Tải bản đầy đủ (.docx) (26 trang)

Đề cương bài thi 1 Trung cấp lý luận chính trị

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (222.18 KB, 26 trang )

Các câu hỏi:
1. Phân tích định nghĩa vật chất của V.I.Lê - nin và nêu ý nghĩa khoa học của định
nghĩa. Ý nghĩa đối với nhận thức của bản thân
2. Nội dung nguyên lý về sự phát triển của phép biện chứng duy vật và nêu ý nghĩa
phương pháp luận. Liên hệ thực tế với đơn vị (địa phương).
3. Mối quan hệ biện chứng giữa phạm trù nội dung và hình thức. Liên hệ thực tế
với đơn vị (địa phương).
4. Mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng. Liên hệ
với thực tiễn Việt Nam hiện nay.
5. Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lê – nin về nội dung, vai trò của đấu tranh giai
cấp. Liên hệ thực tế Việt Nam.
6. Vì sao nói ý thức xã hội có tính độc lập tương đối so với tồn tại xã hội. Ý nghĩa
đối với việc xây dựng ý thức xã hội mới ở Việt Nam hiện nay.
1.
Phân tích định nghĩa vật chất của V.I.Lê - nin và nêu ý nghĩa khoa học
của định nghĩa. Ý nghĩa đối với nhận thức của bản thân
Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, khi xuất hiện những phát minh mới trong khoa
học tự nhiên, con người mới có được những hiểu biết căn bản hơn và sâu sắc hơn về
nguyên tử. Những phát minh tiêu biểu mang ý nghĩa vạch thời đại như: Năm 1895,
Rơnghen phát hiện ra tia X, một loại sóng điện tử có bước sóng từ 0,01 đến 100.10 -8cm.
Năm 1896, Béccơren phát hiện ra hiện tượng phóng xạ. Với hiện tượng này, người ta
hiểu rằng, quan niệm về sự bất biến của nguyên tử là khơng chính xác. Năm 1897,
J.Tơmxơn phát hiện ra điện tử và chứng minh được điện tử là một trong những thành
phần cấu tạo nên nguyên tử. Nhờ phát minh này, lần đầu tiên trong khoa học, sự tồn tại
hiện thực của nguyên tử đã được chứng minh bằng thực nghiệm. Năm 1901,
W.Kaufman đã chứng minh được khối lượng của điện tử không phải là khối lượng tĩnh
mà là khối lượng điện tử tăng khi vận tốc của nó tăng. Như vậy, từ những phát minh
trên mâu thuẫn với quan niệm quy vật chất về nguyên tử hay khối lượng. Chủ nghĩa duy
tâm đã lợi dụng tình hình này và cho rằng: nếu nguyên tử bị phá vỡ thì tức là vật chất đã
tiêu tan, và chủ nghĩa duy vật dựa trên nền tảng là vật chất cũng không thể đứng vững
được nữa.


Trong tác phẩm “Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán”(năm
1908), V.I.Lênin đã phân tích tình hình phức tạp ấy và chỉ rõ những phát minh có giá trị
to lớn của vật lý học cận đại không hề bác bỏ chủ nghĩa duy vật. Khơng phải “vật chất
tiêu tan” mà chỉ có giới hạn hiểu biết cũ của con người về vật chất là tiêu tan. Nghĩa là
cái mất đi không phải là vật chất mà là giới hạn của sự nhận thức cũ về vật chất.
Trên cơ sở phân tích một cách sâu sắc và khái quát những thành tựu của khoa học


tự nhiên. Đồng thời kế thừa những tư tưởng của C.Mác và Ph. Ăngghen, trong tác phẩm
Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán, V.I Lênin đã đưa ra một định
nghĩa toàn diện và khoa học về phạm trù vật chất: “Vật chất là một phạm trù triết học
dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm
giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh, và tồn tại khơng lệ thuộc vào cảm
giác”14.
Phân tích định nghĩa vật chất của V.I.Lênin
Về phương pháp định nghĩa. Theo V.I Lênin, không thể định nghĩa vật chất bằng
phương pháp định nghĩa các khái niệm thông thường. Phương pháp định nghĩa thông
thường là quy khái niệm cần định nghĩa vào một khái niệm khác rộng hơn, đồng thời
chỉ ra đặc điểm riêng của nó. Nhưng phạm trù vật chất với tư cách là phạm trù triết học
- một phạm trù khái quát nhất và rộng cùng cực, khơng thể có một phạm trù nào rộng
hơn, thì duy nhất về mặt phương pháp luận chỉ có thể định nghĩa vật chất bằng cách đối
lập nó với ý thức, xác định nó “là cái mà khi tác động lên giác quan của chúng ta thì
gây ra cảm giác”. V.I.Lênin khẳng định vật chất khơng có nghĩa gì khác hơn là “thực
tại khách quan tồn tại độc lập đối với ý thức con người, và được ý thức con người phản
ánh”.
Nội dung định nghĩa vật chất của V.I.Lênin
Một là, vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan. Khi nói
vật chất là một phạm trù triết học - nó là sự trừu tượng hóa. Song, sự trừu tượng này lại
chỉ rõ cái đặc trưng nhất, bản chất nhất mà bất kỳ mọi sự vật hiện tượng vật chất cụ thể
nào cũng có đó là: tồn tại khách quan và độc lập với ý thức của con người. Đặc tính này

là tiêu chuẩn cơ bản duy nhất để phân biệt cái gì là vật chất, cái gì khơng phải là vật
chất.
Hai là, vật chất là phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại
cho con người ta trong cảm giác,.., và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác. Với nội
dung này, V.I Lênin muốn chỉ rõ thực tại khách quan (tức vật chất) là cái có trước ý
thức, khơng phụ thuộc vào ý thức, cịn cảm giác (tức ý thức) của con người có sau vật
chất, phụ thuộc vào vật chất. Vật chất là nội dung, là nguồn gốc khách quan của ý thức,
là ngun nhân phát sinh ra ý thức, khơng có cái bị phản ánh là vật chất thì sẽ khơng có
cái phản ánh là ý thức.
Ba là, thực tại khách quan được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản
ánh, nghĩa là con người bằng các giác quan có thể nhận thức được vật chất. Điều này
cũng có nghĩa là cảm giác, ý thức của con người có thể nhận thức được thực tại khách
quan, được vật chất. Vì vậy, về ngun tắc, khơng có đối tượng nào khơng thể nhận biết
được, chỉ có đối tượng chưa nhận thức được mà thôi.


Ý nghĩa định nghĩa vật chất của V.I.Lênin
Định nghĩa về vật chất của V.I Lênin đã khắc phục triệt để sai lầm cơ bản của chủ
nghĩa duy vật trước Mác quy vật chất vào một dạng cụ thể và đã đưa học thuyết duy vật
tiến lên một bước mới, đáp ứng được những đòi hỏi mới do những phát minh mới của
khoa học tự nhiên tạo ra. Đây cũng là cơ sở khoa học để nhận thức vật chất dưới dạng
xã hội, đó là những quan hệ sản xuất, tổng hợp các quan hệ sản xuất là cơ sở hạ tầng,
tạo thành quan hệ vật chất, và từ đây làm nảy sinh quan hệ tư tưởng, đó là kiến trúc
thượng tầng... điều mà các nhà duy vật trước C.Mác cũng chưa đạt tới.
Định nghĩa của V.I Lênin giúp cho các nhà khoa học có cơ sở lý luận để giải thích
những nguyên nhân cuối cùng của các biến cố xã hội, những nguyên nhân thuộc về sự
vận động của phương thức sản xuất; trên cơ sở đó, người ta có thể tìm ra phương án tối
ưu để hoạt động thúc đẩy xã hội phát triển.
Nội dung “dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con người ta trong
cảm giác và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác” chống lại mọi luận điệu sai lầm của cả

chủ nghĩa duy tâm khách quan và chủ nghĩa duy tâm chủ quan - cố luận giải tinh thần là
cái quyết định mọi sự vật hiện tượng trong thế giới xung quanh.
Nội dung thực tại khách quan được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản
ánh đã bác bỏ hồn tồn thuyết khơng thể biết. Đồng thời cổ vũ động viên các nhà khoa
học đi sâu vào nghiên cứu thế giới vật chất, phát hiện ra những kết cấu mới, những
thuộc tính mới cũng như những quy luật vận động và phát triển của thế giới để làm giàu
thêm kho tàng tri thức của nhân loại.
Ý nghĩa đối với nhận thức của bản thân
2.
Nội dung nguyên lý về sự phát triển của phép biện chứng duy vật và nêu
ý nghĩa phương pháp luận. Liên hệ thực tế với đơn vị (địa phương)
Khái niệm phát triển
Những người theo quan điểm duy tâm đi tìm nguồn gốc phát triển của sự vật, hiện
tượng ở các lực lượng “siêu nhiên” hay ở ý thức của con người, nghĩa là ở bên ngoài sự
vật, hiện tượng. Quan điểm siêu hình xem sự phát triển chỉ là sự tăng lên hay sự giảm đi
đơn thuần về mặt lượng, khơng có sự thay đổi gì về mặt chất của sự vật; hoặc nếu có sự
thay đổi nhất định về chất thì sự thay đổi ấy cũng chỉ diễn ra theo một vịng khép kín,
chứ khơng có sự sinh thành ra cái mới với những chất mới; phát triển như là một quá
trình tiến lên liên tục, khơng có những bước quanh co, thăng trầm, phức tạp, v.v.. Đối
lập với quan điểm siêu hình, quan điểm biện chứng duy vật xem xét sự phát triển là một
quá trình tiến lên từ thấp đến cao. Quá trình đó diễn ra vừa dần dần, vừa nhảy vọt, đưa
tới sự ra đời của cái mới thay thế cái cũ. Dù trong hiện thực khách quan hay trong tư


duy, sự phát triển diễn ra không phải lúc nào cũng theo đường thẳng, mà rất quanh co,
phức tạp, thậm chí có thể có những bước lùi tạm thời.
Phát triển là sự vận động từ thấp đến cao, từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện hơn.
Phát triển là một trường hợp đặc biệt của vận động, vận động theo hướng tiến lên. Phát
triển khơng bao qt tồn bộ sự vận động nói chung. Nó chỉ khái quát xu hướng chung
của sự vận động - xu hướng vận động đi lên của sự vật, sự vật mới ra đời thay thế cho

sự vật cũ. Trong quá trình phát triển của mình trong sự vật sẽ hình thành dần dần những
quy định mới cao hơn về chất, sẽ làm thay đổi mối liên hệ, cơ cấu, phương thức tồn tại
và vận động, chức năng vốn có theo chiều hướng ngày càng hồn thiện hơn.
Phát triển theo quan niệm của chủ nghĩa duy vật biện chứng là kết quả của quá
trình thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập; là sự thay đổi dần dần về lượng dẫn
đến sự thay đổi về chất và ngược lại; là q trình ít nhất qua hai lần phủ định biện
chứng sự vật kết thúc một chu kỳ phát triển, dường như quay trở lại sự vật ban đầu
nhưng ở cấp độ cao hơn, nghĩa là theo đường xốy ốc đi lên.
Tính chất của sự phát triển
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, phát triển có ba tính chất cơ
bản: Tính khách quan, tính phổ biến và tính đa dạng, phong phú.
Tính khách quan. Nguồn gốc của sự phát triển nằm ngay trong bản thân sự vật. Đó
là q trình giải quyết liên tục những mâu thuẫn nảy sinh trong sự tồn tại và vận động
của sự vật, nhờ đó sự vật ln phát triển. Vì thế sự phát triển là tiến trình khách quan,
khơng phụ thuộc vào ý thức của con người.
Tính phổ biến. Nghĩa là phát triển được diễn ra ở mọi lĩnh vực: tự nhiên, xã hội và
tư duy; ở bất cứ sự vật, hiện tượng nào của thế giới khách quan. Ngay cả các khái niệm,
các phạm trù phản ánh hiện thực cũng nằm trong quá trình vận động và phát triển; chỉ
trên cơ sở của sự phát triển, mọi hình thức của tư duy, nhất là các khái niệm và các
phạm trù, mới có thể phản ánh đúng đắn hiện thực.
Tính đa dạng, phong phú. Phát triển là khuynh hướng chung của mọi sự vật, mọi
hiện tượng, song mỗi sự vật, mỗi hiện tượng lại có quá trình phát triển khơng giống
nhau.Tồn tại ở khơng gian khác nhau, ở thời gian khác nhau, sự vật phát triển sẽ khác
nhau. Đồng thời trong quá trình phát triển của mình, sự vật cịn chịu sự tác động của các
sự vật, hiện tượng khác, của rất nhiều yếu tố, điều kiện. Sự tác động đó có thể thúc đẩy
hoặc kìm hãm sự phát triển của sự vật, đơi khi có thể làm thay đổi chiều hướng phát
triển của sự vật, thậm chí làm cho sự vật tạm thời thụt lùi. Do đó, dù trong hiện thực
khách quan hay trong tư duy, sự phát triển diễn ra không phải lúc nào cũng theo đường
thẳng, mà rất quanh co, phức tạp, thậm chí có thể có những bước lùi tạm thời.



Nội dung của nguyên lý
Một là, phát triển là khuynh hướng phổ biến. “Phổ biến” ở đây trước hết được hiểu
là phát triển là khuynh hướng có trong tất cả các lĩnh vực tự nhiên, xã hội và tư duy.
Trong hiện thực khách quan, tùy thuộc vào hình thức tồn tại cụ thể của các dạng vật
chất, sự phát triển được thể hiện hết sức đa dạng. Ngoài ra, “phổ biến” còn được hiểu
như là khuynh hướng chủ đạo trong sự vận động. Sự phát triển trong hiện thực, cũng
như trong tư duy không phải theo đường thẳng mà vận động theo đường quanh co, phức
tạp, trong đó có thể có những bước lùi tương đối, “những sự chệch hướng” nhất định,
nhưng xu hướng tất yếu sẽ là khuynh hướng phát triển.
Hai là, phát triển là một quá trình “tự thân”. Nguồn gốc của sự phát triển nằm ngay
trong sự vật, đó là sự thống nhất và đấu tranh của những mặt đối lập bên trong của sự
vật. Phương thức của sự phát triển là từ sự biến đổi về lượng dẫn đến sự biến đổi về
chất và ngược lại. Khuynh hướng của sự phát triển là cái mới phủ định một cách biện
chứng cái cũ theo đường xoáy ốc đi lên. Như vậy, phát triển là quá trình “tự thân”,
khách quan, độc lập với ý thức của con người.
Ý nghĩa phương pháp luận
Cả tự nhiên, xã hội và tư duy đều nằm trong q trình phát triển khơng ngừng, để
phản ánh đúng đắn hiện thực khách quan, cần có quan điểm phát triển. Quan điểm phát
triển yêu cầu khi xem xét các sự vật, hiện tượng phải đặt nó trong sự vận động, phát
triển, phải phát hiện ra các xu hướng biến đổi, phát triển của chúng. Không phải ngẫu
nhiên mà Đại hội XIII của Đảng đề ra nhiệm vụ “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ tư duy, xây
dựng, hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển bền vững về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã
hội, mơi trường.. ,,”19.
Quan điểm phát triển địi hỏi chống bảo thủ, trì trệ, ngại đổi mới, yêu cầu phải tin
tưởng tương lai khi có khó khăn thất bại tạm thời vì quy luật chung là phát triển đi lên.
Trong hoạt động thực tiễn phải có tầm nhìn chiến lược, dự báo được các tình huống có
thể xảy ra để có các phương án dự phịng tối ưu.
Quan điểm phát triển có ý nghĩa: Với tư cách là nguyên tắc phương pháp luận để
nhận thức sự vật hoàn toàn đối lập với quan điểm bảo thủ, trì trệ, định kiến về sự vật.

Trong nhận thức và hoạt động thực tiễn cần khắc phục quan niệm giản đơn, siêu
hình về sự phát triển. Khắc phục tình trạng né tránh mâu thuẫn, giải quyết mâu thuẫn
một cách siêu hình; khơng dám chấp nhận “bước lùi” để có sự phát triển; thiếu kiên
quyết, thiếu triệt để (nửa vời) trong đổi mới, hoặc phủ định sạch trơn, hoặc kế thừa
nguyên xi cái cũ trong phát triển.
Liên hệ thực tế ở đơn vị


3.
Mối quan hệ biện chứng giữa phạm trù nội dung và hình thức. Liên hệ
thực tế với đơn vị (địa phương)
Khái niệm
Nội dung là phạm trù triết học dùng để chỉ tất cả những mặt, những yếu tố, những
quá trình tạo nên sự vật, diễn ra trong sự vật.
Hình thức là phạm trù triết học dùng để chỉ phương thức tồn tại và phát triển của
sự vật, là hệ thống trong các mối liên hệ tương đối bền vững giữa các yếu tố của các sự
vật đó. Ví dụ, chữ “ANH” có nội dung là các chữ cái “A; N; H”, cịn hình thức là các
chữ cái phải xếp theo thứ tự: A; N; H; giữa 3 chữ cái này có mối liên hệ tương đối bền
vững, nếu ta đảo “phương thức” sắp xếp thì sẽ khơng cịn là chữ “ANH” nữa mà có thể
là chữ “HAN”, hoặc “NHA”, v.v..
Mối quan hệ biện chứng giữa nội dung và hình thức
Theo triết học Mác-Lênin, nội dung và hình thức có mối quan hệ biện chứng với
nhau. Sự gắn bó này thể hiện trước hết ở sự thống nhất hữu cơ giữa chúng. Bởi lẽ, bất
kỳ sự vật nào cũng có cả nội dung lẫn hình thức của nó. Sự thống nhất này thể hiện ở
chỗ:
Một là, sự thống nhất giữa nội dung và hình thức bởi, khơng có hình thức khơng
chứa nội dung, cũng như khơng có nội dung nào mà lại khơng tồn tại trong một hình
thức nhất định. Hơn nữa, các yếu tố tạo thành sự vật vừa góp phần tạo nên nội dung,
vừa tham gia tạo nên hình thức. Vì vậy, nội dung, hình thức khơng tách rời mà gắn bó
chặt chẽ với nhau.

Hai là, nội dung quyết định hình thức. Nội dung quyết định cả phương thức thể
hiện cả cách thức sắp xếp các yếu tố của hình thức. Nội dung ln vận động biến đổi
cịn hình thức có tính ổn định tương đối. Sự biến đổi của nội dung là cơ sở cho sự biến
đổi của hình thức. Khi nội dung thay đổi thì các hình thức thể hiện nội dung sớm hay
muộn muộn cũng biến đổi theo.
Ba là, nội dung và hình thức có tính độc lập tương đối với nhau. Điều này thể hiện
ở chỗ, một nội dung có thể tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau. Chẳng hạn, một cái
bánh chưng (bao gồm gạo nếp, thịt lợn, đỗ xanh, muối, lá dong, lạt) có thể thể hiện ở
hình thức bánh có hình vng, gói bằng lá dong ở ngồi được buộc chặt bằng lạt; hoặc
dưới hình thức bánh tét, trịn dài cũng được gói bằng lá dong ở ngồi và buộc bằng lạt,
v.v.. Cùng một hình thức có thể thể hiện những nội dung khác nhau. Chẳng hạn, một
hình thức bánh vng nhưng bên trong có thể có những thành phần, yếu tố (cấu thành
nội dung) khác nhau. Hơn nữa, hình thức cũng có tác động đối với nội dung, nhất là khi
hình thức mới ra đời. Khi phù hợp với nội dung thì hình thức sẽ mở đường và thúc đẩy
sự phát triển của nội dung; trường hợp ngược lại, nó sẽ kìm hãm sự phát triển ấy.


Ý nghĩa phương pháp luận
Vì nội dung và hình thức nhìn chung thống nhất với nhau. Cho nên, trong hoạt
động thực tiễn cần chống khuynh hướng tách rời nội dung khỏi hình thức cũng như tách
rời hình thức khỏi nội dung. Phải biết sử dụng sáng tạo nhiều hình thức khác nhau trong
hoạt động thực tiễn. Nhận thức sự vật phải bắt đầu từ nhận thức nội dung, nhưng không
coi nhẹ nhận thức hình thức.
Vì nội dung quyết định hình thức nên để xét đoán sự vật nào đấy, cần căn cứ trước
hết vào nội dung của nó và muốn biến đổi sự vật thì cần tác động để thay đổi nội dung
trước.
Vì hình thức tác động trở lại nội dung, có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển
nội dung, nên trong hoạt động thực tiễn cần luôn theo dõi mối quan hệ hình thức và nội
dung để kịp thời can thiệp vào tiến trình phát triển của nó. Khi hình thức đã lạc hậu thì
phải đổi mới hình thức sao cho phù hợp nội dung mới, đáp ứng yêu cầu phát triển của

thực tiễn.
Liên hệ thực tế với đơn vị (địa phương)
4.
Mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng.
Liên hệ với thực tiễn Việt Nam hiện nay.
Cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng
Cơ sở hạ tầng là tổng hợp những quan hệ sản xuất hợp thành cơ cấu kinh tế của
một xã hội nhất định. Cơ sở hạ tầng hình thành một cách khách quan trong quá trình sản
xuất vật chất của xã hội.
Kết cấu của cơ sở hạ tầng trong một xã hội thông thường được cấu thành bởi quan
hệ sản xuất tàn dư - quan hệ sản xuất của phương thức sản xuất cũ, quan hệ sản xuất
thống trị - quan hệ sản xuất của phương thức sản xuất đang thống trị trong xã hội ấy và
quan hệ sản xuất mầm mống - quan hệ sản xuất của phương thức sản xuất tương lai. Cơ
sở hạ tầng là tổng hợp những quan hệ sản xuất đó, trong đó quan hệ sản xuất thống trị là
quan hệ sản xuất chi phối các quan hệ sản xuất khác và quy đinh đặc trưng của cơ sở hạ
tầng ấy. Ví dụ, trong xã hội tư bản chủ nghĩa có: quan hệ sản xuất tiền tư bản chủ nghĩa;
quan hệ sảnxuất tư bản chủ nghĩa (thống trị trong xã hội) và quan hệ sản xuất xã hội chủ
nghĩa (mầm mống của xã hội tương lai).
Đặc trưng của cơ sở hạ tầng của một xã hội là do quan hệ sản xuất thống trị quy
định. Điều đó chứng tỏ một cơ sở hạ tầng có nhiều thành phần kinh tế, nhiều quan hệ
sản xuất, quan hệ sản xuất thống trị sẽ giữ địa vị chi phối các quan hệ sản xuất khác.
Tuy nhiên, những quan hệ sản xuất khác cũng có vai trị nhất định.
Kiến trúc thượng tầng là tồn bộ những quan điểm chính trị, pháp luật, triết học,


đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật,v.v.. cùng với những thiết chế tương ứng như nhà nước,
đảng phái, giáo hội, các đồn thể, v.v.. được hình thành trên một cơ sở hạ tầng nhất
định.
Các bộ phận của kiến trúc thượng tầng có đặc điểm riêng, có quy luật phát triển
riêng nhưng đều liên hệ với nhau, tác động lẫn nhau, đều nảy sinh trên cơ sở hạ tầng

nhất định. Mỗi yếu tố của kiến trúc thượng tầng cũng có quan hệ khác nhau đối với cơ
sở hạ tầng. Có yếu tố có quan hệ trực tiếp (như chính trị, pháp luật), có yếu tố có quan
hệ gián tiếp (như nghệ thuật, khoa học).
Trong xã hội có giai cấp thì kiến trúc thượng tầng cũng mang tính giai cấp, trong
đó, nhà nước - công cụ của giai cấp thống trị, bộ phận có quyền lực nhất, có vai trị đặc
biệt trong kiến trúc thượng tầng. Bởi lẽ, nhờ có nhà nước, giai cấp thống trị mới thực
hiện được thống trị của mình trên các mặt đời sống xã hội.Trong kiến trúc thượng tầng
của xã hội có đối kháng giai cấp, ngồi bộ phận chủ yếu đóng vai trị là cơng cụ của giai
cấp thống trị, cịn có những yếu tố đối lập với bộ phận đó. Đó là những quan điểm, tư
tưởng, những tổ chức chính trị của các giai cấp bị trị.
Mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng với kiến trúc thượngtầng
Cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng là hai mặt thống nhất biện chứng trong một
hình thái kinh tế - xã hội.
Trong sự tác động biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng thì cơ sở
hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng.
Các nhà triết học, xã hội học trước Mác cho rằng quan hệ nhà nước pháp quyền
quyết định quan hệ kinh tế, ý thức tư tưởng quyết định tiến trình phát triển khách quan
của xã hội. Vượt lên những quan điểm đó, chủ nghĩa duy vật lịch sử khẳng định quan hệ
kinh tế, quan hệ sản xuất là những quan hệ vật chất quyết định các quan hệ chính trị,
tinh thần và các quan hệ xã hội khác.
A.
Mác viết: “Toàn bộ những quan hệ xã hội ấy họp thành cơ cấu kinh tế của
xã hội, tức là cái cơ sở hiện thực trên đó dựng lên một kiến trúc thượng tầng pháp lý và
chính trị và những hình thái ý thức xã hội nhất định tương ứng với cơ sở hiện thực
đó”41.
Cơ sở hạ tầng quy định tính chất của kiến trúc thượng tầng. Nói cách khác, tính
chất xã hội, giai cấp của kiến trúc thượng tầng phản ánh tính chất xã hội, giai cấp của cơ
sở hạ tầng. Bộ mặt kiến trúc thượng tầng trong đời sống xã hội luôn được biểu hiện ra
một cách phong phú, phức tạp và đôi khi dường như không trực tiếp gắn với cơ sở hạ
tầng. Đó chỉ là biểu hiện bề ngồi, cịn thực chất, ngay cả những hiện tượng lạ lùng nhất

của kiến trúc thượng tầng cũng đều có nguyên nhân sâu xa từ cơ cấu kinh tế của xã hội.
Mâu thuẫn trong đời sống kinh tế quy định tính chất mâu thuẫn trong lĩnh vực


chính trị, tư tưởng.
Trong xã hội có giai cấp, giai cấp nào chiếm địa vị thống trị về kinh tế thì cũng
chiếm địa vị thống trị trong đời sống chính trị, tinh thần.
Vai trò quyết định của cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc thượng tầng còn thể hiện ở
chỗ: sự biến đổi căn bản trong cơ sở hạ tầng sớm hay muộn sẽ dẫn đến sự biến đổi căn
bản của kiến trúc thượng tầng. Q trình đó khơng chỉ diễn ra trong giai đoạn chuyển
tiếp có tính chất cách mạng của các chế độ xã hội, mà còn được thực hiện ngay trong
bản thân một hình thái kinh tế - xã hội. Sự thay đổi của cơ sở hạ tầng dẫn đến sự thay
đổi của kiến trúc thượng tầng rất phức tạp. Có những yếu tố của kiến trúc thượng tầng
thay đổi nhanh chóng cùng sự thay đổi của cơ sở hạ tầng như quan điểm chính trị, pháp
luật. Có những yếu tố thay đổi rất chậm như tơn giáo, nghệ thuật,v.v..
Kiến trúc thượng tầng cũng có tính độc lập tương đối, có quy luật vận động riêng
của nó trong sự phát triển. Sự phụ thuộc của kiến trúc thượng tầng vào cơ sở hạ tầng
không giản đơn và thụ động. Sự tác động qua lại lẫn nhau giữa các bộ phận của kiến
trúc thượng tầng cũng có ảnh hưởng đến sự tồn tại, vận động và phát triển của kiến trúc
thượng tầng. Kiến trúc thượng tầng không chỉ tác động đến cơ sở hạ tầng mà chúng cịn
tác động lẫn nhau.Chẳng hạn, giữa triết học và chính trị, giữa đạo đức và pháp luật,v.v..
có tác động, ảnh hưởng lẫn nhau và cùng nhau tác động đến cơ sở hạ tầng. Lưu ý là sự
tác động đó cũng phải thông qua nhà nước với những luật pháp tương ứng thì trên cơ sở
đó mới có được hiệu lực mạnh mẽ đối với cơ sở hạ tầng.
Ngoài ra, kiến trúc thượng tầng cịn có sự tác động trở lại đối với cơ sở hạ tầng.
Các bộ phận của kiến trúc thượng tầng đều có sự tác động trở lại đối với cơ sở hạ tầng.
Những bộ phận đó tác động đến cơ sở hạ tầng ở những mức độ khác nhau bằng nhiều
hình thức khác nhau, theo những cơ chế khác nhau. Trong đó, nhà nước giữ vai trị đặc
biệt quan trọng. Tuy là một bộ phận của kiến trúc thượng tầng, nhưng nhà nước là một
lực lượng vật chất có sức mạnh kinh tế. Nói về điều đó Ph.Ăngghen viết: “Bạo lực (tức

là quyền lực nhà nước) - cũng là một sức mạnh kinh tế” 42. Sự tác động trở lại của kiến
trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng thông qua chức năng xã hội của nó. Chức năng
xã hội của kiến trúc thượng tầng là bảo vệ, duy trì, củng cố và phát triển cơ sở hạ tầng
sinh ra nó, đấu tranh xóa bỏ cơ sở và kiến trúc thượng tầng cũ.
Sự tác động của kiến trúc thượng tầng đến cơ sở hạ tầng theo nhiều chiều đan xen,
nhưng thường diễn ra theo hai chiều tích cực và tiêu cực:
Một là,sự tác động phù hợp với các quy luật kinh tế khách quan sẽ thúc đẩy kinh
tế, cơ sở hạ tầng phát triển.
Hai là, ngược lại, sự tác động không phù hợp với các quy luật kinh tế khách quan
sẽ kìm hãm sự phát triển kinh tế, thậm chí đẩy nền kinh tế rơi vào tình trạng khủng


hoảng. Nếu kiến trúc thượng tầng kìm hãm kinh tế phát triển thì sớm hay muộn, bằng
cách này hay cách khác, kiến trúc thượng cũ sẽ bị thay thế bằng kiến trúc thượng tầng
mới tiến bộ hơn, để thúc đẩy kinh tế phát triển.
Như vậy, sự tác động trở lại của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở kinh tế rất to
lớn, nhưng nếu tuyệt đối hố vai trị của kiến trúc thượng tầng một cách chủ quan, duy
ý chí sẽ dẫn đến những sai lầm gây hậu quả đối với sự phát triển kinh tế, sự tiến bộ xã
hội.
Vận dụng vào mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng
tầng vào công cuộc đổi mới ở nước ta
Kiến trúc thượng tầng xã hội chủ nghĩa có sự tác động đặc biệt to lớn đối với cơ sở
hạ tầng xã hội chủ nghĩa. Cơ sở hạ tầng xã hội chủ nghĩa khơng thể hình thành và phát
triển một cách tự phát, mà được xây dựng một cách tự giác nhờ sự tác động của kiến
trúc thượng tầng xã hội chủ nghĩa. Khơng có chính quyền của giai cấp công nhân và
nhân dân lao động thì khơng thể xây dựng được cơ sở hạ tầng xã hội chủ nghĩa. Tuy
nhiên, nói như vậy khơng có nghĩa là kiến trúc thượng tầng xã hội chủ nghĩa quyết định
cơ sở hạ tầng xã hội chủ nghĩa. Kiến trúc thượng tầng chỉ thực hiện một sự tất yếu về
kinh tế.
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, việc xây dựng cơ sở hạ tầng và kiến

trúc thượng tầng phải được tiến hành từng bước với những hình thức, bước đi thích hợp.
Quan hệ giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng thực chất là quan hệ giữa kinh
tế và chính trị. Phép biện chứng giữa kinh tế và chính trị khẳng định kinh tế quyết định
chính trị, chính trị là biểu hiện tập trung của kinh tế. Vì vậy, khi vận dụng quan điểm
biện chứng này phải xuất phát từ kinh tế, từ những quy luật kinh tế khách quan. Đồng
thời phải coi trọng vai trị của chính trị, tính năng động sáng tạo của chính trị trong việc
vận dụng các quy luật kinh tế khách quan. Tuyệt đối hố một mặt nào đó đều dẫn đến
sai lầm.
Một trong những lệch lạc, sai lầm mà nhiều nước xã hội chủ nghĩa trước đây
thường mắc phải ở những mức độ khác nhau đó là cường điệu hố vai trị của kiến trúc
thượng tầng, của chính trị, coi chính trị là thống sối, chính trị thuần tuý dựa trên
nguyện vọng và tình cảm chủ quan bất chấp kinh tế. Từ đó
dẫn đến sự phát triển kinh tế khơng bền vững hoặc làm cho kinh tế trì trệ, khủng
hoảng.
Trong đổi mới, nước ta vận dụng một cách sáng tạo mối quan hệ biện chứng giữa
cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng, đổi mới một cách đồng bộ với những bước đi
thích hợp giữa kinh tế và chính trị đã giành được nhiều thành tựu to lớn: chủ nghĩa xã
hội được giữ vững, kinh tế phát triển, tiến bộ xã hội được biểu hiện một cách rõ rệt.


………………………………………..
Sự hình thành cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng xã hội chủ nghĩa
Cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng xã hội chủ nghĩa không thể hình thành và
phát triển một cách tự phát, mà được xây dựng một cách tự giác nhờ tác động một cách
tích cực của kiến trúc thượng tầng xã hội chủ nghĩa.
Cơ sở hạ tầng xã hội chủ nghĩa được xây dựng trên cơ sở từng bước thiết lập quan
hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa. Nó khơng ra đời trong chế độ tư bản, mà sau khi giành
được chính quyền, giai cấp cơng nhân sử dụng nhà nước của mình chủ động, tự giác
xây dựng nên, tạo thành cơ sở kinh tế của xã hội mới.
Việc xây dụng cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng xã hội chủ nghĩa phải được tiến

hành từng bước với những hình thức, bước đi thích hợp. Khi xây dựng cơ sở hạ tầng và
kiến trúc thượng tầng xã hội chủ nghĩa phải tuân theo quy luật khách quan, không lấy ý
muốn chủ quan áp đặt, thay thế các quy luật khách quan. Đồng thời phải phát huy tính
tích cực, năng động, sáng tạo của kiến trúc thượng tầng trong việc vận dụng quy luật
khách quan.
5.
Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lê – nin về nội dung, vai trò của đấu
tranh giai cấp. Liên hệ thực tế Việt Nam
Khái niệm giai cấp
Trong tác phẩm Sáng kiến vĩ đại, V.I.Lênin nêu ra một định nghĩa khoa học về giai
cấp: “Người ta gọi là giai cấp, những tập đoàn người to lớn gồm những người khác
nhau về địa vị của họ trong một hệ thống sản xuất xã hội nhất định trong lịch sử, khác
nhau về quan hệ của họ (thường thì những quan hệ này được pháp luật quy định và thừa
nhận) đối với những tư liệu sản xuất, về vai trò của họ trong tổ chức lao động xã hội, và
như vậy là khác nhau về cách thức hưởng thụ và về phần của cải xã hội ít hoặc nhiều
mà họ được hưởng. Giai cấp là những tập đoàn người, mà tập đoàn này thì có thể chiếm
đoạt lao động của tập đồn khác, do chỗ các tập đồn đó có địa vị khác nhau trong một
chế độ kinh tế - xã hội nhất định”1.
Định nghĩa đấu tranh giai cấp
A.
Mác và Ph.Ăngghen viết, đấu tranh giai cấp là cuộc đấu tranh của những
người bị áp bức và những kẻ áp bức. Cuộc đấu tranh diễn ra lúc công khai, lúc ngấm
ngầm, một cuộc đấu tranh bao giờ cũng kết thúc bằng một cuộc cải tạo cách mạng toàn
bộ xã hội, hoặc bằng sự diệt vong của hai giai cấp đấu tranh với nhau. Thực chất của
đấu tranh giai cấp là sự đối kháng về lợi ích cơ bản giữa các giai cấp trong xã hội, do sự
khác biệt về địa vị của họ trong hệ thống sản xuất xã hội nhất định, trong đó căn bản
1


nhất là sự khác nhau về quan hệ của họ đối với tư liệu sản xuất chủ yếu. C.Mác và

Ph.Ăngghen chỉ rõ, trong xã hội tư bản, đấu tranh giai cấp không biến mất, không dịu
đi, mà trái lại, thời đại tư bản chủ nghĩa càng làm đấu tranh giai cấp quyết liệt hơn, vì
giữa giai cấp tư sản và giai cấp vơ sản có sự đối kháng sâu sắc về lợi ích cơ bản.
Nhưng, những cuộc đấu tranh của những người công nhân chỉ trở thành đấu tranh giai
cấp khi nó nằm trong cuộc đấu tranh chung của tồn bộ giai cấp cơng nhân chống lại
tồn bộ giai cấp tư sản nhằm lật đổ nền thống trị của giai cấp ấy, giành được chính
quyền thiết lập được nền chuyên chính của mình, dùng chính quyền đó để đàn áp sự
phản kháng của các lực lượng, các giai cấp đối địch, bảo vệ thành quả của cách mạng.
C.Mác và Ph.Ăngghen cho rằng, đấu tranh giai cấp trong thời đại chuyên chính vơ
sản vẫn là một tất yếu. Bản thân nền chuyên chính ấy cũng chỉ là bước quá độ tiến lên
xóa bỏ mọi giai cấp và tiến lên một xã hội khơng có giai cấp mà thơi. Ngồi ra, việc liên
minh với các giai cấp khác có lợi ích cơ bản khơng đối lập với mình là điều kiện để giai
cấp vơ sản có thể thực hiện và duy trì nền chun chính vơ sản.Từ quan điểm của chủ
nghĩa Mác về giai cấp, đấu tranh giai cấp V.I.Lênin đã làm rõ và phát triển ở nhiều nội
dung quan trọng. V.I.Lênin định nghĩa: “Đấu tranh giai cấp là đấu tranh của một bộ
phận nhân dân này chống lại một bộ phận khác, cuộc đấu tranh của quần chúng bị tước
hết quyền, bị áp bức và lao động, chống bọn có đặc quyền đặc lợi, bọn áp bức và bọn ăn
bám, cuộc đấu tranh của những người công nhân làm thuê hay những người vô sản
chống những người hữu sản hay giai cấp tư sản”48. Như vậy, cuộc đấu tranh giai cấp
thực chất là cuộc đấu tranh giữa các giai cấp, các tập đồn người có lợi ích cơ bản đối
lập nhau khơng thể điều hịa được. Ví dụ, đấu tranh giữa chủ nô và nô lệ trong chế độ
chiếm hữu nô lệ; đấu tranh giữa vô sản và tư sản trong xã hội tư bản chủ nghĩa,v.v..
Trong các xã hội có giai cấp trước đây, các giai cấp giành được thắng lợithiết lập nền
chun chính của mình và tiếp tục tạo ra sự đối kháng và đấu tranh giai cấp vẫn tồn tại.
Cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản vẫn thiết lập nền chun chính vơ sản,
nhưng mục đích là xóa bỏ hồn tồn mọi đối kháng giai cấp, thủ tiêu đấu tranh giai cấp.
Nói cách khác, trong chủ nghĩa xã hội, về thực chất, khơng có đấu tranh giai cấp.
Cuộc đấu tranh giữa giai cấp công nhân và giai cấp tư sản là cuộc đấu tranh giai
cấp cuối cùng trong lịch sử. Nó là phương tiện tất yếu để giải phóng tồn xã hội khỏi
ách áp bức bóc lột, khỏi sự phân chia giai cấp và đấu tranh giai cấp. Vì vậy, đây là một

quá trình đấu tranh lâu dài và vô cùng phức tạp. V.I.Lênin cho rằng chủ nghĩa xã hội chỉ
giành được thắng lợi triệt để khi giai cấp công nhân lãnh đạo đông đảo quần chúng nhân
dân xây dựng thành công phương thức sản xuất mới, bảo đảm chủ nghĩa xã hội tạo ra
được năng suất lao động cao hơn chủ nghĩa tư bản. Nói cách khác, trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội, đấu tranh giai cấp vẫn là một tất yếu, nhằm duy trì nền chun
chính của giai cấp cơng nhân, bảo vệ lợi ích của nhân dân lao động.


Nội dung của đấu tranh giai cấp
Đấu tranh giai cấp được thực hiện trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, tập
trung vào các lĩnh vực sau:
Trong lĩnh vực kinh tế, đấu tranh giai cấp nhằm xóa bỏ quan hệ sản xuất lỗi thời,
kìm hãm giải phóng lực lượng sản xuất phát triển, qua đó củng cố chế độ kinh tế cho
giai cấp đại diện cho lực lượng sản xuất mới.
Trong lĩnh vực chính trị, đấu tranh giai cấp nhằm xóa bỏ nhà nước, pháp luật, hệ tư
tưởng cũ, xây dựng bộ máy nhà nước mới, xác lập hệ tư tưởng chính trị mới, phù hợp
với lợi ích của giai cấp mới.
Trong lĩnh vực văn hóa, tư tưởng, xã hội, đấu tranh giai cấp nhằm cải tạo xã hội,
văn hóa, tư tưởng của xã hội cũ, xây dựng đời sống văn hóa, tinh thần mới của xã hội
theo hướng tiến bộ.
Văn kiện Đại hội lần thứ XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định: “Những
vấn đề tồn cầu, như: bảo vệ hịa bình, an ninh con người, thiên tai, dịch bệnh, an ninh
xã hội và an ninh phi truyền thống, nhất là an ninh mạng, biến đổi khí hậu, nước biển
dâng, ơ nhiễm mỗi trường,... tiếp tục diễn biến phức tạp. Khu vực châu Á - Thái Bình
Dương, trong đó Đơng Nam Á có vị trí chiến lược ngày càng quan trọng, là khu vực
cạnh tranh gay gắt giữa các cường quốc, tiềm ẩn nhiều bất ổn. Tranh chấp chủ quyền
lãnh thổ, chủ quyền biển, đảo diễn ra căng thẳng, phức tạp, quyết liệt hơn. Hòa bình, ổn
định, tự do, an ninh, an tồn hàng hải, hàng không trên Biển Đông đứng trước thách
thức lớn, tiềm ẩn nguy cơ xung đột. ASEAN có vai trị quan trọng trong duy trì hịa
bình, ổn định, thúc đẩy hợp tác khu vực nhưng cũng đứng trước nhiều khó khăn”2.

Hiện nay, trong xã hội tư bản, đấu tranh giai cấp khơng mất đi, mà trái lại, mâu
thuẫn giữa trình độ xã hội hóa ngày càng cao của lực lượng sản xuất với chế độ chiếm
hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa ngày càng sâu sắc càng làm đấu tranh giai cấp quyết liệt
hơn. Nhận thức được điều này sẽ tránh được hữu khuynh về giai cấp.
Vai trò của đấu tranh giai cấp đối sự phát triển xã hội
Đấu tranh giai cấp là động lực trực tiếp của xã hội có đối kháng giai cấp. Thông
qua đấu tranh giai cấp mà đỉnh cao là cách mạng xã hội, quan hệ sản xuất mới được xác
lập phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất. Trên cơ sở đó giải phóng sức sản
xuất xã hội, thúc đẩy sự phát triển của lịch sử. Cách mạng là tất yếu không những vì
khơng thể lật đổ giai cấp thống trị bằng một phương thức nào khác mà cịn vì chỉ có
trong cách mạng giai cấp đi lật đổ giai cấp khác mới có thể quét sạch mọi sự thối nát
của chế độ cũ đang bám chặt theo minh và trở thành có năng lực xây dựng cơ sở cho xã
hội mới.
2


Đấu tranh giai cấp góp phần cải tạo xã hội, xoá bỏ cái cũ cái lạc hậu, bảo thủ, tạo
cơ sở cho cái mới cái tiến bộ nảy sinh và phát triển. Đấu tranh giai cấp cũng góp phần
cải tạo giai cấp cách mạng, để trở thành giai cấp có đủ năng lực lãnh đạo đối với tồn xã
hội. Thơng qua đấu tranh giai cấp mà các lĩnh vực văn hoá, tư tưởng, nghệ thuật, đạo
đức... được phát triển phù hợp với sự tiến bộ của xã hội.
Đấu tranh giai cấp trong thời kỳ quá độ ở Việt Nam hiện nay
Cuộc đấu tranh giai cấp ở nước ta nằm trong quy luật chung của thời đại ngày nay
là thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội. Đó là thời kỳ đấu tranh giữa
chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản, giữa những lực lượng vì hịa bình, dân chủ và tiến
bộ xã hội với những lực lượng phản tiến bộ, cản trở hòa bình, độc lập dân tộc của các
quốc gia. Các thế lực thù địch vẫn tiếp tục thực hiện âm mưu “diễn biến hịa bình”, gây
bạo loạn lật đổ, sử dụng các chiêu bài “dân chủ”, “nhân quyền” hòng làm thay đổi chế
độ chính trị ở nước ta, làm chệch hướng XHCN, đi ngược lại lợi ích của nhân dân lao
động.

Bối cảnh quốc tế có nhiều chuyển biến sâu sắc. Các mâu thuẫn cơ bản trên thế
giới, biểu hiện dưới những hình thái và mức độ khác nhau vẫn tồn tại và phát triển, có
mặt sâu sắc hơn; đấu tranh dân tộc và đấu tranh giai cấp tiếp tục diễn ra dưới nhiều hình
thức mới mức độ ngày càng gay gắt; các quốc gia độc lập sẽ ngày càng tăng cường đấu
tranh để tự lực chọn và quyết định con đường phát triển của mình, chống lại sự áp đặt,
can thiệp và xâm lược của nước ngoài, bảo vệ độc lập, chủ quyền và nền văn hoá dân
tộc; trong thế kỷ XXI, tình trạng bạo lực, chiến tranh tơn giáo, sắc tộc có diễn biễn phức
tạp và đã có thay đổi lớn về tính chất, mức độ so với thế kỷ XX. Những vấn đề trên đã
tạo ra bối cảnh mới đối với cuộc đấu tranh giai cấp ở nước ta, địi hỏi chúng ta phải có
những thay đổi nhất định về phương thức thực hiện đấu tranh giai cấp.
Sau sự kiện chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ cho đến nay,
trong lĩnh vực lý luận, tư tưởng nhiều luận điệu phản kích, bác bỏ lý luận giai cấp và
đấu tranh giai cấp; phủ nhận sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân; phủ nhận chun
chính vơ sản. Họ cho rằng thế kỷ XXI là thế kỷ của hội nhập, hợp tác và phát triển, nên
khơng cịn đấu tranh giai cấp, khơng cịn chun chính vơ sản, chỉ cịn sự hợp tác, thống
nhất, sự tương trợ thuần tuý lẫn nhau. Những tư tưởng trên đã tác động không nhỏ tới
nhận thức, tư tưởng, quan điểm, lập trường của những người mácxít.
Ở Việt Nam, đấu tranh giai cấp trong giai đoạn quá độ hiện nay cũng là tất yếu.
Bởi lẽ, ở nước ta đang trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội mà thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội là thời kỳ đấu tranh giữa cái cũ và cái mới, cái cách mạng, tiến bộ và
cái bảo thủ, trì trệ... Hiện nay, vẫn còn những lực lượng đi ngược lại lợi ích của dân tộc,
của nhân dân, của cách mạng.
Thực chất đấu tranh giai cấp ở Việt Nam hiện nay là cuộc đấu tranh của toàn thể


nhân dân lao động do Đảng Cộng sản Việt Namlãnh đạo, chống lại các thế lực thù địch
với chủ nghĩa xã hội, bảo vệ độc lập dân tộc, bảo vệ chính quyền và lợi ích của nhân
dân.
Trong Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc thứ IX, Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng
định: "Nội dung chủ yếu của đấu tranh giai cấp trong giai đoạn hiện nay ở nước ta là

thực hiện thắng lợi sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hướng xã hội chủ
nghĩa, khắc phục tình trạng nước nghèo, kém phát triển, thực hiện công bằng xã hội
chống áp bức, bất công, đấu tranh ngăn chặn và khắc phục những tư tưởng và hành
động tiêu cực, sai trái, đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hành động chống phá của
các thế lực thù địch; bảo vệ độc lập dân tộc, xây dựng nước ta thành một nước xã hội
chủ nghĩa phồn vinh nhân dân hạnh phúc"3.
Thực hiện đấu tranh giai cấp trong lĩnh vực kinh tế thực chất là để phát triển mạnh
mẽ lực lượng sản xuất, phát triển mọi tiềm năng để chuẩn bị cơ sở vật chất - kinh tế để
xây dựng chủ nghĩa xã hội. Hiện nay, đấu tranh giai cấp trong lĩnh vực kinh tế nhằm
thực hiện thắng lợi sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hướng xã hội chủ
nghĩa, khắc phục tình trạng nước nghèo, kém phát triển; phát triển lực lượng sản xuất và
xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa; chống khuynh
hướng tự phát tư bản chủ nghĩa, chống việc xác lập địa vị thống trị của quan hệ sản xuất
tư bản chủ nghĩa; xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, chống sự áp đặt, can thiệp và chi
phối của các tập đoàn kinh tế, tài chính... Thực hiện quản lý chặt chẽ sự sản xuất, phân
phối thu nhập, lưu thông tiền tệ, nộp thuế... thông qua kiểm kê, kiểm soát, kỷ luật lao
động; phát hiện kịp thời và đấu tranh chống các hiện tượng tiêu cực trong kinh tế; khắc
phục tình trạng bóc lột, bất công và những hiện tượng tiêu cực khác.
Trong lĩnh vực chính trị, giai cấp cơng nhân và tồn thể nhân dân lao động đấu
tranh với các thế lực thù địch để bảo vệ Đảng, bảo vệ Nhà nước xã hội chủ nghĩa; xây
dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân,
xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức; thực hiện giành,
giữ và sử dụng chính quyền như một cơng cụ để cải tạo xã hội và chuyên chính với các
thế lực đi phá hoại chính quyền, đi ngược lại với lợi ích của nhân dân. Đấu tranh làm
thất bại mọi âm mưu và hành động chống phá của các thế lực thù địch, “chống diễn
biến hịa bình” và các chiêu bài chính trị khác, bảo vệ độc lập dân tộc, bảo vệ chủ nghĩa
xã hội.
Trong lĩnh vực tư tưởng, giai cấp công nhân và đảng cộng sản vạch trần bản chất
bóc lột, tính chất phản động của tư tưởng tư sản; vạch trần những biến tướng của chủ
nghĩa cơ hội, chủ nghĩa xét lại trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế; truyền

bá thế giới quan khoa học, cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin; xây dựng đời sống
3


tinh thần lành mạnh; phát huy được tính tích cực cách mạng của quần chúng nhân dân
trong quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; đấu tranh bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lênin,
bảo vệ đường lối, chính sách của
Đảng, pháp luật của Nhà nước.Giai cấp công nhân và toàn thể nhân dân lao động
đấu tranh để thực hiện công bằng xã hội chống áp bức, bất công; thực hiện xóa bỏ sự
bất bình đẳng và thực hiện cơng bằng xã hội; đấu tranh ngăn chặn và khắc phục những
tư tưởng và hành động tiêu cực, sai trái; xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc làm nền tảng tinh thần của xã hội, phát huy những giá trị văn hoá trong việc xây
dựng nhân cách của con người Việt Nam; đấu tranh chống lại mọi biểu hiện truyền bá
lối sống phản văn hoá, phản phát triển, đi ngược lại với thuần phong mỹ tục của dân
tộc.
Cơ sở để thực hiện đấu tranh giai cấp ở Việt Nam là xây dựng khối đại đoàn kết
toàn dân trên cơ sở liên minh giữa công nhân với nơng dân và trí thức do Đảng lãnh
đạo, kết hợp hài hồ các lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội, phát huy mọi tiềm năng và
nguồn lực của các thành phần kinh tế của toàn xã hội.
Sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là nhân tố quyết định thành công cho
cuộc đấu tranh giai cấp, bảo vệ lợi ích của nhân dân, bảo vệ chủ nghĩa xã hội. Ngay từ
khi ra đời Đảng Cộng sản Việt Nam đã trở thành nơi hội tụ mọi ước nguyện của nhân
dân lao động nhằm thực hiện giành độc lập dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đảng
nhân danh lợi ích của tồn dân tộc để lãnh đạo sự nghiệp cách mạng trong thời kỳ đấu
tranh giải phóng dân tộc, trở thành Đảng cầm quyền trong điều kiện đất nước thống
nhất. Đảng có đường lối chính trị đúng đắn, khoa học trên nền tảng của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, do vậy, chỉ có sự lãnh đạo của Đảng mới đảm bảo cho sự
thắng lợi của cuộc đấu tranh giai cấp và thắng lợi chung của sự nghiệp cách mạng
6.
Vì sao nói ý thức xã hội có tính độc lập tương đối so với tồn tại xã hội. Ý
nghĩa đối với việc xây dựng ý thức xã hội mới ở Việt Nam hiện nay.

Khái niệm
Ýthức xã hội là toàn bộ những tư tưởng, quan điểm cùng những tình cảm, tâm
trạng, truyền thống... về chính trị, pháp quyền, đạo đức, triết học, thẩm mỹ, tôn giáo và
khoa học của một cộng đồng người, phản ánh tồn tại xã hội của họ.
Tồn tại xã hội là đời sống vật chất cùng những điều kiện sinh hoạt vật chất của xã
hội. Những điều kiện đó là hồn cảnh địa lý, dân số và phương tức sản xuất vật chất của
xã hội; trong đó, phương thức sản xuất vật chất là yếu tố cơ bản nhất.
Như vậy, ý thức xã hội khơng bao qt tồn bộ những hiện tượng tinh thần được
bao quát trong phạm trù ý thức mà chỉ là ý thức về chính trị, pháp quyền, đạo đức, triết


học, thẩm mỹ, tơn giáo và khoa học; đó là những biểu hiện khác nhau được gọi là các
hình thái ý thức xã hội.
Ý thức xã hội phản ánh tồn tại xã hội qua những giai đoạn lịch sử nhất định.Tồn tại
xã hộilà đời sống vật chất cùng những điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hội. Những
yếu tố cơ bản thuộc tồn tại xã hội gồm phương thức sản xuất vật chất của xã hội, điều
kiện địa lý - tự nhiên, dân số (số lượng dân số, mật độ dân số, chất lượng dân số). Các
yếu tố này tác động lẫn nhau, tạo thành điều kiện sinh tồn và phát triển của xã hội, trong
đó, phương thức sản xuất vật chất là yếu tố cơ bản nhất.
Ý thức xã hội là mặt tinh thần của đời sống xã hội, bao gồm những trạng thái tâm
lý xã hội, những quan điểm chính trị, tư tưởng triết học, pháp quyền, thẩm mỹ, đạo đức,
tơn giáo, nghệ thuật,v.v.. Như vậy, chính tồn tại xã hội là nguồn gốc của ý thức xã hội.
Bản chất của ý thức xã hội
Quan điểm duy vật lịch sử chỉ rõ rằng, ý thức xã hội chỉ là sự phản ánh tồn tại xã
hội, bị quy định, phụ thuộc vào tồn tại xã hội. “Không phải ý thức của con người quyết
định tồn tại của họ; trái lại, tồn tại xã hội của họ quyết định ý thức của họ”4.
Công lao to lớn của C.Mác và Ph.Ăngghen là phát triển chủ nghĩa duy vật đến
đỉnh cao, xây dựng quan điểm duy vật về lịch sử và lần đầu tiên giải quyết khoa học
vấn đề hình thành và phát triển của ý thức xã hội. Các ông đã chứng minh rằng đời sống
tinh thần của xã hội hình thành và phát triển trên cơ sở của đời sống vật chất, rằng

khơng thể tìm nguồn gốc của tư tưởng tâm lý xã hội trong bản thân nó nghĩa là khơng
thể tìm trong đầu óc con người mà phải tìm trong hiện thực vật chất. Sự biến đổi của
một thời đại nào đó cũng sẽ khơng thể giải thích được nếu chỉ căn cứ vào ý thức của
thời đại ấy. C.Mác viết: "... không thể nhận định được về một thời đại đảo lộn như thế
căn cứ vào ý thức của thời đại ấy. Trái lại, phải giải thích ý thức ấy bằng những mâu
thuẫn của đời sống vật chất, bằng xung đột hiện có giữa các lực lượng sản xuất xã hội
và những quan hệ sản xuất xã hội"5.
Những luận điểm trên đây đã bác bỏ quan niệm sai lầm của chủ nghĩa duy tâm
muốn đi tìm nguồn gốc của ý thức tư tưởng không phải trong đời sống vật chất xã hội
mà trong bản thân ý thức tư tưởng, xem tinh thần, tư tưởng là nguồn gốc của mọi hiện
tượng xã hội, quyết định sự phát triển xã hội và trình bày lịch sử các hình thái ý thức xã
hội tách rời cơ sở kinh tế, xã hội. Chủ nghĩa duy vậtlịch sử chỉ rõ rằng tồn tại xã hội
quyết định ý thức xã hội, ý thức xã hội là sự phản ánh của tồn tại xã hội, phụ thuộc vào
tồn tại xã hội. Mỗi khi tồn tại xã hội, nhất là phương thức sản xuất biến đổi thì những tư
tưởng và lý luận xã hội, những quan điểm về chính trị, pháp quyền, triết học, đạo đức,
4
5


văn hoá, nghệ thuật, v.v... sớm muộn sẽ biến đổi theo. Cho nên ở những thời kỳ lịch sử
khác nhau, nếu chúng ta thấy có những lý luận, quan điểm, tư tưởng xã hội khác nhau
thì đó là do những điều kiện khác nhau của đời sống vật chất quyết định.
Mặt khác, sự phản ánh của ý thức xã hội đối với tồn tại xã hội lại khúc xạ qua lăng
kính chủ quan của chủ thể cộng đồng. Với các cộng đồng người khác nhau có những
nhu cầu, lợi ích, góc nhìn ít nhiều khác nhau, thậm chí đối lập nhau, điều đó làm cho sự
phản ánh của ý thức xã hội có những kết quả khác nhau. Kết quả phản ánh ấy được hình
thành, bị chi phối bởi quan điểm, tư tưởng, thái độ, tình cảm... của chủ thể đối với đối
tượng phản ánh.
Trong xã hội có giai cấp thì các giai cấp trong xã hội có địa vị kinh tế -xã hội khác
nhau, vai trò xã hội khác nhau, điều kiện sống và hoạt động khác nhau, lợi ích khác

nhau, nên ý thức xã hội của các giai cấp khác nhau là khác nhau. Mỗi giai cấp, do điều
kiện sinh sống về vật chất, do cơ sở kinh tế khác nhau... nên thường có tư tưởng, quan
điểm khác nhau. Tuy nhiên, trong xã hội có nhiều giai cấp, giai cấp nào chiếm địa vị
thống trị về kinh tế thì hệ tư tưởng của giai cấp đó cũng trở thành hệ tư tưởng thống trị
của xã hội. C.Mác và Ph. Ănghen đã viết: “Giai cấp nào chi phối những tư liệu sản xuất
vật chất thì cũng chi phối ln cả những tư liệu sản xuất tinh thần, thành thử nói chung
tư tưởng của những người khơng có tư liệu sản xuất tinh thần cũng đồng thời bị giai cấp
thống trị đó chi phối”6.
Ý thức xã hội vừa mang tính giai cấp, vừa mang tính dân tộc và mang tính nhân
loại. Bởi lẽ, ý thức xã hội của một giai cấp không chỉ phản ánh những điều kiện sinh
hoạt vật chất, đời sống vật chất của giai cấp mình mà cả những điều kiện sinh hoạt vật
chất, đời sống vật chất của cả dân tộc. Do vậy, ngoài tâm lý và hệ tư tưởng giai cấp,
trong ý thức xã hội cịn có tâm lý, tình cảm, tâm trạng, thóiquen, v.v. . của dân tộc.
Những yếu tố này được truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác tạo thành truyền thống dân
tộc. Ý thức xã hội cũng phản ánh những điều kiện vật chất của thời đại, những quan hệ
quốc tế mang tính nhân loại. Vì vậy, ý thức xã hội khơng chỉ mang tính giai cấp, tính
dân tộc mà cịn mang tính nhân loại. Cũng cần lưu ý rằng, mỗi cá nhân trong khi biểu
hiện ý thức xã hội, ý thức giai cấp thì cũng biểu hiện ý thức cá nhân tức là những đặc
điểm tâm lý, tính cách, cá tính, tư tưởng riêng có của cá nhân ấy. Vì thế, cần chú ý giải
quyết tốt mối quan hệ giữa tính giai cấp, tính dân tộc, tính nhân loại và tính cá nhân
trong ý thức xã hội của mỗi người.
Ý thức xã hội là sự phản ánh tồn tại xã hội, nhưng đó khơng phải là sự phản ánh
một cách giản đơn, trực tiếp mà đa dạng, phong phú bằng nhiều hình thức đặc thù, trải
qua các khâu trung gian. Không phải bất cứ tư tưởng, quan điểm, lý luận hình thái ý
thức xã hội nào cũng phản ánh rõ ràng và trực tiếp những quan hệ kinh tế của thời đại
6


mà chỉ xét đến cùng thì chúng ta mới thấy rõ những mối quan hệ kinh tế được phản ánh
bằng cách này, cách khác trong các tư tưởng ấy. Mặt khác, sự phản ánh của ý thức xã

hội đối với tồn tại xã hội còn bị chi phối bởi cái chủ quan của chủ thể cộng đồng phản
ánh (như trình độ phản ánh, thế giới quan, góc tiếp cận, đặc biệt là lợi ích).
Quan điểm duy vật lịch sử cũng chỉ ra tính độc lập nhất định của ý thức xã hội
trong mối quan hệ với tồn tại xã hội. Nó thể hiện qua những biểu hiện đặc thù phản ánh
và vai trò của ý thức xã hội qua sự tác động trở lại của ý thức xã hội đối với tồn tại xã
hội. Đó là sự độc lập khơng hồn tồn và có điều kiện, là độc lập tương đối.
CẤU TRÚC CỦA Ý THỨC XÃ HỘI
Theo nội dung và lĩnh vực phản ánh đời sống xã hội
Theonội dung và lĩnh vực phản ánh đời sống xã hội bao gồm:
Ý thức chính trị - là hình thái của ý thức xã hội, phản ánh những quan hệ kinh tế,
chính trị, xã hội, lợi ích giai cấp, địa vị giữa các giai cấp, các dân tộc hay giữa các quốc
gia, cũng như thái độ của các giai cấp đối với quyền lực nhà nước trong xã hội. Ý thức
chính trị xuất hiện cùng với sự xuất hiện Nhà nước trong lịch sử. Ý thức chính trị bao
gồm ý thức chính trị thông thường - được nảy sinh tự phát, trực tiếp từ hoạt động thực
tiễn chính trị thường ngày và hệ tư tưởng chính trị - hệ thống những quan điểm, tư
tưởng biểu hiện lợi ích cơ bản (lợi ích kinh tế) của một giai cấp.
Ý thức pháp quyền ra đời gắn liền với xã hội có giai cấp và nhà nước. Ý thức pháp
quyền là hệ thống các quan điểm của một giai cấp về bản chất, vai trò của pháp luật; về
quyền hạn, nghĩa vụ của các thành viên trong xã hội, của nhà nước, các tổ chức xã hội
trên cơ sở những nguyên tắc đã được pháp luật và xã hội thừa nhận, thể hiện về tính hợp
pháp hay không hợp pháp của hành vi con người; cùng những nhận thức và tình cảm
của con người trong việc thực thi luật pháp. Ý thức pháp quyền luôn mang tính giai cấp.
Trong xã hội có giai cấp thì các giai cấp khác nhau lại có ý thức pháp quyền khác nhau.
Tuy nhiên, trong mỗi chế độ xã hội chỉ có một hệ thống pháp luật của giai cấp thống trị
nhằm bảo vệ, củng cố những quan hệ, trật tự xã hội, lợi ích của giai cấp thống trị xã hội.
Ý thức đạo đức là mặt tinh thần của đời sống xã hội, nó hình thành rất sớm cùng
với tồn tại xã hội loài người. Ý thức đạo đức là toàn bộ những quan niệm, tri thức và
các trạng thái xúc cảm tâm lý chung của các cộng đồng người về thiện - ác; lương tâm trách nhiệm; hạnh phúc, công bằng, v.v.. và về hệ thống những quy tắc, chuẩn mực
đánh giá, điều chỉnh hành vi ứng xử giữa cá nhân với xã hội và cá nhân với cá nhân
trong xã hội. Mặt khác, nó cịn bao hàm cả những cảm xúc, những tình cảm đạo đức của

con người. Trong xã hội có giai cấp, đạo đức cũng mang tính giai cấp. Mỗi giai cấp
trong xã hội có giai cấp đều có ý thức đạo đức riêng của giai cấp mình. Tuy nhiên, ý
thức đạo đức mang tính “chi phối” trong toàn xã hội bao giờ cũng là ý thức đạo đức của


giai cấp thống trị, mặc dù trong cuộc sống thường ngày, mỗi giai cấp ln ứng xử theo
những lợi ích trực tiếp của mình.
Ý thức tơn giáo là những tình cảm, tâm trạng, quan niệm, tư tưởng, tín điều tơn
giáo, v.v.. phản ánh hoang đường, hư ảo đời sống hiện thực khách quan tồn tại xã hội
phù hợp với những nhu cầu tinh thần của con người trong những điều kiện lịch sử nhất
định. Ý thức tôn giáo bao gồm tâm lý tôn giáo và hệ tư tưởng tôn giáo. Tâm lý tơn giáo
là những tình cảm, tâm trạng, niềm tin, v.v.. tôn giáo cùng những biểu tượng hoang
đường của những cộng đồng xã hội có tín ngưỡng, phản ánh hư ảo tồn tại xã hội của họ.
Hệ tư tưởng tôn giáo là hệ thống những quan điểm, tư tưởng, tín điều tơn giáo được cá
nhà tư tưởng - thần học đề ra theo quan điểm theo quan điểm giai cấp nhất định.
Ý thức thẩm mỹ là toàn bộ những xúc cảm, rung động, thị hiếu, quan điểm, lý
tưởng phản ánh mối quan hệ thẩm mỹ của con người với đời sống hiện thực khách
quan. Nghệ thuật được coi là hình thức biểu hiện cao nhất của ý thức thẩm mỹ. Nói
khác đi, ý thức thẩm mỹ là cái chủ yếu trong hoạt động nghệ thuật. Trong xã hội có giai
cấp, nghệ thuật cũng mang tính giai cấp.
Theo trình độ phản ánh
Theo trình độ phản ánh, ý thức xã hội được chia thành ý thức thông thường và ý
thức lý luận.
Ý thức thơng thường là tồn bộ những tri thức, những quan niệm, v.v.. của những
cộng đồng người nhất định, được hình thành một cách trực tiếp từ hoạt động thực tiễn
hàng ngày của họ, chưa được hệ thống hóa, khái quát hóa thành lý luận.
Ý thức lý luận là những tư tưởng quan điểm của một cộng đồng xã hội, một giai
cấp, tầng lớp xã hội đã được hệ thống hóa, khái quát hóa thành các học thuyết xã hội,
được trình bày dưới dạng những khái niệm, phạm trù, quy luật. Nói khác đi ý thức lý
luận phản ánh tồn tại xã hội dưới dạng hệ thống lý luận.

Ngoài những cách phân chia trên, người ta còn phân chia ý thức xã hội theo hai
cấp độ: tâm lý xã hội và hệ tư tưởng.
Tâm lý xã hội là hiện tượng tinh thần của đời sống xã hội, bao gồm tồn bộ những
tình cảm, tâm trạng, tập qn, thói quen, v.v.. của con người, của một bộ phận xã hội
hoặc của tồn xã hội được hình thành một cách tự phát dưới tác động trực tiếp của điều
kiện sống hàng ngày của họ, phản ánh điều kiện sống, cũng như bản thân đời sống đó.
Đặc điểm của tâm lý xã hội là phản ánh một cách trực tiếp điều kiện sinh sống
hàng ngày của con người, là sự phản ánh có tính chất tự phát, thường ghi lại những mặt
bề ngồi của tồn tại xã hội. Nó khơng có khả năng vạch ra đầy đủ, rõ ràng, sâu sắc bản
chất các mối quan hệ xã hội của con người. Những quan niệm ở trình độ tâm lý xã hội
cịn ở trình độ kinh nghiệm, những yếu tố trí tuệ, tình cảm đan xen nhau. Tuy nhiên,



×