Tải bản đầy đủ (.docx) (25 trang)

Tiểu luận chủ nghĩa xã hội khoa học đặc trưng cơ bản của xã hội xã hội chủ nghĩa và đặc trưng xã hội xã hội chủ nghĩa ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (138.8 KB, 25 trang )

ĐỀ TÀI:
ĐẶC TRƯNG CƠ BẢN CỦA XÃ HỘI XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VÀ ĐẶC
TRƯNG XÃ HỘI XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM
PHẦN 1: MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Ngay từ khi ra đời (2-1930), Đảng ta đã xác định rõ ràng và dứt khoát con
đường phát triển của cách mạng Việt Nam, là con đường xã hội chủ nghĩa. Lãnh
tụ Hồ Chí Minh đã có những chỉ dẫn có ý nghĩa rất quan trọng, từ việc đưa ra
quan niệm, phương châm, phương pháp, đến việc chuẩn bị những điều kiện để
tiến lên chủ nghĩa xã hội...Vận dụng sáng tạo những tư tưởng của Người, qua
hơn 30 năm đổi mới, nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam về chủ nghĩa xã
hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam ngày càng sáng tỏ hơn.
Hiện nay, công cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế đang đòi hỏi Đảng ta phải tiếp
tục đổi mới mạnh mẽ tư duy, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh để hiện thực hóa con đường xã hội chủ nghĩa
mà Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn.
Công cuộc đổi mới, xây dựng chủ nghĩa xã hội đòi hỏi phải tiếp tục đổi
mới mạnh mẽ tư duy, vận dụng sáng tạo, phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội,
tăng cường tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, nâng cao năng lực dự báo, xử
lý có hiệu quả những vấn đề mới nảy sinh trong thực tiễn, giải quyết tốt các mối
quan hệ lớn phản ánh quy luật đổi mới và phát triển. “Đó là quan hệ giữa đổi
mới, ổn định và phát triển; giữa đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị; giữa tuân
theo các quy luật thị trường và bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa; giữa phát
triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất;
giữa nhà nước và thị trường; giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa,
thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo


vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa; giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế; giữa
Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”.
Tiến tới Đại hội XIII của Đảng, tổng kết 35 năm đổi mới, 30 năm thực hiện


Cương lĩnh 1991 và 10 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011), nhiều vấn đề
được tổng kết để nhận thức rõ hơn và giải quyết những yêu cầu bức thiết do
thực tiễn đặt ra, nhất là vấn đề xây dựng quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với
trình độ lực lượng sản xuất; vấn đề an sinh xã hội, phân hóa giàu nghèo; vấn đề
xây dựng văn hóa, con người trong xã hội văn minh, tiến bộ; vấn đề chống suy
thoái, tham nhũng, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Mục tiêu xây dựng một
nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa hùng cường, sớm trở thành nước công nghiệp
theo hướng hiện đại. Khi kết thúc thời kỳ quá độ, xây dựng được về cơ bản nền
tảng kinh tế của chủ nghĩa xã hội với kiến trúc thượng tầng về chính trị, tư
tưởng, văn hóa phù hợp. Đến giữa thế kỷ XXI, Việt Nam trở thành một nước
công nghiệp hiện đại, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đó là mục tiêu, định
hướng phát triển với tầm nhìn chiến lược kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng
(2030) và 100 năm Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2045).
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa
Phạm vi nghiên cứu: ở Việt Nam
PHẦN 2: NỘI DUNG
1. Xã hội xã hội chủ nghĩa là gì?
Theo Wikipedia: Chủ nghĩa xã hội (tiếng Đức: Sozialismus; tiếng Anh:
Socialism) là một trong ba ý thức hệ chính trị lớn hình thành trong thế kỷ 19
bên cạnh chủ nghĩa tự do và chủ nghĩa bảo thủ. Khơng có định nghĩa rõ ràng về
chủ nghĩa xã hội mà nó bao gồm một loạt các khuynh hướng chính trị từ các


phong trào đấu tranh chính trị và các đảng cơng nhân có tinh thần cách mạng,
những người muốn lật đổ chủ nghĩa tư bản nhanh chóng và bằng bạo lực cho tới
các dòng cải cách chấp nhận Thể chế Đại nghị và dân chủ như chủ nghĩa xã hội
dân chủ, thậm chí phát xít Đức cũng tự nhận mình là những người theo chủ
nghĩa xã hội. Theo đó, có sự phân biệt giữa những khuynh hướng chủ nghĩa

cộng sản, dân chủ xã hội và vơ chính phủ. Những người theo chủ nghĩa xã hội
thường nhấn mạnh giá trị cơ bản như bình đẳng, cơng bằng và đồn kết và đề
cao mối quan hệ chặt chẽ giữa những phong trào xã hội và lý thuyết phê phán
xã hội. Họ theo đuổi mục tiêu tạo ra một trật tự xã hội hòa hợp và hướng đến
công bằng xã hội.
Trong lịch sử, tại nhiều quốc gia đã và đang tồn tại những hệ thống chủ nghĩa
xã hội nhà nước thường được gọi là nhà nước cộng sản như Liên Xô, Trung
Quốc, Việt Nam, Đông Đức và Cuba...
Chủ nghĩa xã hội theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, là giai đoạn
đầu của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa. Đó là một xã hội tiến bộ,
ưu việt, là quá trình lịch sử tự nhiên phù hợp với quy luật phát triển của lịch sử
xã hội loài người. V.I.Lênin khi nêu ra những đặc trưng của Chủ nghĩa xã hội đã
khơng coi đó là mơ hình bất biến
2. Đặc trưng cơ bản của xã hội xã hội chủ nghĩa
Những đặc trưng cơ bản của xã hội xã hội chủ nghĩa theo quan điểm của
chủ nghĩa Mác Lê nin là:
2.1.

Mục tiêu cao nhất của Chủ nghĩa xã hội là giải phóng con người
khỏi mọi ách bóc lột về kinh tế và nô dịch về tinh thần, tạo điều
kiện cho con người phát triển tồn diện

Nhờ xóa bỏ chế độ chiếm hữu tư nhân Tư bản chủ nghĩa mà xóa bỏ sự đối
kháng giai cấp, xóa bỏ tình trạng người bóc lột người, tình trạng nơ dịch và áp
bức dân tộc, thực hiện được sự cơng bằng, bình đẳng xã hội.


Mục tiêu cao nhất của chủ nghĩa xã hội là giải phóng con người khỏi mọi
ách áp bức về kinh tế và nô dịch về tinh thần, bảo đảm sự phát triển tồn diện cá
nhân, hình thành và phát triển lối sống xã hội chủ nghĩa, làm cho mọi người

phát huy tính tích cực của mình trong cơng cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Nhờ xóa bỏ chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa mà xóa bỏ sự đối kháng
giai cấp, xóa bỏ tình trạng người bóc lột người, tình trạng nơ dịch và áp bức dân
tộc, thực hiện được sự cơng bằng, bình đẳng xã hội.
Những đặc trưng trên phản ánh bản chất của chủ nghĩa xã hội, nói lên tính ưu
việt của chủ nghĩa xã hội. Và do đó, chủ nghĩa xã hội là một xã hội tốt đẹp, lý
tưởng, ước mơ của toàn thể nhân loại. Những đặc trưng đó có mối quan hệ mật
thiết với nhau. Do đó, trong q trình xây dựng chủ nghĩa xã hội cần phải quan
tâm đầy đủ tất cả các đặc trưng này.
2.2.

Cơ sở vật chất của Chủ nghĩa xã hội được tạo ra bởi một lực
lượng sản suất tiên tiến, hiện đại
Lênin khẳng định, cơ sở vật chất - kỹ thuật của Chủ nghĩa xã hội phải là

nền sản xuất cơng nghiệp hiện đại. Chỉ có nền sản xuất công nghiệp hiện đại
mới đưa năng suất lao động lên cao, tạo ra ngày càng nhiều của cải vật chất cho
xã hội, đảm bảo đáp ứng những nhu cầu vật chất và văn hóa của nhân dân,
khơng ngừng nâng cao phúc lợi xã hội cho toàn dân. Nền cơng nghiệp hiện đại
đó được phát triển dựa trên lực lượng sản xuất đã phát triển cao. Ở những nước
thực hiện sự quá độ “bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa lên chủ nghĩa xã hội”,
trong đó có Việt Nam thì đương nhiên phải có q trình cơng nghiệp hóa, hiện
đại hóa để từng bước xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật hiện đại cho chủ nghĩa
xã hội. “Chủ nghĩa cộng sản = chính quyền Xơ viết + điện khí hóa”. Lênin cịn
chỉ ra phải học Chủ nghĩa tư bản cả trên lĩnh vực văn hóa và quản lý, Người nói:
Hãy dùng cả hai tay mà lấy những cái tốt của nước ngồi: Chính quyền Xơ viết
+ trật tự ở đường sắt Phổ + kỹ thuật và cách tổ chức các Tơ rớt ở Mỹ + ngành
giáo dục quốc dân Mỹ.



2.3.

Chủ nghĩa tư bản là từng bước xoá bỏ chế độ tư hữu Tư bản chủ
nghĩa, thiết lập chế độ công hữu về tư liệu sản xuất
Thủ tiêu chế độ tư hữu là cách nói vắn tắt nhất, tổng quát nhất về thực

chất của công cuộc cải tạo xã hội theo lập trường của giai cấp công nhân. Tuy
nhiên, không phải xóa bỏ chế độ tư hữu nói chung mà là xóa bỏ chế độ tư hữu
tư bản chủ nghĩa.
Chủ nghĩa xã hội được hình thành dựa trên cơ sở từng bước thiết lập chế độ sở
hữu xã hội chủ nghĩa về tư liệu sản xuất, bao gồm sở hữu toàn dân và sở hữu tập
thể. Chế độ sở hữu này được củng cố, hồn thiện, bảo đảm thích ứng với tính
chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, mở đường cho lực lượng sản
xuất phát triển, xóa bỏ dần những mâu thuẫn đối kháng trong xã hội, làm cho
mọi thành viên trong xã hội ngày càng gắn bó với nhau vì những lợi ích căn
bản.
Lênin cho rằng, Chủ nghĩa xã hội là chế độ công hữu về tư liệu sản xuất,
“từ chủ nghĩa tư bản, nhân loại chỉ có thể tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội, nghĩa
là chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất và chế độ phân phối theo lao động
của mỗi người”. Trong khi thay thế chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất và lưu
thông bằng chế độ sở hữu xã hội, ông cho rằng cần phải lập ra một tổ chức hợp
lý các quá trình sản xuất xã hội để đảm bảo phúc lợi và sự phát triển toàn diện
của các thành viên trong xã hội, cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa của giai cấp
vô sản sẽ thủ tiêu tình trạng phân chia xã hội thành giai cấp và do đó sẽ giải
phóng tồn thể lồi người bị áp bức, chấm dứt mọi hình thức bóc lột của bộ
phận xã hội này với bộ phận xã hội khác.
Lênin cũng cho rằng, trong “giai đoạn thấp của xã hội cộng sản chủ nghĩa”,
chưa thể thực hiện công bằng, bình đẳng, về mặt của cải thì vẫn cịn chênh lệch,
nhưng tình trạng người áp bức bóc lột người khơng cịn nữa vì những tư liệu sản
xuất chủ yếu đã được sở hữu thuộc về xã hội. Từ thực tế nước Nga, sau Cách



mạng Tháng Mười, ông cho rằng, trong giai đoạn đầu của Chủ nghĩa xã hội thì
trong xã hội vẫn tồn tại nền kinh tế nhiều thành phần tương ứng với mỗi thành
phần kinh tế là một hình thức sở hữu riêng. Do đó, tất yếu khách quan trong
Chủ nghĩa xã hội có sự tồn tại của các loại lợi ích khác nhau và do các thành
phần kinh tế quy định nên trong Chủ nghĩa xã hội còn tồn tại các giai cấp. Lênin
chủ trương phát triển kinh tế nhiều thành phần, nhưng kinh tế tập thể (công hữu)
vẫn giữ vai trò chủ đạo, chỉ huy và định hướng các thành phần kinh tế khác theo
quỹ đạo xã hội chủ nghĩa.
Theo V.I.Lênin, từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa bỏ qua giai
đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, cần thiết phải khôi phục lại quan hệ hàng hóa tiền tệ và sự phát triển của sản xuất hàng hóa. Nhưng sự phát triển sản xuất và
trao đổi hàng hóa tất yếu sẽ dẫn đến phân hóa giàu nghèo và làm phát sinh trở
lại quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, nhưng khơng vì thế mà ngăn cấm, điều
quan trọng là phải tìm cách hướng các quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa ấy vận
động theo quỹ đạo chung của nền kinh tế quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Theo
Lênin, tốt nhất là hướng chúng vào con đường của chủ nghĩa tư bản nhà nước,
đó chính là sự “kết hợp, liên hợp, phối hợp giữa nhà nước Xơ viết - nền chun
chính vơ sản với chủ nghĩa tư bản”.
2.4.

Chủ nghĩa xã hội tạo ra cách tổ chức lao động và kỷ luật lao động
mới với năng suất cao

Quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa
là một quá trình hoạt động tự giác của đại đa số nhân dân lao động, vì lợi ích
của đa số nhân dân. Chính bản chất và mục đích đó, cần phải tổ chức lao động
và kỷ luật lao động mới phù hợp với địa vị làm chủ của người lao động, đồng
thời khắc phục những tàn dư của tình trạng lao động bị tha hóa trong xã hội cũ.
Trong những luận giải của mình về chủ nghĩa xã hội, V.I.Lênin đã nêu rõ

nguyên nhân vì sao chủ nghĩa xã hội đã tạo ra được một năng suất lao động cao


hơn so với chủ nghĩa tư bản. Ngoài cơ sở vật chất là nền đại cơng nghiệp hiện
đại, thì cịn do những yếu tố vốn có của chủ nghĩa xã hội, những yếu tố này
khơng thể có được trong lịng chủ nghĩa tư bản. Đó là cách tổ chức lao động và
kỷ luật lao động mới. V.I.Lênin khẳng định kỷ luật của chế độ nô lệ và chế độ
phong kiến là kỷ luật roi vọt; kỷ luật của chủ nghĩa tư bản là kỷ luật đói; cịn kỷ
luật của chủ nghĩa xã hội là kỷ luật tự giác và tự nguyện của chính ngay những
người lao động.
Để có được cách tổ chức lao động mới thì cần phải thực hiện chế độ kiểm kê,
kiểm sốt tồn dân. Khi thực hiện Chính sách kinh tế mới, tư tưởng về sự kiểm
kê, kiểm sốt tồn dân được đề cao, V.I.Lênin coi đó là để cứu nước Nga khỏi
tình trạng khủng hoảng kinh tế, nhưng vẫn đảm bảo cho nước Nga tiến lên chủ
nghĩa xã hội. Ơng coi việc kiểm kê, kiểm sốt toàn dân đối với sản xuất và phân
phối sản phẩm là một hình thức của sự quá độ, là cái giữ cho xã hội không đi
chệch khỏi con đường xã hội chủ nghĩa trong điều kiện thực hiện chủ nghĩa tư
bản nhà nước. Như vậy, chủ nghĩa xã hội sẽ tạo ra một năng suất lao động cao
hơn chủ nghĩa tư bản nhờ việc đưa ra một hình thức tổ chức lao động và kỷ luật
lao động mới. Hình thức tổ chức lao động và kỷ luật lao động đó được thực hiện
trên cơ sở của sự kiểm kê, kiểm sốt tồn dân đối với việc sản xuất và phân phối
sản phẩm đảm bảo lợi ích của người lao động.
2.5.

Chủ nghĩa xã hội thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao động
Đó là việc phân phối tư liệu sinh hoạt cho mỗi người sản xuất. Theo

V.I.Lênin, phân phối theo lao động là cách thức phân phối trong giai đoạn thấp
của xã hội cộng sản chủ nghĩa. Cách thức phân phối theo lao động là thích hợp
nhất với chủ nghĩa xã hội, bởi vì nó được dựa trên chế độ cơng hữu về tư liệu

sản xuất. Phân phối theo lao động khơng có nghĩa là mỗi người làm được bao
nhiêu sản phẩm thì được hưởng hết bấy nhiêu. Trái lại, tổng sản phẩm do lao
động xã hội tạo ra phải được đem phân phối cho cả tiêu dùng cá nhân, cho cả
tích lũy tái sản xuất mở rộng và cho cả tiêu dùng công cộng của xã hội. Phương


thức phân phối sẽ thay đổi tùy theo bản thân loại cơ cấu sản xuất xã hội và tùy
theo trình độ phát triển lịch sử tương ứng của những người sản xuất.
V.I.Lênin chỉ rõ, trong chủ nghĩa xã hội của cải làm ra chưa đạt đến mức dồi
dào, lao động còn là nghĩa vụ, là phương tiện để sinh sống chứ chưa trở thành
nhu cầu bậc nhất của đời sống ở giai đoạn cao là chủ nghĩa cộng sản. Do đó,
cách phân phối sản phẩm theo lao động được dựa trên hai ngun tắc: “người
nào khơng làm thì khơng ăn”; “số lượng lao động ngang nhau thì hưởng số sản
phẩm ngang nhau”. Hơn nữa, chủ nghĩa xã hội ra đời và phát triển chưa phải
dựa trên cơ sở của chính nó mà thốt thai từ xã hội cũ nên vẫn còn nhiều dấu
vết, sức ỳ của xã hội cũ, nhiều người cịn trốn tránh, lười biếng trong lao động.
Vì vậy, cần thiết phải phân phối theo lao động và kiểm tra kiểm soát nghiêm
mức độ lao động và tiêu dùng của mỗi người.
2.6.

Nhà nước trong chủ nghĩa xã hội là nhà nước dân chủ kiểu mới,
thể hiện bản chất giai cấp cơng nhân, đại biểu cho lợi ích, quyền
lực và ý chí của nhân dân lao động.
Nhà nước xã hội chủ nghĩa do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Thông qua nhà

nước, Đảng lãnh đạo toàn xã hội về mọi mặt và nhân dân lao động thực hiện
quyền lực và lợi ích của mình trên mọi mặt của xã hội. Nhân dân lao động tham
gia nhiều vào công việc nhà nước. Đây là một “nhà nước nửa nhà nước”, với
tính tự giác, tự quản của nhân dân rất cao, thể hiện các quyền dân chủ, làm chủ
và lợi ích của chính mình ngày càng rõ hơn.

Tác phẩm Nhà nước và cách mạng nổi tiếng được Lênin viết tại Radơlip
(Phần Lan) là toàn bộ lý luận về nhà nước, những quan điểm về một nhà nước
kiểu mới - Nhà nước vô sản đầu tiên trên thế giới của Lênin. Trong tác phẩm
này, Lênin không những đã lĩnh hội được quan điểm của Mác và Ăngghen về
xây dựng một nhà nước cách mạng mà còn phát triển một bước học thuyết của
chủ nghĩa Mác về nhà nước và chun chính vơ sản ở nước Nga.


Theo Lênin, nhà nước được thành lập bởi thắng lợi của cách mạng vô sản phải
là một nhà nước trên cơ sở đập tan toàn bộ bộ máy nhà nước cũ. Khi giai cấp vơ
sản giành được chính quyền thì sức mạnh của đảng được thực hiện thông qua
nhà nước, đảng sẽ lãnh đạo được toàn xã hội. Để giúp giai cấp vô sản hiểu về
nhà nước, biết cách quản lý nhà nước của mình, Người chỉ ra các nguyên tắc
cho việc xây dựng một nhà nước sau thắng lợi của cách mạng vơ sản. Đó là,
phải đảm bảo sự lãnh đạo của đảng cộng sản - đảng kiểu mới của giai cấp vô
sản; đảm bảo quyền làm chủ của nhân dân; đảm bảo tập trung dân chủ trong cơ
chế vận hành của nhà nước và đảm bảo dân chủ trong xã hội.
Lênin nhấn mạnh, thông qua nhà nước, đảng lãnh đạo toàn xã hội về mọi mặt và
nhân dân lao động thực hiện quyền lực và lợi ích của mình trên mọi mặt của xã
hội. Nhân dân lao động tham gia nhiều vào công việc nhà nước. Đây là một
“nhà nước nửa nhà nước”, với tính tự giác, tự quản của nhân dân rất cao, thể
hiện các quyền dân chủ, làm chủ và lợi ích của chính mình ngày càng rõ hơn.
“Chính quyền Xơ viết là một kiểu nhà nước mới, khơng có bộ máy quan liêu...
một kiểu nhà nước trong đó nền dân chủ tư sản được thay thế bằng nền dân chủ
mới - một nền dân chủ đang đưa đội tiên phong của quần chúng lên hàng đầu, là
cho quần chúng trở thành những người lập pháp và hành pháp, thành những đội
vũ trang bảo vệ và thiết lập một bộ máy có khả năng cải tạo quần chúng”. Để
xây dựng và hoàn thiện bộ máy nhà nước cần hết sức quan tâm vấn đề đào tạo
và bồi dưỡng cán bộ. Muốn đổi mới bộ máy nhà nước thì “chúng ta phải cố hết
sức tự đặt cho mình nhiệm vụ sau đây: một là học tập, hai là học tập, ba là học

tập mãi, và sau nữa, phải làm sao cho học thức ở nước ta không nằm trên giấy
hoặc là một lời nói theo mốt nữa... phải làm sao cho học thức thật sự ăn sâu vào
trí não, hồn tồn thực tế trở thành một bộ phận khăng khít của cuộc sống”.
Trong đó, cơng tác tuyển chọn, bổ nhiệm và sử dụng cán bộ cần hết sức chú ý
đến các tiêu chuẩn:
a) về mặt trung thực;


b) về lập trường chính trị;
c) về mặt hiểu biết cơng việc;
d) về năng lực quản lý.
Người cịn nhấn mạnh, cần đấu tranh chống tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí
trong bộ máy nhà nước. Và, khơng được chần chừ, do dự, phải mạnh dạn thay
đổi những cán bộ năng lực yếu kém, khơng chịu khó học tập. Muốn vậy, nhà
nước phải quản lý xã hội bằng pháp luật và tăng cường pháp chế XHCN.
2.7.

Trong chủ nghĩa xã hội, các quan hệ giai cấp - dân tộc - quốc tế
được giải quyết phù hợp, kết hợp lợi ích giai cấp - dân tộc với chủ
nghĩa quốc tế trong sáng

Đối với Lênin, tiếp cận và giải quyết vấn đề dân tộc phải đứng vững trên
lập trường cách mạng của giai cấp công nhân. Trong tác phẩm Quyền dân tộc tự
quyếtviết năm 1914, Lênin đã nêu rõ nội dung cương lĩnh dân tộc của Đảng:
“Các dân tộc hồn tồn bình đẳng; các dân tộc được quyền tự quyết; liên hiệp
giai cấp công nhân tất cả các dân tộc lại; đó là cương lĩnh dân tộc mà chủ nghĩa
Mác, kinh nghiệm toàn thế giới và kinh nghiệm nước Nga dạy cho công nhân”.
Khi chủ nghĩa đế quốc trở thành hệ thống thế giới, cách mạng giải phóng dân
tộc trở thành một bộ phận của cách mạng vô sản, Lênin cho rằng cuộc đấu tranh
của giai cấp vơ sản chính quốc sẽ khơng giành được thắng lợi, nếu nó khơng

liên minh với cuộc đấu tranh của các dân tộc bị áp bức. Từ đó, Người cùng với
Quốc tế cộng sản bổ sung khẩu hiệu nêu trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản
thành: “Vô sản tất cả các nước và các dân tộc bị áp bức đồn kết lại”.
“Chủ nghĩa xã hội có mục đích khơng những xóa bỏ tình trạng nhân loại bị chia
thành những quốc gia nhỏ, xóa bỏ mọi trạng thái biệt lập giữa các dân tộc,
không những làm cho các dân tộc gần gũi nhau, mà cũng còn nhằm thực hiện
việc hợp nhất các dân tộc lại”. Chính vì vậy, chủ nghĩa xã hội nhất thiết phải


bảo đảm quyền bình đẳng giữa các dân tộc trên tất cả các lĩnh vực: kinh tế,
chính trị, văn hóa, xã hội, không phân biệt dân tộc đa số hay thiểu số, về lịch sử
ra đời sớm hay muộn, trình độ phát triển cao hay thấp giữa các dân tộc. Đối lập
với các chế độ áp bức bóc lột người thường phân biệt, kỳ thị và chia rẽ các dân
tộc, chủ nghĩa xã hội gắn việc xây dựng tình đồn kết các dân tộc, tôn trọng và
giúp đỡ nhau cùng phát triển, từng bước rút ngắn khoảng cách chênh lệch về
trình độ phát triển giữa các dân tộc hiện nay. Chủ nghĩa xã hội gắn liền với việc
xây dựng tình đồn kết các dân tộc, tơn trọng và giúp đỡ nhau cùng phát triển,
từng bước rút ngắn khoảng cách chênh lệch về trình độ phát triển giữa các dân
tộc hiện nay. Đồng thời, phải đấu tranh không khoan nhượng chống chủ nghĩa
dân tộc cực đoan, phản động, cần phải phân biệt chủ nghĩa dân tộc của dân tộc
đi áp bức và chủ nghĩa dân tộc của một dân tộc bị áp bức với chủ nghĩa dân tộc
của một dân tộc lớn với chủ nghĩa dân tộc nhỏ.
Trên cơ sở nhận thức về thời đại, nhận thức về dân tộc và sức mạnh dân tộc, từ
thực tiễn của công cuộc đổi mới đất nước dựa trên nền tảng của chủ nghĩa Mác Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi
lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam của Đảng ta ngày càng rõ hơn. Trong quá trình
đổi mới nhận thức, Đảng ta đã nhận thấy việc xác định đúng mơ hình chủ nghĩa
xã hội là yếu tố có ý nghĩa quyết định đến sự thành công của công cuộc xây
dựng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Bởi đó là cơ sở, là định hướng để Đảng và
Nhà nước hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách và pháp luật nhằm hiện
thực hóa mục tiêu chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội(Bổ
sung, phát triển năm 2011) đã điều chỉnh, chuẩn hóa một số nội dung và cơ
đọng hóa một số đặc trưng: “Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng
là một xã hội: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân
dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại
và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc


dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát
triển tồn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đồn kết, tơn
trọng và giúp nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ
hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới”.
3. Đặc trưng xã hội xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
(bổ sung, phát triển năm 2011) (gọi tắt là Cương lĩnh 2011), được Đại hội XI
của Đảng thông qua đã làm rõ hơn các đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa mà
nhân dân ta xây dựng. Đó là mục tiêu mà toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta cần
ra sức phấn đấu trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Về đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa ở nước ta, Cương lĩnh 2011 đã khẳng
định: “Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội: Dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền
kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất
tiến bộ phù hợp; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có
cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển tồn diện; các dân
tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đồn kết, tơn trọng và giúp nhau cùng
phát triển; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân
dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác
với các nước trên thế giới”
Như vậy, so với Cương lĩnh 1991, Cương lĩnh 2011 bổ sung 2 đặc trưng mới.

Căn cứ vào tình hình cụ thể của đất nước và những đặc trưng của chủ
nghĩa xã hội theo quan điểm chủ nghĩa Mác – Lênin, trong “Cương lĩnh xây
dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội”, Đảng ta đã xác định
những đặc trưng của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam mà chúng ta sẽ xây dựng là:


3.1.

“Có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do
nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo”
Đặc trưng này là kế thừa của Văn kiện Đại hội X của Đảng, phản ánh

đường lối xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do
nhân dân, vì nhân dân, nhân dân là chủ thể của quyền lực nhà nước, phù hợp với
thực tiễn Việt Nam và xu thế của thời đại. Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng
cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước và xã hội, song Đảng hoạt động trong khuôn
khổ Hiến pháp và pháp luật. Vì vậy, để tránh hiểu lầm hoặc sự xuyên tạc của
một số người khi cho rằng “dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản” nghĩa là
Đảng ta đứng trên Nhà nước và pháp luật, nên trong Cương lĩnh đã thay từ
“dưới” sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản bằng từ “do” Đảng Cộng sản lãnh đạo.
Kế thừa Văn kiện Đại hội X, trong Cương lĩnh 2011, Đảng ta khẳng định lại đặc
trưng “do nhân dân làm chủ” (bỏ cụm từ “lao động” trong Cương lĩnh 1991). Sự
khẳng định đó nhằm phát huy cao độ sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc; mỗi
người dân Việt Nam đều là người chủ đất nước, có trách nhiệm xây dựng đất
nước, dù sinh sống ở trong nước hay ngồi nước.
Tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta đang xây dựng thể hiện ở
bản chất ưu việt về chính trị của chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa trên cơ sở kế
thừa giá trị quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin: sự nghiệp cách mạng là của
quần chúng; kế thừa những giá trị trong tư tưởng truyền thống của dân tộc Việt
Nam, tư tưởng dân là gốc. Đặc biệt, đã thể hiện quan điểm về dân chủ của Chủ

tịch Hồ Chí Minh: dân chủ tức dân là chủ, dân làm chủ.
Tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội trong đặc trưng vừa nêu còn được thể
hiện trong nhận thức của Đảng ta về việc từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã
hội chủ nghĩa gắn liền với việc bảo đảm tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về
nhân dân (nhân dân là chủ thể của mọi quyền lực).


Dự thảo Cương lĩnh (bổ sung vả phát triển) đã tiếp tục khẳng định: “Dân chủ xã
hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu vừa là động lực của sự
phát triển đất nước. Xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa, bảo đảm tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân. Dân chủ phải
được thực hiện trong thực tế cuộc sống ở mọi cấp, trên tất cả các lĩnh vực thông
qua hoạt động của Nhà nước do nhân dân bầu ra và các hình thức dân chủ trực
tiếp...”.
Nhân dân (bao gồm đông đảo các giai cấp, tầng lớp dân cư, các dân tộc, tôn
giáo...) làm chủ thông qua các hình thức dân chủ gián tiếp và dân chủ trực tiếp,
thông qua việc thực hiện các Quy chế dân chủ và Pháp lệnh dân chủ ở cơ sở...
cũng đã thể hiện tính ưu việt về chế độ chính trị của chủ nghĩa xã hội mà nhân
dân ta đang xây dựng.
Tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội tự bản thân nó đã địi hỏi phải phát huy
dân chủ cao độ, gắn với tính tích cực, chủ động, sáng tạo của nhân dân trong
tham gia xây dựng, quản lý các lĩnh vực của đời sống xã hội. V.I.Lênin từng
nêu quan niệm: chủ nghĩa xã hội không phải là sản phẩm được tạo ra từ những
sắc lệnh từ trên ban xuống. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng khẳng định: Nước ta
là nước dân chủ. Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền lợi đều của
dân...
Tính ưu việt của chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa thể hiện cụ thể, thiết
thực ở Việt Nam hiện nay là một chế độ xã hội do nhân dân làm chủ. Tính ưu
việt này đã, đang, sẽ biểu hiện thơng qua q trình đổi mới và dân chủ hóa ở
Việt Nam.

Chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta đang xây dựng thể hiện trong tính ưu
việt của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì
nhân dân, thực hiện ý chí, quyền lực của nhân dân, do Đảng Cộng sản Việt Nam
lãnh đạo.


Tính ưu việt của một xã hội do nhân dân làm chủ gắn bó mật thiết với tính ưu
việt của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Dự thảo Cương lĩnh (bổ sung
và phát triển) đã chỉ rõ tính ưu việt của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
mà nhân dân ta đang hướng tới xây dựng. Đó là: Nhà nước gắn bó chặt chẽ với
nhân dân, thực hiện đầy đủ quyền dân chủ của nhân dân, tôn trọng, lắng nghe ý
kiến của nhân dân và chịu sự giám sát của nhân dân; có cơ chế và biện pháp
kiểm soát, ngăn ngừa và trừng trị tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, vơ trách
nhiệm, lộng quyền, xâm phạm quyền dân chủ của công dân.
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân
là biểu hiện cụ thể tính ưu việt của Chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta đang xây
dựng. Nhà nước ấy phải kế thừa những giá trị trong kiểu tổ chức nhà nước pháp
quyền và xã hội công dân với tư cách là giá trị của văn minh nhân loại vào điều
kiện cụ thể của Việt Nam hiện nay. Thành quả của công cuộc đổi mới đã giúp
Đảng và Nhà nước ta xác định kiểu tổ chức và hoạt động mang tính ưu việt của
Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam là: Tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà
nước theo nguyên tắc tập trung dân chủ, có sự phân cơng, phân cấp, đồng thời
bảo đảm sự thống nhất của trung ương. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự
phân cơng phối hợp và kiểm sốt giữa các cơ quan trong việc thực hiện các
quyền lập pháp. Trong quan hệ với Nhà nước, Đảng lãnh đạo để Nhà nước phát
huy vai trị quản lý chứ khơng bao biện làm thay Nhà nước. Đảng luôn luôn
chịu sự giám sát của nhân dân và hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp
luật.
Đảng ta đã khẳng định: Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị, đồng thời là bộ phận
của hệ thống ấy. Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân, tôn trọng và phát huy

quyền làm chủ của nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng, chịu sự giám
sát của nhân dân, hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.
Tính ưu việt của Chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta đang xây dựng thể hiện trong
đặc trưng về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân,


vì nhân dân là thành quả của việc vận dụng, phát huy sáng tạo quan điểm của
chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước xã hội chủ nghĩa
trong điều kiện cụ thể của Việt Nam hiện nay.
3.2.

“Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”
Đây vừa là mục tiêu, vừa là đặc trưng tổng quát, đặc trưng bản chất của

chủ nghĩa xã hội Việt Nam. Chủ nghĩa xã hội phải làm cho dân giàu, có cuộc
sống ấm no, tự do, hạnh phúc. Nghèo đói khơng phải là chủ nghĩa xã hội. Dân
giàu là giàu cả đời sống vật chất và văn hóa, tinh thần; dân giàu nhưng phải làm
cho nước mạnh, dân có giàu nước mới mạnh, phải nâng cao sức mạnh tổng hợp
quốc gia; dân giàu nhưng phải đảm bảo công bằng xã hội... Đây là thể hiện tính
ưu việt của chủ nghĩa xã hội.
Trong Cương lĩnh 2011, cụm từ “dân chủ” được đưa lên trước cụm từ “công
bằng” so với Văn kiện Đại hội X của Đảng. Sự thay đổi này không đơn thuần là
sắp xếp lại thứ tự mà phản ánh sự nhận thức ngày càng sâu sắc hơn của Đảng ta
đối với mục tiêu dân chủ. Dân chủ là bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa, vừa
là mục tiêu, vừa là động lực, là nguồn lực phát triển đất nước. Dân chủ, theo
Chủ tịch Hồ Chí Minh: dân là chủ, dân làm chủ, dân là gốc; dân chủ là chìa
khóa vạn năng. Do đó, dân chủ phải được đặt ở một vị trí tương xứng với tầm
vóc, giá trị của nó trong Cương lĩnh và khi đề cao dân chủ, chúng ta không hề
coi nhẹ kỷ luật, kỷ cương là cái hiện nay chúng ta còn nhiều yếu kém. Càng coi
trọng dân chủ càng phải coi trọng kỷ luật, pháp luật, kỷ cương trong quản lý đời

sống xã hội. Cả dân chủ và kỷ luật đều là những mặt chúng ta còn nhiều hạn
chế, cần phải phấn đấu nâng cao.
Ở nước ta, tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội phải được biểu hiện cụ thể
thiết thực, trên cơ sở kế thừa quan điểm Mác - Lênin về mục tiêu của chủ nghĩa
xã hội, đồng thời vận dụng sáng tạo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh: Chủ


nghĩa xã hội là làm sao cho dân giàu, nước mạnh..., là công bằng, hợp lý, mọi
người đều được hưởng quyền tự do, dân chủ được sống cuộc đời hạnh phúc...
Tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta đang xây dựng phải hướng tới
việc hiện thực hóa đầy đủ, đồng bộ hệ mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh. Tư tưởng xuyên suốt của cách mạng Việt Nam là độc lập
dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Đối với dân tộc Việt Nam, chỉ có chủ
nghĩa xã hội mới bảo đảm cho dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn
minh thật sự. Đây là khát vọng tha thiết của toàn thể nhân dân Việt Nam sau khi
đất nước giành được độc lập và thống nhất Tổ quốc.
Nói đến tính ưu việt của đặc trưng này, không thể không so sánh về mặt
bản chất của xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta đang xây dựng với các xã
hội đã từng tồn tại trước đây ở Việt Nam nói riêng và với chủ nghĩa tư bản nói
chung. Trước năm 1945, ở Việt Nam chưa hề có và chưa thể có các giá trị dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, cơng bằng, văn minh. Đó là một thực tế hiển nhiên
mà mỗi người đều nhận biết. Trong Dự thảo Cương lĩnh (bổ sung và phát triển),
Đảng ta đã có đánh giá đúng đắn, khách quan về chủ nghĩa tư bản: “Hiện tại,
chủ nghĩa tư bản còn tiềm năng phát triển, nhưng về bản chất vẫn là một chế độ
áp bức, bóc lột và bất cơng”.
Nhân dân ta đã từng chứng kiến bản chất áp bức, bóc lột, bất cơng, tàn bạo của
chủ nghĩa tư bản trong thời gian dài bị chủ nghĩa thực dân, đế quốc xâm lăng,
đô hộ. Chủ nghĩa xã hội phải xóa bỏ nghèo nàn, lạc hậu, khuyến khích mọi
người dân làm giàu chính đáng để tất cả cùng giàu có. Đó cũng là tiền đề để đất
nước giàu mạnh thật sự trên các lĩnh vực: chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và

an ninh, quốc phòng. Chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta đang xây dựng là q
trình dân chủ hóa, phát huy mọi quyền dân chủ của nhân dân, đồng thời hướng
tới những giá trị công bằng cho mọi tầng lớp, mọi người dân, xây dựng xã hội
Việt Nam thành một xã hội văn minh, hiện đại.


Tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta đang xây dựng thể hiện ở bản
chất ưu việt của các giá trị, thể hiện trong mục tiêu cần đạt tới là dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng và văn minh thật sự. Chúng ta đang xây dựng chủ
nghĩa xã hội là đang từng bước hiện thực hố tính ưu việt của đặc trưng thứ nhất
vừa nêu.
3.3.

Có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất
hiện đại và chế độ công hữu về các tự liệu sản xuất chủ yếu

Đây là đặc trưng thể hiện tính ưu việt trên lĩnh vực kinh tế của chủ nghĩa
xã hội mà nhân dân ta đang xây dựng so với các chế độ xã hội khác.
Về lực lượng sản xuất của xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta đang xây
dựng không thể là cái gì khác ngồi lực lượng sản xuất hiện đại với khoa học kỹ
thuật và công nghệ tiên tiến, gắn với phát triển kinh tế tri thức. Về quan hệ sản
xuất khơng thể khơng tính đến yếu tố quan trọng hàng đầu là chế độ sở hữu.
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội việc xác định chế độ công hữu về các
tư liệu sản xuất chủ yếu thể hiện tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội mà chúng ta
đang xây dựng (đã khắc phục được tư duy cũ, giáo điều về chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam đồng nghĩa với chế độ công hữu là duy nhất ngay trong thời kỳ quá
độ).
Một luận điểm phản ánh thành quả của đổi mới nhận thức lý luận về sự phát
triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội mà Đảng ta đã xác định từ Đại hội IX được
tuyệt đại đa số nhân dân đồng tình: “Con đường đi lên của nước ta là sự phát

triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tức là bỏ qua
việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản
chủ nghĩa, nhưng tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được
dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt về khoa học và công nghệ, để phát triển
nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại”.


Trong xã hội tư bản, chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa giữ vai trò
thống trị của quan hệ sản xuất; là cơ sở nảy sinh những bất bình đẳng về kinh tế
và áp bức về xã hội. Bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất tư
bản chủ nghĩa, từng bước xây dựng mối quan hệ sản xuất mới dựa trên cơ sở
của chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu thể hiện rõ tính ưu việt của
V mà nhân dân ta đang xây dựng so với chế độ tư bản chủ nghĩa.
Dự thảo Cương lĩnh (bổ sung và phát triển) tiếp tục khẳng định: Những mâu
thuẫn vốn có của chủ nghĩa tư bản, nhất là mâu thuẫn giữa tính chất xã hội hóa
ngày càng cao của lực lượng sản xuất với chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ
nghĩa chẳng những không giải quyết được mà ngày càng trở nên sâu sắc. Khi
bàn về phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều
hình thức sở hữu nhiều thành phần kinh tế, Đảng ta tiếp tục khẳng định quan
điểm: Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tập thể không ngừng được
củng cố và phát triển. Kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở
thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Quan điểm này hoàn toàn
nhất quán với đặc trưng trong quan hệ sản xuất của chủ nghĩa xã hội mà chúng
ta đang xây dựng là xác lập dần từng bước chế độ công hữu.
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội phải dựa trên chế độ công hữu về các
tư liệu sản xuất chủ yếu là một trong những yếu tố đảm bảo định hướng xã hội
chủ nghĩa trong phát triển nền kinh tế thị trường với nhiều thành phần kinh tế.
3.4.

Có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc

Tính ưu việt về văn hóa của chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta đang xây

dựng thể hiện khái quát ở tính chất tiên tiến của nền văn hóa (bao hàm những
giá trị mới, tiến bộ, hiện đại, nhân văn của văn hóa nhân loại); ở việc giữ gìn
bản sắc dân tộc (những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc Việt Nam: chủ
nghĩa yêu nước Việt Nam, truyền thống đoàn kết và nhân ái, ý thức về độc lập,
tự do, tự cường dân tộc...).


Hội nhập quốc tế đang là một xu thế lớn khách quan lôi cuốn nhiều quốc gia,
khu vực tham gia. Xu thế này, một mặt tạo cơ hội để mở rộng giao lưu, tiếp biến
văn hóa giữa các dân tộc, quốc gia; mặt khác làm nảy sinh nguy cơ mai một các
giá trị văn hóa truyền thống của từng dân tộc. Trong bối cảnh quốc tế mà các
chế độ chính trị - xã hội khác nhau cùng tồn tại, vừa hợp tác vừa đấu tranh;
trong giao lưu, hợp tác và phát triển văn hóa, tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội
mà chúng ta đang xây dựng phải được thể hiện khơng chỉ bằng việc xác định
tính ưu việt của đặc trưng về văn hóa vừa nêu, mà cịn phải hiện thực hóa đặc
trưng đó trên thực tế.
Xây dựng một nền văn hóa tiên tiến, mang đậm bản sắc dân tộc đòi hỏi vừa phải
tiếp thu những giá trị của tinh hoa văn hóa nhân loại, vừa phải kế thừa, phát
triển bản sắc văn hóa của các tộc người Việt Nam, xây dựng một nền văn hóa
Việt Nam thống nhất trong đa dạng. Sự kết hợp hài hòa những giá trị tiên tiến
với những giá trị mang đậm bản sắc dân tộc thể hiện tính ưu việt của chủ nghĩa
xã hội mà nhân dân ta đang xây dựng trên lĩnh vực văn hóa, làm cho văn hóa trở
thành sức mạnh nội sinh quan trọng của phát triển.
3.5.

Con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất cơng, làm
theo năng lực, hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do,
hạnh phúc, có điều kiện phát triển tồn diện cá nhân


Tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta đang xây dựng không
chỉ được thể hiện trong đặc trưng tổng quátdân giàu, nước mạnh, dân chủ, cơng
bằng, văn minh, mà cịn được thể hiện qua đặc trưng về con người trong xã hội
xã hội chủ nghĩa. Về phương diện con người, chủ nghĩa xã hội đồng nghĩa với
chủ nghĩa nhân văn, nhân đạo: tất cả vì con người, cho con người và phát triển
con người toàn diện. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: Muốn xây dựng chủ
nghĩa xã hội thì phải có con người xã hội chủ nghĩa. Để có con người xã hội chủ
nghĩa phải xác định và hiện thực hóa hệ giá trị phản ánh nhu cầu chính đáng của
con người trong xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta đang xây dựng.



×