Tải bản đầy đủ (.docx) (33 trang)

Nhân vật trong Phù Thủy, Phù Thủy từ văn học đến điện ảnh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (424.18 KB, 33 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

NHẬP MÔN VĂN HỌC SO SÁNH
ĐỀ TÀI:

NHÂN VẬT TRONG PHÙ THỦY, PHÙ THỦY
TỪ VĂN HỌC ĐẾN ĐIỆN ẢNH


Mục lục
A. NHỮNG VẤN ĐỀ VỀ LÝ THUYẾT.....................................................................3
1. Khái quát về lý thuyết so sánh liên ngành - một hướng nghiên cứu của văn
học so sánh............................................................................................................... 3
1.1. So sánh văn học và các ngành nghệ thuật...................................................3
1.2. Văn học và điện ảnh.....................................................................................4
2. Một số vấn đề về lý thuyết cải biên....................................................................5
2.1. Khái niệm “cải biên” và Cải biên học.........................................................5
2.2. Vấn đề “trung thành” trong lịch sử Cải biên học......................................6
2.3. Xu hướng mới trong lý thuyết cải biên.......................................................7
3. Lý do và mục đích so sánh..................................................................................8
B. GIỚI THIỆU TÁC GIẢ, TÁC PHẨM....................................................................8
1. Giới thiệu sơ lược về tác giả Roald Dahl và tác phẩm Phù thủy, phù thủy
(1983).......................................................................................................................9
1.1. Tác giả Roald Dahl.......................................................................................9
1.2. Tác phẩm Phù thủy, phù thủy (1983)........................................................11
2. Giới thiệu đạo diễn Robert Zemekics và tác phẩm điện ảnh Phù thủy, phù
thuỷ (2020).............................................................................................................11
2.1. Đạo diễn Robert Zemeckis.........................................................................11
2.2. Tác phẩm điện ảnh Phù thủy, phù thủy (2020).........................................12
C. SO SÁNH ĐIỂM GIỐNG VÀ KHÁC NHAU GIỮA CÁC NHÂN VẬT CHÍNH


TRONG TÁC PHẨM VĂN HỌC PHÙ THỦY, PHÙ THỦY (1983) CỦA NHÀ VĂN
ROALD DAHL VÀ TÁC PHẨM ĐIỆN ẢNH CÙNG TÊN (2020) CỦA ĐẠO DIỄN
ROBERT ZEMECKIS...............................................................................................12
1. Điểm giống nhau giữa các nhân vật chính trong tác phẩm văn học Phù thủy,
phù thủy (1983) của nhà văn Roald Dahl và tác phẩm điện ảnh cùng tên (2020)
của đạo diễn Robert Zemeckis.............................................................................13
1.1. Nhân vật “tôi”.............................................................................................13
1.2. Nhân vật bà ngoại.......................................................................................14
1.3. Nhân vật Đại Phù Thủy..............................................................................17

2


2. Điểm khác nhau giữa các nhân vật chính trong tác phẩm văn học Phù thủy,
phù thủy (1983) của nhà văn Roald Dahl và tác phẩm điện ảnh cùng tên (2020)
của đạo diễn Robert Zemeckis.............................................................................19
2.1. Nhân vật “tôi”.............................................................................................19
2.2. Nhân vật bà ngoại.......................................................................................20
2.3. Nhân vật Đại Phù Thủy..............................................................................22
KẾT LUẬN................................................................................................................ 25
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................................27

3


Lời nói đầu:
Văn học so sánh đã manh nha từ thời cổ đại khi các tiền nhân đã có ý thức so sánh
giữa nền văn học của mình với những nước khác. Chẳng hạn, nhà phê bình Hy Lạp cổ
đại Longinus đã ý thức phân tích tác phẩm văn học của mình cạnh các tác phẩm văn
học Do Thái. Tuy nhiên đây chỉ là sự so sánh xuất phát từ “cảm hứng cá nhân”, chưa

có ý thức lập thành một hệ thống lý luận. Vì vậy, đến tận những năm đầu thế kỷ XIX,
văn học so sánh mới phôi thai với tư cách là một ngành khoa học: “Cùng với sự liên
hệ của các nền văn học thế giới sẽ dẫn đến một nền văn học thế giới, vượt lên trên nền
văn học dân tộc”, W. Goethe đề cập cuộc trao đổi với Johann Peter Eckermann vào
năm 18271. Ông đã đưa ra một khái niệm quan trọng là “Weltliteratur” - “văn học thế
giới”.
Câu nói này ra đời trong hồn cảnh kinh tế xã hội đã có sự chuyển biến lớn. Trên
hết, chính là sự xuất hiện của chủ nghĩa tư bản. Từ việc phát triển thương mại, sự mở
rộng trong giao lưu kinh tế đã kéo theo sự lan tỏa của văn hóa từng quốc gia, dân tộc
đến những vùng đất mới. Từ đây, văn học có cơ hội khai mở, khơng chỉ biết đến mình
mà cịn biết đến nhiều nền văn học khác. Qua nhiều giai đoạn phát triển, “văn học thế
giới” không chỉ đề cập đến việc văn bản vượt ra khỏi biên giới quốc gia mà còn cả
những mã văn hóa mà nó mang theo. Cùng với đó, bản thân nền văn học dân tộc cũng
tiếp nhận sự ảnh hưởng của các nền văn học khác. Vì vậy, văn học so sánh ra đời với
nhiệm vụ quan trọng: “Xác định mối quan hệ giao lưu, ảnh hưởng, chuyển giao giá trị
và sáng tạo mới không lặp lại giữa các nền văn học trên thế giới”. (Trần Đình Sử,
2020, tr.5)
A. NHỮNG VẤN ĐỀ VỀ LÝ THUYẾT
1. Khái quát về lý thuyết so sánh liên ngành - một hướng nghiên cứu của
văn học so sánh
1.1. So sánh văn học và các ngành nghệ thuật
So sánh liên ngành xuất hiện vào thập niên 60 của thế kỷ XX, được tuyên bố bởi
các học giả thuộc trường phái Hoa Kỳ. Những nhà nghiên cứu đã mở rộng phạm vi so
sánh, không chỉ dừng lại ở tác phẩm văn học, nền văn học dân tộc mà còn giữa văn
học với các ngành khoa học khác. “Văn học so sánh là nghiên cứu về nền văn học
1 J. W. Goethe và J. P. Eckermann. (2009). 3 Conversations on World Literature
(1827).
Truy
cập
tại:

/>Ngày
truy cập: 12/12/2022

4


vượt ra khỏi giới hạn biên giới quốc gia và mối quan hệ giữa văn học với các lĩnh vực
tri thức và tín ngưỡng khác như nghệ thuật (bao gồm hội họa, kiến trúc, điêu khắc, âm
nhạc,...) triết học và lịch sử, khoa học xã hội (chính trị, kinh tế, xã hội học) hoặc khoa
học, tơn giáo,... Tóm lại, đó là sự so sánh văn học với các lĩnh vực biểu đạt khác của
con người.”. Đây chính là quan niệm mà Henry Remak nêu ra trong quyển
Comparative literature: method and perspective (1961). Quan điểm này cho thấy văn
học so sánh khơng chỉ có tính liên biên giới, liên dân tộc mà còn cả liên ngành.
Văn học, hội họa, âm nhạc, điêu khắc, ... suy cho cùng đều là những lĩnh vực của
văn hóa. Giữa chúng sẽ có những đoạn giao nhau đáng để đề cập. Trong văn học vẫn
tồn tại những loại thơ “thị giác” - đặc trưng của hội họa. Từ âm nhạc, nhiều bài thơ lại
được phổ nhạc, trong điện ảnh lại có những tác phẩm được cải biên từ văn học, ...
Trong một thời đại mà mọi sự vật hiện tượng đều có thể tư duy theo hướng liên ngành
thì văn học và điện ảnh cũng khơng nằm ngồi vịng phát triển đó.
1.2. Văn học và điện ảnh
Theo Trần Đình Sử, các nhà nghiên cứu thuộc trường phái Nga đặc biệt quan tâm
đến mối quan hệ giữa văn học và điện ảnh: “Họ chỉ ra mối quan hệ mật thiết giữa văn
học và điện ảnh: cả hai cùng là nghệ thuật thời gian, điện ảnh thường sử dụng các
biện pháp nghệ thuật của văn học như lắp ghép, liệt kê, so sánh, nói cách khác, điện
ảnh là nghệ thuật biết nói.” (Trần Đình Sử, 2020, tr.176). Dù có ngơn ngữ biểu đạt
khác nhau, song tác phẩm điện ảnh đều là một câu chuyện với góc nhìn của một hoặc
một vài nhân vật. Văn học thể hiện góc nhìn qua ngơi kể thì điện ảnh là camera. Chưa
cần đề cập đến cải biên hay chuyển thể thì vốn dĩ một tác phẩm điện ảnh cũng không
thể tách rời khỏi văn học, vì chúng cần kịch bản. Hầu hết mọi tác phẩm văn học đều
có thể xuất hiện trên màn ảnh. Chúng ta có những Bà Bovary, những Chiến tranh và

hịa bình, Nhà thờ Đức Bà Paris, Anna Karenina,... Đây chính là ngun nhân lớn dẫn
đến tình trạng phim cải biên bị đánh giá bằng tiêu chuẩn văn học. Sở dĩ, văn học và
điện ảnh cần được nghiên cứu theo hướng liên ngành vì chúng có những nút giao nhất
định, cụ thể nhất là nút giao tự sự và nút giao với những ấn tượng về thực tế.


Nút giao tự sự

Dù hình thức có khác nhau, cả văn học và điện ảnh đều làm chung một việc: kể lại
câu chuyện. Theo nhà phê bình điện ảnh Walter da Silveira: “Phim là một lĩnh vực đòi
hỏi yếu tố tường thuật như tiểu thuyết, bởi vì nó tồn tại trong một hệ thống sự kiện”.
Trong hầu hết phim cải biên, điểm được lấy ở tác phẩm văn học nhiều nhất chính là
yếu tố tự sự. Dù cho hình thức khác nhau, cả hai đều dùng chung một số phương thức
của nghệ thuật bao gồm thời gian và không gian nghệ thuật, những biểu tượng hoặc
hình ảnh ẩn dụ, ... Tường thuật bằng ngôn ngữ - chữ viết lúc nào cũng hiện diện một

5


cách trực tiếp. Cịn điện ảnh, khơng có chữ viết nhưng có những yếu tố như lời thoại,
góc quay, bối cảnh, âm thanh, ánh sáng, ... Đó là lý do khiến điện ảnh bắt buộc phải là
sản phẩm của một tập thể.


Nút giao ấn tượng về thực tế

Một điểm tương đồng khác về văn học và điện ảnh chính là thực tế mà hai thể loại
này đã tái tạo thông qua kỹ thuật riêng của mình. Kỹ thuật của văn học có thể phụ
thuộc vào cá nhân nhà văn, dựa vào việc nhà văn đó có điêu luyện hay “chơi” được
với ngơn ngữ khơng. Nhìn chung, mọi thứ đều xuất phát từ tư duy và ý tưởng cá nhân

của nhà văn. Ngược lại, tự thân điện ảnh không thể tạo nên thực tế mà nó muốn nếu
khơng có sự hỗ trợ từ nhiều yếu tố khác, đặc biệt là khoa học - cơng nghệ. Ví dụ, đạo
diễn - biên kịch James Cameron không thể thực hiện được ý tưởng của mình nếu cơng
nghệ khơng đáp ứng đủ, đó là lý do lớn khiến Avatar 2 ra đời sau Avatar 1 đến tận 13
năm.
Thực tế thể hiện trong văn học và phim đều không tránh khỏi việc làm độc giả/ khán
giả thấy khơng hài lịng. Tuy nhiên, điện ảnh lại chịu sự phản ứng dữ dội hơn vì người
xem tận mắt nhìn, tận tai nghe được thực tế mà đạo diễn phục dựng. Đây vừa là điểm
mạnh cũng vừa là điểm yếu. Cịn với văn học, ln có một khoảng khơng gian để mỗi
người thỏa sức tưởng tượng. Tuy nhiên, không phải ai cũng có khả năng tưởng tượng.
Vì vậy, người ta mới cần tới điện ảnh, cần tới một thứ trực quan.
Từ những điểm giao nhau trên, hướng nghiên cứu liên ngành giữa văn học và điện
ảnh sẽ làm rõ những đóng góp mà hai hình thức nghệ thuật này mang lại.
2. Một số vấn đề về lý thuyết cải biên.
2.1. Khái niệm “cải biên” và Cải biên học
Từ thập niên 1895, phim cải biên đã xuất hiện và trở thành hiện tượng thu hút
nhiều sự quan tâm nhất. Bởi đây là đối tượng nhận được cả hai luồng yêu thích và
phản đối. Sự xung đột có thể đến từ quan niệm rằng, văn học là truyền thống. Một thứ
non trẻ như nhiếp ảnh (phát triển thành quay phim) có thể xâm lấn đến truyền thống
văn chương.
Những bộ phim đầu tiên được cải biên từ văn học có thể kể đến: Cô Bé Lọ Lem
(1900), Gulliver Du Ký (1902), Tội Đày Địa Ngục của Faust (1904), ... Năm 1903,
điện ảnh xuất hiện với vai trị là một ngành cơng nghiệp, tách mình ra khỏi cái mà
người ta gọi là vaudevillian (tạp kỹ). Nhiều tác phẩm của các nhà văn như
Shakespeare, Goethe, Hugo, Dickens, ... đã sớm được đưa lên màn ảnh.

6


Theo từ điển Oxford thì “cải biên” (adaptation) trong bối cảnh truyền thông được

định nghĩa như sau: “Cải biên là tạo nên một phiên bản đã được thay đổi của một văn
bản, tác phẩm âm nhạc, ... và hiện nay đặc biệt là việc cải biên để quay phim, phát
sóng hoặc sản xuất các chương trình sân khấu từ tiểu thuyết hoặc các nguồn văn học
tương tự.”
Tuy nhiên, đây chỉ là một trong số những khái niệm được đưa ra. Hoạt động cải
biên không dừng lại, sự phát triển của điện ảnh vẫn đang diễn ra, nghĩa là các khái
niệm sẽ ln ln được cập nhật. Lịch sử lồi người đã nhiều lần chuyển thể “văn
bản” thành nhiều dạng thể khác nhau. Những câu chuyện trong Thần thoại Hy Lạp
được các nhà Phục Hưng biểu hiện qua hội họa, điêu khắc. Đồng thời, văn học cũng
được đưa lên sân khấu thông qua những vở kịch. Tuy nhiên, đến thời đại của điện ảnh,
những tranh cãi đã nảy ra sôi nổi, tạo điều kiện cho lý thuyết cải biên hay Cải biên học
(Adaptation studies) phát triển.
2.2. Vấn đề “trung thành” trong lịch sử Cải biên học
Việc cải biên một tác phẩm văn học thành một bộ phim không phải là một việc xa
lạ. Khi một bộ phim ra đời dựa trên tác phẩm văn học nào đó, dù ít hay nhiều, người ta
thường có xu hướng đem chúng “cân đo đong đếm” xem đâu là phiên bản hay hơn.
Tuy nhiên, trong văn học so sánh, đây không phải là mục tiêu cần hướng đến.
Trong lịch sử cải biên học, nhiều học giả có xu hướng thiên vị cho tác phẩm văn
học hoặc cho tác phẩm điện ảnh. Quá trình nghiên cứu như một cuộc đấu tranh với các
quan niệm và xu hướng hạ bệ một trong hai. Đi cùng với phê bình phim chuyển thể là
các khái niệm “chung thủy - phản bội”, “trung thành - phản bội”, thậm chí là “xúc
phạm”. “Độ trung thành” xuất hiện như một đơn vị đo lường cho các phim cải biên.
Điều này có thể lý giải từ góc độ biểu hiện. Văn học là ngành nghệ thuật sử dụng ngơn
từ. Từ cổ chí kim, dù cho công nghệ in ấn phát triển đến đâu, thứ cuối cùng biểu hiện
văn học vẫn là chữ viết. Đây là phương tiện gần như “độc nhất vô nhị”. Đến khi điện
ảnh phát triển, tác phẩm văn học không cịn đơn giản như thế. Ngồi kịch bản (gồm
nhân vật, cốt truyện, tự sự) thì điện ảnh cịn được thể hiện qua hình ảnh, âm thanh,
hiệu ứng, sự chuyển động, ... Có quá nhiều sự khác biệt. Điều đó khiến điện ảnh bị
gán cho một loạt những quy tắc, buộc nó phải “trung thành” với văn học thì mới
khơng làm tác phẩm văn học bị biến chất. Thật ra ngay chính bản thân văn học cũng

khơng thể trung thành với chính mình. Trường hợp văn học dịch là một ví dụ điển
hình. Một tác phẩm được dịch sang ngơn ngữ khác thì bản dịch đã “khơng trung
thành” với bản gốc rồi. Đơn giản vì đó là hai ngơn ngữ khác nhau. Giữa hai văn bản
này chỉ có thể gần đúng hoặc văn bản dịch nắm được tinh thần chính của văn bản gốc.
Văn học và điện ảnh cũng có tính đặc thù như vậy.

7


Khái niệm “trung thực” không phải lúc nào cũng đánh vào việc “trung thực” đúng
nghĩa đen. Thật ra, nhiều nhà nghiên cứu chỉ yêu cầu bộ phim thể hiện được “tinh
thần” của tác phẩm văn học. Tuy nhiên, thế nào là “tinh thần”? Trong lý luận tiếp
nhận, văn học chính là một loại tín hiệu. Độc giả là người giải mã tín hiệu đó. Vì vậy,
việc tiếp nhận sẽ tạo ra vô số cách đọc khác nhau ở cùng một tác phẩm. Nghĩa là một
văn bản dù có trải qua bao nhiêu thời gian, nó vẫn khơng thay đổi gì về mặt chữ nghĩa
nhưng chắc chắn rằng nó khơng phải là một cấu trúc đóng. Văn bản chính là cấu trúc
mở. Nó ln ln thay đổi và được diễn giải qua mn hình vạn trạng cách. Vì vậy, có
thể xem điện ảnh là một “độc giả” của văn học.
Trên thực tế, những tác phẩm văn học càng nổi tiếng, khi được cải biên thành phim
thì người ta càng có u cầu cao hơn về “độ trung thành” của nó. Xảy ra hiện tượng
trên vì nó ít nhiều liên quan đến “tính nguồn cội” và “tính thích ứng”. Văn học là một
lĩnh vực xuất hiện lâu đời. Nó đã trải qua đủ hình thái của mình và song hành cùng
lịch sử. Trong khi đó, điện ảnh - một lĩnh vực non trẻ hơn muốn dựa trên văn học để
“thích ứng” thì tất nhiên nó phải nhìn về “nguồn cội”. Theo Robert Stam, nhiều quan
niệm cố hữu đã tạo ra nhận thức trên. Chúng bao gồm: niềm tin rằng nghệ thuật lâu
đời mới là nghệ thuật có giá trị; định kiến giai cấp; chứng ái kỷ chữ viết; niềm tin nghệ
thuật thị giác phải xếp thấp hơn nghệ thuật ngơn từ (chính sách cấm thờ phụng tượng,
tranh hay ảnh của các thánh đường Hồi giáo). Vì vậy, trong nghiên cứu, người ta có
xu hướng lấy văn học làm tiêu chí đánh giá điện ảnh chứ khơng xem xét đến những gì
điện ảnh đã làm được.

Tóm lại, quan niệm phim cải biên phải trung thành với tác phẩm văn học là quan
niệm chủ quan, đơn giản hóa và khơng phù hợp với hai đối tượng thuộc hai hoàn cảnh
lịch sử - xã hội và có chất liệu cấu thành khác nhau.
2.3. Xu hướng mới trong lý thuyết cải biên.
Những năm gần đây, khi nghiên cứu về vấn đề cải biên, người ta thường khơng
cịn phân đơi giữa văn học và điện ảnh. Thay vào đó, các nhà nghiên cứu tập trung vào
tính đa chiều trong thời đại truyền thông. Theo số liệu từ Đại học Oxford, hơn 50% số
phim của Hollywood là phim cải biên và chúng ln nằm trong nhóm có doanh thu
cao tại phịng vé. Thành cơng nhất phải kể đến Chúa tể của những chiếc nhẫn (nhà
văn J. R. R. Tolkien) và Harry Potter (nhà văn JK Rowling). Với thành tựu đã đạt
được, người ta bỏ qua nghi vấn về tính khả thi của việc cải biên phim mà tập trung
khai thác bản chất của nó.
Những gì mất đi và được giữ lại, có “trung thành” nữa hay khơng, chỉ là một góc
của vấn đề. Cái khái quát hơn là những gì mà điện ảnh và và cả tác phẩm đã đạt được
qua một hình thức mới, một lĩnh vực mới. Nhiều nhà nghiên cứu như Robert Stamp,
Thomas Leitch hay Linda Hutcheon đã xem việc cải biên là một quá trình đối thoại.

8


Quá trình này diễn ra giữa văn bản và phim, giữa người xem và đạo diễn, giữa độc giả
với khán giả, ... thậm chí là giữa nhà văn và bộ phim được cải biên từ tác phẩm của
mình. Đối thoại nghĩa là hai phía đều nói và lắng nghe phía cịn lại, nhìn nhận lại nhau
chứ khơng bác bỏ nhau. “Trong thời đại liên ngành, khơng có gì lành mạnh hơn việc
nhìn tính ngơn từ của văn học dưới góc độ điện ảnh và nhìn tính biểu tượng của điện
ảnh từ góc độ văn học.” (Linda Catarina Gualda, 2011, tr.202)
Khi nhận ra việc phân biệt rạch ròi giữa hai lĩnh vực khơng cịn đạt được kết quả
nữa thì người ta bắt đầu nhìn cải biên theo hướng thích nghi. Bản thân tác phẩm văn
học cần có sự thay đổi để tồn tại với môi trường mới, cụ thể là thời đại của truyền
thông đa phương tiện. Ngược lại, để đáp ứng được sự phát triển của mình thì điện ảnh

cần có chất liệu để thể hiện. Cả tác phẩm văn học và phim đều cần trải qua một quá
trình chỉnh lý để có thể thích nghi. Chẳng hạn, với một quyển tiểu thuyết dài hơi, nhà
làm phim có thể chọn một góc nhìn hoặc một tình tiết để cho ra thời lượng phim phù
hợp. Ngược lại, với một truyện ngắn, người ta lại mở rộng nó ra. Đó là một quá trình
đánh đổi và mạo hiểm. Vì thực chất sẽ khơng có bộ phim nào có thể giữ lại tồn bộ
những gì mà văn học mang lại. Bối cảnh, nhân vật, tự sự, nhịp độ, ... có thể thay đổi
cho phù hợp với thị trường và nhu cầu nhà làm phim. Nhưng thay vào đó, phim lại
mang đến những yếu tố mới mà văn học chưa thể biểu hiện được. Đó là âm thanh, là
ánh sáng, là chuyển động thực tế, ... Đây chính là một trong những đối tượng mà văn
học so sánh hướng đến.
3. Lý do và mục đích so sánh
Hiện nay, trên thế giới, hiện tượng cải biên tác phẩm văn học thành phim không
phải là điều hoàn toàn mới mẻ hay xa lạ nữa và đã có khơng ít bộ phim gây được ấn
tượng với khán giả bởi sự cách tân từ nguyên tác văn học thành cơng. Nhận thấy văn
học và điện ảnh có mối quan hệ chặt chẽ, có ảnh hưởng, tác động khơng nhỏ đến nhau,
nên việc đặt cạnh nhau để xem xét mối quan hệ giữa chúng là một điều cần thiết. Qua
việc tìm hiểu, nghiên cứu, nhóm chúng tơi muốn vận dụng kiến thức của văn học so
sánh để phần nào đó làm rõ những sự sáng tạo của hai tác phẩm văn học và điện ảnh,
sự thay đổi ngôn ngữ nghệ thuật như thế nào, ...và quan trọng hơn cả là mối quan hệ
giữa văn chương và lĩnh vực điện ảnh. Dẫu biết, văn học cung cấp một nguồn dữ liệu
phong phú cho điện ảnh thế nhưng khi tiến hành so sánh, chúng ta cần tránh thái độ
cực đoan trong việc đánh giá tác phẩm văn học và tác phẩm điện ảnh cải biên từ văn
học.
Bộ phim Phù thủy, phù thủy được công chiếu vào năm 2020 của đạo diễn Robert
Zemeckis được chuyển thể từ tác phẩm cùng tên của nhà văn Roald Dahl. Dù được
chuyển thể từ tác phẩm gốc nhưng ở phiên bản điện ảnh, bộ phim đã có những thay
đổi, sáng tạo phù hợp với những chất liệu đa dạng của điện ảnh để có thể trình chiếu
lên màn ảnh rộng. Với sự khác biệt về thời kỳ, văn hóa và xã hội của cả hai nước Anh

9



và Mỹ, điều này đã có những tác động đến việc hai tác phẩm này có những điểm khác
nhau. Nhưng giữa hai nền văn học Anh và Mỹ lại có mối quan hệ giao lưu, ảnh hưởng
của văn hóa làm cho các nhân vật trong tác phẩm điện ảnh được chuyển thể nhưng vẫn
có những đặc điểm chung với tác phẩm gốc. Chính vì thế, cần so sánh tác phẩm văn
học với tác phẩm điện ảnh để thấy rõ nét những điểm giống và khác nhau. Trong đó sự
tương đồng và khác biệt giữa hệ thống các nhân vật chính ở tác phẩm văn học và tác
phẩm điện ảnh là một điểm đáng chú ý. Thơng qua đó, cho ta có một cái nhìn khách
quan hơn về hai tác phẩm.
B. GIỚI THIỆU TÁC GIẢ, TÁC PHẨM
1. Giới thiệu sơ lược về tác giả Roald Dahl và tác phẩm Phù thủy, phù thủy
(1983)
1.1. Tác giả Roald Dahl
Roald Dahl (13/09/1916 - 23/11/1990) sinh ra tại xứ Wales có cha mẹ là người gốc
Na Uy, ông là tiểu thuyết gia, nhà văn truyện ngắn, nhà thơ, nhà soạn kịch, phi công
chiến đấu. Roald Dahl đã từng phục vụ trong Khơng qn Hồng Gia Anh trong Thế
chiến II, đến năm 1940 ông mới bắt đầu sự nghiệp sáng tác của mình với các truyện
dành cho cả người lớn và trẻ em. Ông được mệnh danh là “Người kể chuyện cho trẻ
em vĩ đại nhất của Thế kỷ 20”. Roald Dahl đã vô cùng thành cơng khi trở thành một
trong những tác giả có sách bán chạy nhất thế giới với hơn 200 triệu bản và được dịch
ra hơn 50 thứ tiếng.
Roald Dahl có một tuổi thơ với nhiều mất mát, đau thương khi chị gái của ông qua
đời vào năm 1920, cha của ông cũng mất khơng lâu sau đó. Người mẹ của Roald Dahl
đã ở lại xứ Wales và chăm sóc cho gia đình. Sau này, ơng kết hơn với nữ diễn viên
Hollywood là Patricia Neal từng giành giải Oscar và họ có với nhau 5 người con. Thế
nhưng không may một cậu con trai của ông bị chấn thương sọ não khi cịn rất nhỏ, cơ
con gái lớn của ơng thì mất vì bệnh sởi. Cịn Patricia cũng st mất mạng sau 3 cơn
đột quỵ vào năm 1965. Đến năm 1983, hai vợ chồng ơng ly hơn. Sau đó ơng kết hơn
với Felicity Lissy và đến năm 1990 ông qua đời tại Oxford (Anh) vì bệnh ung thư

máu.
Trong suốt sự nghiệp sáng tác của mình, ơng đã cho ra đời hơn 70 truyện và sách,
kịch bản, trong đó có 19 tác phẩm viết dành cho trẻ em mà nhiều tác phẩm nổi tiếng
và trở nên quen thuộc với độc giả trên khắp thế giới có thể kể đến như: Kiss Kiss
(1960), Jame và quả đào khổng lồ (James and the Giant Peach, 1961), Charlie và Nhà
máy Sô cô la (Charlie and the Chocolate Factory, 1964 ), Phù thủy, phù thủy (The
Witches,
1983), Bác Fox tuyệt vời (Fantastic Mr Fox, 1989),.. Các tác phẩm này của ông không
chỉ được xuất bản dưới dạng sách mà cịn được dựng thành phim. Trong số đó, The
Witches được xuất hiện trên màn ảnh qua 2 bộ phim The Witches (1990) của đạo diễn

10


Nicolas Roeg và The Witches (2020) hay còn được biết đến với cái tên Roald Dahl’s
The Witches của đạo diễn Robert Zemeckis.
Thành công của Roald Dahl đã được ghi nhận với một loạt các giải thưởng như:
Giải thưởng Edgar cho Truyện ngắn hay nhất (1954 và 1960), Giải thưởng Edgar cho
Tập kịch truyền hình xuất sắc nhất (1980), …Năm 2008, Tạp chí The Times đã xếp
hạng ơng đứng thứ 16 trong danh sách “50 tác giả Anh vĩ đại nhất từ năm 1945”. Tại
Việt Nam, Roald Dahl là một tác giả có sức ảnh hưởng lớn đặc biệt trong mảng đề tài
văn học thiếu nhi, nhiều tác phẩm của ông đã được xuất bản tại nước ta và nhận được
sự hưởng ứng tích cực từ phía độc giả.
Roald Dahl khơng chỉ gây ấn tượng trong những tập truyện ngắn, tiểu thuyết cho
người lớn mà còn đặc biệt rạng danh trong mảng văn học dành cho thiếu nhi. Cuộc
sống của Roald Dahl đã trải qua nhiều biến cố, mất mát người thân từ thời thơ ấu,
thiếu sự chăm sóc của người cha cùng với việc sau này những đứa con của Roald Dahl
cũng gặp nhiều điều không may, điều này đã ám ảnh và ảnh hưởng không nhỏ đến lối
viết của ông. Những câu chuyện kể dành cho trẻ con này, ông viết vì niềm say mê
hứng thú được bồi đắp từ thời niên thiếu của ơng, và ơng cịn coi đó là những món q

cho con cái mình, cho thiếu nhi: “Sophie và tên khổng lồ là món quà muộn màng mà
Roald Dahl dành tặng cho cô con gái Olivia Dahl” (Đạo diễn Robert Zemeckis: Người
tạo ra những bom tấn điện ảnh, 2019). Đối với thiếu nhi, những câu chuyện của Roald
Dahl mở ra một thế giới vừa quen thuộc, gần gũi với trẻ em (socola, quả đào, châu
chấu, nhện, ...) nhưng cũng đầy nhiệm màu trong trí tưởng tượng của chúng (thế giới
thần kỳ với phù thủy, phép thuật, thần chú, những chi tiết phi thường, kỳ ảo…).
Cùng với đó là cách kể chuyện vừa hài hước lại vừa lôi cuốn, hấp dẫn, bất ngờ đã
khiến bao độc giả nhỏ tuổi đã say mê, đắm chìm, hồi hộp trong những chuyến phiêu
lưu của các nhân vật. Từ đó, các độc giả nhỏ tuổi nhận thức được thế giới xung quanh
có biết bao điều thú vị, mới mẻ nhưng cũng có khơng ít hiểm nguy rình rập và ít nhiều
rút ra cho mình những bài học đầu đời từ trang sách. Đó có thể là bài học về tình cảm
gia đình, bạn bè, bài học về cách ứng xử trong đời sống, ...Thế nhưng trong cách đọc
của người lớn thì những câu chuyện ấy lại ẩn chứa nhiều điều hơn thế. Các nhân vật
của Roald Dahl thường rơi vào trong một tình huống bất hạnh (nhân vật “tơi” trong
Phù thủy, phù thủy mồ côi cả cha lẫn mẹ phải tới ở với bà ngoại rồi không may bị phù
thủy biến thành chuột; cậu bé James trong James và Quả đào khổng lồ mồ côi cha mẹ
sau một tai nạn khủng khiếp rồi được gửi tới sống với hai người cô ích kỷ, lười biếng,
cay nghiệt, …).
Các nhân vật trong truyện của Roald Dahl cũng có những điểm đáng chú về ngoại
hình, nhiều nhân vật có ngoại hình kì dị như các vị phù thủy, những con vật bị biến
đổi, ...đầy ám ảnh. Rồi sau đó, kết cục của nhiều nhân vật trong truyện cũng khiến độc
giả phải thảng thốt: nhân vật “tôi” trong Phù thủy, phù thủy mãi mãi sống trong thân
hình một chú chuột khơng thể trở lại làm người; khi quả đào khổng lồ trong James và

11


Quả đào khổng lồ lăn đến đâu thì để lại sự hoang tàn đến đó, … Những truyện ngắn,
tiểu thuyết Roald Dahl không thiếu những yếu tố đen tối, u ám, bạo lực, ...Việc quyết
định lựa chọn đem những điều “đen tối” ấy vào tác phẩm đã cho thấy tác giả khơng

tìm cách tơ vẽ một cuộc sống màu hồng, ông muốn mang cả những điều đen tối, xấu
xa và thậm chí có phần rùng rợn bày ra trước độc giả. Bất chấp có những ý kiến phản
đối thì chúng ta phải thừa nhận sức hút từ những câu chuyện thú vị của Roald Dahl.
Truyện của Roald Dahl dành cho mọi đối tượng, trẻ con có thể thích chí khi đọc
những nhân vật có phần kì lạ, hay những điều thần bí, diệu kỳ nhưng người lớn lại
nắm bắt được những vấn đề sâu xa hơn ẩn tàng phía dưới. Việc viết để thỏa mãn nhu
cầu của trẻ em hay người lớn đã khó, nên việc để cho người lớn và trẻ em đều hứng
thú khi cầm cuốn sách trên tay là một điều địi hỏi trí tưởng tượng phong phú, sự sáng
tạo, nhiệt huyết của nhà văn. Chính vì vậy, sự thành công của tác phẩm là minh chứng
cho tài năng của nhà văn vĩ đại Roald Dahl.
1.2. Tác phẩm Phù thủy, phù thủy (1983)
Tác phẩm Phù thủy, Phù thủy của nhà văn Roald Dahl được xuất bản vào năm
1983 ở Anh. Để có thể hồn thành tác phẩm, nguồn cảm hứng chủ yếu mà nhà văn
Roald Dahl có được là từ chuyến đi đến Na Uy vào thời thơ ấu của ơng vì chính nơi
đây, nhà văn đã được nghe những câu chuyện về kì lạ về phù thủy.
Tác phẩm Phù thủy, phù thủy (1983) của nhà văn Roald Dahl kể về cuộc đời của
nhân vật “tôi”. Sau khi cha mẹ mất trong một vụ tai nạn, cậu đã sống cùng bà ngoại.
Vốn là một nhà phù thủy học, bà ngoại đã kể cho cậu nghe rất nhiều điều về phù thủy.
Trong một lần, nhân vật “tôi” đang dựng một ngơi nhà đồ chơi trên cây thì cậu đã
chạm trán, với phù thủy và điều này làm cho bà ngoại rất lo lắng. Do bà bị bệnh nên kì
nghỉ hè của cậu đã cùng bà ngoại đến khách sạn Kỳ Diệu. Và một sự tình cờ đã diễn
ra, tại khách sạn, trong khi đang chơi với hai chú chuột của mình, cậu đã nghe được
âm mưu khủng khiếp của vị Đại phù thủy là biến trẻ em thành chuột bằng thứ thuốc bà
ta điều chế ra “công thức 86 biến người thành chuột”. Cậu đã tận mắt chứng kiến
Bruno bị biến thành chuột, sau đó chính cậu cũng bị đám phù thủy phát hiện và rồi
cũng như Bruno, nhân vật “tơi” cũng đã bị biến đổi trong hình hài của một chú chuột.
Trong hình dạng của một chú chuột, nhân vật “tôi” và Bruno đã chạy về báo cho bà
ngoại biết hết mọi chuyện, từ đây hành trình tiêu diệt phù thủy bắt đầu. Cậu và bà
ngoại lên một kế hoạch là biến tất cả phù thủy thành chuột, ở trong hình dạng của một
chú chuột cậu đã thuận lợi đánh cắp được thuốc và hoàn thành nhiệm vụ biến tất cả

phù thủy thành chuột. Nhưng đến cuối cùng, nhân vật “tôi” vẫn không thể trở lại thành
người. Tuy vẫn là một chú chuột nhỏ nhưng nhân vật “tôi” vẫn rất lạc quan, cậu trở về
ngôi nhà ấm áp cùng bà ngoại, hai bà cháu lên kế hoạch và cùng nhau thực hiện
chuyến hành trình tiêu diệt lũ phù thủy độc ác trên khắp thế giới.

12


2. Giới thiệu đạo diễn Robert Zemekics và tác phẩm điện ảnh Phù thủy,
phù thuỷ (2020)
2.1. Đạo diễn Robert Zemeckis
Robert Zemeckis (1952) sinh ra ở thành phố Chicago, có cha là người Mỹ gốc Litva
và mẹ là người Mỹ gốc Ý. Ông là nhà biên kịch, đạo diễn, nhà sản xuất phim người
Mỹ nổi tiếng và thành công qua các bộ phim: Romancing the Stone (1984), Back to
the Future (3 phần), Who Framed Roger Rabbit (1988), Forrest Gump (1994),
Castaway (2000), Beowulf (2007), The Walk (2015), … Trong số đó thì Forrest Gump
của đạo diễn Robert Zemeckis đã xuất sắc được đề cử 13 giải thưởng, giành được đến
6 giải Oscar, trong đó có Phim hay nhất, đạo diễn xuất sắc nhất, nam diễn viên chính
xuất sắc nhất…Ngồi ra, ơng cịn nhận được nhiều giải thưởng giá trị khác nhờ những
cống hiến của mình. Robert Zemeckis nổi tiếng với việc sử dụng hiệu ứng hình ảnh,
cơng nghệ, kĩ xảo vào tác phẩm của mình. Ơng được xem như là “vị đạo diễn nổi tiếng
nhất của lịch sử Hollywood với việc đi tiên phong trong việc sử dụng hiệu ứng hình
ảnh” (Đạo diễn Robert Zemeckis: Người tạo ra những bom tấn điện ảnh, 2019). Chính
vì vậy mà những thước phim của ơng đều được đầu tư chỉn chu, chuẩn bị kĩ lưỡng,
đem lại cho khán giả những trải nghiệm đầy mới mẻ, thú vị.
2.2. Tác phẩm điện ảnh Phù thủy, phù thủy (2020)
Phù thủy, phù thủy (The Witches, 2020) là tác phẩm điện ảnh mà đạo diễn Robert
Zemeckis trở lại gần đây với khán giả, tác phẩm được cải biên từ cuốn tiểu thuyết
cùng tên của Roald Dahl (trước đó đã có bộ phim The Witches (1990) của đạo diễn
Nicolas Roeg rất thành công), với dàn diễn viên nổi tiếng cùng những cách thức xây

dựng phim mang thương hiệu Robert Zemeckis. Đây vốn là một bộ phim hài có màu
sắc kỳ ảo với sự xuất hiện của phù thủy tạo màu sắc đen tối cho phim với sự tham gia
của các diễn viên Anne Hathaway, Chris Rock, Codie-Lei Eastick, Jahzir Bruno,
Kristin Cheniweth, Octavia Spencer, Stanley Tucci.
Phim Phù thủy, phù thủy (2020) kể về cuộc sống của “tôi” - một cậu bé 8 tuổi sống
ở Chicago (do Joseph Zinyemba thủ vai) mồ côi cha mẹ sau khi họ gặp phải tai nạn
trên đường vào dịp Giáng Sinh, từ đó cậu chuyển tới Alabama sống cùng bà ngoại của
mình (do Octavia Spencer thủ vai). Trong một lần, hai bà cháu tới cửa hàng tạp hóa
mua đồ thì cậu bé vơ tình chạm mặt một mụ phù thủy. Bà của cậu bé khi còn nhỏ đã
từng được chứng kiến sự nham hiểm độc ác của những mụ phù thủy vì họ rất căm ghét
trẻ con. Lo lắng phù thủy sẽ làm hại cháu mình nên bà đã quyết định đưa cậu bé đến
khách sạn Grand Orleans Imperial Island. Bởi vì ở khu nghỉ mát sang trọng nhất
Alabama này chỉ có những người da trắng giàu có cịn phù thủy thì chỉ tìm kiếm
những đứa trẻ nghèo. Khơng may, khách sạn đó cũng chính là nơi các phù thủy tổ
chức cuộc họp đứng đầu bởi vị Đại Phù Thủy (do Anne Hathaway thủ vai) với âm
mưu nham hiểm, tàn ác là biến tất cả trẻ con trên trái đất này thành chuột bằng thứ
thuốc mang tên “Công thức số 86” (Mouse Maker). Nhân vật “tôi” cũng bị biến thành

13


chuột như cơ bé Mary, cậu bé Bruno. Sau đó, cậu bé đồng hành với hai người bạn
Mary và Bruno dưới sự giúp đỡ của bà ngoại đã thực hiện kế hoạch chống lại tổ chức
phù thủy độc ác này. Dù đến cuối phim, “tôi” và hai người bạn của mình cũng vẫn
khơng được quay trở lại hình dạng người bình thường như trước nhưng họ đã chấp
nhận sống dưới hình hài mới và cũng nhận ra những giá trị trong cuộc sống
C. SO SÁNH ĐIỂM GIỐNG VÀ KHÁC NHAU GIỮA CÁC NHÂN VẬT
CHÍNH TRONG TÁC PHẨM VĂN HỌC PHÙ THỦY, PHÙ THỦY (1983) CỦA
NHÀ VĂN ROALD DAHL VÀ TÁC PHẨM ĐIỆN ẢNH CÙNG TÊN (2020)
CỦA ĐẠO DIỄN ROBERT ZEMECKIS

1. Điểm giống nhau giữa các nhân vật chính trong tác phẩm văn học Phù
thủy, phù thủy (1983) của nhà văn Roald Dahl và tác phẩm điện ảnh
cùng tên (2020) của đạo diễn Robert Zemeckis
1.1. Nhân vật “tôi”
Nhân vật “tôi” là nhân vật trung tâm của cả tác phẩm lẫn phim, vì thế nhân vật này
được xây dựng tỉ mỉ. Trong tác phẩm nhân vật “tôi” gặp phải biến cố mất đi cả cha lẫn
mẹ trong một tai nạn và phải sống với bà ngoại. Trong phim, biến cố này xuất hiện
ngay những phút đầu tiên, mở ra một cuộc đời mới cho nhân vật.
Tương đồng về tính cách: Ta thấy tính cách rõ nét nhất của nhân vật “tơi” là sự tò
mò, hồn nhiên. Khi nghe bà ngoại kể những câu chuyện về phù thủy, hẳn đứa trẻ nào
cũng đều dậy lên trí tưởng tượng, sự tị mị. Trong tác phẩm, trong khi nghe những câu
chuyện thú vị từ bà mình, cậu hay thắc mắc và hỏi bà những câu hỏi ngây ngơ, hỏi đến
khi tìm ra được lời giải đáp mới thôi. Đặc biệt, cậu bị thu hút mạnh mẽ bởi những câu
chuyện về phù thủy “Nhưng bà nói với con rằng phù thủy giống hệt phụ nữ bình
thường. Vậy làm sao con nhận ra họ?”. Sự ngây ngô, trẻ con, đáng u của nhân vật
“tơi” là một tính cách quan trọng vì thế trong phiên bản điện ảnh”, đạo diễn cố gắng
giữ nguyên những đặc trưng ấy khi xây dựng nên nhân vật “tôi”. Trong phim, sau khi
chạm mặt với phù thủy tại cửa hàng, nhân vật “tôi” cũng đã có những sự tị mị về phù
thủy bằng suy nghĩ ngây thơ và được bà giải đáp những thắc mắc. Nhân vật “tơi” được
xây dựng thành cơng hình tượng một đứa trẻ ln tị mị về thế giới xung quanh bằng
một tâm hồn trong trẻo, hồn nhiên. Cả hai phiên bản đều được kể với ngôi kể thứ nhất,
khiến cho người đọc và người xem như được hóa thân thành người cháu đang chăm
chú nghe bà mình kể chuyện bằng một ánh nhìn ngây thơ dù ta biết đó là những câu
chuyện hoang đường.
Điểm tương đồng chính giữa tác phẩm và phim đó là nhân vật “tơi” bị Đại phù
thủy biến thành chuột, không bao giờ được trở lại thành người và phải đối đầu với
những hiểm nguy rình rập từng giây từng phút. Chuột là một mã văn hóa (totem) trong
văn hóa nhân loại. Chuột được cho là biểu tượng của sự tái sinh. Nhân vật “tôi” đã trải
qua những nỗi đau mất mát và việc biến thành chuột tưởng chừng như một tai họa
khủng khiếp nhưng lại mở ra cho cậu một cuộc sống thú vị, có ích phía trước. Khi bị


14


biến thành chuột, cậu không hề tỏ ra sợ hãi hay thất vọng mà ngược lại, cậu cịn cảm
thấy thích thú, cậu thú nhận với bà mình rằng “con khơng cảm thấy tức giận, thật ra
ra con lại thấy thoải mái” (Dahl, 2014, tr. 116). Trong tác phẩm văn học, trong thời
gian bị biến thành chuột, cậu đã cùng bạn của mình cùng nhau bước vào cuộc hành
trình vừa trốn khỏi nanh vuốt của mụ Đại phù thủy, vừa tìm cách tiêu diệt mụ. Việc bị
biến thành chuột thật ra lại giúp cậu di chuyển nhanh hơn, dễ dàng ẩn nấp mà không bị
ai phát hiện. Ta thấy rằng, nhân vật “tơi” mang tâm thế lạc quan và hài lịng chính
mình dù ở bất cứ hình dáng nào, cậu vẫn là cậu, vẫn giữ được căn tính của mình mà
khơng bị biến chất. Bên cạnh đó, cậu cịn có một lịng dũng cảm, thơng minh và nhân
ái. Một cậu bé chỉ mới bảy tuổi, trải qua biến cố dường như kinh khủng nhưng cậu vẫn
sáng suốt đưa ra những mưu mẹo một cách tinh thông trong việc thực hiện kế hoạch
tiêu diệt Đại phù thủy và đồng bọn. Dù trong hồn cảnh khó khăn nhưng cậu khơng bỏ
rơi bạn mình là Bruno, cả hai cùng phối hợp nhịp nhàng để mang đến sự thành công
cho kế hoạch. Cuối cùng, cậu bé khơng trở lại thành người mà vẫn mang hình hài là
chuột và cùng bà mình bước vào cuộc hành trình “trừ gian diệt ác” về sau. Có lẽ, cậu
khơng trở lại làm người vì cậu cho rằng làm chuột sẽ có thể làm được những điều mà
con người khơng thể làm, lồi chuột có thể bị đi đâu tùy thích, dễ dàng nghe ngóng
tình hình mà khơng bị phát hiện, và lý do đặc biệt là bởi vì lồi chuột có tuổi thọ ngắn,
cậu khơng muốn trở thành gánh nặng cho bà của mình nên cậu mong có thể chết trước
bà. Điều này cũng có thể giải thích dưới góc độ tâm lý, có lẽ vì trước đây cậu đã phải
trải qua biến cố mất cha và mẹ, cậu không thể chịu thêm một sự mất mát nào khác
nữa. Vì bà là người thân duy nhất của cậu nên nếu bà chẳng may qua đời, cậu chẳng
còn ai trên đời và lại rơi vào tâm lý bị bỏ rơi. Mong ước được chết trước bà cũng là để
cho bản thân mình khơng phải đối diện với nỗi đau mất người thân một lần nào nữa.
Với ý nghĩa nhân văn này, bản điện ảnh năm 2020 của đạo diễn Robert Zemeckis vẫn
giữ đúng nguyên tác, nhân vật “tôi” vẫn ở hình dạng chuột, “tơi” khơng trở lại thành

người, mãi sống với lốp “chuột” nhưng điều đó lại khiến cậu vui, hạnh phúc, trở thành
một “người chuột” có ích. Song đó, vì ý nghĩa của hình tượng chuột như đã nói phía
trên, phiên bản điện ảnh 2020 vẫn giữ ngun hình tượng này chứ không biến nhân
vật “tôi” thành con vật nào khác và vẫn giữ nguyên chất giọng của nhân vật. Ở phiên
bản điện ảnh, hành trình đấu trí với Đại phù thủy dưới lốt chuột được quay một cách
công phu, sống động. Tốc độ quay nhanh, kĩ xảo điện ảnh công phu khiến cho khán
giả chăm chú theo dõi từng bước chân của nhân vật “tơi” dưới hình hài của một chú
chuột, mang đến cảm giác ngợp thở đến nhẹ nhõm khi nhiệm vụ hoàn thành. Phim
cũng đã xây dựng hình tượng một nhân vật “tơi” dũng cảm, lém lỉnh như trong truyện.
Từ một cậu bé luôn lo sợ trước phù thủy đã dùng sự can đảm, trí tuệ của mình, phối
hợp với sự trợ giúp của bà mình và những người bạn “chuột”, cậu đã thành công biến
Đại phù thủy thành chuột. Quan trọng hơn cả, dù trải qua bao nhiêu khó khăn, cậu đã
học được bài học, đó là vẫn khơng đánh mất chính mình

15


“và cháu vẫn là một cậu bé” (phân đoạn 1:33:16)
1.2. Nhân vật bà ngoại
Nhân vật bà ngoại trong cả hai tác phẩm là một trong các nhân vật quan trọng. Ở
phiên bản điện ảnh, dù khơng thể xây dựng hồn tồn giống như hình tượng nhân vật
trong ngun tác nhưng vẫn giữ lại một số nét tương đồng trong ngoại hình, tính cách.
Với nhân vật đặc biệt, thú vị này, chúng tơi đã tìm hiểu và đưa ra một vài nét tương
tương đồng giữa cách xây dựng nhân vật trong tiểu thuyết Phù thủy, phù thủy của
Roald Dahl và phim Phù thủy, phù thủy của đạo diễn Robert Zemeckis.
Điểm tương đồng trước hết là về thái độ của bà ngoại đối với cháu mình sau khi cha
mẹ cậu bé qua đời. Trong tác phẩm văn học, chi tiết gặp gỡ giữa hai bà cháu không
được kể tỉ mỉ, chi tiết, chỉ gói gọn trong một câu ngắn gọn nhưng cũng khiến người
đọc xúc động “Cha và mẹ tôi đều qua đời...Tôi được đưa về nhà bà ngoại trong đôi
tay ôm chặt cứng của bà” (Dahl, 2014, tr.18). Bà là người thân duy nhất của cậu bé

“Tính cả nội ngoại hai bên thì bà là họ hàng duy nhất cịn sống của chúng tơi” (Dahl,
2014, tr.17). Vì thế, bà là người có trách nhiệm ni nấng, bao bọc cậu bé và “chiếc
ôm chặt cứng” kia cho thấy một sự che chở cho cuộc đời cậu bé về sau. Tác giả đã thổ
lộ rằng hình ảnh bà ngoại được lấy nguyên mẫu từ mẹ của ông - Sofie Dalh. Sau khi
cha ông qua đời, mẹ ông trở thành mẹ đơn thân và ni nấng, chăm lo cho 5 đứa con
của mình với những điều kiện tốt nhất trước sự thiếu thốn tình thương của người cha 2.
Điều này trong phim được thể hiện ở những phân đoạn sau tai nạn lật xe, cả cha và mẹ
đều qua đời, bà ngoại xuất hiện, nhìn cậu bé bằng một ánh mắt trìu mến, sẵn sàng
dang tay và đón cậu bé bằng một cái ơm “chặt cứng” với lời động viên “Sẽ ổn thôi
con trai” (phân đoạn 3: 38), góc máy quay cận cảnh vào khn mặt cậu bé nép mình
vào lịng bà, mang lại cảm giác bình yên. Điểm tương đồng này được thể hiện trong cả
hai phiên bản như một biểu hiện rõ nét về tình yêu thương của một người bà dành cho
cháu mình sau nỗi mất mát to lớn.
Về ngoại hình, bà ngoại trong tác phẩm được miêu tả chân thật, khơng hoa mỹ
nhưng phúc hậu “thân hình đồ sộ và phốt pháp” (Dahl, 2014, tr.19). Đối chiếu sang
phim, dù không được xây dựng giống 100% như trong tác phẩm nhưng nhân vật bà
ngoại trong phim vẫn được giữ nguyên thân hình mập mạp, phốp pháp. Hình ảnh bà
ngồi trên chiếc ghế bành khi trị chuyện cùng cháu mình khá giống với hình ảnh được
miêu tả trong tác phẩm của nhà văn Roadl Dahl“bà ngồi thật đường bệ trong chiếc
ghế bành, chiếm hết tồn bộ lịng ghế, thậm chí một con chuột cùng khơng thể ép
mình chen vào mà ngồi cạnh bà được.” (Dahl, 2014, tr.19). Với cách xây dựng ngoại
2 Thông tin được truy xuất tại “Roald Dalh: Teller of Tales”
/>
16


hình như thế, nhân vật bà ngoại mang đến cảm giác ấm áp, che chở, an toàn cho người
thân của mình.
Điểm tương đồng tiếp theo, cả tác phẩm văn học và phim đều xây dựng nhân vật
người bà là một người kể chuyện tài ba, lôi cuốn. Khi ở cùng cháu mình, vì hiểu rõ nỗi

đau mất mát cha mẹ khiến cho đứa bé có những tổn thương sâu sắc, bà ngoại giờ đây
là chỗ dựa vững chắc nhất. Trong tác phẩm, bà xoa dịu cậu bé bằng những câu chuyện
kể “Hơm sau, để cả hai chúng tơi có thể quên đi nỗi buồn to lớn, bà ngoại bắt đầu kể
chuyện cho tôi nghe. Bà quả là người kể chuyện tuyệt vời và tơi bị cuốn hút vào những
gì bà kể” (Dahl, 2014, tr.18). Với một đứa trẻ mang trong mình những tổn thương lớn
như thế, bà ngoại như là một chỗ dựa vững chắc, bằng tất cả những câu chuyện như
một liều thuốc tinh thần hiệu quả nhất. Tuy nhiên, những câu chuyện mà bà ngoại kể
không phải là những câu chuyện cổ tích tươi đẹp mà lại là những câu chuyện mang
màu sắc kinh dị. Bà kể về năm đứa trẻ đã bị biến mất, bị biến thành động vật một cách
lạ thường. Đặc biệt, bà đã kể cho cháu mình về phù thủy Bên cạnh đó, người kể
chuyện trong văn học mang một vai trò quan trọng. Nhân vật bà ngoại là người kể
chuyện, ta có thể thấy ở những người bà, họ là một kho tàng đồ sộ, chứa đựng những
câu chuyện cổ bí ẩn, là người gìn giữ văn hóa dân gian, qua đó, dù là ở tác phẩm văn
học hay điện ảnh đều tạo nên hình ảnh một người bà gần gũi trong lịng người đọc và
người xem. Ngoài ra, theo lời tác giả, như đã nói trên, ơng xây dựng hình tượng người
bà dựa trên hình ảnh mẹ mình. Ơng từng phát biểu rằng “Her memory was prodigious
and nothing that ever happened to her in her life was forgotten.” (tạm dịch: Kí ức của
bà thật phi thường và khơng có chuyện gì trong quá khứ khiến bà lãng quên”) 3. Khi
kể chuyện, bà thường hay kể những câu chuyện dân gian ở quê hương bà cho các con
mình “Khi chúng tơi cịn nhỏ, bà kể cho chúng tôi nghe những câu chuyện về quỷ lùn
Na Uy và tất cả những sinh vật Na Uy thần thoại khác sống trong rừng thơng tối tăm,
vì bà là một người kể chuyện tuyệt vời”.4 Còn trong phim, bà ngoại cũng kể cho cậu
bé những câu chuyện, lồng vào đó là những câu nói động viên, an ủi “Từng chút một,
bằng cách này hay cách khác, bà đã mang tơi ra khỏi nỗi buồn của mình”. (phân đoạn
11: 15) Sau cuộc chạm trán của nhân vật “tôi” với phù thủy, bà ngoại đã kể cho cháu
mình nghe về những câu chuyện tuổi thơ. Cũng giống như trong tác phẩm văn học, bà
3 Love from Boy: Roald Dahl’s Letters to His Mother, edited by Donald Sturrock –
review
/>4 Love from Boy: Roald Dahl’s Letters to His Mother, edited by Donald Sturrock –
review

/>
17


ngoại trong phim kể về sự mất tích của bạn mình khi bị phù thủy thủy dụ dỗ ăn socola,
có người bị biến thành gà, đồng thời bà cũng chỉ cách cho cháu nhận biết phù thủy.
Nếu trong truyện, những câu chuyện này được kể qua lời kể của người bà bằng chất
liệu ngơn từ, địi hỏi người đọc phải có những sự tưởng tượng nhất định thì trong
phim, nghệ thuật chuyển cảnh mượt mà, tinh tế giữa hiện tại và quá khứ, những hình
ảnh song song với lời kể của người bà với chất giọng lơi cuốn, kích thích sự tị mị
khiến người xem dễ hình dung hơn. Những câu chuyện của bà khiến cháu mình tin
rằng đó là những câu chuyện có thật dù chúng hoang đường, kì ảo nhưng với cách kể
chuyện hấp dẫn đã lôi cuốn nhân vật “tơi” vào vào thế giới của trí tưởng tượng. Điều
đó, đã khơi gợi lên những sự kiện về sau trong cuộc đời cậu bé. Và phải chăng, bà
ngoại trong cả hai phiên bản đều kể những câu chuyện “tăm tối”, kì dị như một lời
nhắc nhở cho cháu mình rằng cuộc sống có những điều nằm ngồi lý trí, những điều kì
ảo ln quanh quẩn chúng ta và cuộc sống này không phải lúc nào cũng màu hồng
nhưng có những cạm bẫy ẩn nấp dưới lớp vỏ đẹp đẽ, hào nhống.
Bên cạnh đó, bà cũng là người thơng thái, nhiều mưu mẹo, phối hợp với cháu mình
trên hành trình tiêu diệt phù thủy. Trong tác phẩm văn học, khi biết cháu mình đã bị
phù thủy biến thành chuột, ban đầu bà có chút hoảng hốt “Bà cứng người như hóa đá,
thân hình hồn tồn bất động.” (Dahl, 2014, tr. 113) Nhưng sau khi nghe toàn bộ sự
việc, bà bình tĩnh và tìm cách để giúp cháu mình trước sự nguy hiểm đang rình rập.
Bởi bà có sự am hiểu về phù thủy nên những mưu mẹo của bà có thể tiêu diệt phù
thủy“bà sẽ đặt con vào trong chiếc tất và hạ con xuống ban công của mụ Đại phù
thủy.” (Dahl, 2014, tr.123). Trong những tình huống cấp bách, bà vẫn bình tĩnh, phối
hợp nhịp nhàng với cháu mình khi đối mặt với Đại phù thủy để đánh cắp lọ nước phép
Biến người thành chuột và tiêu diệt bọn phù thủy. Ta cũng thấy điều này qua phiên
bản điện ảnh, những kĩ xảo, tốc độ quay, góc máy khiến cho cuộc chiến trở nên gay
cấn, nghẹt thở và sự điềm tĩnh, tinh thông, nét mặt căng thẳng rồi lại bình tĩnh của

người bà khiến cho cuộc chiến tiêu diệt phù thủy thành công.
1.3. Nhân vật Đại Phù Thủy
Về ngoại hình của Đại Phù Thủy, cả trong tiểu thuyết và phim đều có một chiếc đầu
trọc, khơng có tóc và phải sử dụng tóc giả. Bà ta vơ cùng giàu có, ngay từ khi xuất
hiện bà đã ln ẩn mình trong hình dạng của một người phụ nữ xinh đẹp. Bà ta có
móng tay dài và nhọn cho nên lúc nào cũng phải đeo găng tay. Sở hữu đôi bàn chân kì
quặc và chiếc miệng rất rộng, cùng với đó là chiếc mũi vơ cùng nhạy bén có thể nhận
biết mùi của trẻ con một cách dễ dàng. Phù thủy rất ghét trẻ em bởi chúng phát ra mùi
hôi thối khiến bà ta khó chịu. “Đầu tiên, phù thủy thật luôn đeo găng tay bất cứ lúc
nào con gặp bà ta” (Dahl, 2014, tr.27), “Thứ hai, con phải nhớ rằng phù thủy thật
ln ln trọc đầu”(Dahl, 2014, tr.28),“Khơng có đâu, phù thủy thật luôn luôn đội

18


tóc giả để giấu đi cái đầu hói trọc.” (Dahl, 2014, tr.28). Trong phim, nhờ việc được
hóa trang cơng phu và chất giọng của diễn viên Anna Hathaway đã mang đến cho
người xem một hình tượng Phù thủy ghê sợ dưới vỏ bọc xinh đẹp. Phân đoạn, Đại Phù
Thủy cởi bỏ tóc giả để lộ ra quả đầu trọc, sau đó bà ta bắt lấy con sâu trên đầu và ăn
gây nên một sự ám ảnh đối với khán giả. Cả hai tạo hình của Đại Phù Thủy ở trong hai
phiên bản đều cho thấy sự ghê rợn, tàn độc khi bà ta để lộ bộ mặt thật của mình, khác
xa hoàn toàn so với vẻ xinh đẹp thánh thiện mà hàng ngày bà ta ngụy trang. Cách tạo
hình nhân vật Đại Phù thủy như thế cho thấy rằng những điều nguy hiểm ln rình rập
những đứa trẻ được đánh bóng bởi vẻ đẹp hào nhống bên ngồi, dễ dàng tấn công
đến những đứa trẻ bởi sự non nớt và thiếu đề phòng. Điều này đã đặt ra đòi hỏi một sự
bảo vệ an toàn tuyệt đối cho trẻ em.
Tiếp đến là sự tương đồng về tính cách. Là một vị phù thủy đầy quyền năng nhưng
bà ta lại có tính cách tàn độc đáng sợ. Chỉ cần làm khơng vừa ý bà, bà liền lập tức giết
chết người đó bằng pháp thuật tà ác man rợ của mình. “Kẻ nào dám nói ta sai. Sẽ
khơng sống được lâu dài với ta!” (Dahl, 2014, tr.71). Không chỉ tàn độc mà bà ta rất

nhiều mưu mô với những âm mưu vô cùng khủng khiếp. Bà ta cũng chính là chủ mưu
của việc biến trẻ em thành chuột với “công thức 86 biến người thành chuột”. Lên kế
hoạch bằng cách lừa trẻ em ăn bánh kẹo, socola đã tẩm thuốc biến người thành chuột
và rồi sau đó tiêu diệt hết tất cả chúng một cách nhanh chóng, dễ dàng. “Các người
chuẩn bị cho buổi khai trương bằng việc chất đầy trong cửa hiệu loại socola và loại
kẹo có tẩm một cơng thức phép thuật mới nhất của ta. Đó là cơng thức biến 86 người
thành chuột.” (Dahl, 2014, tr.78). Bà đứng đầu trong mọi phù thủy, với tính cách tàn
bạo, độc ác khiến cho tất cả những phù thủy khác đều phải kính sợ và nghe lời bà. Bà
ta cùng đồng bọn ẩn mình dưới danh nghĩa một tổ chức bảo vệ trẻ em để họp, nhưng
thực chất là để truyền bá kế hoạch biến tất cả trẻ em trên thế giới thành chuột cho
những vị phù thủy khác cùng thực hiện:
Bà ta là thủ lĩnh của tất cả phù thủy. Bà ta có quyền lực hơn hẳn, nhưng là con
người rất tàn nhẫn. Mọi phù thủy đều sợ hãi bà ta. Họ chỉ thấy bà ta mỗi năm một
lần trong cuộc họp này mà thơi. Bà ta tới để khích lệ họ, đốt nóng nhiệt tình của họ
và ra chỉ thị. Vị đại phù thủy du lịch từ nước này sang nước khác để tham dự cuộc
họp hằng năm của họ. Cuộc sống của bà ta chỉ có thế5.
Để lý giải cho việc, vì sao Đại Phù thủy lại ghét trẻ em đến thế, nó liên quan đến
“child – hatred” tức là sự căm ghét trẻ em. Nhân vật phù thủy trong tác phẩm văn học
đã được tác giả khắc họa một cách đáng sợ, khao khát tiêu diệt trẻ em đại diện cho
những điều xấu xa nhất trong xã hội như sự bỏ rơi, bạo lực, lạm dụng,... tấn công
5 Roald Dahl. (2014). Phù thủy, phù thủy. Hà Nội: Kim Đồng (tr. 41)

19


mạnh mẽ đến trẻ em, và cuộc sống của những đứa trẻ trở nên thiếu an toàn dẫn đến
những chấn thương. Với lý do ấy, phim Phù thủy, phù thủy đã xây dựng một Đại Phù
Thủy gần như giống với ngun tác đó là sự độc ác, mưu mơ đầy đáng sợ. Với công
nghệ hiện đại, những cuộc rượt bắt của Đại Phù Thủy và lũ trẻ (lúc này đã bị biến
thành chuột) được xây dựng một cách hấp dẫn, làm nổi bật sự độc ác, khát máu của

Đại Phù Thủy. Qua đó, phim đã truyền tải được những vấn mà tác phẩm gốc đặt ra.
Sau cùng là điểm tương đồng về kết cục của Đại Phù Thủy. Với những tội ác mà bản
thân đã gây ra, bà ta đã phải trả giá bằng việc bị biến thành chuột do chính thứ thuốc
mà bà ta tạo ra để hại trẻ em “công thức 86 biến người thành chuột”. Bà ta đã trở
thành một con chuột xấu xí và gớm ghiếc. Trong phim, phân đoạn Đại Phù Thủy bị
biến thành chuột được vận dụng những kĩ xảo đặc biệt của điện ảnh làm cho chi tiết
này trở nên ấn tượng, sinh động. Nhân vật phù thủy đều bị biến thành chuột, có sự
giống nhau này có lẽ bởi trong quan niệm của văn hóa phương Tây thì chuột tượng
trưng cho những điều tiêu cực, xấu xa. Và những nhân vật phù thủy bị biến thành
chuột có lẽ là để nói rằng đó là những kẻ xấu xa, phá hoại. Một đặc điểm nữa, chuột là
lồi sinh sơi rất nhanh vì thế có thể là để ngụ ý rằng cái ác vẫn cịn tiếp tục lan rộng,
dù Đại Phù Thủy này có chết đi nữa thì vẫn cịn nhiều Đại Phù Thủy khác và hành
trình tiêu diệt cái ác là một hành trình dài, đầy thử thách.
Có những nét tương đồng nhất định của Đại Phù Thủy trong nguyên tác và Đại Phù
Thủy trên màn ảnh là để cho khán giả có thể dễ dàng nhận biết nhân vật. Vì đây cũng
chính là hình ảnh chung nhất về hệ đề tài phù thủy và hình ảnh phù thủy xấu xa, độc
ác đã tồn tại trong văn hóa thế giới nhiều thế kỷ qua. Việc phù thủy trong tác phẩm
văn học và tác phẩm điện ảnh có nhiều điểm tương đồng như vậy làm cho nhân vật
không bị mất đi cái điều cốt yếu nhất mà một nhân vật phản diện cần phải có. Hơn hết
là nhân vật phù thủy được cải biên trên màn ảnh cần phải giữ được hiệu ứng phản diện
của nhân vật trong tác phẩm văn học vì nhân vật đều được bước ra từ tác phẩm văn
học gốc, tác phẩm văn học cũng là cơ sở đầu tiên cho việc hình thành và khắc họa
nhân vật trong phim.
2. Điểm khác nhau giữa các nhân vật chính trong tác phẩm văn học Phù
thủy, phù thủy (1983) của nhà văn Roald Dahl và tác phẩm điện ảnh
cùng tên (2020) của đạo diễn Robert Zemeckis
2.1. Nhân vật “tôi”
Nhân vật “tôi” trải qua biến cố gia đình từ khá sớm khi mới hơn 7 tuổi, người thân
yêu bên cạnh rời xa cậu mãi mãi và chỉ còn bà ngoại là người thân duy nhất, trải qua
biến cố lớn trong cuộc đời, tâm trạng của nhân vật “tôi” được miêu tả ngắn gọn nhưng

cảm xúc trong tác phẩm văn học và trong phim truyền tải tới người đọc cũng như
người xem một cách đầy đủ. Trong nguyên tác, khi nhân vật “tôi” mất đi cả cha và mẹ

20



×