Tải bản đầy đủ (.docx) (25 trang)

tiểu luận về luật hành chính của nước việt nam doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (238.86 KB, 25 trang )

Lời cảm ơn
Trong quá trình học tập tại giảng đường, thư viện trường Đại Học Công Nghiệp TP.HCM
cơ sở Thanh Hóa.Ban giám hiệu nhà trường, khoa kinh tế đã tạo điều kiện liên hệ cho em, sinh viên
của trường có được một môi trường tìm hiểu những kiến thức sâu rộng.
Em xin trân thành cảm ơn Ban giám hiệu, cảm ơn khoa kinh tế đã tạo điều kiện cho em có một
môi trường tốt để tìm hiểu kĩ càng lại những kiến thức đã học. Cụ thể là với môn Pháp luật đại
cương do cô:………………………… hướng dẫn.
Em xin cảm ơn tới cô:………………………… đã hướng dẫn em hoàn thành bài tiểu luận này. Cảm
ơn cô đã giảng dạy em trong suốt quá trình học tập.
Tuy đã có rất nhiều cố gắng và nổ lực trong quá trình làm bài tiểu luận, xong không thể tránh
khỏi những thiếu sót trong quá trình tìm hiểu,trình bày và đánh giá.Em rất mong được sự đóng góp
ý kiến của thầy, cô cùng tất cả các bạn đọc.
. Xin trân thành cảm ơn!
Phần thứ nhất:Những vấn đề chung
Ngày nay,việc hiểu biết pháp luật để sống và làm việc theo pháp luật của các
thành viên trong xã hội là yêu cầu rất cần thiết;phù hợp với tiến bộ xã hội.Đảng và
nhà nước ta đã đặt ra yêu cầu tăng cường giáo dục cho toàn thể mọi ngươi dân.Vì
vậy “pháp luật” đang là một vấn đề rất quan trọng trong xã hội.
Từ Hệ thống pháp luật nói chung và pháp luật XHCN nói riêng ,Đảng và Nhà nước
đã ban hành rất nhiều bộ luật ,tiêu biểu như :”luật hành chính” để phục vụ cho
đời sống của mọi người dân.Luật hành chính giúp mọi người có được những kiến
thức cơ bản về luật pháp hành chính Nhà nước CHXHCN Việt Nam,vận dụng vào
thực tiễn cuộc sống.Hiểu biết được những quy định của pháp luật,tôi và các
bạn,chúng ta sẽ có ý thức ,nếp sống lành mạnh hơn,đúng pháp luật hơn.Tuy
nhiên,bên cạnh đó.trong xã hội của chúng ta hiện nay co không ít các bạn trẻ
không hiểu biết gì về luật hành chính gây ra nhiều rắc rối trong xa hội.Do đó am
hiểu luật hành chính là một điều rất cần thiết trong xã hội hiện nay.Vì vậy,tôi
mạnh dạn đưa ra vấn đề “tìm hiểu về luật hành chính của nước CHXHCN Việt
Nam” để làm đề tài cho bài tiêu luận kết thúc môn pháp luật đại cương của mình.
Sau đây là những nội dung được tìm hiểu.
Phần thứ hai:Nội dung nghiên cứu.


CHƯƠNG I - Luật hành chính và khoa học luật hành chính
A. Luật Hành chính là ngành luật về tổ chức hoạt động quản lý hành chính nhà
nước
I - Khái niệm về Luật hành chính
1. Khái niệm chung
Trong khoa học luật hành chính, thuật ngữ "hành chính" được hiểu là sự quản lý của
nhà nước, tức là hành chính công (còn gọi là hành chính nhà nước), xuất hiện cùng với
sự xuất hiện của nhà nước, là quản lý công vụ quốc gia của bộ máy hành chính nhà
nước.
2. Đối tượng điều chỉnh của Luật hành chính
Đối tượng điều chỉnh của Luật hành chính là những quan hệ xã hội phát sinh trong tổ
chức và hoạt động quản lý hành chính nhà nước.
Những quan hệ xã hội được Luật hành chính điều chỉnh gồm ba nhóm lớn:
- Những quan hệ xã hội phát sinh trong tổ chức và hoạt động chấp hành và điều hành
của các cơ quan hành chính nhà nước. Đây là nhóm lớn nhất, cơ bản nhất và do đó
quan trọng nhất;
- Những quan hệ xã hội mang tính chấp hành và điều hành trong tổ chức và hoạt động
nội bộ của các cơ quan quyền lực nhà nước, Toà án và Viện kiểm sát;
Hoạt động chấp hành và điều hành của hệ thống cơ quan hành chính nhà nước làm
nảy sinh nhiều quan hệ xã hội, được tổng hợp lại những nhóm quan hệ xã hội chủ yếu
sau đây:
- Nhóm thứ nhất: Những quan hệ xã hội nảy sinh giữa cơ quan hành chính cấp trên và
cơ quan hành chính cấp dưới trong quá trình hoạt động quản lý hành chính nhà nước;
- Nhóm thứ hai: Những quan hệ giữa hai bên đều là cơ quan hành chính cùng cấp,
thực hiện các quan hệ phối hợp phục vụ lẫn nhau;
- Nhóm thứ ba: Những quan hệ giữa một bên là cơ quan hành chính có thẩm quyền với
một bên là các tổ chức sự nghiệp và tổ chức kinh doanh của các thành phần kinh tế
trong xã hội;
- Nhóm thứ tư: Những quan hệ giữa một bên là cơ quan hành chính có thẩm quyền với
một bên là các tổ chức xã hội và các đoàn thể nhân dân;

- Nhóm thứ năm: Những quan hệ giữa một bên là cơ quan hành chính có thẩm quyền
và một bên là công dân.
3. Phương pháp điều chỉnh của Luật hành chính
Sự điều chỉnh các nhóm quan hệ xã hội trên đây mà Luật hành chính sử dụng chủ yếu
bằng phương pháp quyết định một chiều, hay là phương pháp chỉ huy, mệnh lệnh.
Nhưng đôi khi chúng ta cũng bắt gặp trong quan hệ pháp luật hành chính phương pháp
thoả thuận. ở đây tồn tại sự thoả thuận của các bên tham gia quan hệ. Ví dụ, trong ban
hành các quyết định liên tịch (các bên cùng thỏa thuận ra quyết định chung như Thông
tư liên bộ, Nghị quyết liên tịch giữa Ban Chấp hành Tổng liên đoàn lao động Việt Nam
với các cơ quan hành chính nhà nước Trung ương luật quy định, phải hỏi ý kiến hoặc
thoả thuận với cơ quan khác). Ngoài ra, trong hợp đồng hành chính như hợp đồng thực
hiện các công dịch hành chính, hợp đồng với công chức ngoại ngạch tuy có sự thoả
thuận, nhưng không có sự bình đẳng tuyệt đối về ý chí như trong hợp đồng dân sự,
kinh tế. Trong hợp đồng hành chính(1), một bên là cơ quan nhà nước nên có những
đặc quyền hành chính, đưa ra những điều kiện mà bên khác trong quan hệ buộc phải
tuân theo.
Từ sự phân tích trên có thể định nghĩa: Luật hành chính là một ngành luật độc lập
trong hệ thống pháp luật XHCN Việt Nam, là tổng thể các quy phạm pháp luật
điều chỉnh các quan hệ xã hội xuất hiện trong quá trình tổ chức và thực hiện hoạt
động chấp hành và điều hành của Nhà nước, nói cách khác là các quan hệ xã hội
nảy sinh trong hoạt động quản lý hành chính nhà nước. Do đó, Luật hành chính
là ngành luật về quản lý hành chính nhà nước.
4. Hệ thống Luật hành chính
Luật hành chính không phải là tập hợp máy móc, giản đơn các quy phạm, mà là một hệ
thống, một chỉnh thể thống nhất các nhóm quy phạm có quan hệ hữu cơ với nhau. Các
quy phạm Hành chính gồm: các quy phạm vật chất và các quy phạm thủ tục.
Các quy phạm vật chất Luật hành chính gồm hai phần: phần chung và phần riêng.
Phần chung bao gồm các quy phạm điều chỉnh các quan hệ có tính chất chung, phát
sinh trong mọi lĩnh vực, phạm vi quản lý hành chính nhà nước. Các quy phạm của phần
chung quy định:

- Tổ chức và hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước, chế độ công vụ và quy chế
cán bộ, công chức nhà nước;
- Sự tham gia của cá nhân, tổ chức vào tổ chức và hoạt động quản lý hành chính nhà
nước;
- Hình thức, phương pháp hoạt động của cơ quan, công sở, công chức nhà nước trong
thực hiện quyền hành pháp;
- Các phương thức kiểm tra, giám sát đối với hệ thống hành chính nhà nước để bảo
đảm pháp chế, kỷ luật.
II. Nguồn của luật hành chính Việt Nam
1. Khái niệm nguồn của Luật hành chính Việt Nam
Xác định nguồn của Luật hành chính Việt Nam tuỳ thuộc vào quan niệm chung về
nguồn của pháp luật. Trong các sách, báo khoa học luật học nước ta phổ biến quan
niệm coi nguồn của pháp luật là những hình thức biểu hiện bên ngoài của pháp luật, nói
cách khác là những văn bản pháp luật chứa các quy phạm pháp luật. Từ đó có thể coi
nguồn của Luật hành chính là những hình thức biểu hiện bên ngoài của Luật hành
chính, nói cách khác là những văn bản pháp luật chứa các quy phạm pháp luật hành
chính do các cơ quan, người có thẩm quyền ban hành, trong một số trường hợp còn
gồm cả các văn bản hướng dẫn xét xử của Toà án.
2. Phân loại nguồn Luật hành chính
Có nhiều cách phân loại nguồn của Luật hành chính. Mỗi cách phân loại có ý nghĩa lý
luận và thực tiễn nhất định.
- Theo cấp độ hiệu lực pháp lý của văn bản có:
+ Văn bản luật.
+ Văn bản dưới luật.
- Theo phạm vi hiệu lực có:
+ Văn bản do cơ quan nhà nước ở Trung ương ban hành.
+ Văn bản do cơ quan nhà nước ở địa phương ban hành.
- Theo chủ thể ban hành văn bản có:
+ Văn bản của các cơ quan quyền lực nhà nước (Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc
hội, Hội đồng nhân dân các cấp).

+ Văn bản của các cơ quan hành chính nhà nước (Chính phủ, các Bộ, cơ quan ngang
Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ có chức năng quản lý đối với ngành, lĩnh vực Uỷ ban
nhân dân các cấp, các cơ quan chuyên môn của Uỷ ban nhân dân).
+ Văn bản của cơ quan tổ chức xã hội ban hành để thực hiện chức năng quản lý hành
chính nhà nước khi được Nhà nước uỷ quyền.
+ Văn bản liên tịch (giữa các cơ quan nhà nước với nhau, giữa cơ quan nhà nước với
cơ quan, tổ chức xã hội ).
+ Văn bản do Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân Tối cao, Chánh án Toà án nhân
dân Tối cao, Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân Tối cao ban hành trực tiếp liên quan
tới hoạt động quản lý hành chính nhà nước.
3.Hệ thống hoá nguồn Luật hành chính
Hệ thống hoá nguồn của Luật hành chính là hoạt động nhằm chấn chỉnh các quy định
của Luật hành chính, đưa chúng vào một hệ thống nhất định.
Hệ thống hoá nguồn của Luật hành chính nhằm: Tạo ra một hệ thống văn bản pháp luật
hành chính hoàn chỉnh, thống nhất, trong đó vai trò của các đạo luật, pháp lệnh ngày
càng quan trọng đối với sự điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực quản
lý hành chính nhà nước; khắc phục tình trạng lỗi thời, mâu thuẫn và những lỗ hổng của
pháp luật hành chính; làm cho nội dung các quy định của pháp luật hành chính phù hợp
với những nhu cầu của quản lý hành chính nhà nước trong nền kinh tế thị trường, có
hình thức rõ ràng, dễ hiểu và dễ áp dụng.
Hoạt động hệ thống hoá nguồn của Luật hành chính được thực hiện theo hai phương
thức: Tập hợp hoá và pháp điển hoá.
III. Luật hành chính trong hệ thống pháp luật Việt Nam
1. Vai trò của Luật hành chính
Vai trò của Luật hành chính thể hiện ở tầm quan trọng của các vấn đề mà nó điều
chỉnh:
Thứ nhất: các quy phạm hành chính quy định cụ thể các nguyên tắc quản lý hành
chính nhà nước XHCN Việt Nam, các hình thức áp dụng cụ thể các nguyên tắc ấy trong
tổ chức và hoạt động quản lý cơ chế bảo đảm thực hiện các nguyên tắc ấy.
Thứ hai: các quy phạm của Luật hành chính điều chỉnh mọi vấn đề về tổ chức và hoạt

động của các cơ quan quản lý hành chính nhà nước.
Thứ ba: Luật hành chính quy định về cán bộ, công chức nhà nước trong việc thực hiện
công vụ. Cán bộ, công chức trong bộ máy quản lý hành chính nhà nước là một chủ thể
quan trọng của quản lý hành chính nhà nước, trực tiếp hoặc gián tiếp thực hiện nhiệm
vụ, chức năng quản lý hành chính nhà nước.
Thứ tư: tăng cường vai trò của các tổ chức xã hội, thu hút nhân dân tham gia vào quản
lý hành chính nhà nước là một hình thức quan trọng.
Thứ năm: Luật hành chính có vai trò cụ thể hoá, chi tiết hoá quy định của quyền, nghĩa
vụ cơ bản của công dân, đồng thời còn quy định bổ sung những quyền và nghĩa vụ mới
trong nhiều lĩnh vực.
Thứ sáu: Luật hành chính là ngành luật quy định về hành động hành chính. Nó định ra
những giới hạn, những hình thức và phương pháp tác động của các cơ quan quản lý
hành chính nhà nước đối với những đối tượng bị quản lý.
Thứ bảy: Luật hành chính còn quy định về tổ chức và hoạt động quản lý hành chính
trong các ngành, lĩnh vực
Tóm lại, phạm vi điều chỉnh của Luật hành chính rất rộng lớn, bao gồm các lĩnh vực của
đời sống xã hội. Bằng phương pháp điều chỉnh bắt buộc và cấm đoán kết hợp với trao
quyền, tạo khuôn khổ pháp lý, Luật hành chính có vai trò to lớn bảo đảm trật tự hoá các
quan hệ xã hội và hoạt động phục vụ công cho đời sống công dân.
2. Quan hệ của Luật hành chính với các ngành luật khác trong hệ thống pháp luật
a) Luật hành chính có liên quan mật thiết với Luật nhà nước (còn gọi là Luật Hiến
pháp)
b) Luật hành chính liên quan chặt chẽ với Luật dân sự
c) Luật hành chính quan hệ hữu cơ với Luật lao động
d) Luật hành chính quan hệ rất chặt chẽ với Luật tài chính
e) Luật hành chính liên quan chặt chẽ với Luật hình sự
g) Luật hành chính cũng có mối liên hệ với Luật đất đai
B - Khoa học luật hành chính Việt Nam
I - Quan niệm về khoa học luật hành chính Việt Nam
Khoa học Luật hành chính là một ngành khoa học pháp lý chuyên ngành gồm một hệ

thống những luận thuyết khoa học, những khái niệm, phạm trù, quan niệm về ngành
Luật hành chính, được phân bổ, sắp xếp theo một trình tự lôgic nhất định cấu thành
khoa học Luật hành chính. Khoa học Luật hành chính cũng giống như mọi ngành khoa
học khác luôn biến đổi phát triển.
1. Đối tượng nghiên cứu Khoa học Luật hành chính
Khoa học Luật hành chính có đối tượng nghiên cứu rộng lớn, nhưng chủ yếu là:
- Những vấn đề của Lý luận quản lý hành chính nhà nước có liên quan chặt chẽ tới
ngành Luật hành chính
- Hệ thống quy phạm luật hành chính điều chỉnh các quan hệ xã hội trong các ngành và
lĩnh vực quản lý hành chính nhà nước.
- Vấn đề nội dung pháp lý, cơ cấu, tương quan giữa các yếu tố nội tại của các quan hệ
pháp luật hành chính.
- Nghiên cứu các chủ thể của Luật hành chính trên cơ sở những quy định của Luật
hành chính .
- Các hình thức và phương pháp quản lý hành chính nhà nước, quyết định quản lý
hành chính nhà nước, thủ tục hành chính, cưỡng chế hành chính nhà nước, trách
nhiệm hành chính;
- Các phương thức kiểm soát đối với hoạt động hành chính nhà nước.
- Cơ sở pháp luật hành chính đối với tổ chức và hoạt động quản lý hành chính nhà
nước trong các ngành và lĩnh vực như hành chính - chính trị, kinh tế, văn hoá - xã hội.
2. Phương pháp luận và các phương pháp nghiên cứu khoa học Luật hành chính
Phương pháp luận của khoa học Luật hành chính là lập trường xuất phát và quan điểm
tiếp cận để nghiên cứu ngành Luật hành chính và những vấn đề quản lý hành chính
liên quan trực tiếp với ngành luật đó.
Trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, khoa
học Luật hành chính áp dụng các phương pháp nhận thức khoa học cụ thể như: trừu
tượng khoa học, phương pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp quy nạp và diễn
dịch, phương pháp phân tích thuần tuý quy phạm pháp luật so sánh, nghiên cứu xã hội
cụ thể (phương pháp xã hội học cụ thể), hệ thống, thống kê, v.v
Trong các nguồn của khoa học Luật hành chính, còn có: các bản Hiến pháp Việt Nam

1946, 1959, 1980, 1992 và các văn bản pháp luật có liên quan; các tác phẩm của các
nhà lãnh đạo Đảng và Nhà nước ta; các tác phẩm của các luật gia, các nhà hành chính
học.
Đồng thời, không thể không tham khảo, tiếp thu những yếu tố hợp lý của khoa học Luật
hành chính của các nước có chế độ chính trị xã hội khác nhau, rằng đó là tri thức
chung của nhân loại, nhất là những luận thuyết về tổ chức bộ máy hành chính Nhà
nước, về quản lý hành chính như Nhà nước pháp quyền, phân lập các quyền hành
chính học phát triển v.v
II - Mối quan hệ giữa khoa học luật hành chính và các khoa học xã hội
Khoa học Luật hành chính có quan hệ mật thiết với nhiều ngành khoa học pháp lý và
khoa học xã hội khác. Các kết luận và luận điểm khoa học của lý luận về nhà nước và
pháp luật, của khoa học luật nhà nước cũng như những luận điểm, khái niệm, phạm trù
của triết học nói chung, kinh tế chính trị học, hành chính học v.v là cơ sở lý luận của
khoa học hành chính.
Còn khoa học Luật hành chính nghiên cứu bản thân hệ thống quy phạm luật hành
chính và các quan hệ mang tính chất tổ chức - pháp lý hành chính trong quản lý hành
chính nhà nước, tức là các quan hệ pháp luật hành chính (quan hệ quản lý được các
quy phạm luật hành chính điều chỉnh).
Hai khoa học có mối quan hệ mật thiết cũng như hệ thống quy phạm luật hành chính
liên quan với hoạt động quản lý hành chính nhà nước, bởi quá trình xây dựng tổ chức
bộ máy quản lý được điều chỉnh bằng quy phạm luật hành chính, nhưng không thể
đồng nhất chúng.
Chương II
Quy phạm pháp luật hành chính và quan hệ pháp luật hành chính
I - Khái niệm, nội dung và đặc trưng của quy phạm pháp luật hành chính
1. Khái niệm
Luật hành chính là một ngành luật trong hệ thống pháp luật Việt Nam, điều chỉnh các
quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực quản lý hành chính nhà nước, do đó quy phạm
pháp luật hành chính là những quy tắc hành vi do Nhà nước đặt ra để điều chỉnh những
quan hệ xã hội cụ thể trong lĩnh vực quản lý của chính nhà nước. Quy phạm luật hành

chính là một loại quy phạm pháp luật cũng giống như mọi quy phạm pháp luật khác có
tính bắt buộc chung, áp dụng nhiều lần và hiệu lực của chúng không phụ thuộc vào sự
áp dụng.
2. Đặc trưng của quy phạm pháp luật hành chính
Tính mệnh lệnh được thể hiện trong các quy phạm luật hành chính không giống nhau:
- Có loại quy phạm bắt buộc trực tiếp phải hành động hoặc cấm hành động, theo một
cách thức nhất định trong một điều kiện nhất định.
- Có loại quy phạm cho phép ta lựa chọn một trong những phương án hành vi nhất định
do quy phạm đã quy định trước.
- Có loại quy phạm trao khả năng hành động theo xét đoán của mình, tức là thực hiện
hoặc không thực hiện các hành động do quy phạm đó xác định.
II - Cơ cấu quy phạm luật hành chính
Cơ cấu quy phạm luật hành chính, cũng như cơ cấu quy phạm pháp luật nói chung,
bao gồm hai bộ phận: giả định,quy định và hệ quả
Giả định là phần của quy phạm nêu rõ những điều kiện thực tế mà nếu có chúng thì
mới có thể thi hành hoặc áp dụng những quy phạm đó. Nó trả lời những câu hỏi: Ai?
Khi nào? Trong những hoàn cảnh, điều kiện nào?
Quy định là phần của quy phạm đặt ra quy tắc hành vi, tức là nội dung quyền và nghĩa
vụ, trình tự thực hiện các quyền và nghĩa vụ. Nó trả lời câu hỏi: Phải làm gì? Được làm
gì? Làm như thế nào?
Chế tài là phần quy phạm chỉ rõ các biện pháp tác động của Nhà nước đối với chủ thể
vi phạm phần quy định của quy phạm, nó trả lời câu hỏi: hậu quả gì nếu không làm
đúng những quy định của Nhà nước?
Song, quy phạm luật hành chính có những đặc điểm riêng.
III - Phân loại quy phạm pháp luật hành chính
Việc phân loại quy phạm luật hành chính dựa vào nhiều căn cứ khác nhau.
1. Dưới góc độ nội dung và hình thức thủ tục
a) Các quy phạm vật chất Luật hành chính gồm các chế định sau:
- Về công vụ, công chức nhà nước;
- Về địa vị pháp lý hành chính của công dân;

- Về hình thức và phương pháp quản lý hành chính nhà nước;
- Về quyết định hành chính nhà nước;
- Về cưỡng chế hành chính và trách nhiệm hành chính;
- Về kiểm soát đối với hoạt động hành chính;
- Về giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân.
b) Các quy phạm thủ tục Luật hành chính
Quy phạm thủ tục Luật hành chính là một bộ phận quan trọng của Luật hành chính.
Tương ứng với từng loại quy phạm thủ tục hành chính là các loại thủ tục hành chính
khác nhau. Có ba nhóm thủ tục hành chính:
* Thủ tục hành chính nội bộ
* Thủ tục liên hệ hành chính
* Thủ tục văn thư
2. Các cách phân loại khác
Quy phạm luật hành chính còn có thể phân loại theo nhiều khác nhau. Theo phạm vi
điều chỉnh ta có các quy phạm chung, quy phạm điều chỉnh quản lý ngành và liên
ngành; theo hiệu lực pháp lý ta có quy phạm luật và dưới luật; theo cơ quan ban hành
ta có quy phạm của Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội cho đến Uỷ ban nhân dân
các cấp. Điều cần lưu ý mọi cơ quan, tổ chức đều có thể đặt ra những quy tắc mang
tính nội bộ chẳng hạn như các quy chế.
IV - Hiệu lực của văn bản quy phạm pháp luật hành chính
1. Hiệu lực về thời gian
Để đảm bảo tính thống nhất về hiệu lực của các văn bản quy phạm pháp luật thuộc mọi
ngành luật trong hệ thống pháp luật, Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm
1996 (được sửa đổi, bổ sung năm 2002) quy định hiệu lực về thời gian, không gian.
Văn bản quy phạm pháp luật hết hiệu lực toàn bộ hoặc một phần trong các trường hợp
sau:
- Hết thời hạn có hiệu lực đã được quy định trong văn bản.
- Được thay thế bằng văn bản mới của chính cơ quan nhà nước đã ban hành văn bản
đó.
- Bị huỷ bỏ hoặc bãi bỏ bằng một văn bản của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

2. Hiệu lực về không gian
Hiệu lực về không gian là hiệu lực theo phạm vi lãnh thổ của quy phạm luật hành chính,
về nguyên tắc, phụ thuộc vị trí của cơ quan ban hành văn bản trong bộ máy nhà nước.
Theo tiêu chuẩn này có quy phạm có hiệu lực trong toàn quốc, trong phạm vi từng địa
phương.
3. Hiệu lực về phạm vi đối tượng thi hành
Có những quy phạm chung (có hiệu lực đối với tất cả mọi công dân, cơ quan, tổ chức
chẳng hạn như: các quy tắc an toàn giao thông bảo đảm trật tự nơi công cộng, bảo vệ
môi trường, v.v ) và quy phạm riêng (có hiệu lực đối với từng nhóm đối tượng nhất
định, như với cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức v.v ).
Các quy tắc chung này được áp dụng đối với các văn bản quy phạm pháp luật là nguồn
của Luật hành chính.
V - Thực hiện quy phạm luật hành chính
Quy phạm luật hành chính được thực hiện dưới các hình thức sau:
1. Tuân thủ quy phạm Luật hành chính
Tuân thủ quy phạm luật hành chính là hình thức thực hiện quy phạm Luật hành chính,
trong đó các chủ thể kiềm chế không thực hiện những hành vi mà pháp luật hành chính
cấm. Ví dụ: một công dân kiềm chế không thực hiện những hành vi mà Pháp lệnh xử lý
vi phạm hành chính, các nghị định về xử phạt hành chính ngăn cấm. Không thực hiện
hành vi vi phạm hành chính nghĩa là công dân đó đã tuân thủ các quy định của các văn
bản pháp luật đó.
2. Thi hành quy phạm luật hành chính
Thi hành quy phạm luật hành chính là hình thức thực hiện quy phạm luật hành chính,
trong đó các chủ thể thực hiện nghĩa vụ của mình bằng hành động tích cực (làm việc
phải làm )
3. Sử dụng quy phạm luật hành chính
Sử dụng quy phạm luật hành chính là hình thức thực hiện quy phạm luật hành chính,
trong đó chủ thể tự do thực hiện hay không thực hiện quyền chủ thể của mình đã được
pháp luật hành chính quy định
4. áp dụng quy phạm luật hành chính

áp dụng quy phạm luật hành chính là hoạt động ban hành các văn bản cá biệt để giải
quyết những việc cụ thể - cá biệt trên cơ sở quy phạm luật hành chính.
Chương
11 1
Nguyên tắc và phương thức kiểm soát đối với hoạt động hành chính nhà nước
I - Quản lý hành chính nhà nước - đối tượng của hoạt động kiểm soát
1. Cơ sở của hoạt động kiểm soát đối với quản lý hành chính nhà nước
Hoạt động của mỗi cơ quan nhà nước nằm trong mối liên hệ với hoạt động của
các cơ quan nhà nước khác, đều chịu sự kiểm tra, giám sát của cơ quan khác,
hoặc của các tổ chức xã hội, công dân.
Quản lý hành chính nhà nước là hoạt động mang tính dưới luật, điều đó đòi hỏi mọi
hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước phải bị kiểm soát của các cơ quan
nhà nước khác, của các tổ chức xã hội và công dân, nhằm đảm bảo pháp chế và kỷ
luật trong quản lý hành chính nhà nước.
Hoạt động kiểm soát đối với quản lý hành chính nhà nước không đối lập, không cản trở
hoạt động đó, ngược lại làm cho nó trở nên trong sạch, lành mạnh và vững mạnh hơn.
2. Các phương thức kiểm soát đối với hành chính nhà nước
Mỗi loại cơ quan nhà nước được thành lập thực hiện những chức năng nhất định.
Quốc hội có chức năng lập hiến, lập pháp; giám sát tối cao việc tuân theo Hiến pháp,
luật, Nghị quyết Quốc hội đối với toàn bộ bộ máy nhà nước; giải quyết những vấn đề hệ
trọng của đất nước. Các cơ quan hành chính nhà nước từ Trung ương tới địa phương
chủ yếu thực hiện chức năng quản lý hành chính nhà nước. Trong đó bao gồm: hoạt
động quản lý hành chính nhà nước và một số hoạt động khác có tính chất tài phán
Ngoài những chức năng, phương diện hoạt động chủ yếu của mình, các cơ quan nhà
nước còn thực hiện hoạt động kiểm tra, giám sát, thanh tra nhằm bảo đảm pháp chế
và kỷ luật trong quản lý hành chính nhà nước.
Để bảo đảm pháp chế và kỷ luật trong quản lý nhà nước, Nhà nước còn thành lập
những cơ quan, tổ chức chuyên trách thực hiện chức năng bảo đảm pháp chế và kỷ
luật trong quản lý nhà nước, đó là Toà án, Viện kiểm sát, Thanh tra nhà nước
Như vậy, để bảo đảm pháp chế và kỷ luật trong quản lý hành chính nhà nước có nhiều

phương thức, biện pháp, hình thức để kiểm soát đối với hoạt động hành chính nhà
nước (gồm kiểm tra, giám sát, kiểm sát, thanh tra).
Tóm lại: Kiểm soát đối với hoạt động hành chính nhà nước là loại hoạt động đặc biệt, là
chức năng nhà nước và xã hội đặc thù nhằm bảo đảm pháp chế và kỷ luật trong quản
lý hành chính nhà nước. Đó là tổng thể những phương tiện tổ chức - pháp lý được các
cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội và công dân sử dụng nhằm bảo đảm pháp chế
và kỷ luật trong quản lý hành chính nhà nước, thiết lập trật tự trong quản lý, bảo vệ các
quyền, tự do, lợi ích hợp pháp của công dân, lợi ích của Nhà nước và xã hội.
II- Những hình thức cơ bản kiểm soát đối với hành chính nhà nước
Để kiểm soát đối với hoạt động hành chính nhà nước, có nhiều hình thức khác nhau,
sau đây là những hình thức cơ bản:
1. Giám sát dùng để chỉ hoạt động của cơ quan quyền lực nhà nước, toà án, các tổ
chức xã hội và công dân nhằm bảo đảm sự tuân thủ nghiêm chỉnh pháp luật trong quản
lý xã hội.
2. Kiểm tra là khái niệm rộng được vận dụng theo hai hướng.
Một là, kiểm tra là hoạt động thường xuyên của cơ quan nhà nước cấp trên với cơ
quan nhà nước cấp dưới nhằm xem xét, đánh giá mọi mặt hoạt động của cấp dưới khi
cần thiết, hoặc kiểm tra một vấn đề cụ thể, việc thực hiện một quyết định quản lý hành
chính nhà nước nào đó. ở đây, hoạt động kiểm tra thực hiện trong quan hệ trực thuộc.
Hai là, kiểm tra là hoạt động của các tổ chức, xã hội như kiểm tra Đảng, giám sát, kiểm
tra các tổ chức xã hội đối với hành chính nhà nước.
3. Thanh tra là phạm trù dùng để chỉ hoạt động của các tổ chức thuộc Tổng thanh tra
Nhà nước và thanh tra nhà nước chuyên ngành (thanh tra bộ, thanh tra sở).
Chương XII
Hoạt động kiểm tra của bộ máyhành chính nhà nước đối vớihoạt động hành
chính nhà nước
I - Hoạt động kiểm tra, thanh tra của các cơ quan quản lý hành chính nhà nước
thẩm quyền chung
Hoạt động thanh tra, kiểm tra của những cơ quan quản lý hành chính nhà nước thẩm
quyền chung, ở những nét cơ bản đều tương tự nhau về bản chất, căn cứ, phạm vi,

hình thức, và phương pháp. Phạm vi kiểm tra, thanh tra bao hàm mọi vấn đề thuộc mọi
ngành và lĩnh vực quản lý.
Hoạt động thanh tra, kiểm tra của cơ quan quản lý thẩm quyền chung tiến hành dưới
nhiều hình thức: nghe báo cáo, đánh giá báo cáo của đối tượng thanh tra, kiểm tra; tự
tổ chức các đoàn thanh tra tổng hợp hoặc về từng vấn đề; hoặc thông qua Thanh tra
Nhà nước, thanh tra bộ, sở.
Do tính trực thuộc của đối tượng thanh tra và chủ thể thanh tra, kiểm tra, mà hoạt động
thanh tra, kiểm tra của Chính phủ, Uỷ ban nhân dân có tính quyền lực cao; nó có quyền
ra quyết định quản lý hành chính nhà nước bắt buộc đối tượng thanh tra, kiểm tra phải
thi hành; có quyền đình chỉ, bãi bỏ các quyết định trái pháp luật, hoặc sai trái của đối
tượng bị kiểm tra, thanh tra, khi cần có thể áp dụng các biện pháp kỷ luật đối với cả
những người có chức vụ hoặc đối với cơ quan, tổ chức, đơn vị trực thuộc.
II - Kiểm tra chức năng và kiểm tra nội bộ
1. Kiểm tra chức năng
Kiểm tra chức năng là hoạt động kiểm tra do các cơ quan quản lý ngành, hay lĩnh vực
(Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ có chức năng quản lý ngành hay lĩnh
vực) thực hiện đối với các cơ quan, tổ chức, đơn vị không trực thuộc mình về mặt tổ
chức trong việc chấp hành pháp luật, đường lối chính sách và các quy tắc quản lý về
ngành hay lĩnh vực do mình quản lý thống nhất trong cả nước.
Khi tiến hành kiểm tra theo chức năng, các cơ quan kiểm tra có quyền ra quyết định
yêu cầu cơ quan bị kiểm tra cùng cấp đình chỉ, sửa đổi hoặc bãi bỏ quyết định trái pháp
luật của cơ quan đó, nhưng không có quyền tự mình đình chỉ, sửa đổi hoặc bãi bỏ
những quyết định đó, cũng không có quyền áp dụng các chế tài kỷ luật, phạt hành
chính, trừ trường hợp cơ quan kiểm tra chức năng đó có chức năng là cơ quan thanh
tra nhà nước chuyên ngành.
2. Kiểm tra nội bộ
Kiểm tra nội bộ là nhiệm vụ, chức năng của mọi cơ quan quản lý hành chính nhà nước.
Khái niệm kiểm tra nội bộ chỉ hoạt động kiểm tra trong nội bộ ngành, một cơ quan, tổ
chức do thủ trưởng cơ quan quản lý ngành, lĩnh vực, thủ trưởng các cơ quan, tổ chức,
đơn vị cơ sở của nhà nước tiến hành.

Khi tiến hành kiểm tra, thủ trưởng cơ quan hoặc tổ chức kiểm tra có quyền áp dụng mọi
hình thức và biện pháp thuộc quyền hạn của thủ trưởng như: khen thưởng cơ quan, cá
nhân có thành tích, kỷ luật cơ quan, tổ chức và cá nhân vi phạm, ra quyết định đình chỉ
hoặc bãi bỏ các quyết định sai trái của cấp dưới, đình chỉ hành vi vi phạm pháp luật, kỷ
luật, kể cả các biện pháp kiểm kê, kiểm soát, kê biên, niêm phong tài sản, tài liệu
III - Hoạt động thanh tra nhà nước
Thanh tra là một chức năng thiết yếu của cơ quan quản lý hành chính nhà nước; là
phương thức bảo đảm pháp chế, tăng cường kỷ luật trong quản lý hành chính nhà
nước, thực hiện quyền dân chủ xã hội chủ nghĩa.
Hệ thống thanh tra nhà nước có hai hệ thống: hệ thống thứ nhất gồm Thanh tra Nhà
nước của Chính phủ, thanh tra tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương của Uỷ ban nhân
dân cùng cấp; Thanh tra huyện, quận, thị xã thành phố thuộc tỉnh của Uỷ ban nhân dân
cùng cấp và hệ thống thanh tra của Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ
có chức năng quản lý và ngành hay lĩnh vực (sau đây gọi chung là thanh tra bộ), thanh
tra sở trực thuộc giám đốc sở. Hệ thống thanh tra bộ, sở có hai loại thanh tra chức
năng và thanh tra thuộc nội bộ cơ quan. Chức năng thanh tra nhà nước ở xã, phường,
thị trấn do Uỷ ban nhân dân cùng cấp trực tiếp đảm nhiệm.
Theo Pháp lệnh Thanh tra ngày 29-3-1990, các cơ quan thanh tra nhà nước được tổ
chức và hoạt động theo nguyên tắc trực thuộc hai chiều, trực thuộc hệ thống Tổng
Thanh tra Nhà nước và Bộ trưởng hoặc Uỷ ban nhân dân. Đối với thanh tra sở còn một
chiều trực thuộc nữa là trực thuộc thanh tra bộ (chịu sự hướng dẫn về nghiệp vụ của
thanh tra bộ).
Tổng Thanh tra Nhà nước, chánh thanh tra tỉnh, huyện còn có quyền tạm đình chỉ quyết
định xử lý tương ứng của Bộ trưởng, giám đốc sở, trưởng phòng ban cấp huyện và của
Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp dưới trực tiếp nếu quyết định đó đang bị khiếu nại, tố
cáo để xét xử giải quyết trong thời hạn tương ứng với từng cấp (90, 60 và 30 ngày).
Thanh tra Nhà nước, thanh tra bộ, thanh tra tỉnh còn có quyền đình chỉ việc thi hành,
sửa đổi hoặc bãi bỏ kiến nghị, quyết định sai trái của tổ chức thanh tra nhà nước cấp
dưới, đối với thanh tra bộ - của cơ quan, đơn vị thuộc quyền quản lý trực tiếp của Bộ
trưởng.

Thanh tra viên khi thực hiện nhiệm vụ của mình có thẩm quyền được quy định tại các
khoản 1, 2, 3, 4 và khoản 8 Điều 9 Pháp lệnh thanh tra, ngoài ra còn có quyền: Tạm
đình chỉ việc làm xét thấy đang hoặc sẽ gây tác hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền và
lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức và công dân, đồng thời báo cáo ngay cho cơ
quan có thẩm quyền giải quyết.
Đối với thanh tra viên Thanh tra Nhà nước chuyên ngành còn có quyền xử phạt vi
phạm hành chính, phạt cảnh cáo, phạt tiền từ 200.000 đ đối với những vi phạm làm cản
trở công tác thanh tra, tịch thu tang vật, phương tiện được sử dụng để vi phạm hành
chính có giá trị đến 2.000.000 đồng và áp dụng các biện pháp khắc phục hậu quả quy
định tại điểm a, b và d khoản 3 Điều 12 Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính.
Chánh thanh tra chuyên ngành cấp sở có quyền: phạt cảnh cáo; phạt tiền đến
20.000.000 đồng; tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề thuộc thẩm
quyền; tịch thu tang vật, phương tiện được áp dụng để vi phạm hành chính; áp dụng
các biện pháp khắc phục hậu quả quy định tại các điểm a, b, d khoản 3 Điều 12 của
Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính.
Hoạt động thanh tra là hoạt động chuyên trách bảo đảm pháp chế và kỷ luật trong quản
lý hành chính nhà nước phải tiến hành dựa trên các nguyên tắc: pháp chế xã hội chủ
nghĩa, chính xác, khách quan, công khai, dân chủ và kịp thời.
Pháp lệnh thanh tra quy định khá cụ thể thủ tục thanh tra và các vấn đề khác có liên
quan tới hoạt động thanh tra.
Thủ tục thanh tra bao gồm các giai đoạn:
- Ra quyết định tiến hành thanh tra: Việc ra quyết định tiến hành thanh tra phải dựa vào
các căn cứ: chương trình, kế hoạch thanh tra lập ra theo yêu cầu của công tác quản lý
của cơ quan nhà nước; yêu cầu của việc giải quyết khiếu nại, tố cáo theo thẩm quyền
của cơ quan nhà nước, tổ chức thanh tra; những vụ, việc được thủ trưởng cơ quan
quản lý hành chính nhà nước, thủ trưởng tổ chức thanh tra cấp trên giao; do tổ chức
thanh tra tự phát hiện có vi phạm pháp luật trong phạm vi trách nhiệm của mình.
Quyết định tiến hành thanh tra phải ghi rõ nội dung, thời hạn thanh tra.
- Tiến hành thanh tra:
Quyết định thanh tra do đoàn thanh tra hoặc thanh tra viên thực hiện. Đây là giai đoạn

đặc biệt quan trọng để ra các quyết định xử lý đúng đắn. Vì vậy, khi tiến hành thanh tra
cần thu thập các thông tin nhiều chiều, toàn diện, khách quan, chính xác.
- Ra quyết định kiến nghị, kết luận về kết quả thanh tra: Đây là giai đoạn trọng tâm của
quá trình thanh tra.
Chương V
Trách nhiệm hành chính
I - Khái niệm và mục đích của trách nhiệm hành chính
1. Khái niệm trách nhiệm hành chính
Trách nhiệm hành chính là một loại trách nhiệm pháp lý. Nó có những nét chung, đồng
thời cũng có những điểm khác biệt với các loại trách nhiệm pháp lý khác như trách
nhiệm hình sự, trách nhiệm dân sự và trách nhiệm kỷ luật.
Về khái niệm trách nhiệm hành chính, trong giới khoa học pháp lý có những quan điểm
khác nhau. Quan điểm truyền thống hiểu trách nhiệm hành chính là sự đánh giá phủ
nhận của nhà nước và xã hội đối với những vi phạm pháp luật chưa đến mức là tội
phạm xâm hại đến trật tự quản lý.Một quan điểm khác cho rằng, trách nhiệm hành
chính là quan hệ có trách nhiệm của chủ thể pháp luật đối với các nghĩa vụ, bổn phận
được giao phó trong lĩnh vực quản lý hành chính nhà nước.
Tuy nhiên, ở đây chúng ta chỉ xem trách nhiệm hành chính theo quan điểm truyền
thống hay trách nhiệm hành chính theo nghĩa tiêu cực. Trách nhiệm hành chính theo
nghĩa tiêu cực có một số đặc điểm sau:
a) Cơ sở trách nhiệm hành chính mang đặc thù được quy định trong Pháp lệnh xử lý
vi phạm hành chính (ban hành ngày 02-7-2002). Các vi phạm pháp luật trong xã hội rất
đa dạng về khách thể bị xâm hại, về mức độ nguy hiểm v.v từ đó dẫn đến những hậu
quả pháp lý khác nhau.
b) Trách nhiệm hành chính cũng như tất cả các biện pháp cưỡng chế hành chính
được áp dụng ngoài trình tự xét xử của toà án. Việc áp dụng các chế tài xử phạt hành
chính chủ yếu do các cơ quan quản lý hành chính nhà nước thực hiện. Ví dụ: Uỷ ban
nhân dân xử phạt các vi phạm quy tắc xây dựng, sử dụng đất.
c) Trách nhiệm hành chính được thể hiện ở chỗ: cơ quan nhà nước, người có thẩm
quyền ấn định đối với người vi phạm pháp luật các biện pháp xử phạt hành chính

tương ứng với hành vi vi phạm mà người đó đã gây ra.
d) Khái niệm trách nhiệm hành chính hẹp hơn khái niệm cưỡng chế hành chính.
Không phải vì bất kỳ biện pháp cưỡng chế hành chính nào cũng là trách nhiệm hành
chính. Sự áp dụng các biện pháp cưỡng chế hành chính trong các trường hợp khẩn
cấp như thiên tai địch hoạ, dịch bệnh không phải là trách nhiệm hành chính.
Tóm lại, trách nhiệm hành chính là một loại trách nhiệm pháp lý, là quan hệ pháp luật
đặc thù xuất hiện trong lĩnh vực quản lý hành chính nhà nước, trong đó thể hiện sự
đánh giá phủ nhận về pháp lý và đạo đức đối với hành vi vi phạm hành chính và người
vi phạm (cá nhân hay tổ chức) phải chịu những hậu quả bất lợi, những sự tước đoạt về
vật chất hay tinh thần tương ứng với vi phạm đã gây ra.
2. Mục đích của trách nhiệm hành chính
Xuất phát từ mục đích chung, trách nhiệm hành chính có mục đích trực tiếp là: giáo dục
người vi phạm và phòng ngừa các vi phạm pháp luật.
Mục đích phòng ngừa vi phạm pháp luật của trách nhiệm hành chính bao gồm phòng
ngừa riêng và phòng ngừa chung. ở đây, phòng ngừa riêng được hiểu là phòng ngừa
sự tái phạm và thực hiện vi phạm pháp luật mới từ phía người vi phạm hành chính và
bị xử phạt hành chính, còn phòng ngừa chung là phòng ngừa các vi phạm pháp luật từ
những cá nhân khác.
II - Vi phạm hành chính
1. Các dấu hiệu của vi phạm hành chính
Dựa vào các dấu hiệu pháp lý đó để xác định một hành vi nào đó là vi phạm hành
chính.
+ Tính trái pháp luật của hành vi thể hiện ở chỗ hành vi đó được thực hiện ngược lại
với quy định của pháp luật. Đó là hành động bị pháp luật hành chính cấm thực hiện,
hoặc không thực hiện hành động mà pháp luật hành chính buộc phải thực hiện.
+ Vi phạm hành chính phải là hành vi có lỗi. Những người bình thường đạt tới độ tuổi
nhất định đều có khả năng điều khiển, nhận thức được tính chất nguy hại cho xã hội
của hành vi, hậu quả của hành vi.
+ Vi phạm hành chính là hành vi bị xử phạt hành chính. Đây là dấu hiệu có tính quy kết,
vì nhà làm luật quy định những hành vi nào là vi phạm hành chính và định ra biện pháp,

mức phạt đối với hành vi đó.
2. Các yếu tố cấu thành của vi phạm hành chính
Các yếu tố cấu thành của vi phạm hành chính gồm:
- Mặt khách quan;
- Khách thể;
- Chủ thể;
- Mặt chủ quan.
III - Các cơ quan có thẩm quyền quy định hành vi vi phạm hành chính và chế độ
áp dụng các biện pháp xử lý hành chính khác
Theo Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính thì chỉ có Chính phủ là cơ quan có thẩm
quyền quy định hành vi vi phạm hành chính và chế độ áp dụng các biện pháp xử lý
hành chính khác. Việc quy định này nhằm mục đích đảm bảo sự thống nhất của pháp
luật về xử lý vi phạm hành chính trong phạm vi toàn quốc.
Điều 2 Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính quy định: Chính phủ quy định hành vi vi
phạm hành chính, hình thức xử phạt, biện pháp khắc phục hậu quả đối với từng hành
vi vi phạm hành chính trong từng lĩnh vực quản lý nhà nước; quy định chế độ giáo dục
tại xã, phường, thị trấn, đưa vào trường giáo dưỡng, đưa vào các cơ sở giáo dục, đưa
vào cơ sở chữa bệnh, quản chế hành chính.
IV - Các nguyên tắc xử lý vi phạm hành chính
Những nguyên tắc xử lý vi phạm hành chính là những tư tưởng chỉ đạo, định hướng
cho toàn bộ quá trình xử lý các vi phạm hành chính. Có những nguyên tắc cơ bản sau:
1. Nguyên tắc pháp chế
Pháp chế là nguyên tắc hiến định được quán triệt trong tổ chức, hoạt động của mọi cơ
quan nhà nước, tổ chức xã hội, trong hành vi, xử sự của công dân. Trong lĩnh vực xử lý
vi phạm hành chính, nội dung nguyên tắc này thể hiện ở chỗ: không một cá nhân, tổ
chức nào bị xử lý hành chính ngoài những căn cứ và thủ tục do pháp luật quy định. Chỉ
những cơ quan, cá nhân có thẩm quyền xử lý hành chính mới được xử lý. Mọi chủ thể
thực hiện, tham gia quan hệ trong lĩnh vực này phải tuân thủ, chấp hành nghiêm chỉnh
pháp luật về xử lý hành chính. Quá trình xử lý vi phạm hành chính chịu sự kiểm tra,
giám sát của các tổ chức xã hội và công dân. Vì vậy, một số địa phương trao cho đội

quy tắc xử phạt hành chính là trái pháp luật.
2. Mọi vi phạm hành chính phải được phát hiện kịp thời, xử lý công minh, nhanh
chóng theo đúng pháp luật
Nguyên tắc này đòi hỏi các cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải phản ứng mau lẹ
với các vi phạm hành chính, tuân thủ nghiêm ngặt những quy định về thời hiệu xử phạt
và thực hiện quyết định xử phạt, xử lý một cách khách quan với sự tính toán đầy đủ
các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng, các yếu tố nhân thân người vi phạm và các yếu tố
khác. Trong xử lý vi phạm hành chính chỉ được chọn các chế tài, biện pháp xử lý đã
được pháp luật quy định.
3. Nguyên tắc bình đẳng, công khai, nhân đạo trong xử lý vi phạm hành chính
Nguyên tắc này có nhiều nội dung: trước hết, phải xử lý đúng người, đúng hành vi vi
phạm, có vi phạm là bị xử lý không phân biệt người vi phạm là ai; mọi quy định của
pháp luật về xử lý vi phạm hành chính, quá trình xử lý vi phạm được công khai để mọi
người biết để thực hiện và kiểm tra; khi xử lý vi phạm, tính đến các tình tiết tăng nặng
và giảm nhẹ, không áp dụng những biện pháp hạ thấp danh dự, nhân phẩm của con
người.
Ngoài những nguyên tắc nêu trên, còn có những nguyên tắc mang tính kỹ thuật trong
xử lý vi phạm hành chính gồm: một hành vi vi phạm hành chính chỉ xử phạt một lần;
một người thực hiện nhiều hành vi vi phạm hành chính thì bị xử phạt về từng hành vi vi
phạm; nhiều người cùng thực hiện một hành vi vi phạm hành chính thì mỗi người vi
phạm đều bị xử phạt.
V- Các hình thức xử phạt vi phạm hành chính, các biện pháp xử lý hành chính
khác
Cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính có thể bị áp dụng một hoặc các biện pháp:
a) Buộc khôi phục lại tình trạng ban đầu đã bị thay đổi do vi phạm hành chính gây ra
hoặc buộc tháo dỡ công trình xây dựng trái phép;
b) Buộc thực hiện các biện pháp khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường sống, lây lan
dịch bệnh do vi phạm hành chính gây ra;
c) Buộc đưa ra khỏi lãnh thổ Việt Nam hoặc tái xuất hàng hoá, vật phẩm, phương tiện;
d) Buộc tiêu huỷ vật phẩm gây hại cho sức khoẻ con người, vật nuôi, cây trồng, văn

hoá phẩm độc hại.
e) Các biện pháp khác do Chính phủ quy định.
1. Các hình thức xử phạt hành chính
a) Cảnh cáo: là một hình thức xử phạt chính được áp dụng đối với cá nhân, tổ chức vi
phạm hành chính nhỏ, lần đầu, có tình tiết giảm nhẹ và chưa gây thiệt hại về vật chất.
b) Phạt tiền: một biện pháp xử phạt hành chính được áp dụng phổ biến đối với những
vi phạm hành chính lớn, đã gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại lớn về tài sản khi xét thấy
hình thức xử phạt cảnh cáo không hiệu quả.
Mức phạt tiền được quy định chung như sau:
- Mức phạt tiền trong xử lý vi phạm hành chính từ 5.000 đồng đến 500.000.000 (năm
trăm triệu đồng). Căn cứ vào tính chất, mức độ vi phạm, mức phạt tiền tối đa trong các
lĩnh vực quản lý nhà nước được quy định như sau:
a) Phạt tiền tối đa đến 20.000.000 đồng được áp dụng đối với hành vi vi phạm hành
chính trong các lĩnh vực: Trật tự, an toàn xã hội; quản lý và bảo vệ công trình giao
thông; quản lý và bảo vệ công trình thuỷ lợi; lao động; đo lường và chất lượng hàng
hoá; kế toán; thống kê; tư pháp; bảo hiểm xã hội;
b) Phạt tiền tối đa đến 30.000.000 đồng được áp dụng đối với hành vi vi phạm hành
chính trong các lĩnh vực: trật tự, an toàn giao thông đường bộ, đường thuỷ; văn hoá -
thông tin; du lịch; phòng chống tệ nạn xã hội; đất đai; đê điều và chống lụt, bão; y tế;
giá điện lực; bảo vệ và kiểm dịch thực vật; bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản; thú y; quản lý,
bảo vệ rừng, lâm sản; quốc phòng; an ninh;
c) Phạt tiền tối đa đến 70.000.000 đồng được áp dụng đối với hành vi vi phạm hành
chính trong các lĩnh vực: thương mại; hải quan; bảo vệ môi trường; an toàn và kiểm
soát bức xạ, an toàn giao thông đường sắt; xây dựng; bưu chính, viễn thông và tần số
vô tuyến điện; chứng khoán; ngân hàng; chuyển giao công nghệ;
d) Phạt tiền đến 100.000.000 đồng áp dụng đối với hành vi vi phạm hành chính trong
lĩnh vực: khai thác khoáng sản; sở hữu trí tuệ; hàng hải; hàng không dân dụng; thuế
(trừ trường hợp luật định về thuế có quy định khác);
e) Phạt tiền tối đa đến 500.000.000 đồng được áp dụng đối với hành vi xâm phạm vùng
lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa nhằm nghiên

cứu, thăm dò, khai thác nguồn lợi hải sản, dầu khí, các tài nguyên thiên nhiên khác.
2. Các hình thức xử phạt bổ sung
a) Tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề là hình thức phạt bổ sung,
không áp dụng độc lập mà áp dụng kèm với hình thức chính.
b) Tịch thu tang vật, phương tiện sử dụng để vi phạm hành chính
Hình thức xử phạt hành chính này thể hiện ở chỗ, cơ quan nhà nước có thẩm quyền
tước đoạt quyền sở hữu về tài sản của người vi phạm, chuyển vào sở hữu Nhà nước.
Những cá nhân bị tịch thu không có quyền sở hữu đối với tài sản đó.
c) Ngoài những hình thức xử phạt nói trên, cá nhân hoặc tổ chức còn có thể bị áp dụng
một hoặc nhiều biện pháp khắc phục hậu quả sau đây:
- Buộc khôi phục lại tình trạng ban đầu đã bị thay đổi do vi phạm hành chính gây ra
hoặc buộc tháo dỡ công trình xây dựng trái phép;
- Buộc bồi thường thiệt hại trực tiếp do vi phạm hành chính gây ra;
- Buộc thực hiện các biện pháp khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường sống, lây lan
dịch bệnh do vi phạm hành chính gây ra;
- Buộc đưa ra khỏi lãnh thổ Việt Nam hoặc tái xuất hàng hoá, vật phẩm, phương tiện;
- Buộc tiêu huỷ vật phẩm gây hại cho sức khoẻ con người, vật nuôi và cây trồng, văn
hoá phẩm đồi truỵ.
3. Các biện pháp hành chính khác
Các biện pháp hành chính khác gồm:
- Giáo dục tại xã, phường, thị trấn;
- Đưa vào trường giáo dưỡng;
- Đưa vào trung tâm giáo dục, chữa bệnh;
- Quản chế hành chính.
VI- Các cơ quan nhà nước và người có thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính
1. Uỷ ban nhân dân
2. Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính của các lực lượng công an nhân dân
3. Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính của Hải quan
4. Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính của cơ quan Kiểm lâm
5. Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính của cơ quan thuế

6. Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính của cơ quan Quản lý thị trường
7. Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính của cơ quan Thanh tra chuyên ngành
8. Thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính của Giám đốc Cảng vụ hàng hải, Giám
đốc Cảng vụ Thuỷ nội địa, Giám đốc Cảng vụ hàng không
9. Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính của Toà án nhân dân và Cơ quan thi
hành án dân sự
VII - Phân định thẩm quyền xử phạt và áp dụng các biện pháp ngăn chặn hành
chính
1. Phân định thẩm quyền xử phạt
Việc quy định nhiều cơ quan có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính nhằm để giải
quyết nhanh chóng, kịp thời mọi vi phạm hành chính xảy ra trong tất cả các ngành, lĩnh
vực, mọi cấp quản lý hành chính nhà nước.
Do có nhiều cơ quan có thẩm quyền xử phạt đòi hỏi phải có sự phân định thẩm quyền
xử phạt để tránh chồng chéo chức năng và bảo đảm pháp chế.
Những cơ quan, cá nhân không được pháp luật trao thẩm quyền xử phạt hành chính
thì không được xử phạt. Xử phạt đúng thẩm quyền là một yêu cầu của nguyên tắc
pháp chế trong xử lý các vi phạm hành chính.
2. Các biện pháp ngăn chặn hành chính
Để đảm bảo cho quyết định xử phạt được thực hiện nghiêm chỉnh, ngăn chặn kịp thời
vi phạm hành chính, cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền có thể áp dụng các biện
pháp ngăn chặn gồm:
- Tạm giữ người;
- Tạm giữ tang vật, phương tiện vi phạm;
- Khám người;
- Khám phương tiện vận tải, đồ vật;
- Khám nơi cất giấu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính;
- Bảo lãnh hành chính;
- Quản lý người nước ngoài vi phạm pháp luật Việt Nam trong thời gian làm thủ tục trục
xuất.
Truy tìm đối tượng phải chấp hành quyết định đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở giáo

dục, cơ sở chữa bệnh trong trường hợp người đó bỏ trốn.
VIII - Thủ tục xử phạt hành chính
Pháp lệnh quy định hai loại thủ tục xử phạt vi phạm hành chính: Thủ tục xử phạt đơn
giản và thủ tục xử phạt có lập biên bản.
1. Thủ tục xử phạt đơn giản
Thủ tục xử phạt đơn giản được áp dụng để xử lý các vi phạm hành chính có tính chất
đơn giản, rõ ràng, chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại không lớn về tài sản với hình
thức phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 5.000 đồng đến 100.000 đồng.
2. Thủ tục xử phạt có lập biên bản gồm các giai đoạn sau:
a) Khởi xướng vụ việc
b) Điều tra xem xét
c) Ra quyết định xử phạt
d) Thi hành quyết định xử phạt
3. Khiếu nại và tố cáo đối với quyết định xử phạt và giải quyết các khiếu nại đó
Khiếu nại, tố cáo là quyền chính trị cơ bản của công dân để đảm bảo lợi ích của họ
trong trường hợp bị xử phạt vi phạm hành chính, Pháp lệnh quy định: Cá nhân, tổ chức
bị xử phạt vi phạm hành chính, hoặc người đại diện hợp pháp của họ có quyền khiếu
nại quyết định xử phạt vi phạm hành chính, quyết định áp dụng các biện pháp ngăn
chặn và bảo đảm việc xử lý vi phạm hành chính. Mọi công dân có quyền tố cáo về
hành vi trái pháp luật trong xử lý vi phạm hành chính.
Ngoài thủ tục xử phạt vi phạm hành chính, còn có các thủ tục áp dụng các biện pháp
hành chính khác gồm: thủ tục đưa vào trường giáo dưỡng; thủ tục đưa vào trung tâm
giáo dục, chữa bệnh; thủ tục áp dụng quản chế hành chính.
Phần thứ ba:Kết luận
Tóm lại,luật hành chính là một ngành luật độc lập trong hệ thống pháp luật việt
Nam bao gồm các quy phạm pháp luật điều chỉnh những quan hệ xã hội phát sinh
trong quá trình tổ chức và thực hiện hoạt động chấp hành và điều hành của các
cơ quan nhà nước cò thẩm quyền ,các tổ chức xã hội được nhà nước trao quyền
quản lý nhà nước trên các lĩnh vực kinh tế,văn hóa,xã hội.
Luật hành chính điều chỉnh những quan hệ xã hội hình thành trong lĩnh vực quản

lý hành chính nhà nước.Những quan hệ này có thể gọi là những quan hệ chấp
hành-Điều hành hoặc những quan hệ quản lý hành chính nhà nước.Luật hành
chính do các cơ quan hành chính nhà nước quản lý như :Chính Phủ,các Bộ,Tổng
cục,Cục,Phòng,Ủy ban nhân dân các cấp,…vv
Việc vi phạm hành chính là hành vi do cá nhân,tổ chức thực hiện một cách cố ý
hoặc vô ý là tội phạm hình sự và theo quy định của pháp luật phải bị xử lý hành
chính.Người vi phạm hành chính có thể bị phạt cảnh cáo hay phạt tiên tùy vaò
mức độ vi phạm.Ngoài ra còn nhiều biện pháp xử phạt khác.Vì thế hành chính là
bộ luật rất quan trọng mỗi chúng ta phải nghiêm túc bộ luật hành chính của nước
CHXHCN Việt Nam.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Một số trang Website có nội dung liên quan:
1.
2. />3.
4. công cụ tìm kiếm:
5. />6.
7. Bộ giáo dục và đào tạo: giao trình môn pháp luật đại cương

×