Tải bản đầy đủ (.pdf) (17 trang)

Tiểu luận Thi pháp học trung đại VN qua bài "Nhàn"

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (583.85 KB, 17 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC VĂN HIẾN
----------

HỌC PHẦN: THI PHÁP VĂN HỌC TRUNG ĐẠI VIỆT NAM

TIỂU LUẬN CUỐI KÌ:

BÀI THƠ NHÀN CỦA NGUYỄN BỈNH KHIÊM
TỪ GĨC NHÌN THI PHÁP HỌC

GIẢNG VIÊN GIẢNG DẠY:
HỌ VÀ TÊN HỌC VIÊN:
MÃ HỌC VIÊN:
NGÀNH: VĂN HỌC VIỆT NAM

TP. HỒ CHÍ MINH – 1/2022


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC VĂN HIẾN

HỌC PHẦN: THI PHÁP VĂN HỌC TRUNG ĐẠI VIỆT NAM

TIỂU LUẬN CUỐI KÌ:

BÀI THƠ NHÀN CỦA NGUYỄN BỈNH KHIÊM
TỪ GĨC NHÌN THI PHÁP HỌC

TP. HỒ C


MINH, THÁNG 1/2022


MỤC LỤC
I. ĐẶT VẤN ĐỀ ……………………………………………………………...1
II. NỘI DUNG ………………………………………………………………..3
1. Khái niệm Thi pháp và Thi pháp học ...………………….……………3
2. Bài thơ Nhàn nhìn từ góc độ Thi pháp ...…………………...……...….3
2.1 Giọng điệu nghệ thuật …...…….………..…………...…………….4
2.2 Phong cách ngôn ngữ nghệ thuật ……………..…....……..………5
2.3 Không gian nghệ thuật ………...…………………………………10
2.4 Thời gian nghệ thuật …………...…………………………………10
.
III. KẾT LUẬN ……………………..…………………………………..…..11


i u u

cuối kì mơn Thi pháp vă học ĐVN

1

BÀI THƠ NHÀN CỦA NGUYỄN BỈNH KHIÊM
TỪ GĨC NHÌN THI PHÁP HỌC
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Việc tìm hiểu tác phẩm văn học bằng tiếp cận và phân tích từ góc độ Thi
pháp học, dù không phải là con đường duy nhất, và hi pháp học cũng không
phải là hệ công cụ, phương tiện duy nhất để tìm hiểu, khám phá cái hay, cái đẹp
của văn chương, nhưng trải qua một quá trình lâu dài từ thời cổ đại cho đến nay,
với nhiều thăng trầm và phát triển, hi pháp học đã khẳng định được mình là

một hướng tiếp cận và nghiên cứu văn chương đạt được hiệu quả cao. Kể từ khi
cuốn sách Poetica (Nghệ thuật thi ca) của Aristote (384 – 322) ra đời cho đến
nay, hi pháp học đã phát triển một cách sâu rộng cả ở phương Tây và phương
Đông với những thành tựu to lớn.
`

Cho đến nay, lịch sử hi pháp học thể hiện ở hai chặng phát triển từ Thi

pháp học cổ đi

đến hi pháp học hiệ đại với những đặc điểm vừa có tính kế

thừa vừa cách tân. hi pháp học cổ đi

có từ xa xưa với đặc trưng cơ bản là

cách thức sáng tác chủ yếu của một số thể thơ với những nguyên tắc bất biến
được đúc kết thành những cơng thức có tính quy phạm. hi pháp học hiệ đại
với những đặc trưng mới xuất hiện cuối thế kỉ XIX, đến đầu thế kỷ XX bắt đầu
phát triển mạnh ở Nga rồi dịch chuyển sang Âu - Mỹ và phổ biến khắp thế giới.
Khác với hi pháp học cổ đi , hi pháp học hiệ đại chủ yếu nghiên cứu tính
văn học của các hiện tượng văn học, nhất là của tác phẩm văn học, qua các
phương diện như tính chỉnh thể, tính hệ thống thẩm mỹ trong mối quan hệ nội
tại của các thành tố, tư duy nghệ thuật và quan niệm nghệ thuật trong lộ trình
phát triển của lịch sử văn học; các bình diện quan niệm nghệ thuật về con người,
không gian – thời gian nghệ thuật, kết cấu văn bản, ngơn từ, giọng điệu…, và cá
tính sáng tạo của nhà văn thể hiện ở cái nhìn, điểm nhìn, bút pháp, kết cấu,


i u u


cuối kì mơn Thi pháp vă học ĐVN

2

giọng điệu, ngôn từ. Do vậy, cho đến nay, hi pháp học hiệ đại trở thành một
phương cách tiếp cận, nghiên cứu và giảng dạy văn học, đi sâu vào tính đặc thù
của văn học, đóng góp nhiều thành tựu trong nghiên cứu văn học.
Ở Việt Nam, hi pháp học cổ đi

có từ thời trung đại, được hiểu và vận

dụng trong sáng tác văn chương, được dùng làm tiêu chí để phẩm bình, đánh giá
tác phẩm văn chương suốt cả mười thế kỷ văn học trung đại. Tuy nhiên, khi văn
học hiện đại ra đời thì hi pháp học cổ đi

khơng còn phù hợp nữa nên dần

dần, hi pháp học hiệ đại đã thay thế hi pháp học cổ đi . Dù hi pháp học
hiệ đại chỉ mới có mặt ở Việt Nam khoảng trên ba thập kỷ nay, nhưng đã phát
triển khá nhanh, khá mạnh; trở thành một trào lưu, một hướng nghiên cứu và
giảng dạy có sức hấp dẫn và thuyết phục, mang lại nhiều thành tựu to lớn. Một
trong những lý do chính là hi pháp học hiệ đại quan niệm văn học là sản
phẩm mang tính tích hợp đa diện của văn hóa, tác phẩm là kết quả của tư duy
nghệ thuật, quan niệm, cái nhìn, và được thể hiện trong hình tượng, khơng gian,
thời gian, ngơn từ, giọng điệu như những bình diện của chỉnh thể hình thức
mang tính hệ thống hàm chứa nội dung. Việc phân tích tác phẩm văn học từ góc
độ thi pháp học giúp người dạy và người học đi sâu và đi đúng vào bản chất
thẩm mỹ mang tính đặc thù của văn học, tìm ra cái hay, cái đẹp trong các bình
diện hình thức mang tính nội dung của tác phẩm.

Văn học trung đại Việt Nam tính từ thế kỷ X đến hết thế kỷ XIX lại là giai
đoạn hình thành và phát triển rực rỡ của văn học Việt Nam, là giai đoạn hình
thành các truyền thống lớn về tư tường và nghệ thuật. Do vậy, việc nghiên
cứu thi pháp văn học giai đoạn này có ý nghĩa giúp cho việc chiếm lĩnh sâu
thêm các truyền thống văn học dân tộc, thúc đẩy việc học tập và kế thừa các
truyền thống tốt đẹp ấy.
Có thể lấy tác phẩm Nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm để minh họa cho
hướng tiếp cận trên.


i u u

cuối kì mơn Thi pháp vă học ĐVN

3

II. NỘI DUNG
1. KHÁI NIỆM THI PHÁP VÀ THI PHÁP HỌC
Trải qua mấy nghìn năm có rất nhiều quan điểm, cách hiểu khác nhau về
thi pháp học. Như nhiều người đã nhận xét, thi pháp học truyền thống từ Arixtot
ở phương Tây hay Lưu

iệp ở phương Đơng trở đi đều có chung một đặc điểm

như sau: hi pháp học à bộ mô khoa học xuất hiệ

hư à một cẩm a g sắp

xếp hữ g ời dạy và phép tắc đối với ghề sá g tạo ghệ thu t [1, 11]. Sau
Arixtot, các cơng trình thi pháp học của


oraxo, Longinus,Boalo, Letxinh vẫn

đi theo quỹ đạo đó. Theo Todorop trong cơng trình Thi pháp học (1975) định
nghĩa thi pháp là những quy tắc chung mà người ta sử dụng để sáng tác ra tác
phẩm văn học cụ thể. M. B. Khrapchenco cho rằng Thi pháp học hư một bộ
mô khoa học ghiê cứu các phươ g thức và phươ g tiệ th hiệ cuộc số g
bằ g ghệ thu t, khám phá ghệ thu t bằ g hì h tượ g [2, 18]. Trần Đình Sử
đã đưa ra định nghĩa về thi pháp học như sau: hi pháp học à bộ mô

ghiê

cứu tất cả mọi phươ g diệ của hì h thức ghệ thu t, mọi guyê tắc, phươ g
tiệ tạo thà h ghệ thu t cũ g hư sự v

độ g, phát tri

ịch sử của chú g [3,

8]. Theo từ điển thuật ngữ văn học định nghĩa hi pháp học à khoa học ghiê
cứu thi pháp, tức à hệ thố g các phươ g thức, phươ g tiệ , thử pháp bi u hiệ
đời số g bằ g hì h tượ g ghệ thu t tro g sá g tác vă học. Mục đích của thi
pháp học à chia tách và hệ thố g hóa các yếu tố của vă bả

ghệ thu t tham

gia vào sự cấu thà h thế giới ghệ thu t, ấ tượ g thẩm mĩ và chiều sâu phả
á h của sá g tác ghệ thu t [4, 304]. iện nay có nhiều cách hiểu khác nhau về
thi pháp và thi pháp học. Có thể hiểu thi pháp là hệ thống các nguyên tắc nghệ
thuật chi phối sự tạo thành của hệ thống nghệ thuật với các đặc sắc của nó. Thi

pháp khơng phải ngun tắc có trước, nằm bên ngồi, mà là ngun tắc bên
trong, vốn có của sáng tạo nghệ thuật, hình thành cùng với sáng tạo nghệ thuật.
Nó là mĩ học nội tại của sáng tác nghệ thuật gắn liền với sự sáng tạo và một


i u u

cuối kì mơn Thi pháp vă học ĐVN

4

trình độ văn hóa nghệ thuật nhất định, mang một quan niệm nhất định đối với
cuộc đời, con người và bản thân nghệ thuật. Thi pháp biểu hiện trên các cấp độ:
tác phẩm, thể loại, ngôn ngữ, tác giả, và bao trùm là cả nền văn học. Thi pháp
học là khoa học nghiên cứu về thi pháp.
II. BÀI THƠ “NHÀN” NHÌN TỪ GÓC ĐỘ THI PHÁP
Đây là một nguyên tắc mà người nghiên cứu tác phẩm văn học từ góc độ
thi pháp cần chú ý. Mỗi một tác phẩm văn học dẫu thuộc một thể loại nhất định
cũng là một vũ trụ thu nhỏ, một sáng tạo mà nhà văn phải nung nấu cả đời. Nếu
không chú ý đến việc khám phá cái riêng của thi pháp tác giả, bức tranh văn học
sẽ nghèo nàn, đơn điệu cả về bố cục và màu sắc, dễ theo lối công nghiệp hàng
loạt, triệt tiêu phần cá nhân, tính sáng tạo của con người. Trong khi đó vận động
của dịng chảy văn học ngày càng khẳng định phẩm chất sáng tạo như một đặc
điểm sống cịn của người viết. Vì vậy, nghiên cứu bài Nhàn của Nguyễn Bỉnh
Khiêm theo đặc điểm thi pháp là cần thiết không thể bỏ qua. Trong bài thơ Nhàn
nét đặc trưng thi pháp thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm được thể hiện ở những bình diện
sau:
1. Giọng điệu nghệ thuật:
Giọng điệu nghệ thuật không chỉ là yếu tố hàng đầu của phong cách nhà
văn, mà cịn là yếu tố có vai trị thống nhất mọi yếu tố khác của hình thức tác

phẩm vào một chỉnh thể. Các yếu tố tư tưởng, hình tượng chỉ được cảm nhận
trong một phạm vi giọng điệu, và nhờ đó mà người đọc thâm nhập vào thế giới
tinh thần của tác giả. Các tác phẩm văn học có giá trị đều thể hiện một giọng
điệu đặc biệt, tiêu biểu cho thái độ, cảm xúc của tác giả, mà muốn hiểu văn bản
thì người ta khơng thể bỏ qua được nó. Nguyễn Bỉnh Khiêm viết bài thơ Nhàn
theo thể thất ngôn bát cú Đường luật, nhưng tác giả đã phá vỡ tính quy phạm
ngay ở câu thơ đầu. Ở thơ Đường thường ngắt nhịp 4/3, nhưng Nguyễn Bỉnh


i u u

cuối kì mơn Thi pháp vă học ĐVN

5

Khiêm lại ngắt nhịp 2/2/3. Đây là điểm sáng tạo so với thơ Đường. Cách ngắt
nhịp này tạo cho câu thơ với giọng điệu chậm rãi, nhẹ nhàng. Qua đó để diễn tả
tư thế của nhân vật trữ tình – Nguyễn Bỉnh Khiêm. Nguyễn Bỉnh Khiêm từ một
ông quan giờ đã trở thành một lão nông tri điền thực thụ, câu thơ như những
bước chân chậm rãi, khoan thai của ông. Nguyễn Bỉnh Khiêm đã đón nhận cuộc
sống nơi thơ q rất nhẹ nhàng, thoải mái, không chút vướng bận bụi trần,
không chút do dự. Câu thơ đầu với cách ngắt nhịp 2/2/3 đã kích thích sự tị mị
của người đọc, người đọc đang lần theo những dấu chân của một lão nơng để
tìm đến cuộc sống của ơng. Giọng điệu thơ triết lí: a dại, ta tìm ơi vắ g vẻ/
Người khô , gười đế chố

ao xao. Giọng điệu triết lí pha lẫn giọng mỉa mai,

giễu cợt. Nguyễn Bỉnh Khiêm đang cười vào thói đời bằng cái nhếch mơi lặng lẽ
mà sâu cay. Ơng cho mình là “dại” và người đời là “khơn”, cách nói ngược này

hàm ý lên án lớp người chạy theo đồng tiền mà bán rẻ lương tâm. Bên cạnh đó
ơng đề cao lớp người qn tử biết xử thế để bảo toàn nhân cách. Cách ngắt nhịp
đột ngột ở câu thứ bảy Rượu, đế cội cây ta sẽ uố g. Từ “rượu” được đưa ra đầu
câu, khi đọc phải nhấn mạnh, ngắt thành một nhịp thật sảng khoái để thấy được
tư thế tiên phong đạo cốt của tác giả đứng ngồi vịng thế sự.
2. Phong cách ngơn ngữ nghệ thuật:
Có thể nói từ thế kỷ XV trở đi, thơNơm Việt Nam đã có những thành tựu,
đủ sức giữ thế song hành cùng văn học chữ
sáng tác chữ

án. Các tri thức nho học bên cạnh

án bao giờ cũng dành phần ưu ái cho các tác phẩm chữ Nôm.

Nguyễn Bỉnh Khiêm khi sángtác Bạch Vâ quốc gữ thi ln có ý thức Việt hóa
triệt để. Xét về mặt ngơn ngữ cũng như hình tượng thơ xưa, nhất là thơ Đường
luật thiên về sử dụng những hình ảnh ước lệ, trang nhã hơn là những hình ảnh cụ
thể, bình dị như mai, cuốc, cầ câu như trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm. Số từ
một trong câu thơ đầu cũng là con số thực chứ không phải là con số ước lệ. Mai
dùng để đào đất, cuốc dùng để xới đất, cần câu để câu cá. Đó là những nơng cụ


i u u

cuối kì mơn Thi pháp vă học ĐVN

6

lao động dân dã của người nông dân. Cách điệp số từ một…một…một, tạo nhịp
điệu chậm rãi, câu thơ thể hiện tư thế sẵn sàng của Nguyễn Bỉnh Khiêm cho một

cuộc sống bình dị, giản đơn. Có thể gọi đây là hiện tượng phá vỡ tính quy phạm
và là một cách Việt hóa thể thơ Đường luật. Câu thơ thứ hai tác giả mở đầu bằng
một từ láy “thơ thẩn”, tạo ấn tượng cho người đọc về một tư thế rất nhẹ nhàng,
thảnh thơi của nhân vật trữ tình - Nguyễn Bỉnh Khiêm. Nguyễn Bỉnh Khiêm
chấp nhận cuộc sống cần lao của một lão nông tri điền, mặc cho người đời đua
địi chạy theo bao thú vui phù phiếm, ơng vẫn giữ tâm thế bình thản, điềm nhiên
với cuộc sống thanh bần mình đã chọn. Qua cách sử dụng ngơn ngữ làng quê
giản dị, dễ hiểu, chúng ta nhận thấy cái nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm không
phải là kiểu nhàn hưởng lạc, nhàn lười biếng vì khơng quan tâm sự đời. Người
xưa thường cho rằng “nhàn cư vi bất thiện”, người qn tử có học khơng bao giờ
để thân mình được thảnh thơi. Nguyễn Bỉnh Khiêm hướng đến cái nhàn trong
tâm, không vướng bận danh lợi đua chen, tâm nhàn chứ thân không nhàn. Là vị
quan từ bỏ cân đai áo mão, ông trở vềvới cuộc sống lao động vất vả, tự cung tự
cấp rất lương thiện của những người nông dân nghèo, ơng vẫn phải lao động để
ni sống mình chứ không trông cậy vào bất kỳ ai, không mang theo vàng ngọc
chốn quan trường để về quê hương hưởng lạc. Điểm nổi bật trong thơ Nguyễn
Bỉnh Khiêm là ngôn ngữ thơ triết lí Ta dại ta tìm ơi vắ g vẻ/ Người khô
đế chố

gười

ao xao. Bàn về lẽ dại – khôn là vấn đề không mới đối với tâm thức

của người Á Đơng xưa nay, một kiểu triết lí theo tinh thần nhân quả của Phật
giáo dân gian. Nhưng với cách sử dụng của Nguyễn Bỉnh Khiêm thì triết lí đó
khơng khơ cứng, gị gẫm. Tác giả sử dụng kỹ xảo điệp từ và đối cân xứng để
truyền tải triết lí sống. Điệp từ “ta, người” được lặp lại hai lần trong một câu thơ,
cách dùng từ điệp của ông cũng khá giản dị, tưởng chỉ là thuận miệng mà nói ra
như vậy, kỳ thực là cái giản dị của một bậc đại bút. Bên cạnh đó nhà thơ sử dụng
cặp đối tương phản rất cân xứng ta dại - gười khô , ới vắ g vẻ - chố


ao xao.

Biện pháp đối là thủ pháp quen thuộc của thơ Đường luật, song Nguyễn Bỉnh


i u u

cuối kì mơn Thi pháp vă học ĐVN

7

Khiêm đã biết cách phát huy cá tính sáng tạo của mình để có được những tìm tịi
nhất định. Phép đối tương phản này để khẳng định sự đối lập gay gắt giữa quan
niệm sống của ta và người. “Nơi vắng vẻ” là nơi lánh xa sự ồn ào, tranh chấp, là
miền thơn dã hiền hịa là chốn thiên nhiên thuần phác. “Chốn lao xao” là nơi
quan trường đua chen, tranh quyền đoạt lợi, là chốn thị thành náo nhiệt, giả
trá, lọc lừa. “Ta” từ bỏ cân đai áo, áo mão, danh lợi, tiền tài để trở về chốn thiên
nhiên, miền thơn dã chấp nhận cuộc sống nghèo khó nên “ta” tự nhận mình là
“dại”. “Người” sống trong vịng danh lợi xơ bồ nên người tìm đến chốn quan
trường náo nhiệt mà tìm sự thăng tiến, đua địi quyền lực, địa vị, “người” nghĩ
rằng mình khơn, những kẻ tầm thường sẽ ln hiểu như thế. Nhưng hai câu thơ
là cách nói mỉa mai, ngược giọng, kẻ tưởng mình khơn mà hóa ra dại, kẻ nhận
mình dại thật ra là khơn. Nguyễn Bỉnh Khiêm có hai câu thơ khác cắt nghĩa điều
này rõ hơn Khô mà hi m độc à khô dại/ dại vố hiề

à h ấy dại khô . Sống

trong một thời đại mà triều chính nhiễu nhương, vua khơng an minnh lại thiếu
bề tơi hiền thì liệu cái chí tu, tề, trị, bình của một người trí thức nho học chân

chính có thể nào thực hiện được chăng? Muốn tồn tại trong bối cảnh nhà Mạc
đương thời, kẻ làm quan như Nguyễn Bỉnh Khiêm chỉ có thể dửng dưng trước
thời cuộc để yên thân hoặc chấp nhận đánh mất khí tiết, vào luồn ra cúi, xuôi
theo bọn gian thần xu nịnh để được thăng tiến. Chốn quan trường, chốn thị thành
nói chung là nơi con người phải tranh chấp, phải hơn thua, phải dùng trí xảo,
mưu mơ để đạp lên nhau mà sống và giành lấy địa vị…Chốn lao xao là mơi
trường dễ khiến kẻ sĩ đánh mất khí tiết và nhân phẩm, thậm chí trở nên tàn độc
hại người. Cái khôn ấy là cái khôn thâm ác, xảo trá. Cịn Nguyễn Bỉnh Khiêm
lựa chọn lối sống ẩn dật, ơng tự nhận mình dại, nhưng đó là cái dại thức thời, cái
dại của kẻ hiểu được quy luật vần xoay của thế sự nhân sinh…Ông từ bỏ tất cả
để đổi lấy trạng thái bình yên, thanh thản của tâm hồn, giữ vững khí tiết. Cách
sử dụng các động từ “ăn, tắm” trong thế đối cân xứng hu ă mă g trúc, đô g
ă giá/ Xuâ tắm hồ se hạ tắm ao. Với cách dùng từ rất giản dị, những hình


i u u

cuối kì mơn Thi pháp vă học ĐVN

8

ảnh của làng quê hiện lên rất gần gũi, quen thuộc. hình ảnh măng tre, măng trúc,
hình ảnh giá đỗ, hồ hoa sen, rồi những ao chm là những hình ảnh đặc trưng
của thôn quê. Gợi cho người đọc trở về với nơi thôn dã, về với thiên nhiên.
Thiên nhiên đã ban tặng cho con người nguồn sống kì diệu, mà ở đó con người
khơng cần phải đua tranh, giành dật lẫn nhau.

ình ảnh con người xuất hiện

trong hai câu thơ qua động thái “ăn” và “tắm”, được lặp lại hai lần. Nguyễn

Bỉnh Khiêm muốn tác động mạnh vào trong tâm trí người đọc về nhu cầu của
con người, xét đến cùng con người làm việc cũng để phục vụ nhu cầu tối thiểu
của bản thân đó là ăn và tắm.Phục vụ sinh hoạt hàng ngày. Vì đơn giản khi con
người thác đi trở về với hư không, vật chất vô giá trị. Ở đây cuộc sống của
Nguyễn Bỉnh Khiêm rất đơn giản, chỉ cần ăn đủ để sống và tắm để sạch. Cuộc
sống giản dị ấy được thiên nhiên che chở, đất trời là tặng phẩm, là nguồn sống
có sẵn.

ay nói đúng ơng sống thuận theo lẽ tự nhiên, mùa nào thức ấy, có chi

dùng nấy, tuy nghèo nhưng khơng hèn. Nguyễn Bỉnh Khiêm không cần ăn ngon,
chẳng màng ăn no, khơng cần mặc ấm, bởi người trí thức nho học ln thấm
nhuần đạo lí q tử thực vơ cầu bão, cư vô cầu a . Cuộc sống của Nguyễn
Bỉnh Khiêm là cuộc sống lao động vất vả nhưng lạc quan, ơng nhìn cuộc sống
ấy rất thi vị. Cuộc sống nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm mộc mạc, đơn giản chỉ
hướng đến những nhu cầu tối thiểu chứ không dệt nên kiểu sống thoát li vương
giả. Tứ thơ của Nguyễn Bỉnh Khiêm thiên về vẻ đẹp đơn giản, trong lành, thuần
lẽ tự nhiên. Trong sự cộng hưởng với tâm thức người xưa, cái nhàn của Nguyễn
Bỉnh Khiêm vẫn có cái sắc thái khác lạ của riêng nó. Sử dụng động từ “sẽ
uống”, “nhìn xem” ở hai câu thơ cuối có tác dụng rất đắt. Với tài năng sử dụng
ngôn từ, Nguyễn Bỉnh Khiêm không chỉ đơn thuần bày ra trước mắt người đọc
hình ảnh một người đang uống rượu. Mà phải chú ý đến từ “sẽ”. Theo từ điển
tiếng Việt từ “sẽ” khi là phụ từ nó biểu thị sự việc, hiện tượng nói đến xảy ra
trong tương lai, sau thời điểm nói, hoặc xảy ra trong thời gian sau thời điểm nào
đó trong quá khứ làm mốc. Nguyễn Bỉnh Khiêm với việc sử dụng tiếng Việt rất


i u u

cuối kì mơn Thi pháp vă học ĐVN


9

đặc sắc Rượu đế cội cây ta sẽ uố g, với câu thơ thì Nguyễn Bỉnh Khiêm đã sử
dụng phụ từ “sẽ” ở nghĩa thứ nhất. Nguyễn Bỉnh Khiêm cho rằng nếu có rượu
thì sẽ uống, vấn đề đang được nhắc đến trong tương lai. Nguyễn Bỉnh Khiêm
không cầu danh lợi, không cầu phú quý, mà ông sống thuận theo tự nhiên, có gì
dùng nấy, Nguyễn Bỉnh Khiêm khơng phải gị mình, mệt nhọc để tìm thú vui
trần tục, có thì dùng, mà khơng có cũng khơng sao, cuộc sống giản dị đến thanh
cao. Cụm từ “nhìn xem” được sử dụng ngay đầu câu thơ cuối. Càng đọc kĩ thơ
Bỉnh khiêm chúng ta càng nhận thấy cách sử dụng ngôn ngữ của ơng đạt đến
độ tinh xảo. Qua động từ “nhìn xem” cho thấy điểm nhìn của con người mà ở
đây chính là điểm nhìn nhân vật trữ tình - Nguyễn Bỉnh Khiêm. Nguyễn Bỉnh
Khiêm đứng ngồi để nhìn, để xem, để phán xét. Điểm nhìn này có thể xa,
gần, có thể từ trên cao, có thể từ dưới lên. Đây là điểm nhìn manng tính khái
qt. Nguyễn Bỉnh Khiêm đang nhìn cuộc sống, đang chiêm nghiệm về cuộc
đời. Trong vịng mấy năm làm quan cho triều đình nhà Mạc, và trong suốt cuộc
đời của mình, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã chứng kiến bao cảnh éo le, trớ trêu,
chứng kiến những cảnh con người mà đối xử với nhau như khác đồng loại, tranh
giành nhau, có thể họ “ăn thịt” lẫn nhau, tất cả chỉ vì đồng tiền, danh lợi. Xã hội
mà Nguyễn Bỉnh Khiêm sống là xã hội đạo đức con người đang bị thối hóa,
trượt dốc, là xã hội mà đồng tiền đang lăn tròn trên lương tâm con người, và là
thước đo lòng người, một xã hội mà Nguyễn Bỉnh Khiêm cảm thấy đau nhói.
Tác giả ví phú q như một giấc chiêm bao, tất cả tiền tài, danh lợi chỉ như giấc
mơ, con người tỉnh giấc thì tất cả đã tan biến, vật chất chỉ là phù du, nay có mai
mất. Ngồi ý nghĩa đó, Nguyễn Bỉnh Khiêm cịn muốn mọi người cùng nhìn
xem thấy tiền bạc, phú quý chỉ là phù phiếm, tất cả sẽ tan biến vào hư không.
Qua đây Nguyễn Bỉnh Khiêm muốn gửi thông điệp đến tất cả mọi người rằng
địa vị, tiền tài chỉ là giấc mộng tan biến, cái còn lại vĩnh hằng là nhân cách con
người.



i u u

cuối kì mơn Thi pháp vă học ĐVN

10

3. Không gian nghệ thuật:
Nguyễn Bỉnh phần lớn sống ở quê nhà, sau mấy năm làm quan ông lui về
quê ở ẩn. Chính vì vậy khơng gian trong bài thơ Nhàn là khơng gian nhàn tản
thốt tục. Khơng gian nhàn tản khơng phải đến Nguyễn Bỉnh Khiêm mới có mà
trước đó đã xuất hiện trong thơ Nguyễn Trãi. Nhưng ở mỗi tác giả có cách khai
thác khơng gian khác nhau. Mặc dù cả Nguyễn Trãi và Nguyễn Bỉnh Khiêm đều
đưa vào không gian với những vật rất giản dị, quen thuộc như ao, hồ, lảnh rau,
con cá…Nhưng trong thơ NguyễnBỉnh Khiêm chúng ta thấy mức độ những hình
ảnh xuất hiện dày đặc. Ngay câu thơ đầu bài thơ “Nhàn” hình ảnh “mai, cuốc,
cần câu” được đưa vào trong cùng một câu thơ. Qua tín hiệu ngơn ngữ này,
người đọc dễ nhận thấy đây chính là khơng gian làng q. Nguyễn Bỉnh Khiêm
sau khi cáo quan, ông đã trở về quê để di dưỡng tinh thần.

ay nói cách khác,

ơng về q ở ẩn để hưởng thú nhàn, thanh thản, xa lánh chốn đua chen. Khơng
gian nhàn tản trong bài thơ cịn xuất hiện qua khung cảnh hồ sen, khung cảnh ao
chuôm. Đây là không gian làng quê quen thuộc với khung cảnh thiên nhiên đầy
những cây tre, cây trúc. Nguyễn Bỉnh Khiêm trở về với không gian quê hương
quen thuộc, một không gian không vướng bụi trần, một không gian yên tĩnh, mát
mẻ, thoải mái mà ở đó để cho con người di dưỡng tinh thần.
4. Thời gian nghệ thuật:

Thời gian vũ trụ bất biến, đây là kiểu thời gian đặc trưng trong văn học
trung đại và Nguyễn Bỉnh Khiêm đã tiếp thu và thể hiện một cách sáng tạo qua
ngôn ngữ của mình. Thơng qua động thái của con người “ăn” và “tắm”, động
thái này diễn ra quanh năm, suốt tháng như một quy luật hu ă mă g trúc,
đô g ă giá. Xuâ tắm hồ se hạ tắm ao. Thời gian bốn mùa được nhắc đến
trong bài thơ không phải đơn thuần chỉ bức tranh tứ bình trong năm. Bám sát
đặc điểm thi pháp thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm ta thấy tác giả muốn nhấn mạnh tới
thời gian vũ trụ bất biến. Có thể nói tác giả đã lấy cái bất biến của thời gian để


i u u

cuối kì mơn Thi pháp vă học ĐVN

11

nhìn cái vạn biến của xã hội, của con người. Qua cái nhìn thời gian như vậy,
Nguyễn Bỉnh Khiêm đã vượt lên mọi đổi thay của kiếp người, mọi đổi thay của
xã hội. Ông lạc quan, tin tưởng vào xã hội tốt đẹp, con người sống với nhau
bằng chữ tình sẽ xuất hiện trở lại đúng như buổi sơ khai của nó.
III. KẾT LUẬN
Thi pháp học đã xuất hiện ở Việt Nam cách đây hơn hai mươi năm. Có
nhiều cơng trình nghiên cứu chuyên biệt về thi pháp học. Cho đến ngày nay
có nhiều cách hiểu về thi pháp học. Có thể hiểu thi pháp học là cách thức phân
tích tác phẩm bám vào văn bản là chính, khơng chú trọng đến vấn đề nằm ngoài
văn bản như: tiểu sử nhà văn, hoàn cảnh sáng tác, nguyên mẫu nhân vật, giá trị
hiện thực, tác dụng xã hội…Thi pháp học chỉ chú ý đến những yếu tố hình thức
tác phẩm như: hình tượng nhân vật, không gian, thời gian, kết cấu, điểm nhìn,
ngơn ngữ…Nội dung trong tác phẩm phải được suy ra từ hình thức, đó là Hình
thức ma g tí h qua


iệm (Trần Đình Sử). Phương pháp chủ yếu của thi pháp

học là phương pháp hình thức. Chúng ta hiểu Phươ g pháp hì h thức à phươ g
pháp phâ tích các khía cạ h hì h thức của tác phẩm vă học ghệ thu t đ rút
ra ý ghĩa thẩm mĩ của ó (Nguyễn Văn Dân). Thi pháp học nghĩa là nghiêng về
phân tích hình thức nghệ thuật của tác phẩm. Và nội dung được suy ra từ hình
thức đó. Người đọc phải đi giải mã văn bản. Một trong những phạm trù quan
trọng hàng đầu của thi pháp học là thể loại. Trong giờ giảng văn cần chú ý đến
thể loại vì nó chi phối tất cả các yếu tố cịn lại của hình thức tác phẩm. Thi pháp
học là một lĩnh vực nghiên cứu có ảnh hưởng lớn trong ngành nghiên cứu văn
học thế kỷ XX, tuy có cội nguồn xa xưa nhưng đã được cải tạo triệt để, mang
nội dung mới, rất đa dạng về quan niệm, phương pháp, đồng thời tự nó cũng
biến đổi nhanh chóng trong lịch sử. Thi pháp học rất cần thiết trong việc nghiên
cứu tác phẩm văn học. Nó giúp chúng ta khám phá một cách chính xác cấu trúc
hình thức mang tính nội dung của tác phẩm văn học, phục vụ cho việc tìm hiểu


i u u

cuối kì mơn Thi pháp vă học ĐVN

12

nội dung tác phẩm một cách đích thực hồn tồn khơng có sự gán chép hoặc
cảm nhận thiếu cơ sở. Bên cạnh đó nó cịn giúp bạn đọc hiểu đủ, hiểu đúng các
tác phẩm văn chương trong quá trình phát triển tư duy nghệ thuật của mỗi tác
phẩm văn chương, nhưng khơng sa vào hình thức chủ nghĩa. Việc áp dụng lí
thuyết của thi pháp học vào đọc hiểu một tác phẩm văn chương cụ thể là một
yêu cầu cấp thiết.



i u u

cuối kì: Thi pháp vă học tru g đại VN

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trần Đình Sử (1999). Mấy vấ đề thi pháp vă học tru g đại Việt Nam.
Nhà xuất bản Giáo dục.
2. Trần Đình Sử .(1993). Giới thiệu và tuy n chọn Những vấ đề lý lu n và
phươ g pháp u n nghiên cứu vă học. Nhà xuất bản Giáo dục.
3. Trần Thị Băng Thanh – Vũ Thanh. (2001). Nguyễn Bỉnh Khiêm về tác gia
và tác phẩm. Nhà xuất bản Giáo dục.
4. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (đồng chủ biên) .(2009). Từ
đi n thu t ngữ vă học. Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội
5. Trần Đình Sử. (1998). Dẫn lu n thi pháp học. Nhà xuất bản Giáo dục, Hà
Nội.
6. Trần Đình Sử. (1993). Một số vấ đề thi pháp học hiệ đại. Tài liệu Bồi
dưỡng thường xuyên cho giáo viên văn cấp 2 phổ thông, Bộ Giáo dục và
Đào tạo – Vụ giáo viên.

ọc viê thực hiệ

rầ Vă

âm. M V 21

11000



i u u

cuối kì: Thi pháp vă học tru g đại VN

ọc viê thực hiệ

rầ Vă

âm. M V 21

11000



×