Tải bản đầy đủ (.docx) (8 trang)

Tính khoa học và tính cách mạng của chủ nghĩa mác

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (82.84 KB, 8 trang )

Tính khoa học và tính cách mạng của chủ nghĩa Mác và ý nghĩa
Trong giai đoạn hiện nay, toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta đang hết sức
nỗ lực đưa đất nước thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu, xây dựng thành công chủ nghĩa
xã hội. Tuy nhiên, các thế lực thù địch vẫn đã và đang tìm mọi cách chống phá
thành quả cách mạng, mà trước hết là chống phá, xuyên tạc nền tảng tư tưởng
hòng gây hoang mang, dao động về hệ tư tưởng, lý tưởng xã hội chủ nghĩa. Hiểu
đúng về nền tảng tư tưởng, trước hết, đó là cách chúng ta nhận thức rõ hơn về cơ
sở lý luận để nước ta tiến lên chủ nghĩa xã hội, củng cố niềm tin vào sự lãnh đạo
của Đảng, về con đường cách mạng mà Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lựa
chọn; cũng từ đó, chúng ta có căn cứ để nhìn nhận và có phương pháp chống lại
các luận điệu xuyên tạc, phản động của các thế lực thù địch.
Hiện nay, khơng ít người, trong đó có cả cán bộ, đảng viên cịn mơ hồ về
nền tảng tư tưởng, về diễn biến hịa bình. Trong bản tự nhận xét, đánh giá của cá
nhân hàng năm, ai cũng có thể viết một cách máy móc là: lập trường chính trị
vững vàng, kiên định con đường chủ nghĩa xã hội mà Đảng và Bác Hồ đã lựa
chọn, … nhưng đơi khi, họ khơng biết rõ mình đang đứng trên lập trường chính trị
nào, đâu là cơ sở lý luận để chúng ta đi theo con đường chủ nghĩa xã hội. Tại sao
chúng ta lại lấy chủ nghĩa Mác – Leenin làm nền tảng tư tưởng, tính cách mạng và
khoa học của chủ nghĩa Mác – Leenin được thể hiện như thế nào…?
Chủ nghĩa Mác – Lênin cùng với Tư tưởng Hồ Chí Minh được Đảng ta xác
định là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng bởi lẽ đó là hệ
thống quan điểm và học thuyết khoa học về sự nghiệp giải phóng giai cấp vơ sản,
giải phóng nhân dân lao động khỏi chế độ áp bức, bóc lột, tiến tới thực hiện sự
nghiệp giải phóng con người. Học thuyết đó được sáng lập bởi C. Mác, Ph.
Ăngghen và sự phát triển, vận dụng vào thực tiễn của V.I. Lênin. Đó là hệ thống
quan điểm và học thuyết được hình thành và phát triển trên cơ sở kế thừa những
giá trị tư tưởng tiến bộ của nhân loại và tổng kết thực tiễn thời đại. Hệ thống quan
điểm và học thuyết đó đóng vai trò là thế giới quan, phương pháp luận phổ biến
cho sự sáng tạo trong nhận thức khoa học (nghiên cứu phát hiện và sáng tạo ra cái
mới) và thực tiễn cách mạng (thực tiễn cải biến cái cũ, sáng tạo cái mới).
Triết học là bộ phận lý luận nghiên cứu những quy luật vận động, phát triển


chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy; xây dựng thế giới quan và phương pháp
luận chung nhất của nhận thức khoa học và thực tiễn cách mạng.
Kinh tế chính trị nghiên cứu những quy luật kinh tế của xã hội, đặc biệt là
những quy luật kinh tế của quá trình ra đời, phát triển, suy tàn của phương thức
sản xuất tư bản chủ nghĩa và sự ra đời, phát triển của phương thức sản xuất mới phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa.


Chủ nghĩa xã hội khoa học là kết quả tất nhiên của sự vận dụng thế giới
quan, phương pháp luận triết học và kinh tế chính trị Mác - Lênin vào việc nghiên
cứu làm sáng tỏ những quy luật khách quan của quá trình cách mạng xã hội chủ
nghĩa - bước chuyển biến lịch sử từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội và tiến
tới chủ nghĩa cộng sản.
Ba bộ phận lý luận cấu thành chủ nghĩa Mác - Lênin có đối tượng nghiên
cứu cụ thể khác nhau nhưng đều nằm trong một hệ thống lý luận khoa học thống
nhất - đó là khoa học về sự nghiệp giải phóng giai cấp vơ sản, giải phóng nhân dân
lao động khỏi chế độ áp bức, bóc lột và tiến tới giải phóng con người (tức là xây
dựng thành cơng chủ nghĩa cộng sản).
Như vậy, từ những vấn đề được nêu trên, chúng ta có thể thấy ở chủ nghĩa
Mác – Lênin là sự thống nhất của ba thuộc tính: tính khoa học, tính cách mạng và
tính nhân văn cao cả.
Chủ nghĩa Mác ra đời là một bước ngoặt cách mạng trong lịch sử tư tưởng
nhân loại, nhằm đáp ứng nhu cầu khách quan của sự phát triển xã hội. Chủ nghĩa
Mác là khoa học để làm cách mạng, có sự thống nhất hữu cơ, nội tại giữa khoa
học và cách mạng, cách mạng và khoa học. Nhờ đó, học thuyết Mác đã vượt lên
trên hẳn các học thuyết đương thời, mang sức mạnh to lớn, trở thành công cụ vĩ
đại khơng chỉ giải thích thế giới mà chủ yếu là cải tạo thế giới. Chủ nghĩa Mác đã
trở thành kim chỉ nam, ngọn cờ dẫn dắt giai cấp công nhân và nhân dân lao động
trên toàn thế giới trong cuộc đấu tranh vì CNXH từ khi ra đời cho đến ngày nay.
Chủ nghĩa Mác do C.Mác và Ph.Ăngghen sáng lập vào những năm 40 của
thế kỷ XIX. C.Mác là một trong những nhà tư tưởng vĩ đại nhất của nhân loại, là

lãnh tụ vĩ đại của giai cấp công nhân và nhân dân lao động tồn thế giới, ơng đã để
lại cho loài người một di sản đồ sộ khơng chỉ có ý nghĩa lịch sử mà cịn có ý nghĩa
to lớn cho đến ngày nay - đó là chủ nghĩa Mác.
* Thống nhất tính khoa học và tính cách mạng của chủ nghĩa Mác
Một nét đặc sắc trong bản chất của chủ nghĩa Mác làm cho nó khác với các
học thuyết khác - đó là sự thống nhất làm một giữa tính khoa học và tính cách
mạng. Ở đây tính khoa học và tính cách mạng quyện chặt lẫn nhau, tính khoa học
càng sâu thì tính cách mạng càng cao và ngược lại.
Tính khoa học thể hiện ở học thuyết là sự kế thừa của các thành tựu khoa
học; bản thân học thuyết cũng đã thể hiện đó là một hệ thống lý luận mang tính
logic, khoa học và nội dung chứa đầy những dự báo khoa học về tương lai.
Tính cách mạng thể hiện trong việc học thuyết đã chỉ ra con đường đấu
tranh, chống lại bảo thủ lạc hậu, chống lại chế độ áp bức bóc lột để hướng đến một
xã hội tốt đẹp hơn. Tính nhân văn thể hiện ở trong quan điểm về con người, về


cuộc sống con người và việc xây dựng một chế độ mới trên cơ sở giải phóng con
người khỏi khổ đau, áp bức.
Chủ nghĩa Mác là khoa học để làm cách mạng, để đấu tranh giải phóng
nhân loại thốt khỏi mọi áp bức, bóc lột, bất cơng. Sự thống nhất hữu cơ giữa tính
khoa học và tính cách mạng trong chủ nghĩa Mác khơng chỉ vì người sáng lập ra
nó - C.Mác, vừa là nhà khoa học thiên tài vừa là nhà cách mạng vĩ đại (hai phẩm
chất ấy thống nhất làm một trong hoạt động của ơng) mà vì tồn bộ nội dung,
phương pháp, mục đích của nó thể hiện sự thống nhất chặt chẽ giữa tính khoa học
và tính cách mạng.
Để xây dựng học thuyết của mình, C.Mác đã phân tích, nghiền ngẫm, kế
thừa tất cả những thành tựu khoa học đương thời - từ khoa học tự nhiên (như
thuyết tiến hóa các lồi của Đác Uyn, thuyết tế bào, định luật bảo tồn và chuyển
hóa năng lượng), đến khoa học xã hội, khoa học triết học, lịch sử, pháp lý, kinh
tế... C.Mác đã khám phá ra những quy luật khách quan, phổ biến của sự phát triển

xã hội lồi người, từ đó làm cơ sở khoa học cho các Đảng Cộng sản và giai cấp
công nhân ở các nước xây dựng đường lối cách mạng của mình. Khoa học đối với
C.Mác là vũ khí đấu tranh cải tạo thế giới, là vũ khí tư tưởng - lý luận để làm cách
mạng, nó có trách nhiệm giải đáp kịp thời và chính xác những vấn đề cấp bách có
ý nghĩa thời đại mà tư tưởng tiên tiến của nhân loại đặt ra.
Như Ph.Ăngghen đã chỉ ra, sứ mệnh thật sự của C.Mác là góp phần “bằng
cách này hay cách khác tham gia vào việc lật đổ xã hội tư bản và các thiết chế nhà
nước do nó dựng nên, tham gia vào sự nghiệp giải phóng giai cấp vô sản hiện đại
mà ông là người đầu tiên đã đem lại cho giai cấp đó một ý thức về địa vị của bản
thân mình và yêu cầu của mình, ý thức về điều kiện để giải phóng mình”(1). Một
sự nghiệp cách mạng và một sự nghiệp khoa học vĩ đại như thế làm sao có thể
khơng gây ra sự thù địch của những người bảo vệ trật tự tư bản.
Đánh giá về C.Mác và học thuyết Mác, V.I.Lênin viết: “Tồn bộ thiên tài
của Mác chính là ở chỗ ơng đã giải đáp được những vấn đề mà tư tưởng tiên tiến
của nhân loại đã nêu ra... Học thuyết của C.Mác là học thuyết vạn năng vì nó là
một học thuyết chính xác. Nó là một học thuyết hồn bị và chặt chẽ; nó cung cấp
cho người ta một thế giới quan hồn chỉnh, khơng thỏa hiệp với bất cứ một sự mê
tín nào, một thế lực phản động nào, một hành vi nào bảo vệ sự áp bức của tư sản.
Nó là người thừa kế chính đáng của tất cả những cái tốt đẹp nhất mà loài người đã
tạo ra hồi thế kỷ XIX, đó là triết học Đức, kinh tế chính trị học Anh và chủ nghĩa
xã hội Pháp”(2).
Trong di sản lý luận đồ sộ, sâu sắc của C.Mác, chúng ta có thể nêu bật ba
cống hiến khoa học chủ yếu sau đây:


Một là, C.Mác đã thực hiện một cuộc cách mạng trong toàn bộ quan niệm
về lịch sử thế giới.
C.Mác là người đầu tiên đã áp dụng phép biện chứng duy vật do chính ơng
xây dựng vào việc nghiên cứu lịch sử, làm cho chủ nghĩa duy vật trở thành hoàn
bị, triệt để - không chỉ duy vật trong lĩnh vực tự nhiên mà còn duy vật cả trong

lĩnh vực xã hội. Ph.Ăngghen nói rằng, giống như Đác Uyn đã phát hiện quy luật
của thế giới hữu cơ, C.Mác đã phát hiện quy luật phát triển của lịch sử loài người.
V.I.Lênin cho rằng: “Chủ nghĩa duy vật lịch sử của Mác là thành tựu vĩ đại
nhất của tư tưởng khoa học. Một lý luận khoa học hết sức hoàn chỉnh và chặt chẽ
đã thay cho sự lộn xộn và sự tùy tiện vẫn ngự trị từ trước đến nay trong các quan
niệm về lịch sử và chính trị”(3).
Hai là, C.Mác đã phát hiện ra quy luật đặc thù của phương thức sản xuất
TBCN và của xã hội tư bản do phương thức đó đẻ ra.
Lần đầu tiên, với những phát hiện của C.Mác, quan hệ giữa tư bản và lao
động đã được giải thích triệt để. C.Mác đã tìm ra bí mật của phương thức bóc lột
TBCN, chỉ ra cơ chế, động lực tồn tại và phát triển của xã hội tư bản là bóc lột giá
trị thặng dư. Quy luật giá trị thặng dư là quy luật tuyệt đối của CNTB, chi phối tất
cả các xã hội tư bản, tất cả các giai đoạn của CNTB, từ xã hội tư bản mới phát
triển đến xã hội tư bản phát triển cao. C.Mác chỉ rõ mâu thuẫn cơ bản của xã hội
tư bản là mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất ngày càng xã hội hóa cao với chế độ
chiếm hữu tư nhân TBCN đối với tư liệu sản xuất, mâu thuẫn giữa giai cấp công
nhân và những người lao động làm thuê với giai cấp tư sản. Do đó, cũng như đối
với các xã hội có giai cấp trước đây, trong xã hội tư bản, đấu tranh giai cấp không
biến mất mà chỉ thay đổi hình thức.
Ba là, với hai phát hiện khoa học vĩ đại là chủ nghĩa duy vật lịch sử và học
thuyết giá trị thặng dư, C.Mác đã đặt nền móng cho CNXH khoa học, học thuyết
về sự nghiệp giải phóng giai cấp cơng nhân và giải phóng lồi người khỏi mọi
hình thức áp bức, bóc lột và tha hóa.
Sứ mệnh thật sự của C.Mác - như Ph.Ăngghen khẳng định - là bằng cách
này hay cách khác góp phần vào việc lật đổ xã hội TBCN, là tham gia vào sự
nghiệp giải phóng giai cấp vơ sản hiện đại mà C.Mác là người đầu tiên làm cho
giai cấp ấy có ý thức về những điều kiện tự giải phóng. V.I Lênin đã từng nhấn
mạnh rằng, điểm cốt yếu của học thuyết Mác là soi sáng vai trò lịch sử của giai
cấp vô sản là người xây dựng xã hội XHCN thay thế xã hội tư bản.
C.Mác cùng với Ph.Ăngghen đã làm rõ các điều kiện lịch sử và các tiền đề

tư tưởng - văn hóa của sự nghiệp giải phóng giai cấp vơ sản. Các ơng cũng đã chỉ
ra những nhiệm vụ chủ yếu có tính quy luật mà các chính đảng vơ sản cần thực
hiện để hoàn thành sự nghiệp cách mạng XHCN.


C.Mác giả định CNXH ra đời từ xã hội tư bản đã phát triển cao là hồn tồn
hợp lơgic, bởi chỉ có như vậy mới phát hiện được quy luật chung của sự phát triển
xã hội từ xã hội tư bản lên xã hội cộng sản. Chính từ giả định này, C.Mác đã dự
báo một số đặc điểm cơ bản của xã hội tương lai mà xã hội tư bản đang “thai
nghén” nó, phân tích những tính quy luật chung của quá trình hình thành và phát
triển xã hội mới, cơ bản dựa trên tính tất yếu lịch sử của Tây Âu, đặc biệt là nước
Anh. Ngoài ra, C.Mác cũng đã chú ý đến kiểu phát triển “rút ngắn” lên CNXH qua
trường hợp nước Nga.
C.Mác khơng thiết kế mơ hình của CNXH gồm mọi chi tiết để bắt hiện thực
phải khuôn theo. V.I Lênin khẳng định: “Trong tài liệu của Mác, người ta không
thấy mảy may một ý định nào nhằm bịa ra những ảo tưởng, nhằm đặt ra những dự
đốn vu vơ về những điều mà người ta khơng thể nào biết được. Mác đặt vấn đề
chủ nghĩa cộng sản giống như một nhà tự nhiên học đặt, chẳng hạn, vấn đề tiến
hóa của một giống sinh vật mới, một khi đã biết nguồn gốc của nó và định được rõ
rệt hướng của những biến đổi của nó”(4).
C.Mác phân tích một cách khoa học q trình phát triển của xã hội mới và
dự báo về hai giai đoạn của xã hội cộng sản tương lai. Bởi vì, xã hội cộng sản, vừa
thoát thai từ xã hội tư bản nên không thể bước ngay vào giai đoạn cao tức giai
đoạn xã hội cộng sản “đã phát triển trên cơ sở của chính nó”. Nó phải trải qua giai
đoạn đầu hay giai đoạn thấp của xã hội cộng sản, mà “về mọi phương diện nó cịn
mang những dấu vết của xã hội đã sản sinh ra nó”. Trong những “dấu vết” của xã
hội tư bản có những yếu tố tiêu cực cần sớm loại bỏ trong quá trình xây dựng xã
hội mới, song có những “dấu vết” của xã hội tư bản khơng thể xóa bỏ một cách
chủ quan, duy ý chí. Thí dụ, “dấu vết” của “pháp quyền tư sản” thể hiện trong
nguyên tắc phân phối theo lao động.

Xã hội cộng sản với tính cách chỉnh thể thì khơng có sẵn trong lòng xã hội
tư bản, song một số tiền đề, mầm mống, yếu tố thì đã nảy sinh trong lòng xã hội tư
bản. Trong tác phẩm Tư bản, C.Mác chỉ ra rằng, chế độ công xưởng cho chúng ta
thấy mầm mống của nền giáo dục tương lai, một nền giáo dục sẽ kết hợp lao động
sản xuất với học tập và thể dục cho tất cả trẻ em trên một hạn tuổi nào đó. Nó
khơng chỉ là một phương pháp để tăng thêm sản xuất xã hội, mà còn là phương
pháp để tạo ra những con người phát triển tồn diện.
Giải phóng và phát triển con người là mục tiêu cao cả của hoạt động cách
mạng của C.Mác. Theo C.Mác, sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là khơng
chỉ giải phóng mình, mà đồng thời giải phóng cho tất cả các giai tầng xã hội khác
khỏi mọi hình thức áp bức, bóc lột và tha hóa. Vì vậy, C.Mác luôn nhất quán với
quan điểm biện chứng giữa giải phóng con người, giải phóng giai cấp và giải
phóng nhân loại. Theo C.Mác, “phải lật đổ tất cả những quan hệ trong đó con
người là một sinh vật bị làm nhục, bị nô dịch, bất lực, bị khinh rẻ”(5). C.Mác quan


niệm CNCS là chủ nghĩa nhân đạo hiện thực, trong đó sự phát triển tự do của mỗi
người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người.
Đối với C.Mác, sự nghiệp giải phóng nhân loại thống nhất với sự nghiệp giải
phóng giai cấp cơng nhân mà giai cấp công nhân là đội tiên phong của sự nghiệp
giải phóng đó. Chính vì vậy, tồn bộ sự nghiệp khoa học và cách mạng của ông đều
giành cho việc giáo dục, tổ chức giai cấp công nhân để làm cho giai cấp cơng nhân
có ý thức về điều kiện, tiền đề giải phóng mình, đồng thời giải phóng toàn nhân
loại. Kế thừa tư tưởng của C.Mác, sau này V.I.Lênin nhấn mạnh rằng, tách khỏi
cuộc đấu tranh giai cấp, thì CNXH chỉ là một câu nói sng hay một mơ ước ngây
thơ mà thôi.
Song C.Mác không bao giờ cường điệu, tuyệt đối hóa đấu tranh giai cấp
hoặc một hình thức nào của đấu tranh giai cấp, cũng không sùng bái bạo lực như
kẻ thù xuyên tạc. Đối với C.Mác, đấu tranh giai cấp chỉ là phương tiện chứ không
phải là mục đích. C.Mác khẳng định: “Một ngày nào đó, cơng nhân sẽ phải giành

lấy chính quyền vào tay mình để thiết lập một tổ chức lao động mới... Song chúng
tơi khơng bao giờ quyết đốn rằng, để đạt tới mục đích đó, đâu đâu cũng phải
dùng những biện pháp như nhau”.
Trong thư gửi Vâyđơmaiơ ngày 5-3-1852, C.Mác viết rằng, ông không có
công lao phát hiện ra giai cấp và đấu tranh giai cấp, cơng lao đó thuộc về các nhà
sử học, các nhà kinh tế học tư sản đã có từ trước ơng rất lâu. Cái mới mà C.Mác đã
làm là chứng minh rằng: “1. Sự tồn tại của các giai cấp chỉ gắn với những giai
đoạn phát triển lịch sử nhất định của sản xuất; 2. Đấu tranh giai cấp tất yếu dẫn
đến chun chính vơ sản; 3. Bản thân nền chuyên chính này chỉ là bước quá độ
tiến tới thủ tiêu mọi giai cấp và tiến tới xã hội khơng có giai cấp”(7). C.Mác cũng
khơng phải là người đầu tiên phát hiện ra khái niệm chuyên chính, ơng chỉ kế thừa
khái niệm đó của nền cộng hịa Rooma cổ đại để xây dựng khái niệm chun
chính vơ sản với tính cách là thể chế quá độ lên xã hội cộng sản, khi mà giai cấp
công nhân giành được chính quyền. Đối với C.Mác, chun chính vơ sản không
chỉ là bạo lực, mà chủ yếu là tổ chức và xây dựng xã hội cộng sản. Bạo lực chỉ là
bà đỡ cho xã hội cũ đang thai nghén một xã hội mới.
* Sức sống của học thuyết Mác trong thời đại ngày nay và công cuộc đổi
mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
Sống và hoạt động trong thời đại mới - thời đại đế quốc chủ nghĩa và cách
mạng vô sản, V.I.Lênin đã phát triển chủ nghĩa Mác thành chủ nghĩa Mác - Lênin
trong cả ba bộ phận cấu thành của nó - triết học, kinh tế chính trị và CNXHKH.
Có thể khẳng định rằng, từ thời C.Mác đến thời V.I.Lênin và cho đến ngày nay,
khi nhân loại đã bước vào hai thập niên đầu của thế kỷ XXI, thế giới đã trải qua


biết bao nhiêu biến cố thăng trầm, quanh co phức tạp, nhưng đời sống xã hội vẫn
khơng đi ra ngồi những quy luật phổ biến đã được C.Mác tổng kết.
Trong thời đại ngày nay, chủ nghĩa Mác - Lênin vẫn là học thuyết khoa học
và cách mạng duy nhất đáp ứng được nhiệm vụ lịch sử mà không học thuyết nào
có thể thay thế được. Sức sống của chủ nghĩa Mác - Lênin được thể hiện ở chỗ nó

soi sáng các nhiệm vụ lịch sử đã chín muồi của nhân loại - đó là nhiệm vụ giải
phóng con người khỏi mọi hình thức áp bức, bóc lột, bất cơng, khỏi mọi sự tha
hóa. Giá trị, sức sống của chủ nghĩa Mác, chủ nghĩa Mác - Lênin là trường tồn.
Thời đại ngày nay có nhiều nội dung, đặc điểm rất mới so với thời C.Mác sống,
song các giá trị bền vững trong các tư tưởng, quan điểm, học thuyết của C.Mác,
Ph.Ăngghen và V.I.Lênin đã và đang là lý luận và phương pháp luận để nhận thức
và cải tạo thế giới, còn những hạn chế lịch sử trong một số luận điểm cụ thể nào
đó của các ơng thì lại đặt ra yêu cầu phải bổ sung và phát triển cho phù hợp với
điều kiện mới. Chính bản chất khoa học và cách mạng, tính sáng tạo của chủ nghĩa
Mác - Lênin đòi hỏi phải như vậy.
Giá trị của học thuyết Mác - Lênin khơng phải ở chỗ mọi câu nói của các
ông đều là chân lý vĩnh cửu, những người cách mạng cứ thế mà áp dụng không
cần xem xét điều kiện, hoàn cảnh cụ thể. C.Mác đã từng tuyên bố: Chúng ta không
tỏ ra là những nhà lý luận suông, tay cầm một mớ nguyên lý có sẵn: đây là chân
lý, hãy phục tùng nó đi. Và Ph.Ăngghen cũng đã nhiều lần nhấn mạnh: Học thuyết
của chúng tôi không phải là giáo điều mà là kim chỉ nam cho hành động.
Từ khi Đảng ta ra đời đến nay, chủ nghĩa Mác - Lênin đã được Đảng ta và
Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp thu, vận dụng và phát triển sáng tạo trong điều kiện
thực tiễn của Việt Nam. Chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh đã trở
thành nền tảng tư tưởng của Đảng, kim chỉ nam cho cách mạng Việt Nam. Thắng
lợi của cách mạng Tháng Tám năm 1945, của hai cuộc kháng chiến chống thực
dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, thống nhất đất nước; những thành tựu trong
công cuộc xây dựng CNXH ở nước ta đã khẳng định sức sống của chủ nghĩa Mác
nói riêng, chủ nghĩa Mác - Lênin nói chung. Đặc biệt, công cuộc đổi mới theo
định hướng XHCN do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo càng khẳng định tính đúng
đắn, ý nghĩa thời đại của chủ nghĩa Mác, chủ nghĩa Mác - Lênin đối với cách
mạng Việt Nam cũng như sự vận dụng sáng tạo học thuyết đó của Đảng ta vào
thực tiễn đất nước.
Qua hơn 35 năm đổi mới, chúng ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý
nghĩa lịch sử cả về nhận thức lý luận và về thực tiễn. Nhận thức về CNXH và con

đường đi lên CNXH của nước ta ngày càng sáng tỏ hơn, ngày càng được bổ sung,
phát triển qua các kỳ Đại hội Đảng. Đảng ta xác định mục tiêu, đặc trưng tổng
quát của xã hội XHCN mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ...


Đã hình thành, phát triển quan niệm về kinh tế thị trường định hướng
XHCN, về cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, kinh tế tri thức; về Nhà nước pháp
quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; về Đảng cầm quyền, và đổi
mới, chỉnh đốn Đảng; về dân chủ XHCN và thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc;
về gắn kết giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa, phát triển con người,
thực hiện tiến bộ và cơng bằng xã hội; về chính sách xã hội và quản lý phát triển
xã hội; về chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; về quan hệ giữa xây dựng
CNXH và bảo vệ Tổ quốc XHCN...
Trên cơ sở lý luận Mác - Lênin và thực tiễn biến đổi của tình hình thế giới,
Đảng ta đã có cách tiếp cận tình hình quốc tế và thời đại ngày càng sát hợp hơn và
sâu sắc hơn; nhận thức đầy đủ hơn tính chất lâu dài, quanh co, phức tạp của thời
đại quá độ lên CNXH và đánh giá đúng hơn tiềm năng phát triển của CNTB hiện
đại; thấy rõ hơn các xu hướng biến đổi của tình hình thế giới và khu vực, từ đó
đưa ra đối sách phù hợp...
Những thành tựu về lý luận và thực tiễn hơn35 năm đổi mới, như Văn kiện
Đại hội XIII của Đảng đã chỉ ra, khẳng định đường lối đổi mới của Đảng là đúng
đắn, sáng tạo, con đường đi lên CNXH của nước ta là phù hợp với thực tiễn Việt
Nam và xu thế phát triển của lịch sử. Tư duy lý luận và hoạt động thực tiễn của
Đảng và nhân dân ta trong quá trình đổi mới ngày càng sâu sắc hơn, sát hợp hơn
với thực chất tư tưởng của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I Lênin, Hồ Chí Minh, trên cơ
sở đó có sự vận dụng, phát triển phù hợp với thực tiễn Việt Nam và thời đại ngày
nay.
Tuy nhiên, trước sự biến đổi nhanh chóng, phức tạp của tình hình thế giới
với nhiều thời cơ và thách thức, để khắc phục những hạn chế, yếu kém trong quá

trình đổi mới, Đảng đã yêu cầu phải tiếp tục đổi mới tư duy lý luận, tăng cường
tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, hoàn thiện hệ thống các quan điểm về
CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam; phải kiên định chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, vận dụng sáng tạo và phát triển phù hợp với thực
tiễn Việt Nam, phải kiên quyết đấu tranh chống các quan điểm sai trái, thù địch
xuyên tạc, bác bỏ chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; phải đẩy mạnh
tồn diện, đồng bộ cơng cuộc đổi mới, phấn đấu sớm đưa nước ta cơ bản trở thành
nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Thực hiện nhiệm vụ lịch sử đó chính là
cách tốt nhất để phát huy sức sống vĩ đại của học thuyết Mác – Lênin.



×