giáo.
7. Trần Ngọc Thêm (2013), Văn hóa người Việt vùng Tây Nam Bộ. NXB Văn hóa - Văn nghệ.

8. Phillip Taylor (2004), Goddess on the rise - Pilgrimage and popular religion in Vietnam
(Nữ thần ngày càng thiêng liêng - các cuộc hành hương và tín ngưỡng thờ Mẫu ở Việt Nam),
University of Hawai’s Press, Honolulu.
9. Châu Bích Thủy (2011), Bí ẩn về Bà Chúa Xứ Núi Sam, NXB VHVN.
10. Nhiều tác giả (2013), Văn hóa một số vùng miền ở Việt Nam, NXB Thời đại.

11. Trịnh Bửu Hoài (2013), Địa chí du lịch An Giang, Sở Văn hóa – Thể thao – Du lịch An
Giang.
12. Sơn Nam (2009), Đình miếu & lễ hội dân gian miền Nam (Biên khảo), Nxb Trẻ.
13. Nguyễn Quang Lê (2014), Bản sắc văn hóa qua lễ hội truyền thống người Việt, NXB Khoa
học Xã hội, Hà Nội.
14. Nguyễn Hữu Hiếu (2005), Diễn trình văn hóa đồng bằng sông Cửu Long, NXB Thời đại.
15. Hội Văn nghệ Châu Đốc, Ban Quản trị lăng miếu núi Sam (2000), Lịch sử miếu Bà Chúa


Xứ núi Sam. An Giang.
16. Đặng Nghiêm Vạn (2001), Lý luận về tôn giáo và tình hình tơn giáo ở Việt Nam, Nxb. Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
17. Huỳnh Quốc Thắng (2012), Tín ngưỡng Bà Chúa Xứ với trọng điểm du lịch hành hương Núi
Sam - Châu Đốc, An Giang, NXB Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh, 349-354.
18. Phạm Cơn Sơn (2010), Lễ hội Bà Chúa Xứ núi Sam và du lịch vùng Châu Đốc, An Giang, NXB
Văn hóa Thơng tin.
24


19. Hồ Thị Đào và Nguyễn Quốc Bình (2021), Giá trị văn hóa của tín ngưỡng thờ Bà Chúa Xứ
Núi Sam trong phát triển du lịch tỉnh An Giang, Tạp chí khoa học Đồng Tháp, tập 10, số 2,
tr.37-46.
20. Nguyễn Thị Thọ (2017), Tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt, Khoa học xã hội Việt Nam, số
8-2017, tr.48-54.
21. Đoàn Thị Thanh Xuân (2005), Lễ hội Bà Chúa Xứ Núi Sam và vấn đề bảo tồn phát huy di sản

văn hóa, luận văn thạc sĩ, Thư viện Nghiên cứu Văn hóa.
22. Đặng Nghiêm Vạn (2007), “Tơn giáo hay tín ngưỡng”, Tạp chí Nghiên cứu Tơn giáo, số 1, tr.

3-13.

25


×