Tải bản đầy đủ (.docx) (51 trang)

Tiểu luận cao học thực trạng và kinh nghiệm công tác lãnh đạo, quản lý sự ảnh hưởng của đạo tin lành trong đồng bào dân tộc h’mông

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (290.46 KB, 51 trang )

TIỂU LUẬN
MÔN: LÃNH ĐẠO - QUẢN LÝ CÁC VẤN ĐỀ DÂN TỘC, TÔN GIÁO

ĐỀ TÀI:
THỰC TRẠNG VÀ KINH NGHIỆM CÔNG TÁC LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ
SỰ ẢNH HƯỞNG CỦA ĐẠO TIN LÀNH TRONG ĐỒNG BÀO DÂN TỘC
H’MÔNG Ở MỘT SỐ TỈNH MIỀN NÚI PHÍA BẮC NƯỚC TA HIỆN NAY


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU...........................................................................................................1
Chương 1 LÝ LUẬN CHUNG VỀ CÔNG TÁC LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ
CÁC VẤN ĐỀ TÔN GIÁO Ở VIỆT NAM......................................................3
1.1. Vài nét về công tác tôn giáo.....................................................................3
1.1.1. Khái niệm tôn giáo..................................................................................3
1.1.2. Quan điểm của Chủ nghĩa Mác – Lênin về giải quyết vấn đề tôn giáo. .3
1.1.3. Thế nào là cơng tác tơn giáo?..................................................................4
1.2. Khái qt chung về tình hình tơn giáo ở Việt Nam.................................5
1.3. Cơng tác lãnh đạo, quản lý các vấn đề tôn giáo ở Việt Nam...................8
1.3.1. Hồn thiện pháp luật, cơ chế chính sách của tơn giáo và công tác tôn
giáo 8
Chương 2 THỰC TRẠNG VÀ KINH NGHIỆM CÔNG TÁC LÃNH ĐẠO,
QUẢN LÝ SỰ ẢNH HƯỞNG CỦA ĐẠO TIN LÀNH TRONG ĐỒNG BÀO
DÂN TỘC H’MÔNG Ở MỘT SỐ TỈNH MIỀN NÚI PHÍA BẮC NƯỚC TA
HIỆN NAY......................................................................................................19
2.1. Khái quát sự ảnh hưởng của đạo Tin lành trong đồng bào dân tộc
H’Mông ở một số tỉnh miền núi phía Bắc.......................................................19
2.1.1. Q trình phát triển đạo Tin lành ở một số tỉnh miền núi phía Bắc nước
ta.
19
2.1.2. Ảnh hưởng của đạo Tin lành trong đồng bào dân tộc H’mông ở một số


tỉnh miền núi phía Bắc nước ta........................................................................24
2.1. Thực trạng công tác lãnh đạo, quản lý sự ảnh hưởng của đạo Tin lành
trong đồng nào dân tộc H’Mông ở một số tỉnh miền núi phía Bắc hiện nay. .32
2.1.1. Kết quả..................................................................................................32
2.1.2. Hạn chế..................................................................................................37
Chương 3 KINH NGHIỆM LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ KHI GIAI QUYẾT
VẤN ĐỀ TÔN GIÁO Ở VIỆT NAM HIỆN NAY.........................................42
3.1. Quán triệt sâu sắc quan điểm đổi mới của Đảng đối với vấn đề tôn giáo 42
3.1.1. Quán triệt nhiệm vụ công tác tôn giáo..................................................43
3.1.2. Tổ chức thực hiện..................................................................................43
3.2. Áp dụng lý luận vào thực tiễn..................................................................44
KẾT LUẬN.....................................................................................................47
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................48


MỞ ĐẦU
Tơn giáo là một hình thái ý thức xã hội, xuất hiện từ rất sớm trong lịch
sử xã hội lồi người. Trong q trình tồn tại và phát triển, tơn giáo ln ảnh
hưởng đến đời sống chính trị, tư tưởng, văn hoá, xã hội và tâm lý, đạo đức, lối
sống, phong tục tập quán của nhiều quốc gia, dân tộc.
Việt Nam là quốc gia đa tơn giáo. Trong đó có 6 tơn giáo lớn là Thiên
Chúa giáo, Phật giáo, Cao Đài, Hoà Hảo, Tin Lành, Hồi giáo với hàng chục
triệu tín đồ đã ít nhiều chịu ảnh hưởng phong tục, tập quán và bản sắc văn hoá
Việt Nam.
Địa bàn khu vực miền núi phía Bắc là nơi có nhiều dân tộc cư trú. Nơi
đây khơng chỉ có vị trí quan trọng về kinh tế, chính trị, an ninh và quốc phòng
mà gần đây còn là một trong những địa bàn phức tạp về tôn giáo. Bên cạnh
một số tôn giáo, tín ngưỡng truyền thống của các dân tộc cịn có các tơn giáo
ngoại lai được du nhập vào với những lý do và hoàn cảnh lịch sử rất khác
nhau. Công giáo và Tin lành là hai tôn giáo đã được du nhập vào một số tỉnh

ở phía Bắc từ lâu, tuy không phát triển mạnh nhưng đã bám rễ ở một số dân
tộc ít người (nhất là Cơng giáo). Từ sau năm 1954 và nhất là sau năm 1975
với nhiều lý do khác nhau, các tôn giáo này lại có sự suy giảm. Song những
năm gần đây, trên địa bàn này lại có sự phát triển của đạo Tin lành khơng
bình thường do những hoạt động truyền đạo trái phép, sự phát triển đạo trái
phép tạp trung chủ yếu vào đồng bào dân tộc H’mơng và có sự lan rộng vào
một số dân tộc khác như dân tộc Dao, dân tộc Thái. Đây là vấn đề rất đáng
được quan tâm bởi sự du nhập và phát triển của đạo Tin lành trong vùng đồng
bào dân tộc H’mông và một số tỉnh miền núi phía Bắc nước ta. Do vậy, tôi đã
chọn đề tài: “Thực trạng và kinh nghiệm công tác lãnh đạo, quản lý sự ảnh
hưởng của đạo Tin lành trong đồng bào dân tộc H’mông ở một số tỉnh
miền núi phía Bắc nước ta hiện nay” làm đề tài nghiên cứu tiểu luận kết
thúc môn học.
1


(Đề tài nghiên cứu một số tỉnh miền núi phía Bắc, trong đó tập trung
chủ yếu vào các tỉnh Hà Giang, Lào Cai, Lai Châu, là những tỉnh có đồng bào
dân tộc H’mông theo đạo Tin lành. Đồng thời, do thời gian nghiên cứu có hạn
nên tác giả chỉ tập trung khai thác dựa trên quan điểm của Chủ nghĩa Mác –
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và sự lãnh đạo của ĐCSN)

2


Chương 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ CÔNG TÁC LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ CÁC
VẤN ĐỀ TÔN GIÁO Ở VIỆT NAM
1.1. Vài nét về công tác tôn giáo
1.1.1. Khái niệm tôn giáo

Tôn giáo là một hiện tượng xã hội do con người sáng tạo ra và xuất
hiện khá sớm trong xã hội loài người, nó tồn tại phố biến ở tất cả các nước,
các dân tộc trên thế giới. Trong lịch sử đã từng tồn tại rất nhiều quan niệm
khác nhau về tôn giáo
Vậy Tơn giáo là gì? Trong tác phẩm Chống Đuyrinh khi phê phán
Đuyrinh
trên nhiều lĩnh vực triết học, CNXH khoa học, Kinh tế chính trị học và cả tơn
giáo, bằng lý luận khoa học duy vật lịch sử Ăngghen đã đưa ra quan điểm của
mình về tơn giáo một cách khái quát và khoa học. Các nhà nghiên cứu tôn
giáo Mác xít sau này đã coi đây là định nghĩa kinh điển về tôn giáo:
"Tất cả mọi tôn giáo chẳng qua chỉ là sự phản ánh hư ảo vào đầu óc
con người, của những lực lượng ở bên ngoài chi phối cuộc sống hàng ngày
của họ; chỉ là sự phản ánh trong đó những lực lượng ở trần thế đã mang hình
thức những lực lượng siêu trần thế".
1.1.2. Quan điểm của Chủ nghĩa Mác – Lênin về giải quyết vấn đề
tôn giáo
Chủ nghĩa Mác- Lênin bằng con đường cách mạng xã hội chủ nghĩa,
đập tan nhà nước tư sản, xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa nhằm xây dựng
cuộc sống ấm no hạnh phúc thực sự trên thế gian. Những nguyên tắc của chủ
nghĩa Mác- Lênin về việc giải quyết vấn đề tôn giáo:
a)

Đấu tranh giải quyết vấn đề tôn giáo phụ thuộc vào cuộc đấu

tranh giai cấp.
Nguồn gốc sinh ra tôn giáo hiện đại là sự áp bức, bóc lột của giai cấp tư
sản đối với giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Muốn giải quyết vấn đề
3



tơn giáo, trước hết phải xóa bỏ áp bức, bóc lột của giai cấp tư sản. Giai cấp
công nhân và nhân dân lao động chỉ có thể được giải phóng thực sự bằng cuộc
đấu tranh giai cấp do công nhân lãnh đạo, đập tan nhà nước của giai cấp tư
sản và thiết lập nhà nước của giai cấp công nhân, xây dựng xã hội xã hội chủ
nghĩa, xã hội mà từng bước xóa bỏ áp bức, bóc lột, từng bước xóa bỏ nghèo
đói và đi đến xã hội tự do, ấm no, hạnh phúc. Trong từng giai đoạn đó, tơn
giáo sẽ dần dần mất đi cùng với sự mất đi của nguồn gốc sinh ra nó. M
" uốn
xóa bỏ tơn giáo phải xóa bỏ gốc rễ xã hội của nó, đó là sự thống trị của tư
sản dưới tất cả mọi hình thức của nó"[2, tr. 287].
b)

Đấu tranh giải quyết vấn đề tơn giáo phải phục vụ nhiệm vụ

chính trị của từng giai đoạn cách mạng.
Trong tiến trình cách mạng, Đảng của giai cấp công nhân phải vạch ra
đường lối chiến lược và sách lược của từng giai đoạn cụ thể. Trong từng giai
đoạn đó, giải quyết vấn đề phải phục vụ nhiệm vụ chính trị của từng giai đoạn
đó. Nói cách khác, trong từng giai đoạn cách mạng, giải quyết vấn đề tôn giáo
để thực hiện thắng lợi mục tiêu cách mạng đề ra trong giai đoạn đó.
1.1.3. Thế nào là công tác tôn giáo?
Công tác tôn giáo là hoạt động của Đảng, Nhà nước, Mặt trận và các tổ
chức chính trị - xã hội có liên quan đến lĩnh vực tôn giáo.
Pháp nhân tôn giáo là các tổ chức giáo hội, các tổ chức tôn giáo ở
trung ương và các tổ chức cơ sở được Nhà nước công nhận tư cách pháp nhân
và cho phép hoạt động trong khuôn khổ luật pháp của Nhà nước.
Thể nhân tôn giáo là các tín đồ, chức sắc, nhà tu hành của các tổ chức
tơn giáo chưa có tư cách pháp nhân hoặc chưa được nhà nước công nhận và
chưa cho phép hoạt động.
Đối với hoạt động quản lý nhà nước về tơn giáo có thể hiểu như sau:

Theo nghĩa rộng, là quá trình dung quyền lực nhà nước (quyền lập
pháp, hành pháp, tư pháp) của các cơ quan nhà nước theo quy định của pháp
luật để tác động, điều chỉnh, hướng các q trình tơn giáo và hành vi hoạt
4


động tôn giáo của tổ chức, cá nhân tôn giáo diễn ra phù hợp với pháp luật, đạt
được mục tiêu của chủ thể quản lý.
Theo nghĩa hẹp, là quá trình chấp hành pháp luật và tổ chức thực hiện
pháp luật của các cơ quan trong hệ thống hành pháp (Chính phủ và Uỷ ban
nhân dân các cấp) để điều chỉnh các q trình tơn giáo và mọi hành vi hoạt
động tông giáo của tổ chức, cá nhân tôn giáo diễn ra theo quy định của pháp
luật.
Từ hệ thống khái niệm đã nêu ra trên, chúng ta có thể đưa ra khái niệm
về quản lý xã hội về tôn giáo như sau: “Quản lý xã hội về tơn giáo là q
trình tác động, điều chỉnh, hướng dẫn của nhà nưới đối với hoạt động tôn
giáo và hành vi tôn giáo của chức sắc, nhà tu hành và tín đồ các tơn giáo cho
phù hợp với lợi ích quốc gia, dân tộc, hục vụ cho sự nghiệp cách mạng trong
những giai đoạn lịch sử nhất định.”
1.2. Khái quát chung về tình hình tơn giáo ở Việt Nam
Việt Nam là quốc gia có nhiều loại hình tín ngưỡng tơn giáo. Với vị trí
địa lý nằm ở khu vực Đông Nam Á, ba mặt giáp biển, Việt Nam rất thuận lợi
trong mối giao lưu với các nước trên thế giới và cũng là nơi rất dễ dàng cho
việc thâm nhập các luồng văn hóa, các tôn giáo trên thế giới
Về mặt dân cư, Việt Nam là quốc gia đa dân tộc với 54 dân tộc anh em.
Mỗi dân tộc, kể cả người Kinh (Việt) đều lưu giữ những hình thức tín
ngưỡng, tơn giáo riêng của mình. Người Việt có các hình thức tín ngưỡng dân
gian như: thờ cúng ông bà tổ tiên, thờ Thành hồng, thờ những người có cơng
với cộng đồng, dân tộc, thờ thần, thờ thánh, nhất là tục thờ Mẫu của cư dân
nông nghiệp lúa nước. Đồng bào các dân tộc thiểu số với hình thức tín

ngưỡng ngun thủy (cịn gọi là tín ngưỡng sơ khai) như Tơtem giáo, Bái vật
giáo, Saman giáo.
Ở Việt Nam, do đặc điểm lịch sử liên tục bị ngoại bang xâm lược nên
Lão giáo, Nho giáo- những tơn giáo có nguồn gốc ở phía Bắc thâm nhập;
Công giáo- một tôn giáo gắn với văn minh châu Âu vào truyền đạo và sau này
5


đạo Tin lành đã khai thác điều kiện chiến tranh ở miền Nam để truyền giáo và
thu hút người theo đạo.
Ở Việt Nam có những tơn giáo có nguồn gốc từ phương Đơng như Phật
giáo, Lão giáo, Nho giáo; có tơn giáo có nguồn gốc từ phương Tây như Thiên
chúa giáo, Tin lành; có tơn giáo được sinh ra tại Việt Nam như Cao Đài, Phật
giáo Hịa Hảo; có tơn giáo hồn chỉnh (có hệ thống giáo lý, giáo luật, lễ nghi
và tổ chức giáo hội), có những hình thức tơn giáo sơ khai. Có những tơn giáo
đã phát triển và hoạt động ổn định; có những tơn giáo chưa ổn định, đang
trong quá trình tìm đường hướng mới cho phù hợp.
Ước tính, hiện nay ở Việt Nam có khoảng 80% dân số có đời sống tín
ngưỡng, tơn giáo, trong đó có khoảng gần 20 triệu tín đồ của 6 tơn giáo đang
hoạt động bình thường, ổn định, chiếm 25% dân số. Cụ thể:
- Phật giáo: Gần 10 triệu tín đồ (những người quy y Tam Bảo), có mặt
hầu hết ở các tỉnh, thành phố trong cả nước, Trong đó tập trung đông nhất ở
Hà Nôi, Bắc Ninh, Nam Định, Hải Phòng, Hải Dương, Thừa Thiên- Huế, Đà
Nẵng, Quảng Ngãi, Bình Định, Khánh Hịa, TP Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Lâm
Đồng, Sóc Trăng, Trà Vinh, Cần Thơ…
- Thiên chúa giáo: Hơn 5,5 triệu tín đồ, có mặt ở 50 tỉnh, thành phố,
trong đó có một số tỉnh tập trung đơng như Nam Định, Ninh Bình, Hải Phịng,
Nghệ An, Hà Tĩnh, Đà Nẵng, Kom Tum, Đắk Lắk, Khánh Hịa, Bình Thuận,
Đồng Nai, TP Hồ Chí Minh, Tiền Giang, Vĩnh Long. An Giang, Cần Thơ…
- Đạo Cao Đài: Hơn 2,4 triệu tín đồ có mặt chủ yếu ở các tỉnh Nam Bộ

như Tây Ninh, Long An, Bến Tre, TP Hồ Chí Minh, Đồng Tháp, Tiền Giang,
Cần Thơ, Vĩnh Long, Kiên Giang, Cà Mau, An Giang…
- Phật giáo Hòa Hảo: Gần 1,3 triệu tín đồ, tập trung chủ yếu ở các tỉnh miền
Tây Nam Bộ như: An Giang, Cần Thơ, Hậu Giang, Đồng Tháp, Vĩnh Long.
- Đạo Tin lành: Khoảng 1 triệu tín đồ, tập trung ở các tỉnh: Đà Nẵng,
Quảng Nam, TP Hồ Chí Minh, Bến Tre, Long An, Lâm Đồng, Đắk Lắk, Gia
Lai, Đắk Nơng, Bình Phước… và một số tỉnh phía Bắc.
6


- Hồi Giáo: Hơn 60 nghìn tín đồ, tập trung ở các tỉnh: An Giang, TP Hồ
Chí Minh, Bình Thuận, Ninh Thuận…
Ngồi 6 tơn giáo chính thức đang hoạt động bình thường, cịn có một số
nhóm tơn giáo địa phương, hoặc mới được thành lập có liên quan đến Phật
giáo, hoặc mới du nhập ở bên ngoài vào như: Tịnh độ cư sĩ, Bửu Sơn Kỳ
Hương, Tứ Ân Hiếu Nghĩa, Tổ Tiên Chính giáo, Bàlamơn, Bahai và các hệ
phái Tin lành.
Với sự đa dạng các loại hình tín ngưỡng, tơn giáo nói trên, người ta
thường ví Việt Nam như bảo tàng tơn giáo của thế giới. Về khía cạnh văn hóa,
sự đa dạng các loại hình tín ngưỡng tơn giáo đã góp phần làm cho nền văn
hóa Việt Nam phong phú và đặc sắc. Tuy nhiên đó cũng là những khó khăn
đặt ra trong việc thực hiện chủ trương, chính sách đối với tơn giáo nói chung
và đối với từng tơn giáo cụ thể nói riêng.
Ở Việt Nam có một bộ phận đồng bào dân tộc thiểu số theo các tơn
giáo. Theo thống kê năm 1999, Việt Nam có 53 dân tộc thiểu số với khoảng
trên dưới 10 triệu người, sống tập trung ở 3 khu vực chính là Tây Bắc, Tây
Nguyên và Tây Nam Bộ: Khu vực Tây Bắc có hơn 30 dân tộc thiểu số sinh
sống với khoảng gần 6 triệu người; Khu vực Tây Nguyên có 21 dân tộc thiểu
số cư trú với hơn 1,5 triệu người. Sau này có thêm các dân tộc thiểu số ở các
tỉnh miền núi phía Bắc vào Tây Nguyên sinh sống làm cho thành phần các

dân tộc ở đây càng thêm đa dạng; Khu vực Nam Bộ nhất là các tỉnh đồng
bằng sông Cửu Long với 3 dân tộc: Khơme, Hoa và Chăm với số dân khoảng
1 triệu người.
- Công đồng dân tộc Khơme theo Phật giáo Nam tông. Hiện nay có
1.043.678 người Khơme, 8.112 nhà sư và 433 ngơi chùa trong đồng bào
Khơme.
- Cộng đồng người Chăm theo Hồi giáo. Có khoảng gần 100.000 người
Chăm, trong đó số người theo Hồi giáo chính thống (Chăm Ixlam) là 25.703
tín đồ, Hồi giáo khơng chính thống (Chăm Bàni) là 39.228 tín đồ. Ngồi ra
cịn có hơn 30.000 người theo đạo Bà Chăm (Bàlamơn). Hồi giáo chính thức
truyền vào dân tộc Chăm từ thế kỷ XVI. Cùng với thời gian, Hồi giáo đã góp
7


phần quan trọng trong việc hình thành tâm lý, đạo đức, lối sống, phong tục tập
quán, văn hóa của người Chăm.
- Cộng đồng dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên theo Công giáo, Tin lành.
Hiện nay ở khu vực Tây Ngun có gần 300 nghìn người dân tộc thiểu số
theo Cơng giáo và gần 400 nghìn người theo đạo Tin lành.
- Cộng đồng dân tộc thiểu số ở Tây Bắc một số theo Công giáo, Tin
lành. Hiện nay ở Tây Bắc có 38 nghìn người dân tộc thiểu số theo Cơng giáo;
đặc biệt, khoảng 20 năm trở lại đây có đến trên 100 nghìn người Mơng theo
đạo Tin lành dưới tên gọi Vàng Chứ và hơn 10 nghìn người Dao theo đạo Tin
lành dưới tên gọi Thìn Hùng.
Đa số tín đồ các tơn giáo là người lao động, trong đó chủ yếu là nơng
dân. Ước tính, số tín đồ là nông dân của Phật giáo, Thiên chúa giáo chiếm đến
80- 85%; của đạo Cao Đài, Phật giáo Hòa Hảo là 95%; của đạo Tin lành là
65%. Là người lao động, người nơng dân nên tín đồ các tơn giáo ở Việt Nam
rất cần cù trong lao động, sản xuất và có tinh thần yêu nước. Trong các giai
đoạn lịch sử, tín đồ các tơn giáo cùng với tầng lớp nhân dân làm nên nhiều

chiến thắng to lớn của dân tộc.
Ngày nay, các thế lực thù địch ở trong nước và nước ngồi đang thực
hiện chiến lược diễn biến hịa bình để chống phá cách mạng nước ta. Trong
chiến lược này, các thế lực thù địch đặc biệt quan tâm lợi dụng vấn đề tôn
giáo. Vấn đề tôn giáo được chúng gắn với vấn đề dân chủ nhân quyền và
được thực hiện qua nhiều thủ đoạn. Thơng qua việc trình bày một số đặc điểm
tình hình tơn giáo ở Việt Nam. Đó cũng chính là cơ sở thực tiễn của Đảng và
Nhà nước hoạch định chủ, chính sách đối với tơn giáo ở tầm vĩ mô.
1.3. Công tác lãnh đạo, quản lý các vấn đề tơn giáo ở Việt Nam
1.3.1. Hồn thiện pháp luật, cơ chế chính sách của tơn giáo và cơng
tác tơn giáo
Chính sách tơn giáo của Đảng và Nhà nước Việt Nam được xây dựng
trên quan điểm cơ bản của học thuyết Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh
về tín ngưỡng, tơn giáo và căn cứ vào đặc điểm tín ngưỡng, tơn giáo ở Việt
Nam.
8


Tư tưởng nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước Việt Nam là
tơn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tơn giáo của nhân dân; đồn kết tơn giáo,
hịa hợp dân tộc. Tinh thần đó được Đảng và Nhà nước Việt Nam thể hiện
bằng hệ thống chính sách phù hợp với từng giai đoạn cách mạng và đã có từ
khi Đảng mới thành lập.
Trong Chỉ thị của Thường vụ Trung ương về vấn đề thành lập Hội Phản
đế Đồng minh (18/11/1930), Đảng đã có tun bố đầu tiên về chính sách tơn
giáo tự do tín ngưỡng của quần chúng: "… phải lãnh đạo từng tập thể sinh
hoạt hay tập đoàn nhân dân gia nhập một tổ chức cách mạng, để dần dần cách
mạng hóa quần chúng và đảm bảo tự do tín ngưỡng cho quần chúng…"[4, tr.
231]. Chính sách này cũng được Chủ tịch Hồ Chí Minh đề ra ngay trong
phiên họp đầu tiên của Hội đồng Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng

hịa (3/9/1945): "Tín ngưỡng tự do và lương giáo đồn kết", coi đó là một
trong 6 nhiệm vụ của Nhà nước non trẻ. Ngày 14/6/1955, Hồ Chủ tịch ký Sắc
lệnh 234-SL ban hành chính sách tơn giáo của Chính phủ Việt Nam Dân chủ
Cộng hịa, trong đó ghi rõ: "Việc tự do tín ngưỡng, thờ cúng là một quyền lợi
của nhân dân. Chính quyền Dân chủ Cộng hịa ln ln tơn trọng quyền lợi
ấy và giúp đỡ nhân dân thực hiện".
Ngay trong năm đầu của cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc, mặc dù
phải lo đối phó với cuộc chiến tranh ác liệt nhưng chính phủ vẫn quan tâm
đến nhu cầu tâm linh của nhân dân. Ngày 11/6/1964, Thủ tướng Phạm Văn
Đồng ký Thông tư số 60-TTg u cầu thi hành chính sách tơn giáo theo sắc
lệnh 234.
Sau ngày giải phóng miền Nam thống nhất đất nước, ngày 11/11/1977,
Chính phủ ban hành nghị quyết số 297-Chính phủ về "Một số chính sách tơn
giáo", trong đó nêu lên 5 nguyên tắc về tự do tôn giáo. Để đáp ứng với yêu
cầu của quá trình đổi mới, ngày 21/3/1991, Hội đồng Bộ trưởng đã ban hành
Nghị định 59-HĐBT "Quy định về các hoạt động tôn giáo". Nghị định 59HĐBT là văn bản mang tính pháp quy, là sự kế thừa thực tiễn của quá trình
9


thực hiện công cuộc đổi mới. Sự nghiệp cách mạng là của toàn dân, đổi mới
về nhận thức và thực hiện tốt công tác quản lý Nhà nước đối với các hoạt
động tôn giáo là nhằm đảm bảo nhu cầu tín ngưỡng chính đáng của nhân dân.
Qua đó phát huy được năng lực, sức sáng tạo của hàng chục triệu đồng bào
theo tơn giáo, góp phần dân chủ hóa đời sống xã hội trên cơ sở ổn định chính
trị.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta ln có quan
điểm, thái độ rõ ràng về tín ngưỡng, tơn giáo. Báo cáo chính trị tại Đại hội đại
biểu tồn quốc lần thứ VII của Đảng năm 1991 đã khẳng định: "Tín ngưỡng,
tơn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân. Đảng và Nhà nước ta
tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng và khơng tín ngưỡng của nhân dân, thực

hiện bình đẳng, đồn kết lương giáo và giữa các tôn giáo. Khắc phục mọi thái
độ hẹp hòi, thành kiến, phân biệt đối xử với đồng bào có đạo, chống những
hành vi lợi dụng tơn giáo phá hoại độc lập dân tộc và đoàn kết dân tộc, chống
phá chủ nghĩa xã hội, ngăn cản tín đồ làm nhiệm vụ công dân". Cương lĩnh
xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội cũng ghi rõ: "Tín
ngưỡng, tơn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân. Thực hiện
nhất quán chính sách tơn trọng và đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, đồng thời
chống việc lợi dụng tín ngưỡng để làm tổn hại đến lợi ích của Tổ quốc và
nhân dân".
Chủ trương, chính sách của Đảng đối với tín ngưỡng, tơn giáo từng
bước được hoàn thiện. Đến đầu thập kỷ 90, trong những năm đầu thực hiện
công cuộc đổi mới, Bộ Chính trị ra nghị quyết số 24-NQ/TƯ về cơng tác tơn
giáo trong tình hình mới, ghi dấu son về sự đổi mới đường lối, chính sách tín
ngưỡng, tơn giáo. Sau gần 10 năm thực hiện Nghị quyết 24, Đảng đã tổng kết,
đánh giá những thành tựu và nêu rõ những khuyết điểm, đồng thời Bộ Chính
trị ra chỉ thị 37-CT/TƯ ngày 2/7/1998 về cơng tác tơn giáo trong tình hình
mới. Cho đến Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ
bẩy, khóa IX về cơng tác tơn giáo (Nghị quyết 25-NQ/TƯ ngày 12/3/2003)
10


quan điểm, chính sách của Đảng đối với tín ngưỡng, tôn giáo tiếp tục được
khẳng định và phát triển thêm một bước mới phù hợp với sự nghiệp đổi mới
của Đảng. Đó là "Tín ngưỡng, tơn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận
nhân dân, đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng chủ nghĩa
xã hội ở nước ta. Thực hiện nhất quán chính sách tơn trọng và bảo đảm quyền
tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo một tôn giáo nào, quyền sinh hoạt tơn
giáo bình thường theo đúng pháp luật".
Những quan điểm của Đảng ta từ ngày thành lập đến nay chứng minh
rằng Đảng coi quyền tự do tín ngưỡng là một nhu cầu quan trọng của con

người, là một trong những quyền cơng dân, quyền chính đáng của con người.
Vì vậy, Đảng và Nhà nước ta luôn luôn tôn trọng đức tin của đồng bào theo
tín ngưỡng, tơn giáo khác nhau; tôn trọng quyền được theo bất cứ tôn giáo
nào cũng như quyền không theo tôn giáo nào, mong muốn cho người dân tôn
giáo được "phần hồn thong dong, phần xác ấm no".
Từ sau cách mạng Tháng Tám năm 1945 đến nay, nước ta đã có 4 hiến
pháp (năm 1946, 1959, 1980, 1992), trong đó Hiến pháp đầu tiên năm 1946
đã khẳng định quyền của người dân Việt Nam: "Mọi cơng dân Việt có quyền
tự do tín ngưỡng" (Chương II, mục B) [3, tr10]. Từ những nguyên tắc cơ bản
đó, điều 68 Hiến pháp 1980 ghi rõ: "Cơng dân có quyền tự do tín ngưỡng,
theo hoặc khơng theo một tơn giáo nào. Không ai được lợi dụng tôn giáo để
làm trái pháp luật và chính sách của Nhà nước" ) [3, tr98, 99]. Điều 70 của
Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 được bổ
sung rõ hơn: "Cơng dân Việt Nam có quyền tự do tín ngưỡng, tơn giáo, theo
hoặc khơng theo một tơn giáo nào. Các tơn giáo đều bình đẳng trước pháp
luật. Những nơi thờ tự của các tín ngưỡng, tơn giáo được pháp luật bảo hộ.
Không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tơn giáo hoặc lợi dụng tín
ngưỡng, tơn giáo để làm trái pháp luật và chính sách của Nhà nước" [3,
tr.159].

11


Bên cạnh đó, Quốc hội, Chính phủ đã ban hành và sửa đổi 16 văn bản
quy phạm pháp luật có những nội dung liên quan đến các lĩnh vực hoạt động
tơn giáo như: về đất đai có Luật Đất đai sửa đổi năm 2003, Nghị quyết số
23/2003/QH XI về nhà đất do Nhà nước quản lý nhà đất và chính sách cải tạo
xã hội chủ nghĩa trước ngày 1/7/1991; về xây dựng có Luật Xây dựng; về
thanh tra và giải quyết khiếu nại, tố cáo có Luật Khiếu nại, tố cáo; Luật Cư
trú…

Tự do tín ngưỡng, tơn giáo là một quyền nhân thân cơ bản của công
dân cũng được đề cập trong Bộ luật Dân sự, được bảo vệ bằng pháp luật và
được cụ thể hóa trong các văn bản quy phạm pháp luật ngày càng ở mức độ
cao hơn, hoàn thiện hơn. Sau 5 năm thực hiện Nghị định số 26/1999/NĐ-CP,
ngày 19/4/1999 về các hoạt động tôn giáo đã được thay thế bằng Pháp lệnh tín
ngưỡng, tơn giáo do ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa XI thơng qua ngày
18/6/2004 và Chủ tịch nước ký lệnh công bố ngày 29/6/2004.
Pháp lệnh tín ngưỡng, tơn giáo gồm 6 chương:
- Chương I: Những quy định chung. Gồm 8 điều (từ điều 1 đến điều 8).
- Chương II: Hoạt động tín ngưỡng của người có tín ngưỡng và hoạt
động tơn giáo của tín đồ, nhà tu hành, chức sắc. Gồm 6 điều (từ điều 9 đến
điều 14).
- Chương III: Tổ chức tôn giáo và hoạt động của tổ chức tôn giáo.
Gồm 10 điều (từ điều 16 đến điều 25).
- Chương IV: Tài sản thuộc cơ sở tín ngưỡng, tơn giáo và hoạt động xã
hội của tổ chức tơn giáo, tín đồ, nhà tu hành, chức sắc. Gồm 8 điều (từ điều
26 đến điều 33).
- Chương V: Quan hệ quốc tế của tổ chức tơn giáo, tín đồ, nhà tu hành,
chức sắc. Gồm 4 điều (từ điều 34 đến điều 37).
- Chương VI: Điều khoản thi hành. Gồm 4 điều (từ điều 38 đến điều
41).

12


Ngày 1/2/2007, tại Hà Nội, Ban Tơn giáo Chính phủ, Bộ Ngoại giao
Việt Nam đã tổ chức cuộc họp báo cơng bố Sách Trắng về Tơn giáo và Chính
sách tơn giáo ở Việt Nam nhằm giúp cho nhân dân trong và ngồi nước, bạn
bè quốc tế hiểu hơn về tình hình sinh hoạt tơn giáo ở Việt Nam cũng như
chính sách của Chính phủ Việt Nam đối với cơng tác tơn giáo.

Sách Trắng có 86 trang, gồm 3 chương:
- Chương I : Giới thiệu về tín ngưỡng, tơn giáo Việt Nam trong đó giới
thiệu vài nét về tín ngưỡng của tôn giáo Việt Nam; các tôn giáo Việt Nam.
- Chương II: Đề cập Chính sách của Nhà nước Việt Nam đối với tín
ngưỡng, tơn giáo bao gồm các phần: Chủ tịch Hồ Chí Minh với tín ngưỡng,
tơn giáo; Chủ trương, chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với tín
ngưỡng, tơn giáo; Nhà nước Việt Nam ln đảm bảo và tơn trọng quyền tự do
tín ngưỡng, tơn giáo của cơng dân; Kết quả việc thực hiện chính sách và
pháp luật của Nhà nước Việt Nam đối với tín ngưỡng, tôn giáo; Các tôn giáo
Việt Nam đồng hành cùng dân tộc.
- Chương III: Nói về Quan hệ quốc tế của các tôn giáo; Giới thiệu về
quan điểm của Nhà nước Việt Nam về quan hệ quốc tế của tôn giáo và quan
hệ quốc tế của các tôn giáo.
Sách Trắng đã khẳng định "Đảng và Nhà nước Việt Nam thực hiện
nhất qn chính sách đại đồn kết tồn dân tộc, khơng phân biệt đối xử vì lý
do tín ngưỡng, tơn giáo. Đại đoàn kết toàn dân với mục tiêu dân giàu nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh là điểm tương đồng để gắn bó
đồng bào các tơn giáo với sự nghiệp chung". Sách Trắng cũng nhấn mạnh:
"Đồng bào các tôn giáo là một bộ phận không thể tách rời của dân tộc Việt
Nam, vì vậy Nhà nước Việt Nam có những chính sách phục vụ cho những
nhu cầu đó".
Pháp lệnh tín ngưỡng, tơn giáo và Sách Trắng về Tơn giáo và Chính
sách tơn gáo ở Việt Nam đã quy định rõ ràng, cụ thể hơn nhiều mặt trong vấn
đề tơn giáo của Việt Nam. Nó một lần nữa khẳng định sự đúng đắn và bổ
13


sung cho chính sách tơn giáo của Đảng được thơng qua trong Hiến pháp 1992
và Nghị định số 26/1999/NĐ-CP. Pháp lệnh tín ngưỡng tơn giáo và Sách
Trắng về Tơn giáo và Chính sách tơn gáo ở Việt Nam ra đời là một minh

chứng, một bước tiến và một lần nữa tiếp tục khẳng định nguyên tắc nhất
quán trong chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước Việt Nam là tơn
trọng tự do tín ngưỡng, tơn giáo.
Năm 1955 trước u cầu mới về cơng tác tơn giáo nói chung, cơng tác
quản lý Nhà nước về hoạt động tơn giáo nói riêng, Thủ tướng Chính phủ nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hịa căn cứ vào ý kiến của Hội đồng Chính phủ đã
ban hành Nghị định số 566-TTg ngày 2/8/1955 thành lập Ban Tôn giáo trực
thuộc Phủ Thủ tướng (tiền thân của Ban Tơn giáo Chính phủ ngày nay) để
"nghiên cứu kế hoạch thi hành những chủ trương chính sách của Chính phủ
về vấn đề tơn giáo, giúp Thủ tướng phối hợp với các ngành ở Trung ương và
theo dõi, hướng dẫn, đôn đốc các địa phương trong việc thực hiện những
chính sách của Chính phủ về vấn đề tơn giáo và liên hệ với các tổ chức tơn
giáo".
Q trình xây dựng và trưởng thành của Ban Tơn giáo Chính phủ có
thể chia thành 3 thời kỳ:
- Thời kỳ 1955- 1975: Đây là thời kỳ Ban Tôn giáo thực hiện chức
năng giúp Thủ tướng trong việc thực hiện các chủ trương chính sách về tơn
giáo, nhất là sau khi Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh 234-SL về tơn giáo.
Thời kỳ này Ban Tơn giáo Chính phủ là đầu mối liên hệ với các tổ chức tôn
giáo nhằm động viên tín đồ, chức sắc tơn giáo tham gia cơng cuộc xây dựng
đất nước ở miền Bắc, đấu tranh chống đế quốc Mỹ và chính quyền Sài Gịn,
địi thi hành Hiệp định Giơnevơ, đấu tranh chống âm mưu cưỡng ép tín đồ
Công giáo di cư vào Nam; động viên giới tôn giáo tham gia các phong trào
cách mạng giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước.
- Thời kỳ 1975- 1990: Đây là thời kỳ Ban Tơn giáo Chính phủ thực
hiện chức năng giúp Chính phủ quản lý Nhà nước về tơn giáo trong điều kiện
14


đất nước mới được thống nhất. Để đáp ứng yêu cầu quản lý hoạt động tôn

giáo trong phạm vi cả nước, Ban Tơn giáo Chính phủ đã trình Thủ tướng
Chính phủ ban hành Nghị quyết số 297-CP, ngày 11/11/1977 về hoạt động
tôn giáo. Đồng thời làm đầu mối giúp đỡ, hướng dẫn các tôn giáo đi tới thống
nhất về tổ chức và xây dựng Hiến chương đường hướng hành đạo theo
phương châm "tốt đời, đẹp đạo", gắn bó với dân tộc.
- Thời kỳ 1990 đến nay: Thời kỳ này, Ban Tơn giáo Chính phủ phối
hợp với các ngành thực hiện các mặt công tác đấu tranh chống các thế lực thù
địch lợi dụng tôn giáo chống phá cách mạng Việt Nam; đồng thời giúp Đảng
và Nhà nước khẳng định quan điểm, chủ trương chính sách đối với tơn giáo.
Đặc biệt trên cơ sở tổng kết thực tiễn "nhìn lại và đổi mới", Ban Tơn
giáo Chính phủ phối hợp với các ngành chức năng tham mưu cho Trung ương
ban hành các chủ trương chính sách đổi mới trong cơng tác tơn giáo như:
Nghị quyết số 24-NQ/TƯ ngày 16/10/1990 về đổi mới cơng tác tơn giáo trong
tình hình mới; Chỉ thị 37-CT/TW ngày 2/7/1998 về Tăng cường cơng tác tơn
giáo trong tình hình mới; Nghị định số 59-HĐBT ngày 21/3/1991 và sau này
là Nghị định số 26/1999/NĐ-CP ngày 19/4/1999 về Hoạt động tôn giáo.
Tham mưu cho Ban Chấp hành Trung ương Đảng ban hành Nghị quyết số 25NQ/TƯ ngày 12/3/2003 về Công tác tơ giáo. Để thể chế hóa tư tưởng đổi mới
đối với công tác tôn giáo của Nghị quyết 25, Ban Tơn giáo Chính phủ phối
hợp với các ngành chức năng xây dựng và trình ủy ban Thường vụ Quốc hội
khóa XI, ban hành Pháp lệnh Tín ngưỡng, tơn giáo.
Đánh giá sự trưởng thành và những đóng góp của Ban Tơn giáo Chính
phủ, năm 2002, Nhà nước trao tặng Hn chương độc lập hạng Nhất và để
khẳng định truyền thống của ngành quản lý Nhà nước về tôn giáo và xác lập
cơ chế quản lý theo ngành- một số ngành vốn có nhiều nét đặc thù, nhạy cảm,
ngày 27/5/2005, Thủ tướng Chính phủ ký Quyết định số 445/QĐ-TTg lấy
ngày 2/8 hàng năm là Ngày truyền thống của ngành quản lý Nhà nước về tôn

15



giáo. Đây là phần thưởng cao quý của Đảng và Nhà nước dành cho các thế hệ
làm công tác tôn giáo trong cả nước.
Trong suốt thời gian tăng cường bổ sung, hồn thiện những chính sách
về tơn giáo, bên cạnh đó Đảng và Nhà nước cịn quan tâm đến vấn đề đào tạo
cán bộ cho công tác tôn giáo. Mới đây, ngày 8/6/2007, Thủ tướng Chính phủ
Nguyễn Tấn Dũng đã ký Quyết định 83/2007/QĐ-TTg phê duyệt "Đề án đào
tạo, bồi dưỡng cán bộ làm công tác tôn giáo và cán bộ, công chức quản lý nhà
nước về tôn giáo" giai đoạn 2006- 2010.
Đề án đào tạo, bồi dưỡng cán bộ làm công tác tôn giáo và cán bộ, công
chức quản lý nhà nước về tôn giáo giai đoạn 2006- 2010 có mục tiêu trang bị
đầy đủ kiến thức về lý luận chính trị, quản lý nhà nước, từng bước hồn thiện,
tiêu chuẩn hóa đội ngũ cán bộ, cơng chức theo từng chức danh của cơ quan
quản lý nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị- xã
hội và các trường chính trị các cấp về hoạt động tơn giáo.
1.3.2. Tập trung đấu tranh phịng, chống âm mưu lợi dụng tôn giáo
để chống phá cách mạng Việt Nam của các thế lực đế quốc, phản động
Các thế lực phản động thường lợi dụng vấn đề tôn giáo và dân tộc để cổ
súy tư tưởng ly khai, chống đối, ráo riết ủng hộ những phần tử bất mãn, q
khích nhằm kích động biểu tình, gây bạo loạn. Cần nhận rõ những âm mưu,
thủ đoạn, phương thức hoạt động của chúng để có biện pháp xử lý kịp thời.
Lợi dụng xu thế tồn cầu hóa kinh tế và hội nhập quốc tế, các thế lực
thù địch ráo riết đẩy mạnh chiến lược "diễn biến hịa bình", kích động xu
hướng chia rẽ, ly khai, gây mất ổn định xã hội, từ đó phát triển thành các cuộc
bạo loạn chính trị ở một số quốc gia để lấy cớ đó can thiệp, lật đổ, thực hiện ý
đồ ép buộc các nước có chế độ chính trị hoặc lựa chọn con đường phát triển
khác với Mỹ và một số nước đồng minh của Mỹ phải phụ thuộc vào Mỹ. Việt
Nam là một trong những nước nằm trong tầm ngắm của chúng.
Để thực hiện âm mưu đó, cùng với việc lợi dụng các vấn đề "dân chủ",
"nhân quyền" và "dân tộc", "tôn giáo" được sử dụng như một vũ khí đặc biệt
16



quan trọng để xuyên tạc, vu khống, tạo cớ can thiệp vào công việc nội bộ
nước ta. Đồng thời, các hoạt động gây dựng lực lượng chống đối ở trong nước
được thực hiện một cách ráo riết nhằm chia rẽ khối đại đồn kết dân tộc, hịng
làm mất ổn định chính trị- xã hội, tiến tới chuyển hóa chế độ xã hội chủ nghĩa
ở Việt Nam.
Dưới đây là các phương thức hoạt động chủ yếu được các thế lực thù
địch, những phần tử phản động lưu vong, phần tử xấu sử dụng:
Thứ nhất, kết hợp chặt chẽ vấn đề tôn giáo với vấn đề dân tộc để kích
động tâm lý, mặc cảm, tư tưởng ly khai, tư tưởng chống đối trong cộng đồng
đồng bào có đạo và đồng bào dân tộc thiểu số.
Thứ hai, tích cực ủng hộ những phần tử bất mãn, cực đoan, quá khích
trong một số cộng đồng tơn giáo, tổ chức lơi kéo, kích động, tổ chức các tín
đồ biểu tình, gây rối dẫn tới bạo loạn để lấy cớ can thiệp từ "bên ngoài".
Một số tổ chức tôn giáo phản động ở hải ngoại như Phật giáo Việt Nam
thống nhất hải ngoại phát tán tài liệu trên mạng internet với nội dung xuyên
tạc, vu khống chính quyền Việt Nam khủng bố, đàn áp, bắt giam, ngăn cản
hoạt động tơn giáo của các tín đồ Phật giáo Hòa Hảo; số cầm đầu tổ chức
người Thượng lưu vong ở Mỹ tổ chức biểu tình phản đối chính quyền Việt
Nam vi phạm nhân quyền đối với đồng bào dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên,
liên tục chỉ đạo số trong nước thu thập tình hình có liên quan đến dân chủ,
nhân quyền và tìm cách gặp người nước ngoài để yêu cầu họ giúp giải quyết
vấn đề "Tin Lành Đề- ga". Nhiều năm qua, đạo Tin Lành bị bọn phản động
Phun- rô triệt để lợi dụng để chống phá cách mạng Việt Nam. Chúng núp
dưới chiêu bài "Tin Lành Đề- ga" để kích động quần chúng chống phá cách
mạng.
Thứ ba, tích cực thúc đẩy liên kết hoạt động giữa các tôn giáo (liên
tôn); phối hợp chặt chẽ với các lực lượng phản động, cơ hội chính trị trong
nước để tạo dựng ngọn cờ, hình thành lực lượng đối lập, đối trọng với Đảng

Cộng sản và Nhà nước Việt Nam (thủ đoạn này đó từng được các thế lực
17


phản động quốc tế chống chủ nghĩa cộng sản sử dụng thành cơng ở một số
nước xó hội chủ nghĩa ở Đông Âu trước đây); đẩy mạnh phát triển các hội
đoàn tụn giáo, làm sầm uất xứ đạo, khuyếch trương thanh thế, kết hợp với
tăng cường truyền đạo trái phép, nhất là ở các vùng sâu, vùng xa, vùng đồng
bào dân tộc thiểu số ở Tây Bắc, Tây Nguyên để tập hợp quần chúng, gây áp
lực với chính quyền địa phương nếu bị xử lý.
Thứ tư, tiến hành những hoạt động chiến tranh tâm lý, phỏ hoại tư
tưởng, tuyên truyền kích động mâu thuẫn, xung đột, nhất là đối lập về hệ tư
tưởng giữa "hữu thần" với "vụ thần", giữa thế giới quan tôn giáo với thế giới
quan cộng sản; vu cáo cộng sản diệt đạo, Nhà nước đàn áp tôn giáo làm cho
bộ phận quần chúng lạc hậu ngộ nhận tin theo, từ đó, tạo lực lượng chống đối
ngầm chế độ xó hội chủ nghĩa Việt Nam. Một số tổ chức phản động người
Việt lưu vong lợi dụng hoạt động tài trợ và thông qua hoạt động từ thiện để
chuyển tài liệu tơn giáo có nội dung phản động vào trong nước, xuyên tạc bản
chất chế độ ta, kích động tư tưởng chống đối trong quần chúng tín đồ. Điều
đó đó ớt nhiều tỏc động đến tư tưởng của một số đồng bào dân tộc thiểu số,
nhất là số đồng bào có đạo, dẫn đến những hành động vi phạm pháp luật như:
chống lại việc thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ở địa
phương; tập hợp lực lượng để tổ chức gây rối trật tự cơng cộng, gây bạo loạn
chính trị...
Thực trạng và xu hướng trên cho thấy tính chất nguy hiểm trong âm
mưu và hoạt động chống phá của các thế lực thù địch. Nếu không nâng cao
cảnh giác và chủ động ngăn chặn, đối phó có hiệu quả với hoạt động chống
phá của chúng, sẽ gây ảnh hưởng nghiêm trọng đối với sự nghiệp xây dựng
chủ nghĩa xó hội.


18



×