Tải bản đầy đủ (.pdf) (58 trang)

Pháp luật về bảo vệ quyền lợi của cổ đông thiểu số trong công ty cổ phần ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (662.67 KB, 58 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT THƯƠNG MẠI
--------

LƯU THÙY DƯƠNG

PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ QUYỀN LỢI CỦA CỔ
ĐÔNG THIỂU SỐ TRONG CÔNG TY CỔ PHẦN Ở
VIỆT NAM

CHUYÊN NGÀNH LUẬT THƯƠNG MẠI

TP HỒ CHÍ MINH – NĂM 2017


TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT THƯƠNG MẠI
--------------

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT

PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ QUYỀN LỢI CỦA CỔ ĐÔNG THIỂU
SỐ TRONG CÔNG TY CỔ PHẦN Ở VIỆT NAM

SINH VIÊN THỰC HIỆN: LƯU THÙY DƯƠNG
Khóa: 38

MSSV: 1353801011030

GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN: ThS. NGUYỄN HỒNG THÙY TRANG



TP HỒ CHÍ MINH - NĂM 2017


LỜI CAM ĐOAN

“Tơi cam đoan: Khóa luận tốt nghiệp này là kết quả nghiên cứu của riêng tôi, được
thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của Thạc sỹ Nguyễn Hồng Thùy Trang,
đảm bảo tính trung thực và tn thủ các quy định về trích dẫn, chú thích tài liệu
tham khảo. Tơi xin chịu hồn tồn trách nhiệm về lời cam đoan này”.
Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 17 tháng 7 năm 2017
Sinh viên thực hiện
(Ký tên)

Lưu Thùy Dương


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

CHỮ VIẾT TẮT

NỘI DUNG ĐƯỢC VIẾT TẮT

BGĐ

Ban giám đốc

BKS

Ban kiểm sốt


CĐTS

Cổ đơng thiểu số

CTCP

Cơng ty cổ phần

CTĐC

Công ty đại chúng

ĐHĐCĐ

Đại hội đồng cổ đông

HĐQT

Hội đồng quản trị

HNX

Sàn Giao dịch chứng khoán Hà Nội

HSX

Sàn Giao dịch chứng khoán TP.HCM

OECD


Organisation for Economic Cooperation
and Development

SGDCK

Sở Giao dịch chứng khoán

TTCK

Thị trường chứng khoán

TTLKCK

Trung tâm lưu ký chứng khoán

UBCKNN

Ủy ban chứng khoán Nhà nước


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................1
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ BẢO VỆ CỔ ĐÔNG THIỂU SỐ TRONG
CÔNG TY CỔ PHẦN ...............................................................................................6
1.1.

Khái niệm cổ đông thiểu số ............................................................................6

1.2.


Cơ chế bảo vệ cổ đông thiểu số ......................................................................8

1.3.

Sự cần thiết phải bảo vệ cổ đông thiểu số ...................................................11

KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 ........................................................................................19
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT BẢO VỆ QUYỀN LỢI CỦA CỔ
ĐÔNG THIỂU SỐ TRONG CÔNG TY CỔ PHẦN THEO PHÁP LUẬT VIỆT
NAM VÀ MỘT SỐ ĐỀ XUẤT ...............................................................................20
2.1. Bảo vệ cổ đông thiểu số thơng qua cơ chế kiểm sốt giao dịch nội bộ ở
công ty cổ phần ........................................................................................................20
2.2. Quyền bỏ phiếu bầu thành viên Hội đồng quản trị, thành viên Ban kiểm
sốt của cổ đơng thiểu số ........................................................................................29
2.3. Quyền triệu tập, tham gia và biểu quyết tại Đại hội đồng cổ đông của cổ
đông thiểu số ............................................................................................................31
2.3.1.

Quyền triệu tập họp Đại hội đồng cổ đông của cổ đông thiểu số ........31

2.3.2. Quyền tham gia và biểu quyết tại Đại hội đồng cổ đông của cổ đông
thiểu số ...............................................................................................................34
2.4.

Về quyền thông tin của cổ đông thiểu số trong công ty cổ phần ..............37

KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 ........................................................................................45
KẾT LUẬN CHUNG ..............................................................................................47



PHẦN MỞ ĐẦU
1.

Lý do chọn đề tài

Ngày nay, ở trên thế giới cũng như tại Việt Nam, công ty cổ phần (CTCP),
đặc biệt là công ty đại chúng (CTĐC) đã trở thành một trong những loại hình cơng
ty phổ biến, có vai trị đặc biệt quan trọng trong nền kinh tế quốc gia.1 Chính vì vậy
mà cơ cấu tổ chức và vận hành của loại cơng ty này, trong đó có khía cạnh bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của cổ đông thiểu số (CĐTS) cũng trở thành đối tượng
nghiên cứu của các nhà nghiên cứu luật học.
Đến năm 2016, sau hơn 01 năm Luật Doanh nghiệp năm 2014 có hiệu lực, Việt
Nam đã có bước tiến bộ rõ rệt, chỉ số bảo vệ CĐTS đã vượt 38 bậc, đứng thứ 122
trong bảng xếp hạng quốc tế.2 Trong chỉ số bảo vệ CĐTS, các chỉ số thành phần
Việt Nam đạt cao nhất là về yêu cầu công khai minh bạch và chỉ số quyền của cổ
đông là 7/10; trong khi đó, thấp nhất là chỉ số về sự dễ dàng trong việc khởi kiện
người quản lý công ty là 1/10 và trách nhiệm của người quản lý, thành viên Hội
đồng quản trị (HĐQT) chỉ là 3/10.3
Tuy đã có sự tiến bộ, nhưng rõ ràng chúng ta có thể nhận ra rằng, chỉ số bảo vệ
CĐTS của Việt Nam vẫn còn rất thấp so với bạn bè quốc tế. Cụ thể là theo nghiên
cứu trong giai đoạn 2012 – 2013 thì số điểm quản trị cơng ty của cơng ty niêm yết
tại Việt Nam thấp nhất trong 06 quốc gia được đánh giá bao gồm Indonesia,
Malaysia, Philippin, Singapore, Thái Lan và Việt Nam. Điểm bình quân của các
doanh nghiệp niêm yết Việt Nam năm 2012, 2013 tương ứng là 28,42 và 33,87 trên
tổng 100 điểm, chỉ bằng một nửa so với bình qn tồn khu vực, trong khi đó Thái
Lan có điểm bình qn cao nhất (67,66 và 75,39). Nếu đo lường điểm bình qn
theo lĩnh vực quản trị cơng ty, Việt Nam cũng là quốc gia có điểm bình quân thấp
nhất trong 06 quốc gia trên cả 05 lĩnh vực (quyền của cổ đơng; đối xử bình đẳng
1


Tính đến tháng 1 năm 2017, số lượng CTCP đăng ký mới đứng thứ hai sau công ty trách nhiệm hữu hạn,

tăng cả về số lượng doanh nghiệp, vốn và lao động so với năm 2016. Về tỷ trọng vốn đăng ký bình quân trên
1 doanh nghiệp, thì trong tháng 01 năm 2017 CTCP có tỷ trọng vốn đăng ký bình qn cao nhất là 31,7 tỷ
đồng/doanh nghiệp, CTCP có tỷ trọng vốn lớn nhất trong các loại hình doanh nghiệp tại Việt Nam, Xem
“Tình hình chung về đăng ký doanh nghiệp tháng 01 năm 2017”,
truy cập ngày 06/7/2017.
2

Phan Hoàng Ngọc, “Bảo vệ quyền của cổ đông CTCP theo Luật Doanh nghiệp năm 2014”,
truy cập ngày 26/06/2017

3

Phan Hoàng Ngọc, tlđd (1), truy cập ngày 26/06/2017.

1


giữa các cổ đơng; vai trị của các bên liên quan; công bố thông tin và minh bạch;
trách nhiệm của HĐQT).4
Bảo vệ CĐTS là một trong những nhiệm vụ quan trọng trong pháp luật
CTCP vì vai trị quan trọng của nhóm cổ đơng này đối với CTCP nói riêng và cả
nền kinh tế nói chung, cụ thể là họ thường chiếm đa số về mặt số lượng và thậm chí
tổng số vốn cổ phần của họ thường chiếm tỷ lệ đa số trong vốn điều lệ, đặc biệt là
trong CTĐC hay nói cách khác tập hợp các CĐTS có thể trở thành lực lượng đầu tư
rất lớn vào công ty. Mặc dù có vai trị quan trọng như vậy nhưng CĐTS lại hầu như
khơng có tiếng nói trong CTCP vì CTCP thường chịu sự chi phối của các cổ đông
lớn, mà tập hợp các cổ đông này nhiều khi không đạt được tỷ lệ đa số vốn cổ phần.

Như vậy, bảo vệ quyền lợi của CĐTS chính là đảm bảo cho sự phát triển bền vững
của CTCP, đảm bảo tính hấp dẫn của nó đối với nhà đầu tư, tạo điều kiện phát triển
nền kinh tế nước nhà.
Dù rằng đề tài bảo vệ CĐTS trong CTCP đã được nghiên cứu rất nhiều trước
đây nhưng trước những sự thay đổi khách quan từ tình hình kinh tế - xã hội của Việt
Nam hiện nay, tác giả nhận thấy mình cần phải đi sâu hơn nữa về đề tài này dưới sự
tiếp thu, học hỏi có chọn lọc từ những cơng trình nghiên cứu trước kết hợp với thực
tiễn hiện tại của đất nước để có thể bảo vệ tốt hơn quyền lợi của CĐTS. Đó cũng
chính là lý do mà tác giả đã chọn đề tài “Pháp luật vềbảo vệ quyền lợi của cổ đông
thiểu số trong công ty cổ phần ở Việt Nam” làm khóa luận tốt nghiệp của mình.
2.
Tình hình nghiên cứu đề tài
Sau khi khảo sát tình nghiên cứu, tác giả nhận ra rằng, đề tài này đã được rất
nhiều các chuyên gia nghiên cứu và xuất bản dưới các dạng khóa luận tốt nghiệp,
luận văn thạc sỹ, sách chuyên khảo, các bài báo, tạp chí khoa học. Tuy nhiên, trong
khả năng nghiên cứu hạn chế của mình, tác giả chỉ xin đề cập đến một số nghiên
cứu trước đây đề cập trực tiếp về đề tài này và dưới góc độ pháp lý, cụ thể như sau:
1. Nguyễn Hồng Thùy Trang (2008), Bảo vệ cổ đơng thiểu số trong công ty cổ
phần – So sánh giữa pháp luật Vương quốc Anh và pháp luật Việt Nam,
Luận văn thạc sỹ luật học, Trường đại học Luật TP.HCM;
2. Lê Văn Qua (2008), Pháp luật về bảo vệ cổ đông thiểu số trong cơng ty cổ
phần, Khóa luận cử nhân luật, Trường đại học Luật TP.HCM;

4

Nguyễn Thị Thủy, “Quản trị công ty của các Doanh nghiệp Việt Nam trong bối cảnh Cộng đồng kinh tế
Asean: Thực trạng và kiến nghị”, Tạp chí Kinh tế và phát triển, số 7(229)/2017, tr. 26

2



3. Nguyễn Thị Thúy Hằng (2006), Pháp luật về bảo vệ cổ đơng thiểu số trong
cơng ty cổ phần, Khóa luận cử nhân luật, Trường đại học Luật TP.HCM;
4. Bùi Xuân Hải - Chủ nhiệm đề tài (2010), Bảo vệ nhà đầu tư – những vấn đề
lý luận và thực tiễn của pháp luật Doanh nghiệp Việt Nam trong bối cảnh
hội nhập, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ, Mã số B 2007-10-06, Trường
đại học Luật TP.HCM;
5. Đỗ Tuấn Hùng (2010), Bảo vệ cổ đơng thiểu số, Khóa luận cử nhân luật,
Trường đại học Luật TP.HCM;
6. Bùi Xuân Hải (2011), Luật Doanh nghiệp – Bảo vệ cổ đông: Pháp luật và
thực tiễn, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia;
7. Trương Thị Hồng Hoa (2012), Pháp luật về bảo vệ quyền lợi của cổ đông
thiểu số trong công ty cổ phần tại Việt Nam, Khóa luận cử nhân luật, Trường
đại học Luật TP.HCM;
8. Trần Thị Ngọc Thảo (2014), Pháp luật về bảo vệ quyền lợi của cổ đông
thiểu số trong cơng ty cổ phần ở Việt Nam, Khóa luận tốt nghiệp cử nhân
luật, Trường đại học Luật TP.HCM;
9. Trần Quốc Hồi (2006), Pháp luật bảo vệ lợi ích nhà đầu tư trên thị trường
chứng khoán, Luận văn thạc sỹ luật học, Trường đại học Luật TP.HCM;
10. Đinh Thị Thúy Hồng (2009), Cơ chế giám sát hoạt động trong công ty cổ
phần theo Luật Doanh nghiệp 2005, Khóa luận cử nhân luật, Trường đại học
Luật TP.HCM;
11. Bành Quốc Tuấn (2001), Địa vị pháp lý của cổ đông công ty cổ phần theo
Luật Doanh nghiệp Việt Nam, Khóa luận cử nhân luật, Trường đại học Luật
TP.HCM;
12. Quách Thúy Quỳnh (2010), “Quyền của cổ đơng thiểu số theo pháp luật Việt
Nam”, Tạp chí luật học, Trường đại học Luật Hà Nội, số 4/2010;
13. Nguyễn Thị Thu Hương (2014), “Nhận diện cổ đông thiểu số trong cơng ty
cổ phần ở Việt Nam”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, Bộ tư pháp, số 7
(268)/2014;

14. Nguyễn Thị Thu Hương (2014), “Nhu cầu bảo vệ cổ đông thiểu số trong
công ty cổ phần ở Việt Nam”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, Bộ Tư pháp, số
271/2014;
15. Cao Đình Lành (2012), “Xung đột lợi ích của cổ đông thiểu số trong hoạt
động mua bán, sáp nhập cơng ty cổ phần”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật,
Viện Nhà nước và pháp luật, số 8 (292)/2012;

3


16. Huỳnh Thị Trúc Linh (2016), “Bảo vệ cổ đông thiểu số trong công ty cổ
phần theo Luật Doanh nghiệp 2014”, Tạp chí Nghiên cứu và lập pháp, Viện
nghiên cứu lập pháp, số 6 (310)/2012;
17. Nguyễn Trọng Quý (2013), “Lý thuyết về cổ đông thiểu số và quyền khởi
kiện của cổ đông thiểu số trong công ty cổ phần”, Tạp chí luật học, số
6/2012.
Để bảo vệ CĐTS, các tác giả nêu trên đã nghiên cứu dưới các khía cạnh khác
nhau. Tuy nhiên, các cơng trình nghiên cứu nêu trên chủ yếu đề cập đến vấn đề bảo
vệ CĐTS dưới góc độ Luật Doanh nghiệp là chủ yếu. Cụ thể, luận văn của tác giả
Đỗ Tuấn Hùng có trọng tâm là nghiên cứu những bất cập trong việc bảo vệ CĐTS
trong pháp luật Việt Nam, luận văn của tác giả Trương Thị Hồng Hoa tập trung vào
bảo vệ CĐTS tại cuộc họp Đại hội đồng cổ đông (ĐHĐCĐ) thông qua cơ chế bầu
dồn phiếu và quyền đề cử người vào HĐQT, Ban kiểm sốt (BKS), quyền khởi kiện
của cổ đơng; luận văn của tác giả Trần Thị Ngọc Thảo lại đề cập về sự khác biệt về
các quy định bảo vệ CĐTS giữa Luật Doanh nghiệp 2005 và Luật Doanh Nghiệp
2014. Dưới góc nhìn của Luật Chứng khốn, tác giả Trần Quốc Hồi đã bảo vệ
CĐTS trên thị trường chứng khốn, đi sâu vào các giao dịch trên thị trường chứng
khoán. Như vậy, trong các cơng trình nghiên cứu khác nhau ở các thời điểm khác
nhau, các tác giả đều cố gắng phân tích pháp luật và thực tiễn để có thể bảo vệ tốt
hơn quyền và lợi ích hợp pháp của CĐTS. Kế thừa những tinh hoa từ những cơng

trình nghiên cứu trên đặt trong mối liên hệ với thực tiễn, tác giả sẽ nghiên cứu đề tài
này ở góc độ khá mới, đó là tác giả sẽ tập trung vào bảo vệ CĐTS trong CTĐC theo
pháp luật Việt Nam đồng thời có liên hệ với pháp luật nước ngồi để học tập kinh
nghiệm cho Việt Nam.
3. Mục đích nghiên cứu đề tài
Mục đích chính của đề tài là: (i) Nghiên cứu các vấn đề lý luận chung nhất về
CĐTS trong CTCP, nghiên cứu cơ chế bảo vệ CĐTS, nghiên cứu sự cần thiết phải
bảo vệ CĐTS; (ii) Phân tích thực trạng pháp luật bảo vệ CĐTS trong CTCP, chủ
yếu là trong CTĐC, từ đó đưa ra một số đề xuất để có thể bảo vệ tốt hơn nữa quyền
lợi chính đáng của CĐTS hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Về đối tượng nghiên cứu: khóa luận sẽ nghiên cứu các quy định của pháp
luật bảo vệ quyền lợi của CĐTS trong CTCP theo pháp luật Việt Nam, trong đó
4


trọng tâm là Luật Doanh nghiệp 2014, Luật Chứng khoán 2006, Luật Chứng khoán
sửa đổi bổ sung năm 2010 và một số văn bản pháp luật khác có liên quan quy định
về vấn đề bảo vệ CĐTS trong CTCP.
Về phạm vi nghiên cứu: những cơng trình nghiên cứu trước đây đã trình bày
tương đối đầy đủ về quy định của pháp luật doanh nghiệp Việt Nam liên quan đến
việc bảo vệ CĐTS. Vì vậy, trong phạm vi khóa luận này, tác giả sẽ khơng đi sâu
nghiên cứu tồn bộ các quy định pháp luật bảo vệ quyền lợi của CĐTS mà chỉ tập
trung vào các quy định của pháp luật bảo vệ CĐTS trong CTĐC theo pháp luật Việt
Nam.
5. Phương pháp tiến hành nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu lý luận, phân tích, so sánh, bình luận… được sử
dụng để làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận về bảo vệ CĐTS theo pháp luật Việt
Nam.
Phương pháp nghiên cứu lý luận, phân tích, quy nạp, hệ thống, diễn dịch,

thống kê, đối chiếu, suy luận logic, nghiên cứu vụ án… được sử dụng để làm rõ
thực trạng pháp luật bảo vệ CĐTS trong CTCP theo pháp luật Việt Nam.
Phương pháp tổng kết kinh nghiệm, phân tích, suy luận logic… được sử
dụng nhằm đưa ra một số đề xuất hoàn thiện pháp luật bảo vệ CĐTS trong CTCP
theo pháp luật Việt Nam.
6. Bố cục tổng qt của khóa luận
Ngồi phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, Đề tài có kết cấu hai
chương, cụ thể như sau:
Chương 1: Tổng quan về bảo vệ cổ đông thiểu số trong công ty cổ phần.
Chương 2: Thực trạng pháp luật bảo vệ quyền lợi của cổ đông thiểu số trong công
ty cổ phần theo pháp luật Việt Nam và một số đề xuất.

5


CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ BẢO VỆ CỔ ĐÔNG THIỂU SỐ TRONG
CƠNG TY CỔ PHẦN
CTCP là một loại hình doanh nghiệp quan trọng và phổ biến ở Việt Nam nên
việc bảo vệ cổ đơng nói chung cũng như CĐTS trong CTCP nói riêng có ảnh hưởng
rất quan trọng tới nền kinh tế của nước ta. CTCP ở nước ta có hai hình thức chủ yếu
là CTCP thơng thường và CTCP đại chúng, trong đó CTĐC lại được chia ra thành
CTĐC chưa niêm yết và CTĐC đã niêm yết5. Vì tác giả chỉ tập trung vào bảo vệ
CĐTS trong CTĐC nên trong Chương 1 tác giả chỉ đề cập đến các khái niệm liên
quan đến loại hình cơng ty này là chủ yếu, khơng nghiên cứu bao qt tồn bộ các
quy định của pháp luật về loại hình CTCP, dĩ nhiên do CTĐC cũng là CTCP nên sẽ
có sự tương đồng giữa các khái niệm của hai hình thức cơng ty.
1.1.

Khái niệm cổ đông thiểu số


Nhận thức được tầm quan trọng của CĐTS đối với sự tồn tại và phát triển
của CTCP, không chỉ riêng Việt Nam mà các quốc gia trên thế giới đều rất quan
tâm đến nhóm cổ đơng này, và khái niệm CĐTS (Minority shareholder) ở các quốc
gia khác nhau cũng có những cách hiểu khác nhau.
Ở Pháp, có quan niệm cho rằng CĐTS là cổ đơng nắm giữ ít hơn một phần ba số
vốn và số cổ phiếu biểu quyết đối với cổ đông đa số và họ khơng có ảnh hưởng gì
trong việc đưa ra các quyết định của cơng ty nhưng cũng có quan điểm cho rằng,
CĐTS là cổ đơng nắm giữ ít hơn 50% số phiếu có quyền biểu quyết của doanh
nghiệp.6
Theo Ủy ban luật pháp của Anh (Law commission) thuật ngữ CĐTS đơn thuần có
nghĩa là một hay nhiều cổ đơng khơng nắm giữ đa số cổ phiếu có quyền biểu quyết
để có thể được tính tại Đại hội đồng cổ đơng.7
Điều 48 Bộ luật Thương mại Nhật Bản năm 1999 khi đề cập đến CĐTS thì có phân
biệt thành ba nhóm với mức độ quyền lực khác nhau: (i) cổ đông sở hữu ít nhất một
cổ phần trong thời hạn 6 tháng liên tục; (ii) cổ đơng sở hữu ít nhất 1% tổng số phiếu
biểu quyết tại cơng ty liên tục ít nhất trong thời hạn 06 tháng liên tục; (iii) cổ đơng

5

Hồng Thị Thu Hằng (2010), Cơ chế giám sát hoạt động quản lý trong công ty cổ phần theo pháp luật
doanh nghiệp ở Việt Nam, Luận văn thạc sỹ luật học, Trường đại học Luật TP.HCM, tr. 21
6
Nguyễn Thị Thu Hương (2014), “Nhận diện cổ đông thiểu số trong công ty cổ phần ở Việt Nam”, Tạp chí
pháp luật và kinh tế, số 7 (268)/2014, tr. 29
7
Nguyễn Hoàng Thùy Trang (2009), Bảo vệ cổ đông thiểu số trong công ty cổ phần – so sánh giữa pháp luật
Việt Nam và Vương quốc Anh, Luận văn thạc sỹ luật học, Trường đại học Luật TP.HCM, tr. 06

6



sở hữu ít nhất 3% tổng số phiếu biểu quyết tại cơng ty liên tục ít nhất trong thời hạn
06 tháng liên tục.8
Qua khảo sát của tác giả thì hiện nay Việt Nam chưa có một văn bản pháp lý
nào quy định cụ thể về khái niệm CĐTS. Khái niệm này đến bây giờ vẫn chỉ là quan
điểm trong nghiên cứu luật học, và cũng có nhiều quan điểm về khái niệm này.
Tiến sỹ Nguyễn Đình Cung, Luật sư Nguyễn Ngọc Bích đã phân cổ đơng trong
CTCP thành hai loại là cổ đơng ít vốn và cổ đơng đa số. Theo đó, việc hai tác giả
gọi là cổ đơng ít vốn hay cổ đông đa số xuất phát từ mối quan hệ giữa phần góp vốn
và quyền cổ đơng, ít vốn hay nhiều vốn là nói đến số lượng tiền mà cổ đơng đó
đóng góp vào cơng ty và thiểu số hay đa số là nói đến quyền biểu quyết của họ. Cịn
theo Phó Giáo sư Phạm Duy Nghĩa thì “người nắm giữ phần vốn đáng kể trong
cơng ty, có thể thu gom phiếu để thao túng công ty được gọi là cổ đông đa số.
Ngược lại, các cổ đông nhỏ, khơng có ảnh hưởng đáng kể trong quản lý và điều
hành công ty được xem là CĐTS”.9
Tác giả Nguyễn Hải Sản thì lại phân cổ đơng trong CTCP thành cổ đơng chính và
cổ đơng nhỏ.10 Theo tác giả Nguyễn Hải Sản thì cổ đơng chính là cổ đơng có tỷ lệ
sở hữu cổ phần biểu quyết đủ để nắm quyền kiểm sốt cơng ty, cịn cổ đơng nhỏ thì
sở hữu tỷ lệ cổ phần rất thấp và không nắm quyền kiểm sốt cơng ty. Tác giả khơng
hồn tồn đồng ý với khái niệm cổ đông nhỏ của tác giả Nguyễn Hải Sản vì tác giả
chưa đưa ra tỷ lệ thấp là như thế nào, nếu như cổ đơng có tỷ lệ là 5% và khơng nắm
quyền kiểm sốt CTĐC thì cổ đơng ấy khơng được xem là CĐTS theo Luật Chứng
khốn 2006 mà là cổ đơng lớn.
Tuy trong Luật Doanh nghiệp 2014 khơng có đề cập đến khái niệm cổ đông lớn và
CĐTS nhưng từ khái niệm cổ đông lớn trong Luật Chứng khốn 2006 “Cổ đơng lớn
là cổ đông sở hữu trực tiếp hoặc gián tiếp từ 5% trở lên số cổ phiếu có quyền biểu
quyết của tổ chức phát hành”11chúng ta có thể áp dụng phương pháp loại trừ để suy
ra rằng cổ đông sở hữu trực tiếp hay gián tiếp dưới 5% số phiếu có quyền biểu
quyết của tổ chức phát hành là CĐTS. Nhưng nếu chỉ dựa vào tỷ lệ để xem một cổ
đông là CĐTS thì chưa thật sự hợp lý vì trong CTĐC có rất nhiều trường hợp cổ

đơng sở hữu số cổ phiếu thấp dưới 5% nhưng thông qua một cơ chế khác, họ vẫn có
8

Chapter 4, Ministry of Justice, Japan 1999, English translation of the Commercial Code – Law No.48 pf
March 9, 1999, />9
Bùi Xuân Hải (2009), “Bảo vệ cổ đông: Mấy vấn đề lý luận và thực tiễn trong Luật Doanh nghiệp 2005”,
Tạp chí khoa học pháp lý, số 1 (50)/2009, tr. 09.
10
Nguyễn Hải Sản (2010), Quản trị tài chính doanh nghiệp, Nhà xuất bản Thống kê, tr. 491.
11
Khoản 9 Điều 6 Luật Chứng khoán 2006.

7


thể nắm quyền kiểm sốt cơng ty, ví dụ người có quyền quản lý cơng ty như Tổng
giám đốc, Giám đốc, Phó Tổng giám đốc, Phó Giám đốc là những người sở hữu ít
vốn, khơng đạt 5% như luật định nhưng thơng qua cơ chế trao quyền, họ vẫn có thể
nắm quyền kiểm sốt cơng ty, mà khi có quyền lực chi phối cơng ty thì khơng thể
xem họ là CĐTS được.
Trong CTĐC, tác giả Hà Thị Thanh Bình đã đề cập đến khái niệm cổ đông công
chúng,12 khái niệm này cũng khá tương đương với khái niệm CĐTS đã phân tích ở
trên là có số vốn góp ít và khơng nắm quyền kiểm sốt cơng ty. Tuy nhiên, để đảm
bảo tính ổn định của cơng ty thì những cổ đơng này khơng phải là nhà đầu tư chứng
khốn chun nghiệp và phải sở hữu cổ phiếu của công ty liên tục ít nhất 06
tháng.13 Đa số cổ đơng cơng chúng trong CTĐC thường là những người dân có vốn
nhàn rỗi, họ muốn đầu tư vào công ty để kiếm lợi nhuận là chủ yếu.
Như vậy, từ những phân tích trên, tác giả xin đưa ra cách nhìn của mình về
khái niệm CĐTS như sau: CĐTS là cổ đông nắm giữ quyền biểu quyết thiểu số chứ
không phải là phần vốn thiểu số, đồng thời họ sở hữu một tỷ lệ nhỏ cổ phần ở mức

dưới 5%, tỷ lệ cụ thể tùy thuộc vào quy mô của CTCP và dưới bất cứ hình thức nào,
họ cũng khơng thể tham gia kiểm sốt cơng ty.
1.2.

Cơ chế bảo vệ cổ đơng thiểu số

Bảo vệ CĐTS có nghĩa là dùng hành động để đảm bảo cho họ các quyền và
lợi ích chính đáng mà họ được hưởng. Nguyên tắc bảo vệ CĐTS là phải ngăn chặn
các hành vi vi phạm quyền và lợi ích hợp pháp của họ, phải xử lý thật mạnh và
nghiêm minh những hành vi xâm phậm đến quyền và lợi ích chính đáng ấy.14
Ngồi ra, bảo vệ CĐTS cũng có thể hiểu là dùng những hệ thống phương thức, cách
thức pháp luật hay những quy tắc hành động được quy định cụ thể của công ty để
đảm bảo cho CĐTS có đầy đủ và trọn vẹn quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Đó
12

Hà Thị Thanh Bình (Chủ nhiệm đề tài) (2013), Sự phân tách giữa quyền sở hữu và quản lý, điều hành
trong công ty cổ phần đại chúng, Báo cáo tổng kết Đề tài khoa học – công nghệ cấp trường, mã số A
14210003614, Trường đại học Luật TP.HCM, tr. 09
Hà Thị Thanh Bình, tlđd (8) tr. 28

13
14

Cụ thể hơn, theo quan điểm của Tiến sỹ Bùi Xn Hải thì bảo vệ CĐTS có nghĩa là bảo vệ quyền và lợi ích
chính đáng của họ trong mối quan hệ với các chủ thể khác liên quan đến tư cách họ là cổ đông của công ty
theo quy định của Luật Doanh nghiệp 2014. Xem Bùi Xuân Hải, (Chủ nhiệm đề tài) (2010), Bảo vệ đầu tư:
Những vấn đề lý luận và thực tiễn của pháp luật Doanh nghiệp Việt Nam trong bối cảnh hội nhập, Đề tài
nghiên cứu khoa học cấp Bộ, Mã số B 2007-10-06, Trường đại học Luật TP.HCM, tr. 13.

8



là những quyền được đảm bảo lợi ích về tài sản của mình trong cơng ty, nhóm
quyền quản trị, quyền được thông tin và quyền được phục hồi quyền, lợi ích của
mình khi bị xâm hại như những cổ đơng khác.
Một số cơ chế áp dụng để bảo vệ CĐTS trong CTCP tại Việt Nam là:
Thứ nhất, cơ chế bảo vệ CĐTS bằng công cụ pháp luật. Bảo vệ CĐTS là vấn
đề quan trọng và thiết thực, được các nhà làm luật Việt Nam hết sức quan tâm.
Trong CTCP, cổ đơng lớn sẽ ít khi nào đề ra nhiều cách thức và biện pháp để bảo vệ
quyền lợi chính đáng của CĐTS vì nếu quy định quá nhiều cơ chế để bảo vệ CĐTS
thì sẽ ảnh hưởng đến khả năng can thiệp vào cơng ty của họ, sẽ khó khăn hơn cho
họ trong việc thực hiện các giao dịch mang tính chất tư lợi cho nhóm cổ đơng này.
Chính vì vậy mà sức mạnh từ những quy định pháp luật của Nhà nước chính là điều
quan trọng nhất mà CĐTS có thể dựa vào đó để bảo vệ chính mình. Nhìn một cách
tổng quan, Nhà nước sử dụng cơng cụ pháp luật để bảo vệ CĐTS thông qua các
phương diện chủ yếu sau:
Phương diện thứ nhất, quy định về quyền của cổ đơng, đặc biệt là quyền mà
CĐTS có thể áp dụng, trong đó có các quyền được bồi thường thiệt hại, quyền được
khởi kiện để bảo vệ quyền lợi của mình, quyền được tham gia hoạt động giám sát
cơng ty thông qua BKS, các quyền tại ĐHĐCĐ, quyền được thông tin, quyền tài
sản.
Phương diện thứ hai, quy định về nghĩa vụ của các chủ thể có liên quan đến
quyền và lợi ích của CĐTS như nghĩa vụ của cơng ty, của người quản lý cơng ty,
của người có liên quan; hài hịa hóa mối quan hệ và lợi ích giữa cổ đông lớn, người
quản lý công ty và CĐTS.
Phương diện thứ ba, quy định tạo điều kiện cho CĐTS có thể thực hiện các
quyền của mình trong thực tiễn ví dụ như u cầu Tịa án hay Trọng tài bảo vệ
quyền lợi chính đáng của họ.
Như chúng ta đã biết, cổ đơng khác nhau sẽ có những vị thế, lợi ích và mục
tiêu khi góp vốn khơng hồn tồn giống nhau, giữa họ ít nhiều sẽ xảy ra xung đột

lợi ích, nhất là giữa CĐTS và cổ đơng lớn, người quản lý công ty. Do vậy, để bảo
vệ CĐTS thì pháp luật cũng cần phải nhấn mạnh đến tính cơng bằng giữa họ bởi
pháp luật chính là hiện thân của sự cơng bằng.15
15

Pháp luật Việt Nam cũng đã có những quy định bảo vệ CĐTS khá tiệm cận với những khuyến
nghị của Organisation for Economic Cooperation and Development về cách thức quản trị công ty để bảo vệ

9


Để cơng cụ pháp luật bảo vệ CĐTS có hiệu quả thì cần phải thực thi pháp
luật nghiêm minh. Pháp luật phải được thực hiện một cách nghiêm minh thì mới có
khả năng ngăn ngừa những ý muốn, hành động xâm phạm quyền lợi của CĐTS của
cổ đông lớn, người quản lý công ty, phạt thật nghiêm khắc hành vi vi phạm đến
quyền lợi ích của CĐTS thì mới đủ sức để răn đe hành vi vi phạm.
Thứ hai, bảo vệ CĐTS thông qua cơ chế tự điều chỉnh là Điều lệ công ty.
Trong tất cả các công ty, Điều lệ giữ vai trò quan trọng với bản chất là hợp đồng
đặc biệt giữa các cổ đông; Điều lệ công ty là một trong những căn cứ pháp lý quan
trọng để giải quyết các tranh chấp phát sinh trong nội bộ công ty. Bên cạnh áp dụng
các quy định pháp luật, CĐTS cịn có thể áp dụng Điều lệ cơng ty để bảo vệ chính
mình. Cơng ty có thể tự điều chỉnh quyền và lợi ích giữa các bên với CĐTS thơng
qua Điều lệ cơng ty, có thể quy định những quyền có lợi hơn cho CĐTS dựa trên
những quy định của pháp luật.
Thứ ba, CĐTS có thể bảo vệ mình thơng qua quy tắc “mềm”, đây là những
quy tắc mang tính chất tự nguyện. Luật “mềm” ở đây được hiểu là bao gồm các quy
tắc quản trị công ty, các quy tắc về đạo đức kinh doanh và các quy tắc nghề nghiệp
mà các kiểm toán viên, kế toán viên cần phải tuân theo.16 Một số CTCP tại Việt
Nam đã đề ra các quy tắc quản trị công ty riêng như Quy chế quản trị nội bộ của
CTCP dệt may Thành Công ban hành năm 2007, Quy chế quản trị nội bộ CTCP Ma

san ban hành năm 2009, trong đó có những quy định mà CĐTS của cơng ty có thể
áp dụng để bảo vệ quyền lợi của mình là những ưu đãi riêng biệt mà công ty dành
cho họ tại Điều 3 Chương 2 Quy chế quản trị nội bộ của CTCP may Thành Công;
Điều 3 Chương 1, Điều 4 Chương 2 Quy chế quản trị nội bộ CTCP Ma san.17 CTCP

CĐTS đó là: (i) đối xử cơng bằng giữa các cổ đông cùng loại bao gồm các yếu tố cổ đơng cùng loại phải có
các quyền như nhau, được cung cấp các thông tin về các quyền đối với từng loại cổ phần trước khi quyết định
mua, bất cứ quyền thay đổi quyền bỏ phiếu nào cũng cần phải được sự đồng ý của tất cả các cổ đông nắm giữ
cổ phiếu mà bị ảnh hưởng tiêu cực từ sự thay đổi đó; các CĐTS cần được bảo vệ khỏi sự lạm dụng của các cổ
đông nắm quyền kiểm soát một cách gián tiếp hay trực tiếp, đồng thời cần có cơ chế đền bù thiệt hại hiệu
quả; các thủ tục và quy trình cho họp Đại hội đồng cổ đông cần thể hiện sự công bằng với tất cả các cổ đông,
những thủ tục trong công ty không nên làm cho việc bỏ phiếu trở nên khó khăn và tốn kém; (ii) những giao
dịch nội bộ và giao dịch tư lợi nên cấm; (iii) thành viên Hội đồng quản trị (sau đây gọi tắt là HĐQT) và các
chức danh quản lý quan trọng phải thông báo các lợi ích liên quan đến giao dịch cơng ty hoặc các vấn đề ảnh
hưởng trực tiếp đến công ty. Xem Hà Thị Thanh Bình, tlđd (8), tr. 30.
16

Bùi Xuân Hải (2011), Luật Doanh nghiệp: Bảo vệ cổ đông, pháp luật và thực tiễn, Nhà xuất bản Chính trị
quốc gia, tr. 40.

17

“Quy chế quản trị nội bộ CTCP Ma san”, />
10


Chứng khoán TP.HCM đã đề ra Bộ quy tắc đạo đức và nghề nghiệp từ năm 2013
trong đó có một số nguyên tắc bảo vệ CĐTS như tính liêm chính của người quản lý
công ty, tuyển dụng người thân, báo cáo hành vi sai trái, chính sách chống rửa tiền,
quy định về giao dịch tài khoản cá nhân và giao dịch nội gián.18

Thứ tư, CĐTS có thể bảo vệ mình thông qua cơ chế hoạt động của các hiệp
hội cổ đông, quỹ bảo vệ nhà đầu tư. Hiệp hội cổ đơng là tổ chức phi Chính phủ, đại
diện và bảo vệ quyền lợi cho các cổ đông công ty. Đối với CĐTS, sự tồn tại và
những quyền mà hiệp hội này có thể thi hành được là vơ cùng quan trọng. Hiệp hội
có thể đại diện thay mặt cổ đơng trong một số việc nhất định mà họ không thể giải
quyết được, bảo vệ quyền lợi của CĐTS trước những người quản lý công ty hay
trước sự chèn ép của cổ đông lớn hoặc yêu cầu cổ đông lớn, người quản lý công ty
phải thực hiện đúng nghĩa vụ của mình. Song, ở Việt Nam, cơ chế hoạt động của
hiệp hội vẫn phụ thuộc nhiều vào quy định của pháp luật. Ngồi ra, Quỹ bảo vệ nhà
đầu tư cũng có thể là một tổ chức mà CĐTS có thể sử dụng để bảo vệ mình dù rằng
pháp luật quy định không quá cụ thể về loại quỹ này. Quỹ bảo vệ nhà đầu tư được
áp dụng trong trường hợp tổ chức trung gian khơng có khả năng thanh tốn cho
CĐTS khi vỡ nợ, phá sản hay họ bị lừa đảo.19
1.3.

Sự cần thiết phải bảo vệ cổ đông thiểu số

CĐTS trước hết là cổ đơng, họ cũng có những quyền cơ bản của cổ đông.
Bảo vệ CĐTS là để đảm bảo tính thực thi sự cơng bằng của pháp luật, bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của họ. Khi Ngân hàng thế giới (World Bank) thực hiện báo cáo
về “Môi trường kinh doanh” của các quốc gia trên thế giới trong nhiều năm, mức độ
bảo vệ CĐTS luôn được xem là một trong mười tiêu chí để đánh giá.20 Rõ ràng, bảo
vệ CĐTS trong giai đoạn hiện tại của nước ta là một vấn đề vô cùng quan trọng
trong cả khía cạnh pháp luật và thực tiễn. Tác giả xin được đưa ra ba lý do quan
trọng để bảo vệ CĐTS như sau:
“Quy chế quản trị nội bộ CTCP may Thành Công”,
truy
cập ngày 16/7/2017.
18


“Bộ quy tắc đạo đức nghề nghiệp CTCP Chứng khoán TP.HCM”,

truy cập 16/07/2017.
19

Nguyễn Phương Thảo (2017), “Cơ chế bảo vệ nhà đầu tư trên thị trường chứng khốn Việt Nam”, Tạp chí
Tài chính, số 3 (652)/2017, tr. 59.

20

Đỗ Tuấn Hùng (2010), Bảo vệ cổ đông thiểu số trong cơng ty cổ phần, Khóa luận cử nhân Luật, Trường
đại học Luật TP.HCM, tr. 12.

11


Thứ nhất, xuất phát từ nguy cơ xâm hại quyền và lợi ích hợp pháp của CĐTS
trong CTCP, đặc biệt là CTĐC, khi mà quyền và lợi ích hợp pháp của họ dễ bị xâm
phạm hơn rất nhiều so với loại hình CTCP thơng thường.
CTCP có đặc điểm là cơng ty đối vốn, mức độ thụ hưởng và mức độ chịu rủi
ro phụ thuộc vào số cổ phần mà cổ đơng nắm giữ. Chính vì vậy mà những người
giữ nhiều vốn thường giữ những vị trí quan trọng để có thể đưa ra những phương
hướng cũng như giám sát hoạt động của cơng ty. CĐTS góp ít vốn thì sẽ được
hưởng quyền lợi tương ứng với số vốn ít ỏi của mình. Thực tế, cổ đơng lớn sẽ lợi
dụng vị thế của “kẻ mạnh” để chèn ép, xâm hại đến quyền lợi của CĐTS vì họ sẽ
khơng làm được gì do số lượng cổ phần quá khiêm tốn.
Trong những CTCP mà có nhóm cổ đơng lớn nắm giữ chức vụ quản lý cơng
ty thì quyền sở hữu và quyền quản lý của họ sẽ khơng có sự phân tách rõ ràng, họ
có thể lợi dụng quyền quản lý, điều hành cơng ty sẵn sàng xâm hại đến quyền và lợi
ích hợp pháp của CĐTS để tạo ra lợi ích cho mình.

Luật Doanh nghiệp 2014 đã có nhiều quy định nhằm bảo vệ một cách có hiệu quả
về lợi ích của CĐTS trong CTCP. Tuy nhiên, trong CTCP, quyền hạn của các thành
viên phụ thuộc vào số cổ phần nhiều hay ít. Luật Doanh nghiệp 2014 đã có quy định
khơng phân biệt đối xử giữa những cổ đông cùng loại với nguyên tắc “một cổ phần,
một lá phiếu”21. Quy tắc này đảm bảo rằng mỗi cổ phần cùng loại đều tạo ra cho cổ
đơng sở hữu nó quyền và nghĩa vụ như nhau, cổ đơng có nhiều vốn hay ít vốn thì
đều có những quyền cổ đơng cơ bản dựa trên số phiếu của mình. Tuy nhiên, trên
thực tế, trong các CTĐC, vì mục đích tư lợi, cổ đơng lớn ln chèn ép CĐTS, thâu
tóm quyền hành cơng ty bằng chính số phiếu áp đảo của mình, họ đưa ra các quyết
định đi ngược với nguyên tắc không phân biệt đối xử như phải hội đủ số vốn tối
thiểu mới được tham dự ĐHĐCĐ, ít vốn phải mua số phiếu phát hành mới với giá
cao hơn tạo ra sự bất bình đẳng với CĐTS22.
Trong những CTCP, chủ yếu là CTĐC mà có sự phân tách rõ ràng giữa
quyền quản lý và quyền sở hữu, cụ thể là quyền quản lý điều hành được giao cho
HĐQT, Ban Giám đốc (BGĐ) chuyên nghiệp thì CĐTS vẫn có thể bị xâm hại
quyền và lợi ích hợp pháp. Thứ nhất là do cổ đông lớn thông đồng, gây ảnh hưởng
đến người quản lý công ty để thực hiện giao dịch tư lợi cho cả hai bên, thứ hai là
21

Nguyễn Thị Thu Hương (2014), “Nhu cầu bảo vệ cổ đông thiểu số trong công ty cổ phần ở Việt Nam”,

Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số 10 (271)/2014, tr .34.
Nguyễn Thị Thu Hương, tlđd (12), tr.35.

22

12


người quản lý cơng ty có thể tự mình thực hiện hành vi thu vén lợi ích riêng bằng

quyền được cổ đông công ty trao cho và cả hai trường hợp này đều đã xâm phạm
đến quyền và lợi ích hợp pháp của CĐTS.
Sau khi giao quyền cho HĐQT, xét ở một khía cạnh nào đó, quyền của cổ đơng đã
bị giảm sút. Đa số cổ đông, nhất là CĐTS biết mình đang ở địa vị yếu, khi bầu cử
thành viên HĐQT hay BKS, họ bỏ phiếu dựa trên danh sách ứng cử do Ban quản lý
công ty chuẩn bị sẵn hoặc có thể từ bỏ quyền bỏ phiếu của mình. Trong trường hợp
này, ở một chừng mực nhất định, người ta có thể nhận ra rằng quyền lực của CĐTS
khơng xuất phát từ chính họ mà phần lớn bắt nguồn từ HĐQT hoặc BGĐ.23 Đó
chính là lý do mà họ trở nên dễ bị xâm phạm quyền lợi hơn khi quyền hành thực
chất họ khơng nắm giữ, nó có thể đã bị tước đi bởi quyền lực của cổ đông lớn và
những người quản lý công ty. Họ không cịn được trực tiếp can thiệp trực tiếp vào
cơng việc quản lý kinh doanh do HĐQT đảm nhiệm mà chỉ có thể có thể tác động
đến những vấn đề quan trọng nhất của công ty bằng việc biểu quyết tại ĐHĐCĐ.
Bên cạnh việc cổ đông lớn và những người quản lý cơng ty ln tìm cách để
có thể có được lợi ích nhiều nhất mà xâm phạm đến quyền lợi của CĐTS thì chính
CĐTS cũng góp phần tạo điều kiện để cổ đông lớn và những người quản lý công ty
xâm phạm đến quyền lợi của mình từ sự thiếu hiểu biết của CĐTS.
CTĐC có số lượng cổ đơng lớn và đa dạng, đại đa số CĐTS là những nhà đầu tư tài
chính thuần túy.24 Họ chủ yếu đầu tư nhằm hưởng lợi nhuận từ hoạt động kinh
doanh của công ty, nhu cầu trực tiếp điều hành cơng ty ít được quan tâm hơn. Hoạt
động kinh doanh chủ yếu được giao cho HĐQT và BGĐ chuyên nghiệp, còn CĐTS
chỉ muốn thực hiện vai trị giám sát điều hành, thậm chí đơi khi họ cũng chẳng quan
tâm đến hoạt động đó.
Việc quyền lợi của CĐTS dễ bị xâm phạm có thể bắt nguồn từ những nguyên nhân
chủ yếu là trong nhiều trường hợp, vì thiếu hiểu biết về pháp luật doanh nghiệp, vì
nắm giữ khơng nhiều cổ phần, vì thụ động trong tham gia quản lý doanh nghiệp nên
CĐTS đã để cổ đơng lớn và những người quản lý có tồn quyền thao túng.
Chính nhận thức lệch lạc trong việc đầu tư vào CTĐC (vì một bộ phận lớn CĐTS
của CTĐC trên thị trường chứng khốn mua cổ phiếu mang tính đầu cơ chưa thực
23


Đặng Thị Đỉnh (2009), Hoàn thiện chế định Hội đồng quản trị công ty cổ phần tại Việt Nam, Luận văn
thạc sĩ luật học, Trường đại học Luật TP.HCM, tr. 7.

24

Châu Quốc An (2006), Chế độ pháp lý và quản trị công ty theo Luật Doanh nghiệp, Luận văn thạc sỹ luật
học, Trường đại học Luật TP.HCM, tr. 28.

13


sự gọi là đầu tư) kết hợp với thiếu hiểu biết kiến thức pháp luật và sự quan tâm đến
tình hình chung của CTĐC đã khiến nhều CĐTS phải trả giá đắt ví dụ như giá cổ
phiếu rớt, cơng ty thua lỗ, tính thanh khoản của cổ phiếu mà CĐTS đang nắm giữ bị
ảnh hưởng nghiêm trọng.
Thứ hai, xuất phát từ tính cấp thiết của vấn đề đặt ra trong bối cảnh hiện nay
khi mà vai trò của của CĐTS lại quan trọng hơn rất nhiều đối với nền kinh tế của
nước ta.
Nền kinh tế Việt Nam trong những năm qua đã có sự phát triển khơng
ngừng, đạt được những thành tựu đáng kể.
Việt Nam đang bước trên con đường Cơng nghiệp hóa – hiện đại hóa, hội nhập với
khu vực và thế giới. Việc hình thành Cộng đồng Asean, đặc biệt là Cộng đồng kinh
tế Asean (AEC), tham gia Hiệp định Thương mại xuyên Thái Bình Dương (TPP) đã
tác động không nhỏ đến nền kinh tế Việt Nam. Tác động của Hiệp định Thương mại
xuyên Thái Bình Dương đến Việt Nam chủ yếu trên hai phương diện là tác động tới
tiến trình hội nhập quốc tế của Việt Nam và tác động tới kinh tế vĩ mô, môi trường
kinh doanh của Việt Nam trên các lĩnh vực (i) xuất khẩu hàng hóa và tạo cơng ăn
việc làm; (ii) nhập khẩu hàng hóa và lợi ích người tiêu dùng; (iii) thương mại – dịch
vụ; (iv) thị trường mua sắm công; (v) thực thi các chuẩn mực về lao động, môi

trường; (vi) thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngồi.25
Tính đến ngày 06 tháng 03 năm 2017, chỉ số VN – Index đóng cửa ở mức 716,29
điểm, là mức cao nhất trong vịng 10 năm qua. Mức vốn hóa thị trường đạt hơn 2
260 nghìn tỷ đồng (tương đương 50,3% GDP), là mức cao nhất từ khi thành lập thị
trường.26
Xu hướng đại chúng hóa CTCP ngày càng trở nên phổ biến trong giai đoạn hiện
nay.27

25

Phan Huy Hồng, Nguyễn Thanh Tú (2012), Quyền tự do kinh doanh theo pháp luật Liên minh châu Âu và
Việt Nam, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, tr. 45.

26

Trần Thị Phượng (2017), “Phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam trong bối cảnh mới”, Tạp chí tài

chính, số 2 (653)/2017, tr. 22.
27

Đại chúng hóa CTCP được hiểu là: “việc tăng số lượng CĐTS của công ty lên tới mức đáng kể cùng với
các điều kiện và hệ quả của nó. Vấn đề đại chúng hóa công ty được đặt ra đối với CTCP thành lập mới, được
chuyển đổi từ công ty Trách nhiệm hữu hạn hoặc ra đời từ cổ phần hóa cơng ty nhà nước”, xem tại Trường
đại học Luật TP.HCM (2008), Tập bài giảng chủ thể kinh doanh, Nhà xuất bản Hồng Đức, tr. 133.

14


Với một nền kinh tế đang phát triển một cách mạnh mẽ như vậy, vai trò của
CTCP, đặc biệt là CTĐC trở nên quan trọng hơn rất nhiều vì sức ảnh hưởng của loại

hình cơng ty này đối với kinh tế quốc dân.
CTCP, đặc biệt là CTĐC có quyền phát hành chứng khốn trong q trình hoạt
động nên CTĐC có thể huy động được nguồn vốn nhàn rỗi rất lớn trong dân cư đưa
vào kinh doanh, góp phần quan trọng phát triển kinh tế. Điều này đặc biệt quan
trọng đối với những nước đang trên con đường cơng nghiệp hóa đất nước, cần rất
nhiều nguồn vốn để phát triển kinh tế như nước ta.
CTĐC góp phần mở rộng quy mơ kinh doanh, tăng cường sức cạnh tranh của nền
kinh tế quốc gia bởi trong thời đại ngày nay, với xu thế hội nhập và cạnh tranh dữ
dội, các quốc gia phải có một sức mạnh kinh tế nhất định mới có thể có chỗ đứng ổn
định trên thương trường quốc tế. Để làm được điều đó khơng có con đường nào
khác là phải xây dựng một nền kinh tế quốc gia có quy mơ lớn, hoạt động hiệu quả.
CTCP, mà đặc biệt là CTĐC chính là mơ hình lý tưởng để thực hiện điều đó.
Để CTCP, hay CTĐC hoạt động tốt nhất, cần phải đảm bảo cho nó việc vận hành
được tốt nhất về cơ cấu tổ chức. Muốn vậy, phải có những cách thức để bảo vệ
CĐTS, đối tượng nhìn thì tưởng là khơng quan trọng nhưng thực chất khi cộng số
vốn họ góp vào cơng ty lại là con số khổng lồ, có vai trị rất lớn đối với sự tồn tại và
phát triển của CTĐC.
Trước sự phát triển khơng ngừng của nền kinh tế, sự đóng góp của CTCP
vào nền kinh tế quốc dân thì vai trị của CĐTS trong CTCP càng trở nên quan trọng
vì tiềm năng rất lớn của nhóm cổ đơng này.
CĐTS nếu xét riêng lẻ từng cá nhân, tổ chức thì số vốn họ đầu tư vào công ty là rất
nhỏ, như muối bỏ biển. Nhưng, nếu nếu cộng tất cả CĐTS lại thì họ lại là chủ thể
chiếm đa số trong tổng số lượng cổ đông của CTCP và tổng số cổ phần của họ cũng
có thể chiếm đa số vốn của công ty, đặc biệt là trong CTĐC.
Kết quả nghiên cứu tất cả công ty niêm yết trên Sở giao dịch chứng khoán TP.HCM
và Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội cho thấy cổ đông lớn sở hữu 9,5% tổng số cổ
phiếu đang lưu hành của các công ty niêm yết tính trung bình trong khi cổ đơng nhỏ
chiếm tới 26,9%.28
Hơn nữa, CĐTS trong CTĐC chiếm đa số là những người kinh doanh nhỏ, những
người làm công ăn lương, cán bộ, cơng chức, những bà nội trợ có tiền nhàn rỗi,

28

Trần Thị Phượng, tlđd (14), tr. 24

15


thậm chí là những người lao động, nhân viên nhỏ của công ty, là những người mà
mất đi khoản tiền đầu tư, tuy là nhỏ với nền kinh tế, nhưng lớn với họ thì sẽ trở nên
rất tồi tệ. Xã hội ngày càng phát triển thì sự sụp đổ của các công ty càng đè nặng lên
CĐTS, những người đã dành gần hết số tiền tiết kiệm của mình để mua cổ phần của
các công ty này.
Khi kinh tế Việt Nam đang ở trong thời kỳ hội nhập, mở cửa như hiện nay
thì ảnh hưởng của các nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam trở nên quan trọng hơn
bao giờ hết, trong đó có các CĐTS là nhà đầu tư nước ngoài. Bảo vệ CĐTS là nhà
đầu tư nước ngồi từ đó cũng trở nên cấp thiết hơn, khi mà pháp luật Việt Nam tuy
đã có nhiều cơ chế nới lỏng so với trước đây nhưng nhìn ở góc độ bảo vệ nhà đầu tư
trong nước, việc bảo vệ quyền lợi của CĐTS là nhà đầu tư nước ngoài vẫn có nhiều
hạn chế.
CĐTS là nhà đầu tư nước ngồi đã góp phần thúc đẩy q trình hội nhập của Việt
Nam vào thị trường tài chính trong và ngồi nước. Việc có thêm nhiều CĐTS là nhà
đầu tư nước ngồi trong CTĐC của Việt Nam sẽ tạo ra một động lực mới thúc đẩy
thị trường chứng khoán Việt Nam phát triển vì đây là nhóm người đầu tư rất tiềm
năng cho nền kinh tế nước nhà trong giai đoạn hiện tại.
Vai trò quan trọng của CĐTS là nhà đầu tư nước ngồi được nhìn nhận dưới hai góc
độ, thứ nhất là lượng cầu đáng kể của họ đã ảnh hưởng trực tiếp đến sự tăng giá cổ
phiếu vì khả năng tài chính của họ rất lớn, thứ hai, sự tham gia tích cực và niềm tin
vào thị trường chứng khốn (TTCK) của họ đã tác động rất nhiều đến nhà đầu tư
trong nước, thu hút thêm nhiều nhà đầu tư hơn nữa vào các CTĐC.
Sở hữu nước ngoài mang đến nhiều tác động tích cực như: chuyển giao cơng nghệ,

kinh nghiệm quản trị, tăng kết nối với thị trường khu vực và quốc tế cho doanh
nghiệp trong nước, cung cấp nguồn vốn tài trợ bổ sung cho nền kinh tế quốc gia,
đồng thời gia tăng hiệu quả sử dụng vốn đầu tư, cải thiện hoạt động quản trị công
ty, kiểm soát rủi ro.
Những năm gần đây, nhiều nhà đầu tư cá nhân và tổ chức nước ngoài đã và đang
tham gia giao dịch trên TTCK Việt Nam. Dù họ chiếm tỷ trọng không lớn về số
lượng tài khoản giao dịch (khoảng 19.000 ngàn tài khoản) nhưng quy mô giao dịch
khá lớn và có xu hướng tăng. Theo thơng tin từ Sàn giao dịch chứng khoán
TP.HCM (HSX), từ năm 2014 đến năm 2016, nhà đầu tư nước ngồi có có khối
lượng giao dịch bình quân chiếm 15% tổng khối lượng giao dịch, giá trị giao dịch
bình quân chiếm 30% tổng giá trị giao dịch thị trường và nhà đầu tư nước ngoài là
16


CĐTS chiếm một số lượng không nhỏ trong số những nhà đầu tư nước ngồi vào
các cơng ty có phát hành chứng khốn. Bên cạnh đó, diễn biến dịng vốn nhà đầu tư
nước ngồi trên TTCK Việt Nam tính chung qua các năm phần lớn ở trạng thái mua
ròng, đây là tín hiệu tích cực cho thấy sức hút của TTCK ngày càng cao.29
Thứ ba, xuất phát từ thực trạng việc bảo vệ CĐTS của Việt Nam dù đã có
nhiều tiến bộ nhưng vẫn chưa cao, do vậy, cần phải đẩy mạnh hơn nữa vấn đề bảo
vệ CĐTS trên thực tiễn chứ không phải chỉ là bảo vệ trên lý thuyết.
Một trong những thực trạng đáng nói trong việc bảo vệ CĐTS là vấn đề quản trị
công ty, đặc biệt là trong CTĐC khi mà loại hình cơng ty này có mối quan hệ giữa
các bên liên quan trong cơng ty khá phức tạp, nhất là các mối quan hệ thể hiện
quyền lực, trách nhiệm và lợi ích của các bên. Quản trị công ty về cơ bản là giải
quyết mâu thuẫn về lợi ích giữa cổ đơng và BGĐ, giữa cổ đông lớn và CĐTS. Tuy
nhiên vấn đề quản trị cơng ty tại Việt Nam vẫn cịn nhiều hạn chế khi mà việc cân
bằng lợi ích giữa các bên còn chưa được thực hiện hiệu quả, các mâu thuẫn về lợi
ích giữa cổ đơng lớn, người quản lý cơng ty với CĐTS vẫn còn tồn tại khá nhiều.
Bên cạnh sự hạn chế về quản trị trong CTCP, sự minh bạch thơng tin ở CTCP cũng

là một điểm thiếu sót trong vấn đề bảo vệ CĐTS. Tại Việt Nam, kết quả đánh giá về
công bố thông tin và minh bạch năm 2016 về doanh nghiệp niêm yết của Sở Giao
dịch Chứng khốn Hà Nội (HNX) cho thấy, chỉ có 5,8% doanh nghiệp niêm yết trên
HNX hiểu rõ được vai trò của tính minh bạch và áp dụng chuẩn mực quốc tế khi
xây dựng và cơng bố báo cáo tài chính. Báo cáo công bố thông tin và minh bạch
năm 2016 đã chỉ ra rằng, mặc dù điểm công bố thông tin và minh bạch năm 2016
tăng 0,5% so với năm 2015, nhưng xét trên phương diện bảo vệ quyền của cổ đơng
thì nhiều doanh nghiệp Việt Nam hiện nay vẫn chưa quan tâm thực hiện đầy đủ các
quy định luật pháp cũng như các nguyên tắc quản trị công ty về bảo vệ cổ đông,
nhất là đối với CĐTS và CĐTS là nhà đầu tư nước ngoài.30
Các doanh nghiệp niêm yết trên HNX năm 2016 đã có sự tiến bộ trong việc thực
hiện nguyên tắc A (Quyền cổ đông) nhưng thực hiện nguyên tắc B (Đối xử bình
đẳng với cổ đơng) lại có điểm số thấp hơn năm 2015.31

29

Đào Thị Mộng Phương (2017), “Nâng cao hiệu quả kinh doanh của Doanh nghiệp bất động sản khi tăng tỷ
lệ sở hữu nước ngồi”, Tạp chí tài chính, số 2 (653)/2017, tr. 32.

30

Dương Thanh Hải (2017) “Bảo vệ cổ đông nhỏ, đảm bảo thị trường chứng khoán hoạt động hiệu quả, minh

bạch”, Tạp chí Tài chính, số 6/2017, tr. 16.
Dương Thanh Hải, tlđd (17), tr. 17.

31

17



Xét ở góc độ đối xử bình đẳng với CĐTS cũng như đảm bảo quyền lợi cho các
CĐTS là nhà đầu tư nước ngoài, báo cáo của HNX cho thấy, có tới 93% doanh
nghiệp niêm yết chưa cơng bố báo cáo tài chính bằng tiếng Anh; 96% trang thơng
tin điện tử (website) của doanh nghiệp chưa công bố giấy mời họp và chương trình
họp đại hội đồng cổ đơng bằng tiếng Anh và có tới 99% doanh nghiệp niêm yết
chưa công bố nghị quyết và biên bản đại hội đồng cổ đơng bằng tiếng Anh.32
Mặc dù đã có sự cải thiện nhưng chỉ số bảo vệ CĐTS của Việt Nam vẫn còn thấp
hơn mức mà Organisation for Economic Cooperation and Development (OECD)
yêu cầu. Theo báo cáo của World Bank Doing Business 2017 thì chỉ số bảo vệ
CĐTS của Việt Nam là 5,3 điểm trong khi chỉ số yêu cầu của OECD là 6,5 điểm.
Cụ thể, các chỉ số thuộc nhóm bảo vệ CĐTS của Việt Nam đều thấp như mức độ
công bố thông tin là 7 điểm, chỉ số kiểm soát là 5 điểm, chỉ số minh bạch của doanh
nghiệp là 5 điểm.33
Trước tình hình thực tiễn Việt Nam có nền kinh tế đang phát triển nhanh, xu thế hội
nhập ngày càng mạnh mẽ nhưng chỉ số bảo vệ CĐTS vẫn cịn rất thấp thì chúng ta
cần phải nâng cao hơn nữa việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của CĐTS một
cách hiệu quả trên cả phương diện quy định pháp luật và thực tiễn áp dụng.

32

Dương Thanh Hải, tlđd (17), tr.17.

33

“Doing Business 2017”, truy cập ngày 06/7/2017.

18



KẾT LUẬN CHƯƠNG 1

Cho đến hiện nay, vẫn chưa có một khái niệm cụ thể được quy định trong pháp luật
về khái niệm CĐTS. Dù có nhiều cách hiểu về khái niệm này nhưng nhìn chung đều
có một điểm chung là “CĐTS là cổ đông nắm giữ quyền biểu quyết thiểu số chứ
không phải là phần vốn thiểu số. Họ sở hữu một tỷ lệ nhỏ cổ phần dưới 5%, tỷ lệ cụ
thể tùy thuộc vào quy mô của CTCP, và dưới bất cứ hình thức nào, họ cũng khơng
thể tham gia kiểm sốt cơng ty”.
Để bảo vệ CĐTS, tác giả đã đưa ra bốn cơ chế để bảo vệ CĐTS đó là: (i) bảo vệ
bằng những quy định của pháp luật, nhất là trong pháp luật doanh nghiệp và pháp
luật chứng khoán, phải thực thi pháp luật nghiêm minh; (ii) bảo vệ thơng qua cơ chế
tự điều chỉnh đó là Điều lệ công ty; (iii) bảo vệ thông qua quy tắc “mềm”; (iv) bảo
vệ thông qua cơ chế hoạt động của các hiệp hội cổ đông, quỹ nhà đầu tư.
Tác giả cũng đã đưa ra ba lý do chủ yếu để bảo vệ CĐTS đó là (i) CĐTS dễ bị xâm
phạm quyền lợi do nhiều nguyên nhân; (ii) vai trị của CĐTS là vơ cùng quan trọng
đối với sự tồn tại và phát triển của CTCP, của nền kinh tế quốc gia trong bối cảnh
hội nhập và phát triển vô cùng mạnh mẽ; (iii) thực trạng bảo vệ CĐTS của Việt
Nam hiện nay vẫn còn rất nhiều hạn chế.
Tầm quan trọng của vấn đề bảo vệ CĐTS trong CTCP dựa trên những cách thức và
biện pháp bảo vệ CĐTS đã được phân tích ở Chương 1 chính là cơ sở cho tác giả
tập trung nghiên cứu thực trạng pháp luật bảo vệ CĐTS và việc áp dụng nó trên
thực tiễn ở một số khía cạnh mới ở Chương 2 của khóa luận.

19


CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT BẢO VỆ QUYỀN LỢI CỦA CỔ
ĐÔNG THIỂU SỐ TRONG CÔNG TY CỔ PHẦN THEO PHÁP LUẬT VIỆT
NAM VÀ MỘT SỐ ĐỀ XUẤT
Thực trạng pháp luật Việt Nam hiện nay đã có rất nhiều quy định để bảo vệ

CĐTS vì sự thiệt thịi của nhóm cổ đơng này trong CTCP. Trong khóa luận của
mình, tác giả chỉ xin được đưa ra một số quy định và thực trạng áp dụng chúng để
bảo vệ CĐTS trong CTĐC là chủ yếu, tập trung ở bốn khía cạnh sau: quy định bảo
vệ CĐTS trước giao dịch nội bộ bất hợp pháp; bảo vệ họ trong quyền bầu thành
viên HĐQT, thành viên BKS; bảo vệ quyền triệu tập, tham gia, biểu quyết tại
ĐHĐCĐ của CĐTS; bảo vệ quyền thông tin của CĐTS.
Mục đích của việc nghiên cứu này là chỉ ra những quy định của pháp luật mà CĐTS
có thể áp dụng để bảo vệ mình, những hạn chế khi áp dụng trong tình hình hiện nay
của những quy định trên và một số đề xuất mà tác giả cho rằng có thể sử dụng để
khắc phục những hạn chế đó.
2.1.

Bảo vệ cổ đơng thiểu số thơng qua cơ chế kiểm sốt giao dịch nội

bộ ở cơng ty cổ phần
Sự phát sinh và tồn tại của những giao dịch nội bộ sẽ gây thiệt hại, tác động
tiêu cực đến CĐTS khi mà họ rất khó là người thực hiện và cũng khó để biết được
giao dịch đó. Sự bất cân xứng về thông tin đã tạo ra lợi thế khơng nhỏ cho hoạt
động mua, bán chứng khốn của cổ đông lớn, người quản lý công ty. Thông qua
việc biết được thơng tin nội bộ, họ có thể làm giảm thiểu các khoản lỗ hay phát sinh
khả năng sinh lợi từ hoạt động mua bán chứng khoán và điều này đồng nghĩa với
việc tăng khoản lỗ hay giảm thiểu lợi nhuận của CĐTS. Chính vì thế, nhu cầu kiểm
sốt các giao dịch nội bộ luôn tồn tại, không chỉ là mong muốn của riêng CĐTS mà
còn là của cả các công ty và các thành phần trong nền kinh tế cũng như Nhà nước
với vai trò điều hành CTĐC. Mặc dù vậy, với sự ngụy trang khéo léo và các thủ
thuật, mánh lới kinh doanh tinh vi, các giao dịch nội bộ có thể rất khó bị phát hiện
và việc kiểm soát chúng chưa bao giờ là bài toán đơn giản của các nhà quản lý.
Cho đến nay, với 103 quốc gia có thị trường chứng khốn được điều tra thì
có đến 87 quốc gia đã quy định về chống giao dịch nội bộ bất hợp pháp và có biện
pháp chế tài đối với hành vi này.34 Việt Nam cũng là một trong số 87 quốc gia đó.

34

Utpal Bhattacharya and Hazem Daouk (2002), The World Price of Insider Trading, Journal of Finance 57,

at 75 – 108, truy cập
ngày 17/7/2017.

20


×