Tải bản đầy đủ (.docx) (32 trang)

Tiểu luận môn tư tưởng hồ chí minh quan điểm hồ chí minh về mặt trận dân tộc thống nhất và sự vận dụng vào xây dựng mặt tr

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (256.03 KB, 32 trang )

TIỂU LUẬN
MƠN: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

Đề tài
QUAN ĐIỂM HỒ CHÍ MINH VỀ MẶT TRẬN DÂN TỘC
THỐNG NHẤT VÀ SỰ VẬN DỤNG VÀO XÂY DỰNG MẶT
TRẬN TỔ QUỐC HIỆN NAY


MỤC LỤC
MỞ
ĐẦU..............................................................................................
.................2
NỘI
DUNG...........................................................................................
................7
Chương 1: QUAN ĐIỂM HỒ CHÍ MINH VỀ MẶT TRẬN DÂN
TỘC THỐNG
NHẤT............................................................................................
........7
1.1. Khái niệm cơ
bản............................................................................................7
1.2. Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về Mặt trận dân tộc thống
nhất..................8
1.3. Giá trị lý luận và thực tiễn của tư tưởng Hồ Chí Minh về Mặt
trận dân tộc thống
nhất..............................................................................................
..............22
Chương 2: SỰ VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM HỒ CHÍ MINH VỀ
MẶT TRẬN DÂN TỘC THỐNG NHẤT VÀO XÂY DỰNG MẶT
TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM HIỆN


NAY....................................................................................23
2.1. Tình hình phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam hiện
nay..............................23
2.2. Thực trạng hoạt động Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam......................................23

1


2.3. Giải pháp xây dựng Mặt trận Tổ quốc Việt Nam theo tư tưởng của Hồ Chí
Minh trong giai đoạn hiện nay.............................................................................24

KẾT LUẬN........................................................................................................27
TÀI LIỆU THAM KHẢO.................................................................................28

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Chủ tịch Hồ Chí Minh (1890 – 1969) là “Anh hùng giải
phóng dân tộc Việt Nam, Danh nhân văn hóa thế giới” (UNESCO
– 1987), là một trong một trăm nhân vật ảnh hưởng nhất thế kỷ
XX” (TIME – 2005). Người là con người ưu tú nhất của dân tộc
Việt Nam, đã để lại chúng ta cũng như nhân loại một di sản đồ
sộ và vơ cùng q báu. Đó là cuộc đời, sự nghiệp, tư tưởng, và
tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Trong kho tàng ấy, Tư tưởng
Hồ Chí Minh giữ một vị trí đặc biệt. Cùng với Chủ nghĩa Mác –
Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh đã trở thành “kim chỉ nam cho
hành động” của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta. Đó là thứ vũ
khí lý luận vô cùng sắc bén, là ngọn hải đăng soi đường chỉ lối
cho dân tộc Việt Nam tiến về phía trước.
Đại đồn kết là vấn đề có ý nghĩa đường ruột, quyết định

sự thành công của cách mạng. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, đại
đồn kết dân tộc khơng chỉ dừng lại ở quan niệm, ở những lời
kêu gọi mà phải trở thành một chiến lược cách mạng. Nó phải
biến thành sức mạnh vật chất, trở thành lực lượng vật chất có tổ
chức. Tổ chức đó chính là Mặt trận dân tộc thống nhất. Ngay từ
khi tìm đường cứu nước thốt khỏi ách nơ lệ, Nguyễn Ái Quốc đã
sớm chuẩn bị về tư tưởng và tổ chức quần chúng. Trong đó, việc
2


thành lập Mặt trận dân tộc thống nhất nhằm xây dựng khối
đoàn kết toàn dân tộc là nhân tố quan trọng quyết định thắng
lợi của cách mạng Việt Nam.
Trong lịch sử cách mạng Việt Nam từ năm 1930 đến nay,
không có thời kỳ nào vắng tổ chức Mặt trận. Thắng lợi huy
hoàng của Cách mạng Tháng Tám, khai sinh nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa, ngày nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam gắn liền với sự nghiệp cách mạng của Mặt trận Việt Minh.
Thành tích của Mặt trận Việt Minh chính là sự kế tục sự nghiệp
cách mạng đã được chuẩn bị từ trước của Hội Phản đế Đồng
Minh (1930 – 1936) và của Mặt trận Dân chủ Đông Dương (1936
– 1939). Tiếp theo Mặt trận Việt Minh, Mặt trận Liên Việt đã góp
phần đưa cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đến thắng lợi.
Kế tục sự nghiệp của Mặt trận Liên Việt, Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam ra đời có sứ mệnh cao cả là đồn kết các giới đồng bào
làm hậu thuẫn cho chính quyền dân chủ nhân dân ở miền Bắc
đã được giải phóng, cùng với Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền
Nam Việt Nam và Liên minh các lực lượng dân tộc dân chủ và
hịa bình Việt Nam đã đoan kết qn dân cả nước làm tròn
nhiệm vụ lịch sử vẻ vang là giải phóng miền Nam, hồn thành

cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước.
Mặt trận Dân tốc Thống nhất Việt Nam rõ ràng là một nhân
tố thắng lợi của cách mạng, là vũ khí chính trị khơng thể thiếu
để nhân dân ta phát huy sức mạnh tổng hợp của mình trong
cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, giành lại độc lập – tự do.
Như Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: Đại đồn
kết trong Mặt trận dân tộc thống nhất là một trong những nhân
tố quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Cho tới nay, ở mỗi thời kỳ khác nhau có những hình thức
và tên gọi tổ chức cụ thể khác nhau phù hợp với nhiệm vụ của
từng thời kỳ cách mạng nhưng Mặt trận Dân tộc Thống nhất
Việt nam nơi tập hợp các giai tầng trong xã hội vì những mục
tiêu lớn của dân tộc luôn tồn tại và phát triển, Đảng Cộng sản
Việt Nam - người chủ xướng việc hình thành Mặt trận Dân tộc
thống nhất trong thời hiện đại - vừa là thành viên tích cực của
Mặt trận vừa bằng sự sáng tạo, đúng dắn trong đường lối, chính
sách, sự gương mẫu phấn đấu vì lợi ích chung của dân tộc đã
3


được các thành viên của Mặt trận thừa nhận vai trò lãnh đạo.
Hiện nay, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là hình thức tổ chức của
Mặt trận Dân tộc Thống nhất Việt nam với mục tiêu tập hợp và
phát huy sức mạnh của khối Đại đoàn kết toàn dân phấn đấu
cho một nước Việt Nam độc lập, tự do, hạnh phúc, dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng văn minh. Vì những lý do trên,
em đã lựa chọn đề tài: Quan điểm Hồ Chí Minh về Mặt trận
Dân tộc thống nhất và sự vận dụng vào xây dựng Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam hiện nay.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

Nghiên cứu về quan điểm của Hồ Chí Minh trong xây dựng
Mặt trận Dân tộc Thống nhất, về bản chất cùng với những
nguyên tắc xây dựng và hoạt động của tổ chức Mặt trận Dân tộc
Thống nhất. Qua đó rút ra cách vận dụng quan điểm của Hồ Chí
Minh trong công cuộc xây dựng Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ngày
nay.
Để đạt được mục đích nghiên cứu, nhiệm vụ của đề tài đi
vào các vấn đề sau đây:
- Cơ sở hình thành Mặt trận Dân tộc Thống nhất
- Tính tất yếu trong việc xây dựng Mặt trận Dân tộc Thống
nhất
- Nguyên tắc cơ bản về xây dựng và hoạt động của Mặt trận
Dân tộc Thống nhất
- Quan điểm của Hồ Chí Minh trong việc xây dựng Mặt trận
Dân tộc Thống nhất
- Các hình thức của Mặt trận Dân tộc Thống nhất qua từng
thời kỳ
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu sự hình thành, quá trình xây dựng, vai trị và
các hình thức của Mặt trận Dân tộc Thống nhất qua từng thời kỳ
lịch sử.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận

4


Nghiên cứu Tư tưởng Hồ Chí Minh phải trên cơ sở thế giới
quan, phương pháp luận khoa học của chủ nghĩa Mác – Lê nin và bản thân các
quan điểm có giá trị phương pháp luận của Hồ Chí Minh. Trong đó, các nguyên

lý triết học Mác – Lênin với tư cách là phương pháp luận chung của các ngành
khoa học cần phải được sử dụng như một công cụ tư duy quan trọng. Dưới đây
là một số nguyên tắc phương pháp luận trong nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh.
4.1.1.

Đảm bảo sự thống nhất nguyên tắc tính Đảng và tính

khoa học
Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh phải đứng trên lập trường, quan điểm,
phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lê nin và quan điểm, đường lối quan
Đảng Cộng sản Việt Nam; bảo đảm tính khách quan khi phân tích, lý giải và
đánh giá tư tưởng Hồ Chí Minh, tránh việc áp đặt, cường điệu hóa hoặc hiện đại
hóa tư tưởng của Người. Tính đảng và tính khoa học thống nhất với nhau trong
sự phản ánh trung thực, khách quan tư tưởng Hồ Chí Minh trên cơ sở lập trường,
phương pháp luận và định hướng chính trị.
4.1.2.

Quan điểm thực tiễn và nguyên tắc lý luận gắn liền với

thực tiễn
Chủ nghĩa Mác – Lê nin cho rằng thực tiễn là nguồn gốc, là động lực của
nhận thức, là cơ sở và là tiêu chuẩn của chân lý. Trong cuộc đời hoạt động cách
mạng của mình, Hồ Chí minh ln bám sát thực tiến cách mạng dân tộc thế giới,
coi trọng tổng kết thực tiễn, coi đây là biện pháp không chỉ nâng cao năng lực
hoạt động thực tiễn, mà cịn là điều kiện để nâng cao trình độ lý luận. Đồng thời
Người cũng đặc biệt coi trọng việc kết hợp lý luận với thực tiễn, lời nói đi đơi
với việc làm. Bác cũng khẳng định: “Thực tiễn khơng có lý luận hướng dẫn thì
thành thực tiễn mù quáng, dễ mắc bệnh chủ quan; Lý luận mà không liên hệ với
thực tiễn là lý luận sng”. Hồ Chí Minh là người luôn xuất phát và coi trọng
thực tiễn đất nước, vận dụng thuần thục và sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lê nin để

đề ra con đường cách mạng đúng đắn và hiệu quả nhất, là một người thủ lĩnh
chính trị thực thụ khi dẫn cách mạng thoát khỏi những khúc gấp quanh co để
giành được chiến thắng vẻ vang cho giống nịi.
Vì vậy, việc nghiên cứu và học tập tư tưởng Hồ Chí Minh cần phải quán
triệt với quan điểm lý luận gắn liền với thực tiễn, học đi đôi với hành, phải biết
vận dụng những kiến thức đã học vào cuộc sống, thực tiễn để phục vụ cho sự
nghiệp cách mạng của đất nước.
4.1.3. Quan điểm lịch sử - cụ thể
5


Bên cạnh chủ nghĩa duy vật biện chứng, chúng ta cũng cần vận dụng chủ
nghĩa duy vật lịch sử để nghiên cứu và học tập tư tưởng Hồ Chí Minh một cách
hiệu quả hơn và mang tính chiều sâu hơn. Quan điểm lịch sử cụ thể nằm trong
nguyên lý về mối liên hệ phổ biến trong Triết học Mác – Lê nin nhằm chỉ việc
phải xem xét một sự vật, hiện tượng nhất định gắn chặt với bối cảnh của lịch sử
để từ đó phân tích được những giai đoạn phát triển chủ yếu của chúng. Nắm
vững quan điểm này giúp chúng ta nhận thức được bản chất tư tưởng Hồ Chí
Minh.
4.1.4. Quan điểm tồn diện và hệ thống
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm tồn diện và sâu sắc về
cách mạng Việt Nam. Hay nói cách khách tư tưởng Hồ Chí Minh được phát huy
và kế thừa từ quan điểm toàn diện của Triết học Mác – Lê nin cũng nằm trong
nguyên lý về mối liên hệ phổ biến. Theo đó, khi xem xét một sự vật, hiện tượng,
cần phải gắn nó vào mối quan hệ tương quan giữa các sự vật, hiện tượng khác,
cần quyết định mối quan hệ nào mang tính quyết định nhất để có một cái nhìn đa
chiều, sâu sắc nhất, tránh chủ nghĩa bao biện, triết chung, phiến diện. Vì vậy, khi
nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh, cần nắm vững và đầy đủ hệ thống các quan
điểm của Người. Nếu tách rời một yếu tố nào đó ra khỏi hệ thống sẽ dẫn đến sự
sai lệch trong cách lập luận.

4.1.5. Quan điểm kế thừa và phát triển
Hồ Chí Minh là một bậc thầy trong việc vận dụng và phát triển sáng tạo
chủ nghĩa Mác – Lê nin vào điều kiện lịch sử cụ thể của Việt Nam. Người đã bổ
sung, phát triển chủ nghĩa Mác – Lê nin trên nhiều lĩnh vực quan trọng và hình
thành nên một hệ thống các quan điểm lý luận mới hết sức sáng tạo. Nghiên cứu,
học tập tư tưởng Hồ Chí Minh địi hỏi khơng chỉ biết kế thừa, vận dụng mà cịn
phải biết sáng tạo tư tưởng của Người trong bói cảnh cụ thể của đất nước và thế
giới.
4.1.6. Kết hợp nghiên cứu các tác phẩm với thực tiễn chỉ đạo cách
mạng của Hồ Chí Minh
Hồ Chí Minh là một nhà lý – luận thực tiễn đã xây dựng lý luận, vạch
cương lĩnh, đường lối, chủ trương cách mạng và trực tiếp tổ chức, lãnh đạo thực
hiện. Từ thực tiễn, Người tổng kết, bổ sung để hoàn chỉnh và phát triển lý luận,
nên có thể nói, tư tưởng Hồ Chí Minh mang tính cách mạng, ln sáng tạo,
khơng lạc hậu, giáo điều. Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh khơng chỉ căn cứ
vào tác phẩm, bài viết, bài nói mà cần coi trọng hoạt động thực tiễn của Người,
6


thực tiễn cách mạng dưới sự tổ chức và lãnh đạo của Đảng do Người đứng đầu.
Tư tưởng Hồ Chí Minh đã góp phần làm phong phú thêm và phát triển lý luận
cách mạng của thời đại, trước hết là cách mạng thuộc địa. Nó đã tỏ sáng vượt ra
ngồi biên giới quốc gia Việt Nam, đến với các dân tộc và nhân dân lao động thế
giới.
4.2.

Phương pháp nghiên cứu

Nghiên cứu trên cơ sở thế giới quan, phương pháp luận khoa khọc của
chủ nghĩa Mác – Lênin và bản thân các quan điểm có giá trị phương pháp luận

của Hồ Chí Minh.
Phương pháp cụ thể: vận dụng phương pháp lịch sử và phương pháp
logic, các phương pháp phân tích, tổng hợp, liệt kê, so sánh, đối chiếu, v.v
5.

Ý nghĩa lý luận và thực tiễn

Đề tài cho chúng ta cái nhìn tổng thể và sâu sắc hơn về sự đóng góp quan
trọng của Mặt trận Dân tộc Thống nhất trong sự nghiệp đấu tranh giành độc lập
dân tộc cũng như trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Nghiên cứu đề tài để nắm được những quan điểm, tư tưởng của Đảng và
chủ tịch Hồ Chí Minh về xây dựng Mặt trận Dân tộc Thống nhất trong xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Qua đó vận dụng trong cơng cuộc xây dựng
hình thái hiện nay của tổ chức – Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, phát huy sức mạnh
của các tầng lớp nhân dân, đồng tâm hiệp lực, đem hết nhiệt huyết, trí tuệ và tài
năng cống hiến cho đất nước.
6.

Kết cấu tiểu luận
Tiểu luận gồm có 4 phần chính: mở đầu, nội dung chính, kết luận
Trong đó, phần nội dung chính bao gồm 2 chương.

NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ MẶT TRẬN DÂN TỘC
THỐNG NHẤT
1.1. Khái niệm cơ bản
 Mặt trận
7



Mặt trận là một khái niệm chung chỉ lĩnh vực hoạt động
nhất định mà ở đó mọi người tập hợp với nhau thành một tổ
chức để hành động cho một mục đích, theo một kế hoạch, một
cương lĩnh chung,... Dưới góc độ quân sự, mặt trận để chỉ nơi
diễn ra một trận đánh, một chiến dịch trong chiến tranh.
 Mặt trận dân tộc thống nhất
MTDTTN là một tổ chức đoàn thể nhằm tập hợp, đoàn kết
những giai cấp, tầng lớp, thành viên khác nhau trong xã hội dù
khác nhau về lợi ích cụ thể, về chính kiến, quan điểm; khác
nhau về cách thức hành động cụ thể, nhưng có cùng chung
nguyện vọng, chung mục tiêu giải phóng dân tộc; chung lợi ích
lớn hơn là quốc gia được độc lập, thốt khỏi ách thống trị của đế
quốc ngoại xâm.
Ở Việt Nam, MTDTTN là tên gọi chung của các tổ chức mặt
trận. Trong mỗi giai đoạn cách mạng, căn cứ theo yêu cầu,
nhiệm vụ cụ thể của giai đoạn đó, ĐCSVN và Chủ tịch Hồ Chí
Minh chủ trương xây dựng một hình thức tổ chức Mặt trận phù
hợp với điều kiện lịch sử và mục tiêu chiến lược, sách lược. Hơn
80 năm qua kể từ khi ĐCSVN bước lên vũ đài chính trị lãnh đạo
cách mạng, đã có nhiều tổ chức mặt trận lần lượt ra đời, mang
tên khác nhau; đối tượng tập hợp, mục đích rộng hẹp khác nhau
tùy từng giai đoạn cách mạng: Mặt trận dân chủ, Mặt trận phản
đế, Mặt trận Việt Minh, Hội Liên Việt rồi Mặt trận Liên Viêt thời
kỳ chống Pháp, MTTQ ở miền Bắc và Mặt trận dân tộc giải
phóng ở miền Nam thời kỳ chống Mỹ; sau đại thắng năm 1975,
MTTQ Việt Nam là tổ chức mặt trận chung của nước Việt Nam
thống nhất.
 Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
MTTQVN – theo luật MTTQVN “là tổ chức liên minh chính tị,

liên hiệp tự nguyện của tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị xã hội, tổ chức xã hội và các cá nhân tiêu biểu trong các giai
cấp, các tầng lớp xã hội, các dân tộc, các tôn giáo và người Việt
Nam định cư ở nước ngồi”. Liên minh chính trị là sự liên kết các
lực lượng với nhau thành một khối thống nhất để thực hiện mục
tiêu chính trị chung là giành, giữ chính quyền và sử dụng chính
quyền để bảo vệ tổ quốc, bảo vệ thành quả của cách mạng; xây
dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân. Mục tiêu
8


chung đó ở mỗi giai đoạn cũng khác nhau phù hợp với nhiệm vụ
cách mạng và lợi ích của các lực lượng tham gia liên minh. Mục
tiêu chung trong giai đoạn cách mạng hiện nay là giữ vững độc
lập thống nhất, chủ quyền quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ, phấn
đấu sớm thoát khỏi nghèo nàn lạc, tiến lên dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
MTTQ Việt nam được tổ chức theo 4 cấp hành chính: Ủy
ban Trung ương MTTQ Việt Nam; Ủy ban MTTQ Việt Nam tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương; Ủy ban MTTQ Việt Nam
huyện, thị xã và Ủy ban MTTQ Việt Nam xã, phường, thị trấn.
Điều lệ MTTQ Việt Nam quy định: Ủy ban MTTQ Việt Nam ở
mỗi cấp là cơ quan chấp hành giữa 2 kỳ đại hội của MTTQ Việt
Nam cung cấp. Ủy ban MTTQ Việt Nam ở cấp nào do Đại hội
MTTQ Việt Nam cấp đó hiệp thương dân chủ cử ra. Ủy ban MTTQ
Việt Nam còn hiệp thương dân chủ cử ra Đoàn Chủ tịch, cử ra
Ban Thường trực trong số Ủy viên Đoàn Chủ tịch (đối với cấp
Trung ương); cử ra Ban Thường trực (đối với cấp tỉnh, thành
phố; quận, huyện, thị xã).
1.2. Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về Mặt trận dân
tộc thống nhất

1.2.1.

Vị trí và vai trò của Mặt trận dân tộc thống

nhất
Vai trò của MTDTTN là tập hợp, đoàn kết hết thảy các lực
lượng dân tộc, cùng đứng lên và đánh đuổi ngoại xâm, giành
độc lập dân tộc, tự do cho nhân dân. Tư tưởng Hồ Chí Minh về
MTTDTN bắt nguồn từ quan điểm nhất quán của Người về vai
trò quyết định của quần chúng trong lịch sự, coi cách mạng là
sự nghiệp của quần chúng. Đảng chỉ hoàn thành sứ mệnh lịch
sử của mình nếu biết tập hợp, đồn kết các tầng lớp nhân dân
trong MTDTTN rộng rãi chống kẻ thù chung và xây dựng đất
nước. Trong quá trình phát triển của cách mạng, tuy phải trải
qua những bước thăng trầm, song quan điểm đó ln ln nhất
qn.
1.2.1.1. Mặt trận dân tộc thống nhất ra đời là một
tất yếu lịch sử
9


Sau khi tìm thấy con đường giải phóng dân tộc theo con
đường cách mạng vơ sản, khi Hồ Chí Minh quyết định ‘trở về
nước đi vào dân chúng, thức tỉnh họ, tổ chức họ, đoàn kết họ,
huấn luyện họ, đưa họ ra đấu tranh giành độc lập, tự do, độc
lập’ thì vấn đề Người quan tâm đầu tiên là lo việc tổ chức để
hình thành khối Đại đồn kết tồn dân. Người nhận định: “Ở
Đơng Dương, chúng ta có đủ tất cả những cái mà một dân tộc
có thể mong muốn như: hải cảng, hầm mỏ, đồng ruộng mênh
mông, rừng rú bao la; chúng ta có những người lao động khéo

léo và cần cù. Nhưng chúng ta thiếu tổ chức và thiếu người tổ
chức!”
Khi cịn ở châu Âu, Hồ Chí Minh đã bước đầu học được một
số kinh nghiệm về tổ chức. Hồ Chí Minh đã tham gia vào Cơng
đồn lao động hải ngoại khi Người ở Anh. Năm 1919, Người gia
nhập Đảng xã hội Pháp, cùng năm đó, Người đứng ra tổ chức
Nhóm người Việt Nam yêu nước ở Pari. Người cũng tham gia các
Hội nghệ thuật và khoa học, Hội những người bạn của nghệ
thuật, Hội du lịch... Không phải để tham quan du lịch mà như
Trần Dân Tiên viết: “để biết các nước ấy tổ chức và cai trị như
thế nào. Ông Nguyễn bắt đầu tổ chức, hoặc đúng hơn là bắt đầu
học tổ chức.”
Năm 1924, trong báo cáo về Bắc kỳ, Trung kỳ, Nam kỳ gửi
Quốc tế cộng sản, trên cơ sở phân tích cơ cấu giai cấp xã hội ở
Đơng Dương, truyền thống đồn kết, cộng đồng người Việt Nam,
Nguyễn Ái Quốc đã đưa ra luận điểm: Ở đó “cuộc đấu tranh giai
cấp diễn ra không giống như ở phương Tây”. Trong xã hội thuộc
địa nửa phong kiến, mâu thuẫn cơ bản có tính bao trùm, chi
phối các mâu thuẫn khác đó chính là mâu thuẫn giữa dân tộc và
đế quốc, do đó “chủ nghĩa dân tộc là một động lực lớn của đất
nước”. Vì vậy, cách mạng muốn thắng lợi phải phát huy được
sức mạnh của chủ nghĩa dân tộc chân chính ấy, phải tập hợp,
đoàn kết tất cả những người yêu nước chống Pháp trong cuộc
đấu tranh giành độc lập.
Ra đi tìm đường cứu nước, tiếp cận với lý luận khoa học
của chủ nghĩa Mác – Lênin, vận dụng sáng tạo học thuyết ấy
vào cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh đã đề ra đường lối đúng
đắn cho cách mạng Việt Nam, đồng thời đã tìm thấy phương
10



sách hiệu quả để đoàn kết toàn thể dân tộc thực hiện thắng lợi
đường lối đó. Trong tác phẩm “Đường kách mệnh”, Hồ Chí Minh
đã nêu lên luận điểm cốt lõi tư tưởng đoàn kết: “cách mạng là
việc chung cả dân chúng chứ không phả việc của một hai
người.”
Cách mạng là việc khó nhưng biết hợp lực đồng tâm thì
nhất định làm được, Người cho rằng cách mạng muốn thành
công thì phải có đủ lực lượng và lực lượng đó phải đủ mạnh để
chiến thắng kẻ thù và xây dựng thành cơng xã hội mới. Muốn có
lực lượng thì phải thực hành đồn kết. ĐĐKDT khơng thể chỉ
dừng lại ở quan niệm, tư tưởng, lời kêu gọi, mà phải trở thành
một chiến lược cách mạng, trở thành khẩu hiệu hành động của
tồn Đảng, tồn dân ta. Nó phải biến thành sức mạnh vật chất,
thành lực lượng vật chất có tổ chức. Tổ chức thực hiện khối
ĐĐKDT chính là MTDTTN.
Cả dân tộc chỉ trở thành lực lượng to lớn, trở thành sức
mạnh vô địch khi được giác ngộ về mục tiêu chiến đấu chung,
được tổ chức lại thành một khối vững chắc và hoạt động theo
một đường lối chính trị đúng đắn. Nếu khơng thế, quần chúng
nhân dân dù có hàng triệu con người cũng chỉ là một số đơng
khơng có sức mạnh. Thất bại của các phong trào yêu nước trước
kia đã chứng minh rất rõ vấn đề này. Người cho rằng: Cách
mạng giải phóng dân tộc là sự vùng dậy của cả một dân tộc để
đánh đổ ách thống trị nước ngồi. Giai cấp vơ sản lãnh đạo
khơng thể tự một mình làm nổi mà phải liên minh với các lực
lượng yêu nước trong dân tộc.
Thấy rõ sức mạnh của tinh thần yêu nước và chủ nghĩa dân
tộc chân chính, lại phải biết tập hợp và tổ chức quần chúng lại
trong các hội, các đoàn thể và liên kết lại, thì mới tạo thành sức

mạnh thực tế. Trên Báo Thanh niên số ra ngày 10 – 10 – 1926,
Hồ Chí Minh viết: “Người khơng có tổ chức thì như chiếc đũa lẻ
loi, ai bẻ cũng gãy được.” Ngay từ khi tìm thấy con đường cứu
nước, Hồ Chí Minh đã rất chú ý đến việc đưa quần chúng nhân
dân vào những tổ chức yêu nước phù hợp với từng giai tầng,
từng giới, từng ngành nghề, từng lứa tuổi, từng tôn giáo; hơn
nữa là còn phù hợp với từng bước phát triển của các phong trào
cách mạng. Đó là các hội ái hữu hay tương trợ, công hội hay
11


nơng hội, đồn thanh niên hay hội phụ nữ, đội thiếu niên nhi
đồng hay hội phụ lão, hội Phật giáo cứu quốc, Cơng giáo u
nước hay những nghiệp đồn... Và bao trùm MTDTTN, nơi quy tụ
mọi tổ chức và cá nhân yêu nước, tập hợp mọi con dân nước
Việt, không phải chỉ ở trong nước mà còn bao gồm cả những
người Việt Nam định cư ở nước ngoài, dù bất cứ ở phương trời
nào, nếu tấm lòng vẫn hướng về quê hương đất nước, về tổ
quốc Việt Nam.
Một đặc điểm nổi bật của cuộc đấu tranh giành độc lập của
nhân dân ta từ xưa đến nay là luôn luôn phải đối mặt với các lực
lượng xâm lược lớn mạnh hơn ta gấp bội, nhân dân ta luôn luôn
phải chấp nhận cuộc đấu tranh không cân sức. Trong bối cảnh
ấy, chỉ có khéo biết tập hợp lực lượng, nhân dân ta mới có thể
thắng lợi, khơng cịn con đường nào khác. Do đó, MTDTTN ra đời
là sản phẩm tất yếu khách quan của lịch sử dân tộc.
1.2.1.2. Mặt trận dân tộc thống nhất là nhân tố
quyết định thắng lợi cách mạng Việt Nam
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng và
Chủ tịch Hồ Chí Minh ln coi đồn kết trong MTDTTN là vẫn đề

chiến lược cơ bản có ý nghĩa lâu dài, chứ không phải là một thủ
đoạn cách mạng. Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng và phát
triển tổ chức MTDTTN xuyên suốt tiến trình cách mạng Việt Nam từ
độc lập dân tộc đi lên CNXH, trong đấu trnah bảo vệ Tổ quốc cũng như trong
xây dựng một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ,
văn minh hiện nay.
Từ Hội phản đế đồng minh cho đến MTTQ Việt Nam đã cho thấy chủ tịch
Hồ Chí Minh và Đảng ta ln nhất qn, đúng đắn, có hình thức tổ chức phù
hợp và ngày càng rộng mở, nên đã phát huy được truyền thống yêu nước, đoàn
kết của dân tộc, tạo thành sức mạnh vơ địch, làm nên những chiến cơng chưa
từng có trong lịch sử. Một trong những kinh nghiệm lịch sử lãnh đạo cách mạng
của Đảng là đã khéo tập hợp nhân dân vào MTDTTN. Ngay từ Hội nghị thành
lập ĐCSVN đã đề ra Điều lệ Hội Phản đế đồng minh. Từ khi MTDTTN Việt
Nam ra đời, với các tên gọi và hình thức tổ chức khác nhau nhưng khơng lúc
nào vắng bóng Mặt trận trong cuộc đấu tranh của nhân dân ta do Đảng lãnh đạo.
Trong những hình thức tổ chức của MTDTTN, Việt Minh đã nêu lên mẫu mực
đầu tiên về phát huy vai trò của Mặt trận dân tộc trong các phong trào cách
mạng của quần chúng. Để hoàn thành nhiệm vụ giải phóng dân tộc, sách lược
12


vận động là phải làm sao có lợi cho cách mạng, phải vận dụng phương pháp
hiệu triệu hết sức thống thiết để sao đánh thức được tinh thần dân tộc trong nhân
dân, cho nên Mặt trận dân tộc phải chọn tên khác có tính chất dân tộc hơn. Theo
đề nghị của Nguyễn Ái Quốc, Hội nghị quyết định thành lập MTDTTN chống
phát xít Pháp – Nhật lấy tên là Việt Nam Độc lập Đồng minh, gọi tắt là Việt
Minh. Tháng 10 – 1941, Việt Minh công bố Tuyên ngôn chương trình, Điều lệ.
Ngày 25 – 1 – 1942, báo Cứu quốc, cơ quan của Tổng bộ Việt Minh ra số 1. Đại
hội Quốc dân do Tổng bộ Việt Minh triệu tập, họp ở Tân Trào trong hai ngày 16
và 17-8, đã nhất trí tán thành chủ trương tổng khởi nghĩa, thơng qua lệnh khởi

nghĩa và 10 chính sách lớn của Việt Minh, quyết định quốc kỳ, quốc ca, cử ra
Ủy ban Giải phóng dân tộc, tức Chính phủ lâm thời do Hồ Chí Minh làm chủ
tịch.
Cách mạng tháng Tám thành công. Mặt trận Việt Minh thực hiện thắng
lợi sứ mệnh là ngọn cờ tập hợp toàn dân, mở ra bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử
dân tộc. Thực tế đã chứng tỏ, tuy tổ chức Việt minh còn phát triển hạn chế,
nhưng là một tổ chức Mặt trận đạt đỉnh cao về hiệu quả và ảnh hưởng thiết thực
trong toàn dân, một thực thể chính trị - xã hội rộng rãi, mạnh mẽ, vững chắc, là
một đỉnh cao chói lọi của lịch sử MTDTTM Việt Nam.
Q trình kháng chiến tồn dân, tồn diện làm cho MTDTTN khơng
ngừng lớn mạnh, các giai cấp, các tầng lớp và các đoàn thể đều tiến bộ, các tổ
chức yêu nước ngày càng trưởng thành. Tồn dân đồn kết một lịng tin tưởng ở
sự lãnh đạo của Đảng, của Chủ tịch Hồ Chí Minh tạo nên sức mạnh vật chất và
tinh thần đưa cuộc kháng chiến đến thắng lợi. Qua 9 năm kháng chiến,
MTDTTN đã trở thành “...một trong những trụ cột của Nhà nước dân chủ nhân
dân, là sức mạnh vô biên của cuộc kháng chiến và kiến quốc, là cơ sở quần
chúng rộng rãi làm thành một áo giáp bền vững của Đảng để đánh thắng bọn
xâm lược và tay sai của bọn chúng.”
Từ tháng 7-1954, đất nước tạm thời bị chia cắt thành hai miền, nhân dân
ta phải tiến hành đồng thời hai chiến lược cách mạng – cách mạng XHCN ở
miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, nhằm mục tiêu
chung là hoàn thành giải phóng dân tộc. Khi miền Bắc bước vào thời kỳ quá độ
lên CNXH, thực hiện cải tạo XHCN đối với nền kinh tế, chỉ cịn lại hai hình
thức sở hữu nhà nước và sở hữu tập thể, tiến tới một xã hội tương đối thuần nhất
về giai cấp. Trong tình hình đó cũng có người nghĩ rằng vai trị của tổ chức mặt
trận sẽ giảm đi, khơng cịn quan trọng như trước nữa. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
kịp thời uấn nắn lại: “Trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân cũng như

13



trong cách mạng xã hội chủ nghĩa, Mặt trận dân tộc thống nhất vẫn là một trong
những lực lượng to lớn của cách mạng Việt Nam.”
Đánh giá kết quả của chính sách MTDTTN của Đảng ta qua các giai đoạn
cách mạng, năm 1962, Hồ Chí Minh nêu rõ:
“Đồn kết trong Mặt trận Việt Minh, nhân dân ta đã làm Cách mạng
Tháng Tám thành công, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hịa.
Đồn kết trong Mặt trận Liên – Việt, nhân dân ta đã kháng chiến thắng
lợi, lập lại hòa bình ở Đơng Dương, hồn tồn giải phịng miền Bắc.
Đồn kết trong MTTQ Việt Nam, nhân dân ta đã giành được thắng lợi
trong công cuộc khôi phục kinh tế, cải tạo xã hội chủ nghĩa và trong sự nghiệp
xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc”
Đoàn kết trong MTTQ ở miền Bắc và Mặt trận dân tộc giải phóng ở miền
Nam, nhân dân cả nước ta đã thực hiện được Di chúc của Bác Hồ: đánh cho Mĩ
cút, đánh cho ngụy nhào, giải phóng hồn tồn miền Nam, thống nhất Tổ quốc.
Sau khi Tổ quốc đưuọc thống nhất, MTTQ Việt Nam đã đoàn kết toàn dân bước
vào giai đoạn cách mạng mới – cả nước quá độ lên CNXH.
Tóm lại, tư tưởng Hồ Chí Minh về MTDTTN được hình thành trên cơ sở
nhận thức đúng đắn và xử lý hài hòa mối quan hệ giữa hai nhân tố dân tộc và
giai cấp; chính vì đứng vững trên quan điểm giai cấp công nhân mà Người càng
đánh giá cao nhân tố dân tộc. Đối với Hồ Chí Minh khơng có ai chỉ là “bạn
đường” mang tính giai đoạn. Ai đã đi với ta trong cách mạng giải phóng dân tộc,
thì người đó có thể đi với ta trong cách mạng XHCN, miễn là ta có chính sách
đúng đắn, có phương pháp vận động, thuyết phục, giáo dục hiệu quả. Tổ chức
Mặt trận được lập ra và tồn tại để thực hiện chức năng cao cả đó.
1.2.2. Nguyên tắc xây dựng và hoạt động của Mặt trận Dân tộc Thống
nhất
1.2.2.1. Mặt trận dân tộc thống nhất phải lấy liên
minh công – nông làm nền tảng dưới sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản Việt Nam

Trong khi xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, trước
hết và bao giờ cũng phải chú ý xây dựng liên minh công nông
làm cơ sở vững chắc cho MTDTTN. Đó là bài học lịch sử đã được
vận dụng trong tất cả các giai đoạn cách mạng Việt Nam, bởi vì
giai cấp nơng dân chiếm tuyệt đại bộ phận trong dân tộc, là lực
lượng cách mạng hùng hậu nhất, là người bạn gần gũi nhất của
14


giai cấp công nhân. Sẽ không thể xây dựng và phát triển được
MTDTTN, nếu khơng có sự liên minh chặt chẽ giữa cơng nhân và
nơng dân, và nếu khơng có sự liên minh này thì cũng khơng thể
thực hiện được tập hợp và đoàn kết được các lực lượng nào khác
có nguyện vọng khát khao muốn giành độc lập, tự do, thốt
khỏi ách nơ lệ.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, muốn tập hợp đông đảo
các tầng lớp nhân dân, mở rộng MTDTTN, cần phân tích, đánh
giá một cách đúng đắn, chính xác về tình hình các tầng lớp
nhân dân là những lực lượng thành viên trong Mặt trận. Chủ tịch
Hồ Chí Minh nói: “Đại đồn kết tức là trước hết phải đoàn kết
đại đa số tầng lớp nhân dân, mà đại đa số là công nhân, nông
dân và các tầng lớp lao động khác. Đó là nền gốc của đại đồn
kết.”
Giải thích vì sao phải lấy liên minh cơng – nơng làm nền
tảng, Người nói: “Vì họ là người trực tiếp sản xuất tất cả mọi tài
phú làm cho xã hội sống. Vì họ đơng hơn hết, mà cũng bị áp bức
bóc lột nặng nề hơn hết. Vì chí khí cách mạng của họ chắc chắn,
bền bỉ hơn mọi tầng lớp khác.” Khối liên minh cơng nơng đã
được hình thành ngay từ khi MTDTTN Việt Nam ra đời. Từ đó về
sau, Mặt trận đã ngày càng quan tâm củng cố khối liên minh đó,

xây dựng các hình thức tổ chức của công nhân, nông dân, của
thanh niên và phụ nữ, mà chủ yếu cũng ở trong công nhân, để
làm nòng cốt cho sự liên hiệp hành động trong MTDTTN. Thực tế
lịch sử đã chứng minh, có những lúc trước tình thế nguy hiểm
ngặt nghèo trong cuộc đấu tranh với kẻ thù, như trước và sau
Cách mạng Tháng Tám năm 1945, như trong cuộc kháng chiến
trường kỳ, hay trong cuộc đấu tranh cách mạng sâu sắc và phức
tạp khi cách mạng chuyển giai đoạn, nhưng nhờ có sự liên minh
cơng nơng vững chắc, Mặt trận vẫn giữ được sự đồn kết, thống
nhất, tiếp tục phát triển và không ngững mở rộng.
Nét đặc sắc trong tư tưởng Hồ Chí Minh là Người không chỉ
đề cập, nhấn mạnh đến liên minh giai cấp mà cịn bao hàm cả
liên minh xã hội. Nói đến củng cố khối liên minh công nông
trong MTDTTN với hàm ý coi đó là nền tảng để khơng ngừng mở
rộng sự đoàn kết giữa các giai tầng khác nhau. Nhấn mạnh vai
trị nịng cốt của liên minh cơng – nông trong MTDTTN, nhưng
15


Người ln ln chống khuynh hướng hẹp hịi, cơ độc, chỉ thấy
vai trị của cơng – nơng mà khơng thất vai trị và sự cần thiết
phải mở rộng đồn kết với các tầng lớp khác, nhất là với trí
thức. Quán triệt những chỉ dẫn của các nhà kinh điển của chủ
nghĩa Mác – Lênin, Hồ Chí Minh vận dụng sáng tạo: “cách mạng
rất cần trí thức và chính ra chỉ có cách mạng mới biết trọng trí
thức.” , “chỉ có giai cấp cơng nhân mới thật u chuộng trí
thức”... Hồ Chí Minh rất coi trọng trí thức. Người chỉ rõ chúng ta
giành độc lập dân tộc, bắt tay vào xây dựng chế độ mới trong
tình trạng hơn 90% dân số mù chữ, vì thế trí thức đối với nước
nào cũng quý và với nước ta càng quý hơn. Do vậy trong q

trình cách mạng, vài trị của trí thức ngày một tăng. Hồ Chí
Minh khẳng định “Trí thức cơng nơng hóa, trí thức phục vụ nhân
dân bây giờ cũng cần, kháng chiến kiến quốc cũng cần, tiến lên
xã hội chủ nghĩa càng cần, tiến lên cộng sản chủ nghĩa lại càng
cần”.
Trong khối liên minh này, Hồ Chí Minh chỉ rất rõ vị thế của
từng bộ phận. Hồ Chí Minh nhất quán quan điểm: Giai cấp công
nhân là giai cấp lãnh đạo. Cơng nhân thơng qua chính đảng của
mình đề ra đường lối cách mạng, những chủ trương lớn nhằm
thực hiện đường lối đúng cần có lực lượng. Bằng hành động thực
tiễn, giai cấp công nhân lôi kéo mọi tầng lớp lao động, trước hết
là nơng dân và trí thức về phía mình, cùng với họ xây dựng
CNXH. Đây cũng là điều kiện để giai cấp cơng nhân củng cố vai
trị chính trị tiên phong của mình.
Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ khối ĐĐK trong MTDTTN chỉ có
thể được củng cố và phát triển bền chặt khi nó được Đảng của
giai cấp công nhân lãnh đạo. Sự lãnh đạo của Đảng đối với Mặt
trận là một tất yếu vì chỉ có Đảng của giai cấp cơng nhân được
vũ trang bởi chủ nghĩa Mác – Lênin mới đánh giá đúng vai trò và
sức mạng của quần chúng nhân dân. Trong lịch sử, Đảng đã
lãnh đạo cuộc đấu tranh cách mạng vì độc lập, tự do của Tổ
quốc và đang vượt qua khó khăn, tranh thủ thời cơ để xây dựng
đất nước. Trong q trình đó Đảng ln đứng vững trên quan
điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về vai trò quyết định của quần
chúng nhân dân trong lịch sử.

16


Là tổ chức chính trị to lớn nhất, chắc chắn nhất, cách

mạng nhất, là bộ tham mưu của giai cấp công nhân và của cả
dân tộc, Đảng lãnh đạo xây dựng MTDTTN, đồng thời cũng là
một thành viên của Mặt trận. Quyền lãnh đạo Mặt trận không
phải Đảng tự phong cho mình, mà là được nhân dân thừa nhận.
Điều này được Hồ Chí Minh phân tích rất cặn kẽ: “Đảng khơng
thể địi hỏi Mặt trận thừa nhận quyền lãnh đạo của mình, mà
phải tỏ ra là một bộ phận trung thành nhất, hoạt động nhất và
chân thực nhất. Chỉ trong đấu tranh và công tác hằng ngày, khi
quần chũng rộng rãi thừa nhận chính sách đúng đắn và năng
lực lãnh đạo của Đảng, thì Đảng mới giành được địa vị lãnh
đạo.”
Đảng lãnh đạo Mặt trận trước hết bằng việc xác định chính
sách Mặt trận đúng đắn, phù hợp với từng giai đoạn, từng thời
kỳ cách mạng. “Chính sách mặt trận là một chính sách quan rất
quan trọng. Cơng tác mặt trận là một cơng tác rất quan trọng
trong tồn bộ công tác cách mạng”. Trong từng giai đoạn cách
mạng, để hình thành được Mặt trận, tập hợp được hết thảy các
lực lượng yêu nước và tiến bộ, Đảng đã đề ra những chủ trương,
đường lối, chính sách phù hợp với điều kiện lịch sử cụ thể, phù
hợp với lợi ích của các giai cấp xã hội, nhằm đoàn kết toàn dân
phấn đấu thực hiện mục tiêu chương trình hành động thống
nhất của tất cả các giai cấp, đảng phái, dân tộc, tơn giáo. Tư
tưởng của chính sách ĐĐK thể hiện trong chương trình hành
động của Mặt trận, lấy lợi ích của dân tộc với lợi ích của từng
giai cấp, lợi ích tập thể, lợi ích cá nhân. Đảng đã đề ra khẩu hiệu
đấu tranh thích hợp, khơng cứng nhắc. Dưới ánh sáng tư tưởng
Hồ Chí Minh, “Đảng ta có chính sách Mặt trận dân tộc đúng đắn,
cho nên đã phát huy được truyền thống đoàn kết và yêu nước
rất vẻ vang của dân tộc ta.”
Đảng lãnh đạo Mặt trận trước hết phải thực hiện sự lãnh

đạo của mình theo nguyên tắc của Mặt trận. Đảng phải dùng
phương pháp vận động, giáo dục, thuyết phục, nêu gương, lấy
lòng chân thành để đỗi xử, cảm hóa, khêu gợi tinh thần tự giác,
tự nguyện, hết sức tránh gò ép, quan liêu, mệnh lệnh. Khơng
thể và khơng được lấy quyền uy của mình để buộc các thành
biên khác trong Mặt trận phải tuân theo, nếu Đảng muốn giành
17


được sự tơn trọng thực sự của họ. Hồ Chí Minh đã căn dặn cán
bộ, đảng viên về công tác Mặt trận: “Phải thành thực lắng nghe
ý kiến của người ngồi Đảng. Cán bộ và đảng viên khơng được
tự cao tự đại, cho mình là tài giỏi hơn mọi người; trái lại phải
học hỏi điều hay điều tốt của mọi người... Cán bộ và đảng viên
có quyết tâm làm như thế, thì cơng tác Mặt trận nhất định sẽ
tiến bộ nhiều.”
Muốn lãnh đạo Mặt trận, lãnh đạo xây dựng khối ĐĐK tồn
dân, Đảng phải thực sự đồn kết nhất trí. Sự đồn kết của Đảng
càng được củng cố thì sự đoàn kết của dân tộc càng được tăng
cường. Sau khi trở thành Đảng cầm quyền, để Đảng xứng đáng
là linh hồn, là người lãnh đạo Mặt trận, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
u cầu Đảng khơng ngững tự chỉnh đốn và đổi mới, phải nâng
cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu cho mình, phải gương
mẫu về mọi mặt để xứng đáng là tiêu biểu cho trí tuệ, lương
tâm, vinh dự của giai cấp và của dân tộc. Đảng đồn kết, dân
tộc đồn kết và sự gắn bó máu thịt giữa Đảng với nhân dân đã
tạo nên được sức mạnh bên trong cách mạng Việt Nam để vượt
qua mọi khó khăn, chiến thắng mọi kẻ thù, đi tới thắng lợi của
cách mạng.
1.2.2.2. Hiệp thương dân chủ, đoàn kết ngày càng

rộng rãi, bền vững
Hiệp thương dân chủ được hiểu là hiệp ý, thương lượng
một cách bình đẳng, dân chủ những vấn đề chính trị - xã hội
trong q trình xây dựng tổ chức bộ máy và tiến hành các hoạt
động của tổ chức Mặt trận.
Nguyên tắc hiệp thương dân chủ đòi hỏi tất cả mọi vấn đề
của Mặt trận đều phải được đem ra để tất cả các thành viên
cùng nhau bàn bạc cơng khai, để đi đến nhất trí, loại trừ mọi sự
áp đặt hoặc dân chủ hình thức. Đảng là lực lượng lãnh đạo Mặt
trận, nhưng cũng là thành viên của Mặt trận. Do vậy, tất cả mọi
chủ trương, chính sách của mình, Đảng phải có trách nghiệm
trình bày trước Mặt trận, cùng với các thành viên khác của Mặt
trận bàn bạc, hiệp thương dân chủ để tìm kiếm giải pháp tích
cực và thống nhất hành động, hướng phong trào quần chúng
thực hiện thắng lợi các mục tiêu đã vạch ra.
18


Để thực hiện nguyên tắc hiệp thương dân chủ phải đứng
vững trên lập trường giai cấp công nhân, giải quyết hài hịa mối
quan hệ giữa lợi ích dân tộc và lợi ích giai cấp, lợi ích chung và
lợi ích riêng, lợi ích lâu dài và lợi ích trước mắt,...Phải làm cho
tất cả các thành viên trong Mặt trận đều thấm nhuần lợi ích
chung, lợi ích tối cao của dân tộc, phải đặt lợi ích chung lên trên
hết, trước hết. Những lợi ích chính đáng, phù hợp với lợi ích
chung của đất nước và dân tộc phải được tôn trọng. Ngược lại,
những lợi ích bộ phận khơng phù hợp sẽ dần dần được giải
quyết cùng với tiến trình chung của cách mạng, thơng qua lợi
ích chung, với sự nhận thức ngày càng đúng đắn hơn của mỗi
người, mỗi bộ phận về mối quan hệ giữa lợi ích chung và riêng.

1.2.2.3. Nhận thức và giải quyết đúng đắn mối quan
hệ dân tộc – giai cấp bảo vệ lợi ích tối cao của dân tộc và
quyền lợi cơ bản của nhân dân lao động.
Ngun tắc ĐĐK Hồ Chí Minh là tìm kiếm, trân trọng và phát huy những
yếu tố tương đồng, thống nhất để khắc chế, giải quyết các yếu tố khác biệt, mâu
thuẫn theo phương châm chỉ đạo: Dân tộc trên hết, Tổ quốc trên hết và tất cả do
con người. Có thể nói Hồ Chí Minh ln tìm kiếm, trân trọng và phát huy những
yếu tố tương đồng, thống nhất để khắc chế, giải quyết các yếu tố khác biệt, mâu
thuẫn theo phương châm chỉ đạo: Dân tộc trên hết, Tổ quốc trên hết và tất cả do
con người.
Mẫu số chung của khối ĐĐKDT, theo Hồ Chí Minh là độc lập, tự do. Hạt
nhân sáng chói và trường tồn của tư tưởng Hồ Chí Minh đối với dân tộc Việt
Nam là “Khơng có gì q hơn độc lập, tự do”. Với điểm tương đồng ấy,
MTDTTN đã đoàn kết được toàn thể nhân dân trong cả nước không phân biệt
sang – hèn, giàu – nghèo, dân tộc, tôn giáo, ý thức hệ, chính kiến, … để cứu lấy
dân tộc.
Độc lập, tự do là nội dung cơ bản về quyền của các quốc gia, dân tộc, của
từng thành viên, từng con người trong dân tộc. Quyền được sống, quyền tự do,
quyền mưu cầu, hạnh phúc là quyền thiêng liêng của con người, không ai có thể
xâm phạm. Song con người khơng thể sống riêng lẻ mà phải sống với xã hội,
sống trong lòng quốc gia, dân tộc. Từ đó Hồ Chí Minh đã phát triển thành quyền
dân tộc: “Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng
có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”; “Nước Việt Nam có quyền
hưởng tự do và độc lập, … Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh
thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”.
19




×