Tải bản đầy đủ (.doc) (89 trang)

tiêu luận Thực trạng báo chí đối với vấn đề cải cách thể chế hành chính nhà nước Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (426.26 KB, 89 trang )

Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đÒ tài
Hiện nay, dưới tác động ngày càng mạnh mẽ của xu thế toàn cầu hoá và
quốc tế hoá chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội ngày càng phát triển đã đặt ra
cho báo chí nhiều vấn đÒ cần giải đáp. ĐÓ có cách giải quyết đóng đắn, phải
tìm hiểu tổng kết những hoạt động thực tiễn tạo chỗ dùa lý luận vững chắc
cho hoạt động báo chí. Nghiên cứu hoạt động của báo chí đối với vấn đÒ cải
cách thể chế hành chính nhà nước Việt Nam trong giai đoạn hiện nay đã chỉ
ra những bài học, phương pháp vận dụng cách thông tin về nội dung Êy vào
thực tiễn hiệu quả hơn.
Năm 2010 là năm cuối cùng nước ta thực hiện ĐÒ án 30 - Chương
trình tổng thể cải cách hành chính của Chính phủ giai đoạn 2001-2010. Trong
gần 10 năm thực hiện đÒ án nền hành chính nhà nước ta đã có những chuyển
biến tích cực, bước đầu đáp ứng được yêu cầu của thời đại mới, đặc biệt trong
lĩnh vực xây dựng và cải cách thể chế hành chính. Đạt được những thành tích
đáng kể như hiện nay, đÒ án nhận được sự giúp đỡ của các cơ quan, tổ chức
và quần chúng nhân dân. Trong đã, với vai trò quan trọng báo chí có tác động
to lớn, sâu rộng đÕn toàn xã hội, là công cô đắc lực đÓ tập hợp lực lượng,
hướng quần chúng vào những mục tiêu chung đã đóng góp một phần không
nhỏ thành tích của đề án cải cách hành chính nhà nước. Báo chí không chỉ cầu
nối, là công cụ tuyên truyền, cổ động, hướng dẫn hoạt động cải cách hành
chính nói chung và thể chế hành chính nhà nước nói riêng mà nó còn tham gia
trực tiếp vào công cuộc này.
Cải cách hành chính hiện đang là vấn đề mang tính toàn cầu. Cả các
nước đang phát triển và các nước phát triển đều xem cải cách hành chính nh
1
mét động lực mạnh mẽ để thúc đẩy tăng trường kinh tế, phát triển dân chủ và
các mặt khác của đời sống xã hội. Chủ trương cải cách nền hành chính nhà
nước ở Việt Nam được bắt đầu cuối những năm 80 của thế kỷ XX, gắn liền
với thời điểm bắt đầu công cuộc đổi mới đất nước theo đường lối phát triển
nền kinh tế thị trường định hướng XHCN và xây dựng Nhà nước pháp quyền


của dân, do dân, vì dân. Bối cảnh phát triển nền kinh tế thị trường và mở cửa,
hội nhập quốc tế đặt ra sự cần thiết khách quan phải tiến hành công cuộc cải
cách nền hành chính nhà nước nhằm tạo lập một nền hành chính mới, hiện
đại, phù hợp với thể chế kinh tế thị trường, đáp ứng yêu cầu của công cuộc cải
cách kinh tế, phát huy dân chủ xã hội và hội nhập quốc tế. Trong thập kỷ cuối
của thế kỷ XX, thực hiện các Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII,
lần thứ VIII, các Nghị quyết Trung ương 8 (khoá VII), Nghị quyết Trung
ương 3, Trung ương 6 (lần 2) và Trung ương 7 (khoá VIII); công cuộc cải
cách nền hành chính nhà nước đã đạt được những kết quả đáng kể, góp phần
quan trọng vào sự nghiệp đổi mới và phát triển kinh tế – xã hội của đất nước.
ĐÓ tiếp tục đẩy mạnh công cuộc cải cách hành chính trong thập kỷ đầu
tiên của thế kỷ XXI, ngày 17 tháng 9 năm 2001, Thủ tướng Chính phủ đã ban
hành Quyết định số 136/2001/QĐ-TTg phê duyệt Chương trình tổng thể cải
cách hành chính nhà nước giai đoạn 2001 – 2010, đánh dấu một bước phát
triển mới trong tiến trình cải cách nền hành chính nhà nước, với mục tiêu
chung là: đến năm 2010, có được một nền hành chính thật sự dân chủ, trong
sạch, vững mạnh, chuyên nghiệp, hiện đại, phù hợp với yêu cầu quản lý nền
kinh tế thị trường định hướng XHCN trong điều kiện mở cửa hội nhập quốc
tế. Trong đó, cải cách thể chế hành chính có vị trí đặc biệt quan trọng vì nó
phản ánh cụ thể, rõ nét nội dung, phương thức quản lý nhà nước đối với các
lĩnh vực của đời sống xã hội, kết quả hoạt động, hiệu quả phục vụ nhân dân
của bộ máy nhà nước.
2
Nghiên cứu báo chí đối với vấn đÒ cải cách thể chế hành chính nhà nước
Việt Nam mà trước hết là thể chế kinh tế của nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa, thể chế về tổ chức và hoạt động của hệ thống hành chính nhà
nước; đổi mới quy trình xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật; bảo
đảm việc tổ chức thực thi pháp luật nghiêm minh của cơ quan nhà nước, của cán
bộ, công chức; tiếp tục cải cách thủ tục hành chính là vấn đề có ý nghĩa thực tiễn
cao. Không chỉ để hiểu rõ thực trạng tác động của báo chí với cải cách thể chế

hành chính mà còn góp phần đánh giá, tìm ra nguyên nhân và qua đó sẽ đưa ra
được các giải pháp phù hợp góp phần phát huy vai trò to lớn của báo chí trong
cải cách hành chính. Vì thế tác giả lùa chọn đÒ tài “Báo chí với vấn đÒ cải
cách thể chế hành chính nhà nước Việt Nam hiện nay”
2. Lịch sử nghiên cứu
Hiện nay, tác động của báo chí đối với các vấn đÒ chính trị, kinh tế,
văn hoá và xã hội là đối tượng nghiên cứu của nhiều nhà báo và học giả trên
thế giới và Việt Nam.
Tại Việt Nam, cũng đã có nhiều luận án, luận văn, các bài báo và bài
viết của các nhà khoa học đề cập đến tác động của báo chí đối với các vấn đề
kinh tế, chính trị, xã hội như : Nguyễn Lê Anh " Báo chí góp phần hoàn
thiện chính sách tài chính đối ngoại", Luận văn thạc sĩ báo chí, Hà Nội, 2002;
Nguyễn Thanh Vân : "Vai trò của báo chí đối với công cuộc cải cách hành
chính (khảo sát báo in thành phố HCM từ năm 2001 đÕn năm 2004), Luận
văn thạc sĩ khoa học, TP Hồ Chí Minh, 2006; Nguyễn Văn Thắng : “Báo chí
tham gia xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam” Luận văn
thạc sĩ truyền thông đại chúng, Hà Nội, 2009 …
3
Tuy nhiên, cho đến nay chưa có đÒ tài nào nghiên cứu về sự tác động
của báo chí đối với cải cách thể chế hành chính nhà nước Việt Nam trong giai
đoạn hiện nay.
3. Mục đÝch và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đÝch
Mục đÝch của đÒ tài là thông qua nghiên cứu, khảo sát các tác phÈm
báo chí đÓ thấy được sự tác động của báo chí đối với cải cách thể chế hành
chính ở Việt Nam hiện nay; đÒ xuất một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao
chất lượng tuyên truyền và khẳng định vai trò của báo chí trong việc tham gia
vào cải cách thể chế hành chính nhà nước Việt Nam.
3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu
Từ mục đÝch trên, đÒ tài có nhiệm vụ chính sau:

- Làm rõ một số vấn đề lý luận về vai trò, chức năng của báo chí; thể
chế hành chính, cải cách thể chế hành chính nhà nước Việt Nam.
- Đánh giá thực trạng tác động của báo chí trong việc cải cách thể chế
hành chính nhà nước Việt Nam thông qua khảo sát một số tờ báo và tạp chí.
- ĐÒ xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của báo
chí đối với cải cách thể chế hành chính nhà nước Việt Nam.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đÒ tài là các tác phẩm báo chí có liên quan
đÕn nội dung cải cách thể chế hành chính nhà nước Việt Nam.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
4
ĐÒ tài chỉ nghiên cứu các tác phẩm báo chí có liên quan đến cải cách
hành chính nhà nước Việt Nam trên Tạp chí Quản lý nhà nước, Tạp chí Cộng
sản, Tạp chí Tổ chức nhà nước từ tháng 1 năm 2006 đÕn tháng 6 năm 2010.
5. Cở sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
- Dùa trên nền tảng chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
- Các quan điểm đường lối, chính sách của Đảng và Pháp luật của Nhà
nước về công tác báo chí và cải cách thể chế hành chính nhà nước Việt Nam.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử.
- Phương pháp khảo sát, thống kê, phân tích, tổng hợp, diễn dịch, quy
nạp.
+ Phương pháp khảo sát thống kê sẽ được sử dụng trong viêc lùa chọn
các tác phẩm về cải cách thể chế hành chính nhà nước đăng tải trên các tạp
chí Cộng sản, Tổ chức nhà nước, Quản lý nhà nước
+Phương phân tích tổng hợp được sử dụng nhằm rót ra những kết luận
có tính khái quát về đặc điểm các bài viết về cải cách thể chế hành chính nhà
nước.

+Phương pháp diễn dịch, quy nạp được sử dụng trong quá trình nhận
xét và đánh giá nhằm rót ra những mặt đạt dược và hạn chế trong việc tuyên
truyền về cải cách thể chế hành chính nhà nước Việtt Nam ở 3 tạp chí.
6. Những đóng góp mới về khoa học của đÒ tài
Khảo sát đầy đủ, toàn diện luận văn sẽ có đóng góp vào việc làm rõ
được vai trò của báo chí trong việc xây dựng và cải cách thể chế hành chính
5
nhà nước ở nước ta hiện nay. Qua đã, góp phần nâng cao trình đé và năng lực
của người làm báo, nhất là đội ngò phóng viên chuyên trách về lĩnh vực này,
đồng thời góp phần nâng cao chất lượng các Ên phẩm báo chí khi tuyên
truyền về chủ đÒ cải cách thể chế hành chính nhà nước ta hiện nay.
7. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
Luận văn “Báo chí với vấn đề cải cách thể chế hành chính nhà nước ở
Việt Nam hiện nay” có ý nghĩa thiết thực cả về mặt lý luận và thực tiễn đối
với các cơ quan báo chí khi thực hiện chức năng “cơ quan ngôn luận của
Đảng, Nhà nước, tổ chức chính trị, xã hội và là diễn đàn của nhân dân”. Qua
đó, góp phần tích cực vào công cuộc cải cách thể chế hành chính nhà nước ở
nước ta hiện nay theo hướng thống nhất, khả thi.
Kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ là tài liệu tham khảo bổ Ých cho hoạt
động của những người làm baó khi tuyên truyền về đề tài cải cách thể chế
hành chính nhà nước.
8. Kết cấu của đÒ tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
bao gồm 3 chương, 7 tiết.
6
Chương 1: Một số vấn đề lý luận báo chí và cải cách thể chế hành chính ở
nước ta hiện nay
1.1. Báo chí- một số vấn đề lý luận cơ bản
1.1.1. Một sè quan niệm về báo chí
Báo chí là một hiện tượng xã hội đặc biệt phổ biến nhưng ra đời khá

muộn. Nếu đem báo chí so sánh với văn chương thì thấy rằng báo chí xuất
hiện sau đến vài nghìn năm nhưng nó lại có sự phát triển cực kỳ nhanh mạnh
trên mọi phương diện.
Báo chí ra đời trước tiên là do nhu cầu thông tin giao tiếp của con
người ngày càng lớn. Thiếu thông tin giao tiếp xã hội loài người không thể
hình thành và phát triển như ngày nay.
Thông tin là một khái niệm đã có từ lâu đời, là một khái niệm rất rộng,
tuỳ thuộc vào từng lĩnh vực nghiên cứu, mục đích nghiên cứu mà đưa ra
những định nghĩa khác nhau.
Chẳng hạn:
- Thông tin là nội dung của thế giới bên ngoài thể hiện trong sự nhận
thức của con người (N.Viner)
- Thông tin là sự chống lại của sự bất định (Shannon.K.)
- Thông tin là những tín hiệu được thu nhận, được hiểu và được đánh
giá là có Ých cho việc ra quyết định (các nhà quản lý kinh tế)
- Thông tin là một phạm trù phản ánh nội dung và hình thức vận động
của các sự vật và hiện tượng. Theo quan điểm hệ thống thì thông tin là tính
7
trật tự của các đối tượng vật chất có những mối liên hệ biện chứng (các nhà
điều khiển học)
- Thông tin là một phạm trù triết học phản ánh sự vận động và tương
tác của các hiện tượng, sự vật và quá trình tư duy (các nhà triết học)
Từ đó thông tin được hiểu là tổng thể các tri thức cần thiết để tác động
đến hệ thống quản lý nhằm mục đích tối ưu hoá nó; thông tin- tổ hợp các dữ
liệu chuyên ngành hẹp, được tạo ra hàng nghìn lần trong hoạt động quản lý xã
hội; thông tin còn được hiểu là nguồn dữ liệu cần thiết của phát triển kinh tế-
xã hội; nguồn dự trữ giống như các nguồn dự trữ khác như: lao động, năng
lượng, vật liệu
Trong báo chí thông tin là một thuật ngữ nền tảng, liên quan trực tiếp
đến tính hiệu quả của các phương tiện thông tin đại chúng, đến những đòi hỏi

về phương pháp, hình thức sáng tạo của nhà báo, đến nguyên tắc về sự tác
động qua lại giữa báo chí và công chúng. Những vấn đề về lý luận trong báo
chí đều liên quan đến thuật ngữ này. Sự tồn tại của thông tin trong báo chí có
những đặc trưng riêng gắn với mối quan hệ nhà báo- tác phẩm và công chúng.
Thông tin trong hoạt động báo chí liên quan trực tiếp đến chất lượng và hiệu
quả báo chí như là sự tác động vào xã hội, tạo thành một bộ phận của tri thức
có tác động tích cực vào quá trình vận động của các lĩnh vực đời sống xã hội.
Thế giới hiện thực chứa đầy lượng thông tin, báo chí có cách riêng của
mình để phản ánh hiện thực với mục đích tác động tới nhiều tầng líp xã hội
với những mối quan tâm sở thích và nhu cầu khác nhau. Chính điều đó khiến
cho báo chí trở thành một hoạt động thông tin đại chúng rộng rãi và năng
động nhất mà không một hình thái ý thức xã hội nào có được.
Có quan niệm cho rằng báo chí là báo và chí, thông báo về sự việc mới
diễn ra hàng ngày; Báo chí là thông tin thời sự; phương diện giao tiếp xã hội;
8
Báo chí là diễn đàn cung cấp và trao đổi thông tin. Hay hiểu theo nghĩa hẹp
thì báo chí là báo, tạp chí và các sản phẩm in Ên, theo nghĩa rộng báo chí bao
gồm các loại hình: báo in, phát thanh, truyền hình, báo mạng điện tử. Theo
Giáo trình nghiệp vụ báo chí, tập I, khoa Báo chí, trường Tuyên huấn trung
ương “Báo chí là những tư liệu sinh hoạt tinh thần nhằm thông tin và nói rõ
về những sự kiện thời sự đã và đang diễn ra cho một nhóm đối tượng nhất
định, nhằm mục đích nhất định, xuất bản định kỳ, đều đặn”.
Trên thế giới có hai quan niệm về báo chí đối lập nhau, một là của giai
cấp tư sản và một là của giai cấp vô sản.
Theo giai cấp tư sản: Báo chí là phương tiện thông tin, thông tin sự
kiện, khách quan, độc lập và không phụ thuộc vào chính trị, “không can dự
vào những cuộc đấu tranh giai cấp”. Báo chí độc lập với chính trị; là quyền
lực thứ tư (giám sát quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp)
Giai cấp vô sản: Từ lý luận và thực tiễn cách mạng của giai cấp vô sản
đấu tranh chống giai cấp tư sản, qúa trình hình thành và phát triển của xã hội

xã hội chủ nghĩa, các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác đã chỉ ra quan niệm của
giai cấp vô sản về báo chí: Báo chí là công cụ tuyên truyền, là phương tiện
đấu tranh giai cấp trên mặt trận tư tưởng- văn hoá. Do đó, “cán bộ báo chí là
chiến sĩ xung kích trên mặt trận tư tưởng- văn hoá”. Báo chí là công cụ thể
hiện quyền lực chính trị.
1.1.2. Vai trò của báo chí
1.1.2.1. Báo chí là cầu nối giữa Đảng và Nhà nước với nhân dân
Khi bàn về báo chí cách mạng, Lênin đã chỉ ra rằng: Vai trò của tờ báo
không chỉ đóng khung ở chỗ phổ biến tư tưởng, giáo dục chính trị và tranh
thủ những bạn đồng minh chính trị. Tờ báo không chỉ là người tuyên truyền
tập thể và cổ động tập thể, mà còn là người tổ chức tập thể. Như vậy, Lênin
9
đã đặt vấn đề vai trò báo chí của tờ báo trong mối quan hệ với các chức năng
tuyên truyền, cổ động và tổ chức tập thể hướng tới mục tiêu chung.
Kế thừa những quan điểm của Mác- Lênin về báo chí cách mạng, cùng
với thực tiễn sinh động của cách mạng Việt Nam, Hồ Chủ tịch coi báo chí là
một thứ vũ khí sắc bén và đã sử dụng báo chí một cách tài tình để tuyên
truyền cách mạng và vận động nhân dân tham gia sự nghiệp cách mạng.
Trong thư Bác Hồ gửi cho líp học viết báo Huỳnh Thúc Kháng(5/1949), khi
líp học vừa bắt đầu, Người đã viết nội dung như một bài giảng cô đúc về
nghiệp vụ báo chí và người làm báo. Bắt đầu từ nhiệm vụ, mục đích, tôn chỉ,
đối tượng phục vụ của báo chí cách mạng, đến yêu cầu về nội dung và hình
thức của tờ báo. “Nhiệm vụ: của tờ báo là tuyên truyền, cổ động, huấn luyện
giáo dục, và tổ chức dân chúng để đưa dân chúng đến mục đích chung.( ).
Đối tượng của tờ báo là đại đa số dân chúng, một tờ báo không được
đại đa số ham chuộng thì không xứng đáng là một tờ báo. Muốn dân chúng
ham chuộng, coi tờ báo Êy là tờ báo của mình thì: Nội dung- tức là các bài
báo viết phải giản đơn, dễ hiểu, phổ thông, thiết thực, hoạt bát. Và hình thức-
tức là cách sắp đặt các bài, cách in phải sạch sẽ, sáng sủa[21, tr.138]
Bác thẳng thắn phê bình báo chí ta “tuyên truyền thì không kịp thời và

chính trị quá nhiều, không biết giữ bí mật”. Người cũng quan tâm đặc biệt đến
sự hấp dẫn của tờ báo khi phê bình báo chí ta là “không vui vẻ” và “in nhem
nhuốc, luộm thuộm” [25-139]
Từ những vấn đề khái quát, Bác nêu bật yêu cầu có tính nguyên tắc
trong hoạt động, rèn luyện của người làm báo. Đó là “gần gũi quần chúng”,
viết về quần chúng và viết cho quần chúng đọc, quần chúng hiểu; phải biết Ýt
nhất một ngoại ngữ đề học hỏi kinh nghiệm bên ngoài, luôn biết lắng nghe,
rèn luyện, cầu tiến bộ. Người làm báo cần phải chú trọng học tập chính trị,
10
nắm vững chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước; đi sâu vào thực tế đi
sâu vào quần chúng lao động.
Luật Báo chí Việt Nam 1990, luật sửa đổi một số điều quy định rõ ràng
“Báo chí ở nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa luật Việt Nam phương tiện thông
tin đại chúng thiết yếu đối với đời sống xã hội; là cơ quan ngôn luận của các
tổ chức của Đảng, cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội; là diễn đàn của nhân
dân” [23, tr.4].
Thực tế gần 25 năm qua, công cuộc đổi mới đất nước do Đảng ta khởi
xướng và lãnh đạo đã giành được những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch
sử. Trong những thành tựu đó những người làm báo Việt Nam tự hào về
những đóng góp của mình Báo chí kịp thời đưa những chủ trường, đường
lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước đến với các tầng líp
nhân dân; phát hiện, nhân rộng những điển hình tiên tiến, những sáng kiến
nguyện vọng của mọi tầng líp nhân dân. Báo chí là tiếng nói của Đảng và
Nhà nước, đồng thời là diễn đàn của nhân dân, là cầu nối giữa ý Đảng và
lòng dân. Đồng thời báo chí tích cực đầu tranh chống tiêu cực, tham nhòng,
lãng phí, chống lại các âm mưu và luận điệu sai trái của các thế lực thù địch.
Theo đà đổi mới báo chí nước ta cũng đã có những bước tiến bộ nhảy vọt cả
về số lượng và chất lượng. Đội ngò những người làm báo phát triển nhanh
chóng, trưởng thành về nhiều mặt.
Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, thấm nhuần chủ nghĩa Mác

Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta luôn khẳng định: Báp chí là người
cổ động, tuyên truyền tập thể, là người tổ chức tập thể, là một cụ của Đảng để
lãnh đạo quần chúng. Đảng ta coi trọng công tác thông tin, tuyên truyền trên
báo chí, coi báo chí là công cụ sắc bén trong công tác tư tưởng của Đảng, là
lực lượng xung kích trên mặt trận công tác tư tưởng văn hoá”. Trên lĩnh vực
11
lập pháp, báo chí góp phần không nhỏ trong việc xây dựng và hoàn thiện các
thể chế, đồng thời phát hiện, phê phán ngăn chặn những hành vi vi phạm pháp
luật, gây thiệt hại đến tài sản của nhà nước, của nhân dân, góp phần giữ gìn an
ninh chính trị và trật tự xã hội.
1.1.2.2. Báo chí bảo đảm thông tin và giao tiếp xã hội
Trong lịch sử tồn tại và phát triển của mình, con người thường xuyên
cần đến thông tin. Ngày nay, với sự bùng nổ thông tin, thông tin càng trở
thành một trong những nhu cầu sống còn của con người và khái niệm "thông
tin" đang trở thành khái niệm cơ bản chung của nhiều khoa học.
Trong báo chí truyền thông, thông tin cũng được tiếp cận dưới nhiều
gốc độ khác nhau. Thông tin là chức năng sơ khởi của báo chí, theo nghĩa sử
dụng phương tiện kỹ thuật để phổ biến kết quả lao động sáng tạo của nhà báo.
Thực hiện chức năng thông tin, báo chí cung cấp cho công chúng về tất cả các
vấn đề, sự kiện của đời sống xã hội, đáp ứng nhu cầu khám phá, tìm hiểu thế
giới tự nhiên, xã hội. Trong một thế giới hiện thực chứa đầy lượng thông tin,
báo chí có cách riêng của mình để phản ánh hiện thực với mục đích tác động
tới nhiều tầng líp xã hội với những mối quan tâm, sở thích và nhu cầu khác
nhau. Chính điều đó khiến cho báo chí trở thành một hoạt động thông tin đại
chúng rộng rãi và năng động nhất mà không một hình thái ý thức xã hội nào
có được.
Như vậy, khái quát lại thông tin báo chí được hiểu theo hai nghĩa:
Thứ nhất, đó là tri thức, tư tưởng do nhà báo tái tạo và sáng tạo từ hiện
thực cuộc sống. Tất cả những vấn đề, sự kiện, hiện tượng trong tự nhiên và xã
hội được báo chí phản ánh nhằm phục vụ nhu cầu tìm hiểu, khám phá của con

người.
12
Thứ hai, đó là phương tiện, công cụ chuyển tải tác phẩm báo chí tới
công chúng.
Trong hoạt động báo chí, thông tin có vai trò hết sức to lớn, là công cụ
chủ yếu để nhà báo thực hiện mục đích của mình. Thông tin trở thành "cầu
nối" giữa báo chí và công chúng. Căn cứ việc phân loại theo phương thức thể
hiện, người ta chia thông tin báo chí thành các loại hình: Thông tin bằng chữ
viết (báo in); thông tin bằng tiếng nói (phát thanh); thông tin bằng hình ảnh
(truyền hình); thông tin trên mạng internet (đa phương tiện).
Trong xu thế toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế đang diễn ra mạnh mẽ
thì khả năng và cách thức đáp ứng nhu cầu thông tin giao tiếp của con người
là tiêu chí đánh giá trình độ phát triển của quốc gia. Đồng thời xu thế này
cũng là động lực cho báo chí phát triển mạnh mẽ.
Vai trò thông tin - giao tiếp của báo chí thể hiện qua ba phương thức cơ
bản : Mét là, thông tin sự kiện thời sự, đây là tiêu chí hàng đầu, quan trọng
nhất để đánh giá chất lượng sản phẩm báo chí; Hai là, giải thích và giải đáp về
những sự kiện, vấn đề thời sự đã và đang diễn ra; Ba là, bình luận, đây là cách
chủ yếu và tập trung nhất báo chỉ thể hiện quan điểm thái độ qua đó góp phần
định hướng dư luận.
Đối với báo chí mà cụ thể là với nhà báo thì thông tin báo chí có vị trí
và vai trò đặc biệt quan trọng. Báo chí ra đời và phát triển nhằm thoả mãn nhu
cầu thông tin ngày càng cao của con người. Thông tin là động lực kích thích
sự phát triển của con người, xã hội. Xã hội càng phát triển thì thông tin càng
đa dạng và các phương tiện, phương thức truyền thông cũng ngày càng đa
dạng để có thể đáp ứng nhu cầu phát triển.
13
Trong hoạt động báo chí, thông tin giao tiếp là vai trò có ý nghĩa quan
trọng, quyết định đến chất lượng các sản phẩm báo chí. Vị vậy, trong hoạt
động thông tin báo chí cần phải chú ý một số điểm sau :

- Thông tin phải nhanh chóng kịp thời. Đây là yếu tố hàng đầu tạo nên
giá trị của tác phẩm báo chí. Tính hợp thời của thông tin có thể gia tăng năng
lực tác động của thông tin lên gấp bội và ngược lại.
- Thông tin phải phong phó, đa dạng nhằm đáp ứng nhu cầu của xã hội,
đồng thời kích thích nhu cầu và tâm lý tiếp nhận của công chúng
- Thông tin phải phù hợp với các quy tắc xã hội, các giá trị văn hoá dân
téc và phù hợp, phục vụ cho sự phát triển
- Thông tin báo chí phải đảm báo tính trung thực, cụ thể là thông tin
phải được thông báo xác thực, đúng bản chất, đặt trong bối cảnh và tác động
tích cực tới mối quan hệ hiện tại của công tác tư tưởng và tâm lý xã hội và
mọi thông tin luôn vì sự phát triển của đất nước.
Đảng và Nhà nước ta hÕt sức coi trọng và đánh giá cao vai trò thông
tin của báo chí. Đây không chỉ là phương tiện cung cấp thông tin, cung cấp tri
thức, là một trong những công cụ giúp cho công tác chỉ đạo, điều hành đất
nước mà còn là nơi để phản hồi những thông tin từ nhân dân đối với đường
lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, góp phần quan
trọng thực hiện dân chủ hoá trong đời sống xã hội. Thông tin thực sự là công
cụ cung cấp tri thức, dự báo sự phát triển đồng thời cũng là động lực thúc đẩy
sự phát triển. Đời sống nhân dân được cải thiện, trình độ dân trí ngày càng
được nâng cao nên nhu cầu thông tin của nhân dân đòi hỏi ngày càng cao hơn
14
1.1.2.3. Báo chí nâng cao trình độ hiểu biết cho nhân dân
Là một loại hình hoạt động đặc thù, ra đời do những nhu cầu khách
quan của xã hội đã phát triển đến một trình độ nhất định của văn minh nhân
loại, báo chí mang trong mình những tiềm năng có ý nghĩa to lớn đối với xã
hội. Sự ra đời và tồn tại của báo chí đã khẳng định một cách khách quan vai
trò, tác dụng và ý nghĩa của nó trong xã hội.
Vai trò nâng cao trình độ hiểu biết cho nhân dân là một chức năng
khách quan của báo chí, tồn tại và liên hệ chặt chẽ với các chức năng khác.
Thực hiện việc nâng cao trình độ hiểu biết cho nhân dân, báo chí truyền bá

các tri thức văn hoá toàn diện đáp ứng nhu cầu thông tin cũng như giải trí cho
nhân dân lao động. Sự phát triển của các phương tiện thông tin đại chúng là
điều kiện quan trọng để đại chóng hoá những giá trị tinh thần của nhân loại,
giúp mỗi thành viên trong xã hội có cơ hội không ngừng bổ sung vốn tri thức,
làm phong phú đời sống tinh thần của mình. Giao tiếp qua báo chí và truyền
thông đại chúng có vai trò rất quan trọng trong việc khẳng định và nhân rộng
các giá trị văn hoá dân téc, giữ gìn và lưu truyền các giá trị văn hoá Êy.
Xã hội càng phát triển, trình độ giáo dục chung của nhân dân ngày càng
cao, sự hình thành nhân cách, lối sống văn hoá của con người chịu ảnh hưởng
ngày càng nhiều yếu tè. Trong khi thực hiện việc nâng cao trình độ hiểu biết
của nhân dân, báo chí đề cập đến rất nhiều các lĩnh vực khác nhau, những
khía cạnh phong phú của đời sống con người. Mục đích của hoạt động không
chỉ là nâng cao trình độ hiểu biết cho nhân dân mà còn hình thành một nền
văn hoá toàn diện, lành mạnh, tiên tiến. TÝnh chất của nền văn hoá đó thể
hiện tất cả các hoạt động, quan hệ của con người. Công chúng lùa chọn báo
chí và coi nó như trường học một cách tự nguyện, tự lùa chọn với phương
thức tiếp nhận thông tin phù hợp nhất cho mỗi người, mỗi nhóm công chúng,
15
thông qua việc lùa chọn các Ên phẩm truyền thông. Với những ưu thế là tính
tự giác, khả năng lùa chọn rộng rãi, cơ chế tiếp nhận linh hoạt, gần gũi thực
thực tế, sinh động, báo chí đã tham gia vào quá trình giáo dục đào tạo con
người một cách hiệu quả trên cả chiều rộng và chiều sâu.
Nhận thức của người dân ngày một cao hơn cùng với sự phát triển
không ngừng của các phương tiện truyền thông đại chúng tạo điều kiện để
xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
téc. Hơn nữa, báo chí trở thành những kênh cho đông đảo quần chúng tham
gia giải trí lành mạnh, hướng dẫn và tổ chức cho công chúng sử dụng thời
gian hợp lý để cân bằng trạng thái tâm lý cũng như tái sản xuất sức lao động.
Báo chí ngày một thể hiện ưu thế của mình trong công tác giáo dục và nâng
cao trình độ dân trí. Rất nhiều kiến thức bổ Ých, phong phú, toàn diện được

công chúng thu nhận thông qua các sản phẩm truyền thông. Các thành tựu
khoa học- công nghệ, cách thức áp dụng, triển khai và chuyển giao công nghệ
được phổ biến trên báo chí. Ngoài ra báo chí còn trở thành một công cụ giám
sát hữu hiệu việc bảo đảm mục tiêu, định hướng, và hiệu quả công tác giáo
dục, phát hiện và tham gia giải quyết những vấn đề đặt ra trong quá trình nâng
cao dân trí của nhân dân.
1.1.2.4. Báo chí tham gia vào quản lý, giám sát và phản biện xã hội
Quản lý xã hội được quan niệm là sự tác động có ý thức của chủ thể
quản lý vào khách thể quản lý nhằm bảo đảm cho nó hoạt động, phát triển có
hiệu quả, đạt mục đích đề ra. Báo chí tham gia vào quản lý xã hội thể hiện ở
chỗ báo chí duy trì và phát triển mối liên hệ chặt chẽ giữa chủ thể và khách
thể quản lý, lãnh đạo thông qua việc duy trì và phát triển dòng thông tin hai
chiều, bảo đảm cho các quyết định quản lý được thông suốt và thực thi.
16
Chiều thông tin thuận từ chủ thể đến khách thể chuyển đi những quyết
định quản lý cũng như các thông tin cần thiết để hướng dẫn về cách thức,
phương thức, phương pháp, điều kiện thực hiện chúng. Yêu cầu đặt ra đối với
chiều thông tin này là sự chính xác, kịp thời, đầy đủ. Đó cũng là điều kiện cần
thiết cho khả năng tác động một cách có hiệu lực của chủ thể quản lý vào
khách thể quản lý, làm cho khách thể quản lý vận động phát triển theo chiều
hướng đã định. Chiều thông tin ngược lại là thông tin từ khách thể quản lý
đến chủ thể quản lý. Đây là chiều thông tin đúng đắn, khách quan nhất về
những điều có thể xảy ra trước và sau khi những chủ trương lãnh đạo và quyết
định quản lý được đưa ra. Muốn có được những chủ trương, quyết sách đúng
đắn người lãnh đạo phải nắm được tình hình, bản chất thực tế đang diễn ra.
Mét trong những kênh thông tin khách quan, đúng đắn, kịp thời và phong phú
nhất chính là báo chí. Đặc biệt ở nước ta báo chí không chỉ là cơ quan ngôn
luận của Đảng và Nhà nước mà còn trở thành diễn đàn của nhân dân.
Giám sát được hiểu là việc theo dõi, kiểm tra xem có thực hiện đúng
những điều quy định không. Báo chí phải phát hiện kịp thời các sai lầm,

khuyết điểm, những vấn đề khó khăn ách tắc trong việc chỉ đạo thực hiện các
quyết định quản lý. Giám sát có ý nghĩa rất quan trọng trong việc đảm bảo
cho hoạt động được thực hiện đúng mục đích và đạt hiệu quả tốt nhất trong
điều kiện có thể. Kết quả hoạt động giám sát kiểm tra của báo chí là nguồn
thông tin giúp các cơ quan Đảng và Nhà nước kịp thời quyết định, có biện
pháp tích cực điều chỉnh hoạt động của cơ quan, tổ chức cấp dưới.
Phản biện xã hội là một nhu cầu của cuộc sống bởi nhờ có nó con
người có thể loại bỏ những yếu tố sai để tiệm cận tới sự hợp lý trong các
quyết định, các hành vi của mình. Trong khoa học, phản biện cũng là một
trong những cách thức chủ yếu để các nhà nghiên cứu tiệm cận tới các chân lý
khoa học. Còn trong đời sống xã hội, phản biện là một công cụ không thể
17
thiếu để tổ chức ra một xã hội dân chủ. Với Việt Nam, hoạt động phản biện xã
hội là sự phát huy dân chủ XHCN và quyền làm chủ của nhân dân, ý thức
trách nhiệm của nhân dân trong việc tham gia quản lý nhà nước, góp ý kiến
với cán bộ, công chức và các cơ quan nhà nước. Phản biện xã hội là nhu cầu
cần thiết và đòi hỏi bắt buộc của quá trình lãnh đạo và điều hành đất nước,
khắc phục tệ quan liêu Đây được coi là chủ trương mới của Đảng ta, nhằm
“xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ XHCN”. Thông qua phản
biện xã hội, nhân dân giúp Đảng và Nhà nước chống tham nhòng, đói nghèo,
tụt hậu có hiệu quả, làm trong sạch bộ máy. Đó là sự phản biện trên tinh thần
xây dựng, đồng tình với những vấn đề hợp với nguyện vọng, lợi Ých của
nhân dân, phản đối những vấn đề có hại đến lợi Ých của nhân dân. Không chỉ
là công cụ tuyên truyền có hiệu quả của Đảng, Nhà nước, báo chí Việt Nam
còn là một kênh phản biện rất hiệu quả đối với công tác quản lý và điều hành
xã hội của Nhà nước, góp phần tích cực xây dựng một xã hội hướng tới “dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Không giới hạn
mình ở những khuôn khổ nhất định, báo chí Việt Nam thể hiện sự phản biện ở
tất cả các khía cạnh, lĩnh vực của xã hội.
1.2. Báo chí với vấn đề cải cách thể chế hành chính nhà nước Việt Nam

1.2.1. Quan điểm của Đảng và Nhà nước về cải cách thể chế hành
chính nhà nước Việt Nam
Một số nhà khoa học khi bàn luận đến khái niệm “Thể chế” coi thể chế
là “luật chơi”, nghĩa là những quy định, những luật lệ mà những người tham
gia phải tuân thủ theo.
Theo Từ điển tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên, thể chế được hiểu là
“những quy định, luật lệ của một chế độ xã hội, buộc mọi người phải tuân
theo”.
18
Platje (2008) trích dẫn Douglas C. North (1990) cho rằng, thể chế là
“luật chơi trong một xã hội nhất định”. Như vậy, thể chế theo cách hiểu này
chỉ bao gồm những quy định luật lệ, mà không bao hàm bản thân các tổ chức
và thiết chế xã hội được thành lập để đảm bảo luật chơi đó. Thể chế có thể
bao gồm thể chế chính thức (như nguyên tắc, pháp luật, hiến pháp) và những
luật lệ không chính thức (như văn hoá, giá trị, nguyên tắc đạo đức…)
Một số nhà nghiên cứu khác coi thể chế không chỉ bao gồm những quy
định, luật lệ, mà còn bao gồm cả những tổ chức nữa. Ngân hàng Thế giới
(2002) định nghĩa thể chế là “những quy định và tổ chức, bao gồm cả chính
thức lẫn không chính thức, điều phối hoạt động của con người.” Với khái
niệm này, thể chế không chỉ bao hàm “luật chơi” mà còn cả “người chơi”.
Cùng với khái niệm này là mô tả thể chế, bao gồm: tài sản xã hội (niềm tin,
giá trị được thừa nhận, tôn giáo, mạng lưới quan hệ, quy chuẩn); luật lệ (bao
gồm các quy định, truyền thống, nguyên tắc, pháp luật, và hiến pháp) và các
tổ chức (các cơ quan của chính phủ, các công ty, các tổ chức xã hội dân sự,
cảnh sát, toà án…) (Ngân hàng thế giới, 2002, tr. 38).
Ở Việt Nam, cách tiếp cận khái niệm “thể chế” là cách thứ nhất. Trong
Chương trình Tổng thể Cải cách Hành chính Nhà nước giai đoạn 2001-2010,
cải cách thể chế và cải cách tổ chức bộ máy hành chính được hiểu là hai nội
dung độc lập.
Thể chÕ hành chÝnh nhà nước là thuật ngữ dùng để chỉ hệ thống các

văn bản quy phạm pháp luật do các cơ quan nhà nước cã thẩm quyÒn ban
hành nhằm điều chỉnh về các mặt tổ chức và hoạt động, chế độ công vụ, tài
chính, nhân sự liên quan đÕn hệ thống các cơ quan hành chÝnh nhà nước;
bảo đảm hiệu lực, hiệu quả trong quản lý nhà nước trên mọi mặt đời sống xã
hội của bộ máy hành chÝnh nhà nước.
19
Trong quá trình xây dựng và ban hành thể chế hành chính nhà nước
phải đảm bảo các yêu cầu (nguyên tắc) cơ bản sau:
1. Đảm bảo vÒ tÝnh hợp hiÕn, hợp pháp: ĐiÒu này cã nghĩa là thể
chÕ hành chÝnh phải phù hợp với các quy định của HiÕn pháp và luật, hai
văn bản có giá trị pháp lý cao nhất trong hệ thống các văn bản quy phạm pháp
luật của nước ta (vÝ dô như ChÝnh phủ ban hành Nghị định phải cã nội dung
phù hợp với các quy định trong HiÕn pháp và luật cã liên quan, uỷ ban nhân
dân cấp tỉnh ban hành thể chÕ hành chÝnh phải phù hợp với văn bản luật của
Quốc hội, văn bản của ChÝnh phủ, Thủ tướng ChÝnh phủ, Hội đồng nhân
dân cấp tỉnh…).
Đảm bảo yêu cầu này cũng là việc tuân thủ nghiêm ngặt nguyên tắc
pháp chế trong hoạt động xây dựng, ban hành thể chÕ hành chÝnh. Cã nghĩa
là, các cơ quan nhà nước ban hành thể chÕ hành chÝnh phải theo đúng thẩm
quyÒn, trình tự, thủ tục do pháp luật quy định.
Đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng. Các văn bản quy phạm pháp luật do
Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ban hành không được trái với
chủ trương, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Đảm bảo tÝnh khả thi, thực tiễn: Thể chÕ hành chÝnh được ban hành
phải cã khả năng áp dụng vào thực tiễn cuộc sống, phù hợp với yêu cầu của
thực tiễn, tránh tình trạng thể chÕ hành chÝnh được ban hành là để “đánh đổ”
đối tượng áp dụng, khi thực hiện hoặc không thể thực hiện.
Yêu cầu này còng là việc phải đảm bảo tÝnh khách quan trong xây
dựng ban hành thể chÕ hành chÝnh. Các cơ quan nhà nước cã thẩm quyÒn
xây dựng, ban hành thể chÕ hành chÝnh xuất phát từ đòi hỏi, yêu cầu và

điÒu kiện của xã hội, của yêu cầu quản lý.
20
Đảm bảo tÝnh chÝnh xác, chặt chẽ, đồng bộ với các văn bản quy phạm
pháp luật khác. Hệ thống hành chÝnh nhà nước ta là thống nhất, chặt chẽ
dưới sự chỉ đạo, điÒu hành của ChÝnh phủ. Do đã, khi xây dựng, ban hành
thể chÕ hành chÝnh phải đảm bảo yêu cầu chặt chẽ, thống nhất, đồng bộ giữa
các văn bản trong hệ thống thể chÕ hành chÝnh nhà nước, tránh tình trạng
“trống đánh xuôi, kÌn thổi ngược” giữa các văn bản.
Ngoài các yÕu tố trên, trong thời kỳ hội nhập quốc tÕ mạnh mẽ hiện
nay của nước ta, khi tiÕn hành xây dựng thể chÕ hành chÝnh còng cần phải
chó ý đến sự phù hợp với thông lệ quốc tế của thể chế hành chính.
Hiện nay, với sự phát triển nhanh chóng của các quan hệ kinh tÕ-xã hội
trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đòi hỏi các cơ quan
nhà nước cã thẩm quyÒn luôn luôn phải chú trọng tăng cường năng lực bản
thân trong hoạt động xây dựng, ban hành thể chÕ hành chÝnh. TiÕp thu các
giá trị tiên tiÕn của khoa học pháp lý, thu hót sự cộng tác của các nhà khoa
học, đồng thời mở rộng, phát huy cao độ tính dân chủ, tạo điều kiện cho nhân
dân, các thành phần kinh tÕ v.v… tham gia vào quá trình xây dựng, hoạch
định, ban hành thể chÕ hành chÝnh, được coi là các giải pháp quan trọng
nhằm nâng cao chất lượng thể chÕ hành chÝnh nhà nước.
Trên thực tế vấn đề cải cách thể chế hành chính nhà nước không phải
mới chỉ được đề cập từ khi có Chương trình tổng thể cải cách hành chính của
Chính phủ giai đoạn 2001-2010 mà đã được đặt ra từ năm 1994 với việc ban
hành Nghị quyết 38 /CP của Chính phủ ngày 4/5/1994 về cải cách một bước
thủ tục hành chính trong việc giải quyết công việc của công dân và tổ chức. Cải
cách thể chế hành chính nhà nước là một trong bốn nội dung của chương trình
Tổng thể cải cách hành chính nhà nước bao gồm 4 bộ phận: cải cách thể chế
hành chính; cải cách bộ máy hành chính; xây dựng đội ngò cán bộ công chức
21
nhà nước; cải cách tài chính công. Trong đó, cải cách thể chế hành chính có vị

trí đặc biệt quan trọng vì nó phản ánh cụ thể, rõ nét nội dung, phương thức
quản lý nhà nước đối với các lĩnh vực của đời sống xã hội, hiệu lực hiệu quả
hoạt động, kết quả, hiệu quả phục vụ nhân dân của bộ máy nhà nước. Nội dung
của cải cách thể chế hành chính nhà nước theo Chương trình tổng thể cải cách
hành chính của Chính phủ giai đoạn 2001-2010, bao gồm 4 vấn đề chủ yếu:
- Xây dựng và hoàn thiện các thể chế, trước hết là thể chế kinh tế của
nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, thể chế về tổ chức và hoạt động
của hệ thống hành chính nhà nước.
- Đổi mới quy trình xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
- Bảo đảm việc thực thi pháp luật nghiêm minh của các cơ quan nhà
nước, của cán bộ, công chức.
- Tiếp tục cải cách thủ tục hành chính.
Không chỉ dừng lại ở những định hướng chung, trong 7 chương trình
hành động thực hiện Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai
đoạn 2001-2010, có 2 chương trình tập trung vào cải cách thể chế: chương
trình “Đổi mới công tác xây dựng, ban hành và nâng cao chất lượng văn bản
quy phạm pháp luật” (do Bộ Tư pháp và Văn phòng Chính phủ chủ trì) và
chương trình “Hiện đại hoá hành chính” (do Văn phòng Chính phủ chủ trì).
Những cơ chế cải cách, sáng kiến thí điểm, như cơ chế một cửa, cải cách thủ
tục hành chính cảng biển, Iso 9000 trong quản lý hành chính, chính phủ điện
tử và hệ thống quản lý theo kết quả đều tập trung vào mảng cải cách thể chế
hành chính của Việt Nam.
22
1.2.2. Mối quan hệ của báo chí đối với cải cách thể chế hành chính
nhà nước
1.2.2.1. Quan hệ biện chứng, phối hợp bổ sung cho nhau
Cải cách thể chế hành chính nhà nước là một khái niệm trương đối trừu
tượng đối với phần lớn quần chúng nhân dân. Thể chế hành chính nhà nước là
một phần thuộc kiến trúc thượng tầng của xã hội nếu không được giải thích
một cách cụ thể sẽ dẫn đến nhầm lẫn. Bởi trên thực thế khái niệm này cũng

được hiểu theo nhiều cách khác nhau như đã nói ở trên. Nếu không thống nhất
trong cách hiểu sẽ dẫn đến những nhận thức sai trong đánh giá, giám sát hoạt
động của cải cách thể chế hành chính nhà nước.
Báo chí là một trong những thiết chế xã hội, báo chí góp công lớn trong
việc giải đáp những thắc mắc cho phần lớn quần chúng nhân dân về nội dung
của cải cách thể chế hành chính nhà nước. Báo chí đề cập từ những khái niệm
cơ bản nhất cho đến những nội dung phức tạp của vấn đề. Hơn thế, báo chí
cũng là một công cụ của nhà nước, của Đảng của nhân dân tham gia vào giám
sát các hoạt động của hệ thống chính trị trong việc thực hiện cải cách thể chế
hành chính nhà nước.
Thể chÕ hành chÝnh nhà nước là thuật ngữ dùng để chỉ hệ thống các
văn bản quy phạm pháp luật do các cơ quan nhà nước cã thẩm quyÒn ban
hành nhằm điều chỉnh về các mặt tổ chức và hoạt động, chế độ công vụ, tài
chính, nhân sự liên quan đÕn hệ thống các cơ quan hành chÝnh nhà nước;
bảo đảm hiệu lực, hiệu quả trong quản lý nhà nước trên mọi mặt đời sống xã
hội của bộ máy hành chính nhà nước. Vấn đề này luôn gắn liền với hoạt động
nghiệp vụ của người làm báo. Đó là thực tiễn của hoạt động báo chí trên thế
giới cũng như ở nước ta. Nhà nước điều chỉnh các mối quan hệ trong xã hội
bằng luật pháp. Nó bao gồm những điều bắt buộc và những điều cho phép tạo
23
thành nghĩa vụ và những quyền trong các chế định của pháp luật. Nhà nước
sử dụng các biện pháp khuyến khích và trừng phạt để vận hành, duy trì kỷ
cương luật pháp.
Như vậy, đã đưa ra khẳng định: thể chế hành chính nhà nước là tổng
thể những quy tắc bắt buộc chung do nhà nước quy định hoặc thừa nhận, phê
chuẩn (những điều cấm, những sự ràng buộc, những biện pháp khuyến khích,
hình thức thực hiện ) nhằm điều chỉnh các mối quan hệ liên quan đến hệ
thống hành chính nhà nước. Thể chế hành chính bắt buộc các chủ thể có liên
quan khi tham gia vào mối quan hệ hành chính nhà nước đều bắt buộc phải
tuân theo. Xét về khía cạnh pháp luật nói chung khi tham gia tất cả mọi công

dân đều bình đẳng. Tuy nhiên, trong quan hệ hành chính nhà nước thì không
hẳn như vậy vì một bên chủ thể trong quan hệ này là cơ quan nhà nước, nên
công dân phải hoàn toàn nghe theo những quy định này một cách bắt buộc và
không thể đòi hỏi sự công bằng một cách tuyệt đối. Nhà báo cũng cần phải đề
cao ý thức thực hiện nghiêm những quy định về hành chính mà nhà nước đã
đề ra, không thể lợi dông quyền hạn của mình.
Luật báo chí quy định: Nhà báo phải là người có Quốc tịch Việt Nam,
có địa chỉ thường trú tại Việt Nam, có đủ tiêu chuẩn chính trị, đạo đức và
nghiệp vụ báo chí do Nhà nước quy định, đang hoạt động hoặc công tác
thường xuyên với một cơ quan báo chí Việt Nam và được cấp thẻ nhà báo.
Điều này thể hiện báo chí và nhà báo hoạt động trong khuôn khổ pháp
luật. Báo chí hoạt động theo luật pháp, luật pháp quy định thể thức thành lập,
đăng ký, chấm dứt hoặc đình bản hoạt động của cơ quan báo chí. Ngược lại
bằng vai trò, chức năng của mình báo chí làm sáng rõ hơn tính minh bạch của
các văn bản pháp luật, kể cả với bản thân Luật báo chí, làm cho các văn bản
quy phạm pháp luật đi vào cuộc sống dễ dàng hơn, tính khả thi cao hơn.
24
Báo chí là công cụ thông tin tham gia tích cực vào công tác cải cách thể
chế hành chính nhà nước, làm cho các văn bản quy phạm pháp luật trở nên
gần gũi với đời sống xã hội. Trong đó, báo chí đăng tải toàn văn các dự án
luật điều chỉnh về các mặt tổ chức và hoạt động, chế độ công vụ, tài chính,
nhân sự liên quan đÕn hệ thống các cơ quan hành chÝnh nhà nước lấy ý kiến
của nhân dân, của các chủ thể có liên quan, báo chí tổ chức hội thảo tham gia
ý kiến đóng góp vào các văn bản, phóng viên được tạo điều kiện trực tiếp
tham dự các phiên họp của Quốc hội, Chính phủ; báo chí tuyên truyền, phổ
biến, giải đáp các thắc mắc, đăng tải ý kiến, kiến nghị của các bên có liên
quan để hoàn thiện các văn bản.
Thông qua hoạt động của mình báo chí giúp cho các chủ thể dễ dàng
tiếp cận, thay đổi nhận thức và cải biến hành vi. Đơn cử mấy năm qua nếu
như báo chí không tham gia tuyên truyền mạnh mẽ cho việc triển khai rộng

rãi cơ chế “một cửa” gắn với việc đơn giản hoá các thủ tục hành chính, cắt bỏ
hàng loạt giấy phép, nhiều loại phí, lệ phí… sẽ không thu được những kết quả
như ngày hôm nay. Việc thực hiện cơ chế “một cửa” đã đổi mới một bước
mối quan hệ giữa cơ quan nhà nước với người dân, tạo điều kiện thuận lợi
hơn cho người dân trong việc giải quyết các nhu cầu và lợi Ých chính đáng
của mình, đồng thời còn nâng cao được ý thức trách nhiệm của cán bộ công
chức trong thực thi công vụ và tính công khai minh bạch trong các hoạt động
hành chính nhà nước.
Bên cạnh đó, báo chí sẽ gặp khó khăn trong các hoạt động của mình
nếu như không có những văn quy định về quyền hạn, trách nhiệm của báo chí.
Khi có hành lang pháp lý đầy đủ báo chí trở thành một kênh thông tin quan
trọng của Nhà nước trong việc tuyên truyền, phổ biến, giáo dục, phản ánh tâm
tư nguyện vọng của cá nhân, tập thể, những vấn đề phát sinh trong quá trình
triển khai các nội dung có liên quan đến thể chế hành chính Nhà nước.
25

×