Tải bản đầy đủ (.pdf) (86 trang)

Vai trò của viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự (2)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.52 MB, 86 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT DÂN SỰ
-----------***------------

TRẦN THỊ THU THUẬN
MSSV: 1055020407

VAI TRÒ CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN
TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ

Khóa luận tốt nghiệp cử nhân luật
Niên khóa: 2010 – 2014

Ngƣời hƣớng dẫn: GV Nguyễn Thị Hoài Trâm

TP.HCM - Năm 2014


LỜI CẢM ƠN
Trước hết, tác giả xin chân thành cảm ơn các thầy,
cô Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh đã tận
tình dạy bảo và truyền đạt những kiến thức trong suốt quá
trình học tập. Tác giả xin gửi lời cảm ơn chân thành và
lòng tri ân sâu sắc đến Cơ Nguyễn Thị Hồi Trâm, Giảng
viên Khoa Luật dân sự, người đã trực tiếp hướng dẫn tác
giả hoàn thành khóa luận này.
Tác giả cũng xin gửi lời cảm ơn đến quý cơ quan
Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hồ Chí Minh, tập thể
các thầy, cơ, nhân viên thư viện Trường Đại học Luật
thành phố Hồ Chí Minh - những người đã tạo điều kiện


thuận lợi cho tác giả trong việc tìm kiếm tài liệu tham
khảo để bổ sung cho những phần kiến thức cịn thiếu sót,
giúp tác giả hồn thành khóa luận.
Cuối cùng, tác giả xin gửi lời cảm ơn chân thành đến
gia đình, bạn bè đã giúp đỡ, hỗ trợ trong suốt quá trình
nghiên cứu để hồn thành khóa luận.
Xin chân thành cảm ơn.


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
1

BLTTDS năm 2004

2

Luật sửa đổi, bổ sung Luật sửa đổi, bổ sung một số điều Bộ luật tố tụng
năm 2011

3

Nghị

Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004

dân sự
quyết

05/2012/NQ-HĐTP


số Nghị quyết số 05/2012/NQ-HĐTP của Hội đồng
thẩm phán TANDTC hướng dẫn thi hành một số
quy định trong Phần thứ hai “Thủ tục giải quyết vụ
án tại Tòa án cấp sơ thẩm” của BLTTDS được sửa
đổi theo Luật sửa đổi, bổ sung năm 2011

4

Nghị

quyết

06/2012/NQ-HĐTP

số Nghị quyết số 06/2012/NQ-HĐTP của Hội đồng
thẩm phán TANDTC hướng dẫn thi hành một số
quy định trong Phần thứ ba “Thủ tục giải quyết vụ
án tại Tòa án cấp phúc thẩm” của BLTTDS được
sửa đổi theo Luật sửa đổi, bổ sung năm 2011

5

Thông tư liên tịch số Thông tư liên tịch số 04/2012/TTLT-VKSNDTC04/2012/TTLT

TANDTC ngày 01/8/2012 của VKSNDTC và
TANDTC hướng dẫn thi hành một số quy định của
BLTTDS về việc kiểm sát việc tuân theo pháp luật
trong tố tụng dân sự

6


Quy chế kiểm sát

Quy chế công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ
việc dân sự (Ban hành kèm theo Quyết định số
567/QĐ-VKSTC ngày 08/10/2012 của Viện
trưởng VKSNDTC)

7

Luật TCVKSND

Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân

8

HĐXX

Hội đồng xét xử

9

TTDS

Tố tụng dân sự

10

TA, TANDTC


Tòa án, Tòa án nhân dân tối cao

11

VKS, VKSNDTC

Viện kiểm sát, Viện kiểm sát nhân dân tối cao


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU ............................................................................................................1
CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VAI TRÒ CỦA VIỆN KIỂM
SÁT TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ ..........................................................................5
1.1. Chức năng, địa vị pháp lý của Viện kiểm sát trong mối quan hệ với các
cơ quan của bộ máy Nhà nƣớc và trong tố tụng dân sự ....................................5
1.1.1. Chức năng, địa vị pháp lý của Viện kiểm sát trong mối quan hệ với các
cơ quan của bộ máy Nhà nước............................................................................5
1.1.1.1. Chức năng của Viện kiểm sát trong bộ máy Nhà nước ....................5
1.1.1.2. Địa vị pháp lý của Viện kiểm sát trong mối quan hệ với các cơ
quan của bộ máy Nhà nước .............................................................................7
1.1.2. Chức năng, địa vị pháp lý của Viện kiểm sát trong tố tụng dân sự .........9
1.1.2.1. Chức năng của Viện kiểm sát trong tố tụng dân sự ..........................9
1.1.2.2. Địa vị pháp lý của Viện kiểm sát trong tố tụng dân sự ..................12
1.2. Vai trò của Viện kiểm sát trong hoạt động tố tụng dân sự qua các giai
đoạn phát triển của pháp luật Việt Nam trƣớc năm 2005 .............................. 14
1.2.1. Vai trò của Viện kiểm sát theo quy định của pháp luật giai đoạn từ năm
1945 đến năm 1960 ...........................................................................................14
1.2.2. Vai trò của Viện kiểm sát theo quy định của pháp luật giai đoạn từ năm
1960 đến năm 1989 ...........................................................................................16
1.2.3. Vai trò của Viện kiểm sát theo quy định của pháp luật giai đoạn từ năm

1989 đến trước 01/01/2005 ...............................................................................18
1.3. Vai trò của Viện kiểm sát trong hoạt động tố tụng dân sự của một số
nƣớc trên thế giới và so sánh với pháp luật Việt Nam.....................................19
1.3.1. Vai trò của Viện kiểm sát trong hoạt động tố tụng dân sự của một số
nước trên thế giới .............................................................................................. 20
1.3.1.1. Cơ quan công tố Hoa Kỳ trong tố tụng dân sự ............................... 20
1.3.1.2. Cơ quan công tố Pháp trong tố tụng dân sự ....................................20
1.3.1.3.
1.3.1.4.
1.3.1.5.
1.3.1.6.

Cơ quan công tố Nhật Bản trong tố tụng dân sự ............................ 21
Cơ quan cơng tố Cộng hịa Indonesia trong tố tụng dân sự ............22
Viện kiểm sát Liên bang Nga trong tố tụng dân sự ........................22
Viện kiểm sát Trung Quốc trong tố tụng dân sự ............................ 23


1.3.2. So sánh vai trò của Viện kiểm sát trong pháp luật tố tụng dân sự Việt
Nam với một số nước trên thế giới ....................................................................24
CHƢƠNG 2: VAI TRÒ CỦA VIỆN KIỂM SÁT TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ
THEO QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH..................................................28
2.1. Vai trò của Viện kiểm sát theo quy định pháp luật ở cấp sơ thẩm .........28
2.1.1. Kiểm sát hoạt động giải quyết vụ án dân sự..........................................28
2.1.1.1. Kiểm sát hoạt động thụ lý, trả lại đơn khởi kiện ............................ 28
2.1.1.2. Kiểm sát hoạt động chuẩn bị xét xử ...............................................29
2.1.1.3. Kiểm sát viên kiểm sát việc giải quyết vụ án tại phiên tòa ............31
2.1.1.4. Hoạt động kiểm sát sau phiên tòa và xem xét kháng nghị theo thủ
tục phúc thẩm ................................................................................................ 33
2.1.2. Kiểm sát hoạt động giải quyết việc dân sự ............................................34

2.1.2.1. Kiểm sát thông báo thụ lý, lập hồ sơ kiểm sát ................................ 34
2.1.2.2. Hoạt động kiểm sát tại phiên họp và sau phiên họp .......................35
2.2. Vai trò của Viện kiểm sát theo quy định pháp luật ở cấp phúc thẩm.....36
2.2.1. Kiểm sát hoạt động giải quyết vụ án dân sự..........................................36
2.2.1.1. Kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm ................................................36
2.2.1.2. Kiểm sát hoạt động chuẩn bị xét xử ...............................................37
2.2.1.3. Kiểm sát viên kiểm sát việc giải quyết vụ án tại phiên tòa ............38
2.2.1.4. Hoạt động kiểm sát sau phiên tòa và xem xét kháng nghị theo thủ
tục giám đốc thẩm, tái thẩm ..........................................................................40
2.2.2. Kiểm sát hoạt động giải quyết việc dân sự ............................................40
2.2.2.1. Kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm ................................................40
2.2.2.2. Kiểm sát viên kiểm sát việc xét kháng cáo, kháng nghị tại phiên họp
........................................................................................................41
2.3. Vai trò của Viện kiểm sát theo quy định pháp luật ở thủ tục giám đốc
thẩm, tái thẩm......................................................................................................41
2.3.1. Kiểm sát hoạt động giải quyết vụ án dân sự..........................................41
2.3.1.1. Kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm, lập hồ sơ kiểm
sát
........................................................................................................41
2.3.1.2. Hoạt động kiểm sát tại và sau phiên tòa giám đốc thẩm, tái thẩm .42
2.3.2. Kiểm sát hoạt động giải quyết việc dân sự ............................................43
2.3.3. Kiểm sát hoạt động xem xét lại quyết định của Hội đồng thẩm phán Tòa
án nhân dân tối cao ...........................................................................................44


2.4. Kiểm sát các bản án, quyết định giải quyết các vụ việc dân sự của Tòa
án ........................................................................................................................45
2.4.1. Kiểm sát bản án sơ thẩm, phúc thẩm .....................................................45
2.4.2. Kiểm sát quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm .......................................46
2.4.3. Kiểm sát các quyết định khác trong q trình Tịa án giải quyết vụ việc

dân sự ...............................................................................................................47
2.5. Kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của Tòa án .............................. 48
2.6. Kiểm sát hoạt động thi hành án trong tố tụng dân sự .............................. 49
CHƢƠNG 3: THỰC TIỄN VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO
VAI TRÒ CỦA VIỆN KIỂM SÁT TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ .....................51
3.1. Thực trạng hoạt động của Viện kiểm sát trong tố tụng dân sự ...............51
3.1.1. Thực trạng quy định của pháp luật về vai trò Viện kiểm sát .................51
3.1.2. Thực tiễn thực hiện công tác kiểm sát của Viện kiểm sát ......................57
3.2. Thực tiễn thực hiện công tác kiểm sát của Viện kiểm sát nhân dân thành
phố Hồ Chí Minh thơng qua báo cáo tổng kết từ năm 2009 đến năm 2013 ......
........................................................................................................................64
3.3. Một số kiến nghị nhằm nâng cao vai trò của Viện kiểm sát trong tố tụng
dân sự ...................................................................................................................69
3.3.1. Nâng cao trình độ đội ngũ Kiểm sát viên ..............................................69
3.3.2. Một số kiến nghị về quy định pháp luật nhằm nâng cao vai trò của Viện
kiểm sát trong tố tụng dân sự ............................................................................70
KẾT LUẬN ..............................................................................................................75


1

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trải qua hơn 50 năm thành lập, phát triển, chức năng và nhiệm vụ của Viện
kiểm sát trong bộ máy Nhà nước về cơ bản được quy định thống nhất. Viện kiểm
sát có chức năng thực hành quyền cơng tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp theo
quy định của Hiến pháp và pháp luật. Trong điều kiện nước ta đang ngày càng đẩy
mạnh cơng cuộc cơng nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước thì u cầu của ngun
tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa trở nên rất quan trọng. Do đó, thơng qua Nghị quyết
của Đảng đã nhấn mạnh đến công cuộc cải cách hệ thống các cơ quan tư pháp,

nhằm từng bước đổi mới cả về mặt tổ chức và hoạt động. Trên cơ sở cải cách tư
pháp, Quốc hội khóa XI, tại kỳ họp thứ 5, diễn ra từ ngày 11/5 đến ngày 15/6 năm
2004, đã thông qua Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004, đánh dấu một bước chuyển
quan trọng đối với cơ quan Viện kiểm sát. So với quy định trước đây, phạm vi kiểm
sát đã bị thu hẹp lại, chỉ tham gia kiểm sát đối với những vụ án mà Tòa án tiến hành
thu thập chứng cứ mà đương sự có khiếu nại; đối với những việc dân sự thuộc thẩm
quyền giải quyết của Tòa án; đối với những vụ việc dân sự mà Viện kiểm sát kháng
nghị theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm.
Tuy nhiên, qua năm 5 triển khai thực hiện, các quy định về thực hiện kiểm sát
việc tuân theo pháp luật trong Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 còn khá nhiều điểm
chưa hợp lý, tính khả thi trong thực tế chưa cao. Vì thế, đến năm 2011 thì Luật sửa
đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 đã được ban hành.
Theo đó, quy định về phạm vi kiểm sát của cơ quan Viện kiểm sát cũng đã được sửa
đổi lại cho phù hợp với thực tế và có tính khả thi cao hơn. Viện kiểm sát tham gia
tất cả các phiên họp sơ thẩm đối với các việc dân sự; các phiên tòa sơ thẩm đối với
những vụ án do Tòa án tiến hành thu thập chứng cứ hoặc đối tượng tranh chấp là tài
sản công, lợi ích cơng, quyền sử dụng đất, nhà ở hoặc có một bên đương sự là người
chưa thành niên, người có nhược điểm về thể chất, tâm thần; tham gia tất cả các
phiên tòa, phiên họp phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm. Mặc dù vậy, với quy định
của Bộ luật tố tụng dân sự hiện nay, Viện kiểm sát vẫn chưa phát huy hết được vai
trò như là một cơ quan kiểm sát thực thụ. Bởi lẽ, thực trạng quy định của pháp luật
còn nhiều điểm chưa rõ ràng, chưa có văn bản hướng dẫn cụ thể, dẫn đến cách hiểu
khơng thống nhất, gây khó khăn cho Viện kiểm sát khi vận dụng trên thực tế.


2

Trước thực trạng đó, địi hỏi phải có sự nghiên cứu một cách tồn diện, đầy
đủ về vai trị của Viện kiểm sát trong tố tụng dân sự, không chỉ dựa trên cơ sở
những quy định của pháp luật tố tụng dân sự mà phải kết hợp với đánh giá thực tiễn

hoạt động của Viện kiểm sát trong những năm gần đây. Từ đó, tìm ra những điểm
cịn hạn chế, nguyên nhân và đề xuất các giải pháp khắc phục, góp phần nâng cao
hơn nữa vai trị của Viện kiểm sát trong tố tụng dân sự. Đây là lý do mà tác giả chọn
đề tài “Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự” làm đề tài khóa
luận tốt nghiệp của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Sau đây, tác giả xin trình bày tình hình nghiên cứu dựa trên các luận văn
Thạc sĩ Luật học, luận văn cử nhân Luật, các bài viết được đăng trên tạp chí khoa
học, sách, báo,…Có thể kể đến như luận văn Thạc sĩ của Lưu Mỹ Linh (2009), Tổ
chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân cấp Huyện; luận văn cử nhân Luật
của Trần Ngọc Mai Phương (2013), Vai trò của Viện kiểm sát trong tố tụng dân sự,
của Lê Sỹ Linh (2010), Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự,
của Ngô Kim Phượng (2004), Sự tham gia của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng
dân sự. Bài viết trên tạp chí Tịa án nhân dân của TS.Nguyễn Thị Hoài Phương, Sự
tham gia của Viện kiểm sát nhân dân trong Tố tụng dân sự và những vấn đề đặt ra
cho việc sửa đổi BLTTDS; bài viết trên tạp chí luật học của tác giả Nguyễn Thị Thu
Hà, Về quyền kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm dân sự của Viện kiểm sát; bài viết
trên tạp chí kiểm sát của tác giả Phạm Vũ Ngọc Quang, Vai trò của Viện kiểm sát
trong tố tụng dân sự; của tác giả Nguyễn Ngọc Khánh, Vị trí, vai trò Viện kiểm sát
trong tố tụng dân sự theo u cầu cải cách tư pháp.
Nhìn chung, từ các góc độ tiếp cận khác nhau, các tác giả đã làm rõ được các
vấn đề lý luận chung về vai trò của Viện kiểm sát trong bộ máy Nhà nước và trong
pháp luật tố tụng, phân tích các quy định của pháp luật hiện hành, chứng minh được
sự cần thiết của hoạt động kiểm sát trong tố tụng dân sự. Tuy nhiên, khi thực hiện
việc tổng hợp tình hình nghiên cứu, tác giả nhận thấy nhiều vấn đề còn bỏ ngỏ, chưa
được quan tâm thỏa đáng. Mặc dù vậy, các công trình và bài viết trên đây, sẽ là
những tài liệu có giá trị tham khảo đáng kể giúp khóa luận được hoàn thiện hơn.
3. Mục tiêu đề tài
Với đề tài khóa luận này, tác giả muốn làm sáng tỏ những vấn đề lý luận
chung về vai trò của Viện kiểm sát trong pháp luật tố tụng dân sự hiện nay và thực



3

tiễn về các vấn đề liên quan đến công tác kiểm sát việc tuân theo pháp luật. Từ đó
giúp cơ quan Viện kiểm sát có cách nhìn nhận đúng đắn và rõ ràng hơn về vai trò
kiểm sát hoạt động tư pháp của mình trên cả phương diện lý luận và thực tiễn.
Vậy nên mục tiêu của đề tài khóa luận này là:
- Tìm hiểu những vấn đề lý luận chung về vai trò của Viện kiểm sát trong bộ
máy Nhà nước và trong pháp luật tố tụng dân sự.
- Phân tích các quy định của pháp luật tố tụng dân sự về vai trò của Viện kiểm
sát; đánh giá thực trạng các quy định pháp luật và thực tiễn áp dụng dựa trên các
tình huống trong thực tế, bản án của Toà án và các số liệu thu thập được qua báo
cáo tổng kết công tác kiểm sát của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hồ Chí Minh
từ năm 2009 đến năm 2013.
- Tìm ra những điểm cịn chưa hợp lý, chưa khả thi trong các quy định của
pháp luật về vai trò của Viện kiểm sát, từ đó đề xuất một số kiến nghị nhằm hồn
thiện các quy định đó.
Việc hồn thiện các quy định của pháp luật về vai trò của Viện kiểm sát
trong pháp luật tố tụng dân sự có ý nghĩa vơ cùng quan trọng, khơng chỉ góp phần
bảo vệ quyền lợi của các đương sự, bên thứ ba, lợi ích của Nhà nước mà còn bảo
đảm việc chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật, tuân thủ pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Đồng thời, nó cũng góp phần tạo nên một hành lang pháp lý hoàn chỉnh giúp cho cơ
quan Viện kiểm sát thuận tiện hơn trong việc áp dụng các quy định của pháp luật để
thực hiện công tác kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự của mình.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Trên cơ sở tiếp cận vấn đề ở trên, tác giả sẽ sử dụng các phương pháp nghiên
cứu như: phương pháp phân tích, phương pháp so sánh, phương pháp hệ thống,
phương pháp diễn dịch, quy nạp,…Đầu tiên, tác giả sẽ sử dụng phương pháp hệ
thống, tổng hợp các kiến thức một cách khái quát và đầy đủ nhất dựa trên các nguồn

tài liệu khác nhau như luận văn, khóa luận tốt nghiệp, sách, báo, tạp chí khoa học
pháp lý,…Tiếp theo, tác giả sử dụng phương pháp phân tích, so sánh chức năng, vị
trí, vai trị của cơ quan Viện kiểm sát (một số nước là mơ hình Viện Công tố) theo
quy định pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam với một số nước trên thế giới. Trên cơ
sở đó, tác giả sẽ tiếp tục phân tích các quy định của pháp luật tố tụng dân sự hiện
hành. Đồng thời khảo sát thực trạng áp dụng pháp luật về vấn đề này để tìm ra


4

những điểm bất cập còn tồn tại trong quy định của pháp luật hiện hành, từ đó đưa ra
một số định hướng nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật tố tụng dân sự nói
riêng và hệ thống pháp luật Việt Nam nói chung.
5. Đối tƣợng nghiên cứu
Những vấn đề pháp lý quy định về vị trí, vai trị và chức năng, nhiệm vụ của
Viện kiểm sát trong pháp luật tố tụng dân sự; thực trạng quy định của pháp luật và
thực tiễn thực hiện công tác kiểm sát của Viện kiểm sát; từ đó đề xuất các giải pháp
nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật và nâng cao hiệu quả hoạt động kiểm sát
trong thực tiễn của Viện kiểm sát.
6. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của đề tài là toàn bộ các quy định của pháp luật tố tụng
dân sự hiện hành liên quan đến chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật của
Viện kiểm sát. Với phạm vi là một bài khóa luận tốt nghiệp của sinh viên, tác giả sẽ
tìm hiểu sâu hơn về mặt lý luận và các quy định pháp luật về các vấn đề liên quan
đến công tác kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Viện kiểm sát. Việc tìm hiểu này
dựa trên cơ sở phân tích các quy định của pháp luật tố tụng dân sự hiện hành.
7. Ý nghĩa của khóa luận
Khóa luận góp phần làm sáng tỏ, nhận thức thêm những vấn đề lý luận về
pháp luật tố tụng dân sự nói chung và lý luận pháp luật tố tụng dân sự về vai trò của
Viện kiểm sát nói riêng. Nội dung bài khóa luận có thể dùng làm tài liệu tham khảo

khi học tập và nghiên cứu đến những vấn đề có liên quan.
8. Cơ cấu đề tài
Nội dung của đề tài gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về vai trò của Viện kiểm sát trong tố tụng
dân sự.
Chương 2: Vai trò của Viện kiểm sát trong tố tụng dân sự theo quy định pháp
luật hiện hành.
Chương 3: Thực tiễn và một số kiến nghị nhằm nâng cao vai trò của Viện
kiểm sát trong tố tụng dân sự.


5

CHƢƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VAI TRÒ CỦA VIỆN KIỂM SÁT
TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ
1.1. Chức năng, địa vị pháp lý của Viện kiểm sát trong mối quan hệ với các cơ
quan của bộ máy Nhà nƣớc và trong tố tụng dân sự
1.1.1. Chức năng, địa vị pháp lý của Viện kiểm sát trong mối quan hệ với các cơ
quan của bộ máy Nhà nước
1.1.1.1. Chức năng của Viện kiểm sát trong bộ máy Nhà nước
Viện kiểm sát là một trong những cơ quan có vị trí độc lập trong bộ máy Nhà
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, là một trong bốn hệ thống cơ quan cấu
thành nên bộ máy Nhà nước. VKS thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo
pháp luật và thực hành quyền công tố theo quy định của Hiến pháp và pháp luật.
Trải qua hơn 60 năm, ở nước ta đã tồn tại cả hai mơ hình là Viện cơng tố và Viện
kiểm sát. Mơ hình Viện cơng tố tồn tại ở nước ta từ năm 1945, do người Pháp du
nhập vào sau khi xâm chiếm Việt Nam làm thuộc địa.
Từ năm 1945 - 1950, Viện công tố nằm trong hệ thống TA, thực hiện nhiệm
vụ nhân danh Nhà nước buộc tội bị cáo trước phiên tòa. Sau cải cách tư pháp lần

thứ nhất năm 1950 thì chức năng của Viện cơng tố trong q trình giải quyết việc
hộ (việc dân sự) của TA đã được tăng cường. Năm 1958, khi hịa bình lập lại ở
miền Bắc thì Viện cơng tố được tách khỏi TA, hình thành hệ thống cơ quan cơng tố
độc lập trực thuộc Chính phủ. Cùng với chức năng cơng tố, Viện cơng tố cịn được
giao thực hiện chức năng giám sát hoạt động tư pháp. Tuy nhiên, mơ hình Viện
cơng tố này chỉ tồn tại trong vòng chưa đầy 2 năm.
Từ năm 1959 -1960, cách mạng nước ta bước vào giai đoạn phát triển mới giai đoạn vừa tiếp tục cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, vừa
tiến hành cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc. Trong giai đoạn này địi hỏi
phải có sự thống nhất hành động giữa nhân dân và nhà nước, pháp luật cần phải
được chấp hành một cách nghiêm chỉnh. Do đó, một yêu cầu cấp bách đặt ra là cần
phải tổ chức thiết chế VKS để kiểm sát việc tuân theo pháp luật. Mục đích nhằm giữ
vững pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo đảm cho pháp luật được chấp hành một cách
nghiêm chỉnh và thống nhất1. Trên cơ sở đó, Hiến pháp năm 1959 và Luật
1

Lê Hữu Thế, Một số đề xuất sửa đổi, bổ sung các quy định về Viện kiểm sát trong Hiến pháp năm 1992, tạp
chí kiểm sát số 01/2012, trang 21.


6

TCVKSND năm 1960 đã được ban hành, đánh dấu sự ra đời của VKS, là một hệ
thống cơ quan độc lập, có chức năng thực hành quyền cơng tố và giám sát việc tuân
thủ pháp luật trong tất cả các lĩnh vực hoạt động của Nhà nước - trừ hoạt động lập
pháp của Quốc hội và hoạt động hành pháp của Chính phủ. Mơ hình VKS tiếp tục
được ghi nhận trong các bản Hiến pháp năm 1980, năm 1992 và năm 2013. Tuy
nhiên, qua từng giai đoạn thì chức năng của cơ quan VKS đã có nhiều thay đổi.
Thứ nhất, về chức năng thực hành quyền công tố, được hiểu là quyền nhân
danh Nhà nước truy tố người có hành vi phạm tội ra TA. VKS là cơ quan duy nhất
trong bộ máy Nhà nước thực hành quyền công tố. Xuất phát từ bản chất mối quan

hệ pháp luật hình sự, đó là mối quan hệ phát sinh giữa Nhà nước và người phạm tội
khi có hành vi phạm tội xảy ra. Hành vi phạm tội này không chỉ ảnh hưởng đến bản
thân người bị hại mà nó cịn ảnh hưởng đến trật tự, an tồn xã hội nói chung. Chính
vì vậy, khơng phải ai khác ngồi Nhà nước sẽ là người đứng ra truy tố hành vi phạm
tội đó ra TA. Và quyền truy tố đó Nhà nước giao cho VKS đảm nhiệm. Xuất phát từ
bản chất các mối quan hệ phi hình sự như quan hệ pháp luật dân sự, kinh tế, lao
động là những quan hệ mang “tính chất tư”. Điều đó có nghĩa là những mối quan hệ
này là những mối quan hệ giữa các cá nhân, pháp nhân, tổ chức trong xã hội với
nhau trên cơ sở tự do, tự nguyện, bình đẳng cam kết, thỏa thuận. Do đó khi phát
sinh tranh chấp Nhà nước sẽ để cho các bên tự do thỏa thuận để giải quyết trên cơ
sở quy định của pháp luật. Nhà nước chỉ giám sát việc giải quyết đó nhằm bảo đảm
tính đúng đắn, hợp pháp, chứ khơng dùng quyền lực Nhà nước để truy tố ra TA.
Thứ hai, về chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp. Tại Điều 1 Luật
TCVKSND năm 1960, năm 1981, năm 1992 đều quy định VKS có chức năng kiểm
sát việc tuân theo pháp luật của các cơ quan từ cấp Bộ trở xuống, hay còn gọi là
chức năng “kiểm sát chung”. Với quy định này, VKS nắm trong tay quyền lực quá
lớn, có phạm vi kiểm sát quá rộng. Điều này sẽ dễ dẫn đến tình trạng lạm quyền và
chồng chéo với chức năng của các cơ quan Nhà nước khác. Chính vì lý do đó, tại
Điều 1 Luật TCVKSND năm 2002 đã thu hẹp phạm vi hoạt động của VKS, theo đó,
VKS khơng còn thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong các
lĩnh vực hành chính, kinh tế, xã hội mà tập trung thực hiện chức năng thực hành
quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp. Vấn đề này tiếp tục được khẳng
định tại Hiến pháp năm 2013: “Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố,


7

kiểm sát hoạt động tư pháp”2. Việc giới hạn lại chức năng của VKS là để VKS có
thể tập trung chuyên môn và chuyên sâu hơn, đồng thời để khắc phục những trùng
lặp về chức năng, nhiệm vụ trong tổ chức bộ máy Nhà nước.

1.1.1.2. Địa vị pháp lý của Viện kiểm sát trong mối quan hệ với các cơ quan
của bộ máy Nhà nước
Xem xét vấn đề địa vị pháp lý của VKS trong bộ máy Nhà nước, có thể thấy
trong từng giai đoạn thì VKS có địa vị pháp lý khác nhau. Cụ thể, giai đoạn từ năm
1945 - 1958, Viện công tố được đặt trong cơ cấu tổ chức của TA. Thời kỳ này xác
định rõ cơ quan công tố là cơ quan tư pháp, Công tố viên là các Thẩm phán đứng Thẩm phán buộc tội. Giai đoạn từ năm 1958 - 1959, Viện công tố tách khỏi TA, tổ
chức thành hệ thống 4 cấp trực thuộc Chính phủ, thuộc hệ thống hành pháp. Viện
trưởng Viện cơng tố có nhiệm vụ, quyền hạn như một Bộ trưởng của Chính phủ.
Giai đoạn từ năm 1959 - đến trước ngày 1/1/2014, nước ta đã trải qua các bản Hiến
pháp năm 1959, năm 1980, năm 1992, các bản Hiến pháp này đều đặt chế định VKS
vào cùng một chương với TA và cũng chưa khẳng định rõ VKS thuộc nhánh quyền
lực nào. Nhìn chung trong giai đoạn này VKS được tổ chức thành một hệ thống cơ
quan độc lập, thống nhất từ Trung ương đến địa phương, bao gồm VKSNDTC, các
VKS địa phương, Viện kiểm sát quân sự các cấp.
Giai đoạn từ 1/1/2014 - đến nay, Hiến pháp năm 2013 tiếp tục khẳng định vị trí
của VKS là một cơ quan Hiến định, độc lập trong bộ máy Nhà nước, song có quy
định khác hơn so với các bản Hiến pháp trước đây: “Viện kiểm sát nhân dân gồm
Viện kiểm sát nhân dân tối cao và các Viện kiểm sát khác do luật định”3. Như vậy,
thuật ngữ “các Viện kiểm sát địa phương” khơng cịn được sử dụng nữa mà thay
vào đó là thuật ngữ “các Viện kiểm sát khác”. Nguyên tắc cơ bản chi phối tổ chức
và hoạt động của VKS vẫn là nguyên tắc tập trung thống nhất lãnh đạo trong
Ngành. Bên cạnh đó, với tư cách là một cơ quan thuộc hệ thống bộ máy Nhà nước,
VKS cũng phải tuân theo những nguyên tắc chung về tổ chức và hoạt động của bộ
máy Nhà nước, đó là nguyên tắc tập trung dân chủ, có sự phân công và phối hợp
chặt chẽ giữa các cơ quan Nhà nước với nhau trong việc thực hiện ba quyền lập
pháp, hành pháp, tư pháp. Chức năng của VKS trong hệ thống bộ máy Nhà nước là
kiểm sát việc tuân theo pháp luật, thực hành quyền công tố. Để thực hiện tốt chức
2
3


Khoản 1 Điều 107 Hiến pháp năm 2013.
Khoản 2 Điều 107 Hiến pháp năm 2013.


8

năng này, VKS phải có những mối quan hệ về mặt công tác tổ chức với các cơ quan
khác trong bộ máy Nhà nước như Quốc hội, Chính phủ, Tịa án nhân dân, chính
quyền địa phương,…nhằm mục đích bảo vệ pháp chế, đảm bảo cho pháp luật được
chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất.
 Mối quan hệ giữa Viện kiểm sát với Quốc hội
Hiến pháp năm 2013 đã khẳng định Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất
của nhân dân, là cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất của nước ta4. Quốc hội thành
lập ra VKS và giao cho VKS chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát các
hoạt động tư pháp. Cụ thể, tại kỳ họp thứ 11 khóa X, ngày 02 tháng 4 năm 2002,
Quốc hội đã thông qua Luật TCVKSND năm 2002. Đồng thời, tại kỳ họp thứ 6,
khóa XIII, ngày 28 tháng 11 năm 2013, Quốc hội đã thông qua Hiến pháp năm
2013, tại Điều 107, Điều 108, Điều 109 đã quy định rõ nhiệm vụ, chức năng,
nguyên tắc tổ chức và hoạt động của VKS. Hiện nay Quốc hội đã giao cho
VKSNDTC chủ trì xây dựng Dự án Luật TCVKSND (sửa đổi). Đây chính là cơ sở
pháp lý để tổ chức và hoạt động của Ngành kiểm sát. Theo đó, Viện trưởng
VKSNDTC do Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm, theo đề nghị của Chủ tịch
nước. Viện trưởng VKSNDTC chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc
hội. Trong thời gian Quốc hội khơng họp thì báo cáo cơng tác trước Ủy ban thường
vụ Quốc hội và Chủ tịch nước, trả lời chất vấn, kiến nghị của đại biểu Quốc hội.
 Mối quan hệ giữa Viện kiểm sát với Chính phủ
Chính phủ là cơ quan hành chính Nhà nước cao nhất của nước ta, thực hiện
quyền hành pháp, là cơ quan chấp hành của Quốc hội5. Chính phủ gồm có Thủ
tướng Chính phủ, các Phó Thủ tướng, các Bộ trưởng và các Thủ trưởng cơ quan
ngang Bộ6. Như vậy, xét về mặt cơ cấu tổ chức, VKS không nằm trong hệ thống cơ

quan thuộc Chính phủ. Có thể thấy, Chính phủ và VKS đều là những cơ quan do
Quốc hội thành lập, nhưng đây là hai hệ thống cơ quan độc lập về tổ chức bộ máy,
chức năng và nhiệm vụ. Bởi lẽ, Chính phủ là cơ quan quản lý Nhà nước còn VKS
thuộc hệ thống cơ quan giám sát. Xét về mặt nghiệp vụ, VKS không chịu sự hướng
dẫn, chi phối điều hành chun mơn của Chính phủ. VKS với chức năng kiểm sát
hoạt động tư pháp, có nhiệm vụ thực hiện tốt chức năng này đối với các thành viên
4

Điều 69 Hiến pháp năm 2013.
Điều 94 Hiến pháp năm 2013.
6
Khoản 1 Điều 95 Hiến pháp năm 2013.
5


9

của Chính phủ là các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, đảm bảo cho
các cơ quan này hoạt động phù hợp với Hiến pháp và pháp luật. Tuy nhiên, để thực
hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mình, Chính phủ và VKS phải có cơ chế phối hợp
để đạt hiệu quả cao nhất trong việc thực hiện các mục tiêu chung của đất nước, góp
phần xây dựng đất nước ngày càng tiến bộ và phát triển hơn.
 Mối quan hệ giữa Viện kiểm sát với Tòa án nhân dân
Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước ta, thực hiện quyền tư pháp7. Tại
Chương 8 Hiến pháp năm 2013, Quốc hội đã cụ thể hóa các quy định về chức năng,
nhiệm vụ của VKS và TA. Như vậy, VKS và TA là các cơ quan do Quốc hội thành
lập, độc lập về tổ chức bộ máy và hoạt động nghiệp vụ. VKS với chức năng đã được
Hiến định, thực hiện việc kiểm sát việc tuân theo pháp luật quá trình xét xử, thi
hành án hình sự của TA; kiểm sát việc tuân theo pháp luật của TA trong việc giải
quyết các vụ việc dân sự theo quy định của pháp luật. Đồng thời, trong phạm vi

chức năng, nhiệm vụ của mình VKS có trách nhiệm phối hợp với TA để thực hiện
tốt công tác đấu tranh, phòng chống tội phạm và vi phạm pháp luật.
 Mối quan hệ giữa Viện kiểm sát với các cơ quan chính quyền địa phương
VKS là hệ thống cơ quan do Quốc hội thành lập, thừa hành quyền lực từ
Quốc hội, khơng thừa hành quyền lực từ chính quyền địa phương. Do đó, VKS độc
lập với cơ quan chính quyền địa phương về tổ chức bộ máy, chức năng và nhiệm
vụ. VKS cấp dưới thực hiện chức năng, nhiệm vụ theo chương trình, kế hoạch cơng
tác của VKS cấp trên. Mặt khác, theo Điều 8 Luật TCVKSND năm 2002 thì VKS
kiểm sát việc tuân theo pháp luật đối với các văn bản pháp quy của các cơ quan
chính quyền địa phương, đồng thời VKS còn phối hợp với các cơ quan này trong
cơng tác đấu tranh phịng chống vi phạm và tội phạm, đảm bảo tính thống nhất của
pháp chế.
1.1.2. Chức năng, địa vị pháp lý của Viện kiểm sát trong tố tụng dân sự
1.1.2.1. Chức năng của Viện kiểm sát trong tố tụng dân sự
VKS được thành lập từ năm 1960 cho đến nay đã trải qua hơn 50 năm tồn
tại, phát triển, thực hiện chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp và thực hành
quyền công tố theo quy định của Hiến pháp và pháp luật. Trong TTDS, VKS được
xác định là cơ quan tiến hành tố tụng, thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo
7

Khoản 1 Điều 102 Hiến pháp năm 2013.


10

pháp luật, thực hiện các quyền yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị theo quy định của
pháp luật nhằm bảo đảm việc giải quyết vụ việc dân sự kịp thời, đúng pháp luật.
Tuy nhiên, trong TTDS, quyền tự định đoạt của các đương sự luôn được tôn
trọng, trách nhiệm chứng minh của các đương sự được đề cao nên cần thiết phải hạn
chế tối đa sự can thiệp của các cơ quan cơng quyền vào q trình giải quyết vụ việc

dân sự. Chính vì vậy, kể từ khi BLTTDS năm 2004 được ban hành thì chức năng,
nhiệm vụ của VKS đã có nhiều sự thay đổi.
Về thẩm quyền khởi tố vụ án dân sự, BLTTDS năm 2004 đã bỏ đi thẩm quyền
khởi tố vụ án dân sự của VKS. Nếu như trong các pháp lệnh dân sự, lao động, kinh
tế trước đây quy định VKS có quyền khởi tố vụ án dân sự vì lợi ích chung thì
BLTTDS năm 2004 đã bỏ hẳn đi quyền khởi tố của VKS. Quy định này không chỉ
khác với các pháp lệnh tố tụng trước đây mà còn khác cả Luật TCVKSND được sửa
đổi bổ sung vào năm 2002. Xuất phát từ lý do “việc dân sự cốt ở đôi bên” nên khi
ban hành BLTTDS năm 2004 thì thẩm quyền khởi tố vụ án dân sự của VKS khơng
cịn nữa. Mục đích nhằm đảm bảo quyền tự định đoạt của các bên trong quan hệ dân
sự, nên nếu quy định VKS có thẩm quyền khởi tố thì VKS được xem như một bên
đương sự và như vậy sẽ làm mất đi sự bình đẳng giữa các bên, vì khi tham gia tại
phiên tịa thì VKS cịn có chức năng là một cơ quan kiểm sát việc tuân theo pháp
luật.
Về phạm vi tham gia phiên toà, BLTTDS năm 2004 đã thu hẹp phạm vi tham
gia của VKS trong TTDS. VKS không tham gia 100% các phiên toà như quy định
tại Điều 21 Luật TCVKSND năm 2002 mà chỉ tham gia các phiên toà đối với những
vụ án do TA thu thập chứng cứ mà đương sự có khiếu nại, các việc dân sự thuộc
thẩm quyền giải quyết của TA, các vụ việc dân sự mà VKS kháng nghị bản án,
quyết định của TA8. Tuy vậy, qua thực tiễn thi hành BLTTDS năm 2004 cho thấy
thì quy định này cịn có nhiều hạn chế, bất cập như chưa bảo đảm được kiểm sát,
giám sát các hoạt động TTDS, “đương sự có đơn đề nghị Viện kiểm sát tham gia
phiên tịa nhưng vì trong đơn họ khơng có khiếu nại về việc thu thập chứng cứ của
Tòa án nên Viện kiểm sát khơng thể tham gia phiên tịa theo yêu cầu của đương
sự”, nhiều vi phạm pháp luật trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự nhưng VKS
không phát hiện kịp thời để kháng nghị dẫn đến tình trạng “một số vụ việc dân sự

8

Điều 21 BLTTDS năm 2004.



11

giải quyết thiếu khách quan, không bảo vệ kịp thời tài sản của Nhà nước, của công
dân và đặc biệt những vụ việc dân sự mà đương sự là người yếu thế trong xã hội”9.
Để khắc phục những hạn chế này, tại khoản 3 Điều 1 Luật sửa đổi, bổ sung
năm 2011 đã sửa đổi lại phạm vi tham gia phiên tịa của VKS. Theo đó, VKS tham
gia các phiên họp sơ thẩm đối với các việc dân sự, các phiên tòa sơ thẩm do TA tiến
hành thu thập chứng cứ hoặc đối tượng tranh chấp là tài sản công, lợi ích cơng
cộng, quyền sử dụng đất, nhà ở hoặc có một bên đương sự là người chưa thành niên,
người có nhược điểm về thể chất, tâm thần; tham gia tất cả các phiên tòa, phiên họp
phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm. Việc sửa đổi này nhằm mục đích nâng cao
hiệu quả kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong TTDS, tránh tình trạng khép kín
trong TTDS, đảm bảo khách quan và hạn chế những vi phạm pháp luật trong giải
quyết các vụ việc dân sự, qua đó góp phần bảo đảm việc giải quyết các vụ việc dân
sự được đúng đắn.
Về phát biểu ý kiến của Kiểm sát viên tại phiên tòa sơ thẩm, Luật sửa đổi, bổ
sung năm 2011 đã sửa đổi cơ bản Điều 234 BLTTDS năm 2004 về nội dung quyền
phát biểu ý kiến của VKS tại phiên tồ. Theo đó, Kiểm sát viên chỉ phát biểu ý kiến
về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán,
HĐXX, về việc chấp hành pháp luật của những người tham gia tố tụng kể từ khi thụ
lý vụ án cho đến trước thời điểm HĐXX nghị án. Như vậy, tại phiên tồ sơ thẩm
VKS khơng có quyền đưa ra quan điểm, đường lối giải quyết về nội dung vụ án.
Về phạm vi kiểm sát, Luật sửa đổi, bổ sung năm 2011 đã sửa đổi theo hướng
mở rộng phạm vi kiểm sát, VKS thực hiện kiểm sát ngay từ khi TA nhận đơn khởi
kiện của đương sự. Trường hợp phát hiện những vụ việc dân sự TA trả lại đơn khởi
kiện không đúng với quy định tại Điều 168 BLTTDS năm 2004, thì VKS có trách
nhiệm kiến nghị với Chánh án TA cùng cấp và Chánh án TA cấp trên theo quy định
tại Điều 170 BLTTDS năm 2004 để khắc phục. Với việc quy định mở rộng thẩm

quyền trên đã tạo điều kiện cho VKS thực hiện tốt chức năng giám sát của mình,
đảm bảo cho việc giải quyết vụ việc dân sự được nhanh chóng, kịp thời, hạn chế
được những thiếu sót trong khi giải quyết vụ việc dân sự của TA. Đồng thời, bảo
đảm mọi bản án, quyết định của TA có căn cứ và đúng pháp luật, mọi bản án, quyết
định dân sự của TA đã có hiệu lực pháp luật được đưa ra thi hành đúng pháp luật.

9

Đặng Thanh Hoa (chủ biên), 2012, Bình luận khoa học BLTTDS sửa đổi, NXB Lao động, trang 23.


12

1.1.2.2. Địa vị pháp lý của Viện kiểm sát trong tố tụng dân sự
Địa vị pháp lý của VKS trong TTDS là một chế định có từ sớm trong lịch sử
lập pháp nước ta từ năm 1945, nhưng thực sự chưa được quy định cụ thể và chặt
chẽ. Bởi lẽ trong giai đoạn này, đất nước còn đang chiến tranh nên địa vị pháp lý
của VKS chủ yếu được thể hiện trong tố tụng hình sự. Địa vị pháp lý của VKS trong
một quan hệ pháp luật tố tụng được hiểu là tổng hợp các quy định pháp luật xác
định vị trí, vai trị và nhiệm vụ, quyền hạn của VKS trong quan hệ tố tụng đó. Trong
quan hệ pháp luật TTDS thì tổng hợp các quy định xác định vị trí, vai trị của VKS
trong Hiến pháp năm 2013, BLTTDS năm 2004 được sửa đổi, bổ sung năm 2011,
Luật TCVKSND năm 2002 chính là những văn bản pháp luật xác định địa vị pháp
lý của VKS trong pháp luật TTDS hiện hành. Khi tham gia trong quan hệ pháp luật
TTDS, địa vị pháp lý của VKS được thể hiện qua hai tư cách là cơ quan kiểm sát
việc tuân theo pháp luật của các chủ thể TTDS và là cơ quan tiến hành tố tụng.
Thứ nhất, Viện kiểm sát là cơ quan kiểm sát việc tuân theo pháp luật của các
chủ thể tố tụng dân sự.
Hiến pháp năm 2013 và Luật TCVKSND năm 2002 đều quy định VKS là cơ
quan thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp 10. Với vai trò là

một trong bốn cơ quan hợp thành bộ máy Nhà nước, VKS thực hiện những nhiệm
vụ mà pháp luật đã giao cho. Chẳng hạn, Hiến pháp năm 2013 đã quy định VKS có
nhiệm vụ bảo vệ pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ
xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ
chức, cá nhân, góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống
nhất11. Trong quan hệ TTDS, với vai trò là một cơ quan kiểm sát việc tuân theo
pháp luật, VKS có những nhiệm vụ, quyền hạn sau: tham gia kiểm sát hoạt động thụ
lý, trả lại đơn khởi kiện; tham gia phiên tòa, phiên họp; tham gia hỏi đương sự và
những người tham gia tố tụng khác tại phiên tòa và phát biểu ý kiến về việc giải
quyết vụ án; kiểm sát việc tuân theo pháp luật tại phiên tòa, phiên họp của HĐXX
và những người tham gia tố tụng; thực hiện quyền yêu cầu, kháng nghị đối với các
vi phạm của TA trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự theo quy định của pháp
luật,…Trong quá trình thực hiện chức năng kiểm sát, VKS phải tăng cường công
tác phát hiện vi phạm pháp luật nội dung, pháp luật tố tụng để thường xuyên thực
10
11

Khoản 1 Điều 107 Hiến pháp năm 2013 và Điều 1 Luật TCVKSND năm 2002.
Khoản 3 Điều 107 Hiến pháp năm 2013.


13

hiện kiến nghị với cơ quan xét xử qua từng vụ việc; định kỳ sáu tháng đầu năm, một
năm phải có kiến nghị tổng hợp vi phạm đối với cơ quan xét xử ngang cấp12,…
VKS với tư cách là cơ quan kiểm sát việc tuân theo pháp luật, có thể được
xem là một thiết chế song hành cùng với TA và cơ quan thi hành án. VKS tham gia
ngay từ giai đoạn thụ lý đơn, lập hồ sơ vụ việc cho đến khi TA ra bản án có hiệu lực
pháp luật và được cơ quan thi hành án đem ra thi hành. Với những quyền năng mà
pháp luật trao cho, VKS có nhiệm vụ giám sát để nhanh chóng phát hiện ra vi phạm,

từ đó có những kiến nghị để kịp thời khắc phục, bảo đảm cho hoạt động giải quyết
vụ án của TA, hoạt động thi hành án được diễn ra một cách đúng đắn.
Thứ hai, Viện kiểm sát là cơ quan tiến hành tố tụng.
Cơ quan tiến hành TTDS là những cơ quan Nhà nước có chức năng, nhiệm
vụ, quyền hạn được pháp luật nói chung và pháp luật TTDS nói riêng quy định
nhằm thực hiện nhiệm vụ giải quyết, xét xử các vụ việc dân sự; hoặc kiểm tra giám
sát việc tuân theo pháp luật trong toàn bộ hoạt động dân sự13. Tại Điều 39 BLTTDS
năm 2004 quy định cơ quan tiến hành tố tụng gồm TA và VKS. Trước đây, pháp
luật TTDS Việt Nam chưa quy định VKS là cơ quan tiến hành tố tụng, kể từ khi ban
hành BLTTDS năm 2004 thì VKS mới chính thức được xác định là cơ quan tiến
hành tố tụng. Tuy nhiên, thông qua việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được quy
định trong các pháp lệnh trước đây thì địa vị pháp lý của VKS cũng đã thể hiện
được phần nào. Chẳng hạn, theo quy định tại Điều 28 Pháp lệnh thủ tục giải quyết
vụ án dân sự năm 1989, VKS có quyền khởi tố một vụ án dân sự nếu như khơng có
ai khởi kiện. Theo đó, khi khởi tố một vụ án dân sự thì VKS có quyền và nghĩa vụ
như nguyên đơn, có trách nhiệm thu thập chứng cứ hoặc có thể yêu cầu cung cấp
chứng cứ để chứng minh cho quyết định khởi tố của mình là có căn cứ trừ nghĩa vụ
nộp lệ phí tố tụng. Hoặc khi tham gia tại phiên tòa, phiên họp thì bên cạnh việc thực
hiện nhiệm vụ giám sát, VKS cũng có quyền đưa ra yêu cầu, kiến nghị và có thể
kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm nếu xét thấy bản án,
quyết định đó có vi phạm pháp luật.
Là một trong hai cơ quan tiến hành tố tụng được xác định trong pháp luật
TTDS, VKS thực hiện những nhiệm vụ, quyền hạn nhất định. Cùng với sự phát
triển không ngừng của đất nước, yêu cầu pháp luật phải phù hợp và được vận dụng
12
13

Điều 1, Điều 3 và Điều 4 Quy chế kiểm sát.
ĐH Luật TP.HCM (2012), Giáo trình luật tố tụng dân sự Việt Nam, NXB Hồng Đức, trang 57.



14

hiệu quả trong thực tiễn, nhiều văn bản pháp lý mới trong TTDS đã được ban hành,
từ đó địa vị pháp lý của VKS cũng đã có nhiều sự thay đổi. Hiến pháp năm 2013,
Luật TCVKSND năm 2002 và đặc biệt là sự ra đời của BLTTDS năm 2004 có hiệu
lực ngày 01/01/2005 và Luật sửa đổi, bổ sung BLTTDS năm 2011 đã thay đổi cơ
bản về địa vị pháp lý của VKS trong TTDS. Với sự thay đổi trên đã tạo điều kiện
thuận lợi cho VKS thực hiện tốt chức năng giám sát của mình.
1.2. Vai trị của Viện kiểm sát trong hoạt động tố tụng dân sự qua các giai
đoạn phát triển của pháp luật Việt Nam trƣớc năm 2005
1.2.1. Vai trò của Viện kiểm sát theo quy định của pháp luật giai đoạn từ năm
1945 đến năm 1960
Sau cách mạng tháng tám năm 1945, hệ thống cơ quan tư pháp nói chung và
VKS nói riêng được hình thành và thực hiện chức năng, nhiệm vụ trên cơ sở các
quy định của pháp luật. Cụ thể, Sắc lệnh số 13/SL ngày 24/01/1946 về tổ chức các
TA và ngạch Thẩm phán; Sắc lệnh số 51/SL ngày 17/4/1946 về thẩm quyền các TA
và sự phân công giữa các nhân viên trong TA; Hiến pháp năm 1946; Sắc lệnh số
85/SL ngày 22/5/1950 về cải cách bộ máy tư pháp và luật tố tụng là những văn bản
đầu tiên xác định vai trị và vị trí của Cơng tố viên (hiện nay là Kiểm sát viên) trong
cơ cấu bộ máy Nhà nước thời bấy giờ14.
Theo quy định của Hiến pháp năm 1946 và các sắc lệnh có liên quan trong giai
đoạn từ năm 1945 đến năm 1957 cho thấy, Công tố viên nằm trong hệ thống TA với
các vai trò và chức năng tham gia vào việc dân sự, kinh tế, hành chính, hình sự, và
giám sát việc thi hành án. Sắc lệnh số 131/SL ngày 20/7/1946 ban hành bổ khuyết,
sửa đổi Sắc lệnh số 51/SL ngày 17/4/1946 đã quy định rõ nhiệm vụ của Công tố
viên. Tại Điều 26 của Sắc lệnh này quy định: “Cơng tố viên Tịa án tỉnh bắt buộc
phải có mặt tại các phiên tịa hình và hộ”. Và theo Điều 3 và Điều 17 Sắc lệnh số
13/SL đã chỉ rõ việc hộ bao gồm các việc về dân sự và thương sự. Như vậy, thời kỳ
này đã có quy định về vai trị của Cơng tố viên trong khi giải quyết các việc dân sự.

Tại Điều 22 Sắc lệnh số 131/SL và Nghị định 11 ngày 6/3/1948, đặt một hệ
thống tổ chức Công tố viên tại mỗi Hội đồng phúc án, Cơng tố viên chỉ có trong
Tòa đệ nhị cấp, tham gia giải quyết cả việc hình và hộ. Cơng tố viên theo quy định
14

Nguyễn Thị Hoài Phương, Sự tham gia của Viện kiểm sát nhân dân trong TTDS và những vấn đề đặt ra

cho việc sửa đổi BLTTDS, tạp chí Tịa án nhân dân số 24/2009, trang 9.


15

tại Sắc lệnh số 131/SL có nhiệm vụ giám sát việc tuân theo pháp luật và điều hành
công việc của tư pháp Công an. Trong bối cảnh đất nước mới giành được chính
quyền, yêu cầu đặt ra là phải thiết lập, củng cố các cơ quan Nhà nước, đồng thời
phải thành lập TA để xét xử các tội phạm và vi phạm. Do đó, trong những năm
1946 - 1950 thì vai trị của Cơng tố viên về “hình” phát triển hơn về “hộ”.
Sắc lệnh số 85/SL ngày 22/5/1950 về cải cách bộ máy tư pháp một lần nữa ghi
nhận vai trị của Cơng tố viên. Tại Điều 3 và Điều 17 Sắc lệnh số 13/SL đã chỉ rõ
việc hộ bao gồm các việc về dân sự và thương sự, nhưng lại quy định Cơng tố viên
chỉ có quyền kháng cáo về việc “hình”, mà bỏ sót việc “hộ”. Khi Sắc lệnh số 85/SL
được ban hành, đã bổ sung quy định này: “Cơng tố có quyền kháng nghị cả bản án
hay quyết định về dân sự của Tịa án. Cơng tố viên có quyền kháng cáo các bản án
hộ nếu thấy cần thiết, giao cho biện lý có quyền xét định một hồ sơ có cần phải
thẩm cứu hay khơng”, và biện lý chỉ giao cho phòng dự thẩm khi xét thấy cần thiết.
Để cụ thể hóa quy định này, Thơng tư số 21/TTg ngày 7/6/1950 của Thủ tướng
Chính phủ và Thông tư liên bộ số 18/BKT-TT ngày 08/6/1950 của Bộ kinh tế và Bộ
tư pháp đã quy định: “Công tố viên có quyền kháng cáo về việc hộ cũng như về việc
hình”, đánh dấu sự ra đời “quyền kiểm sát” của các cơ quan Công tố ở nước ta đối
với hoạt động tố tụng nói chung và hoạt động TTDS nói riêng. Với quy định này vai

trị của Cơng tố viên trong TTDS đã được khẳng định, pháp luật đã trao cho Công tố
viên kiểm sát hoạt động của TA và quyền kháng nghị bản án nếu xét thấy có vi
phạm pháp luật.
Tuy nhiên, sau khi cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc thắng lợi, Đảng
và Nhà nước ta đã nhận thấy cần phải phát triển nền tư pháp nước nhà, một công cụ
không thể thiếu nếu muốn đứng vững và trấn át được kẻ thù, đồng thời ổn định xã
hội, đưa đất nước phát triển. Ngày 29/4/1958 Viện Cơng tố chính thức được thành
lập, tách khỏi Bộ tư pháp và trực thuộc Chính phủ, là tiền thân của VKS hiện nay.
Ngày 01/7/1959 Phủ Thủ tướng ban hành Nghị định số 256-TTg quy định về nhiệm
vụ và tổ chức của Viện Công tố. Nghị định số 256 đã quy định rất rõ ràng về quyền
hạn của Viện công tố: “Giám sát việc chấp hành pháp luật của Tòa án, Viện cơng tố
có quyền khởi tố vụ án dân sự và tham gia tố tụng trong những vụ án dân sự quan
trọng liên quan đến lợi ích Quốc gia”. Xét riêng về lĩnh vực dân sự thấy rằng,
những quy định trong Nghị định trên còn một số hạn chế như chỉ nêu Viện công tố
khởi tố để bảo vệ lợi ích quan trọng của Nhà nước mà chưa đề cập đến lợi ích cơng


16

cộng khác cần phải được bảo vệ, chưa quy định cụ thể lợi ích của nhân dân bao gồm
những chủ thể nào trong đó,…Nhưng nhìn chung, Nghị định số 256-TTg ngày
01/7/1959 đã thể hiện tương đối đầy đủ tính chất, đặc điểm của chức năng cơng tố
và vị trí, vai trị của cơ quan Cơng tố theo thơng lệ chung của quốc tế15.
1.2.2. Vai trò của Viện kiểm sát theo quy định của pháp luật giai đoạn từ năm
1960 đến năm 1989
Với chiến thắng của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, cùng với việc
tiếp tục xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, đồng thời làm hậu thuẫn cho miền
Nam tiếp tục đấu tranh thống nhất đất nước, trong giai đoạn từ năm 1960 đến năm
1975, Đảng ta đã chỉ rõ những nhiệm vụ quan trọng cần làm: “Ra sức củng cố miền
Bắc, đưa miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội, tiếp tục đấu tranh thống nhất nước

nhà…”. Một trong những yêu cầu quan trọng để xây dựng thành công chủ nghĩa xã
hội ở miền Bắc lúc bấy giờ là phải bảo đảm pháp chế thống nhất, từ đó nảy sinh yêu
cầu phải có sự thống nhất giữa chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước với ý
chí, nguyện vọng của nhân dân trên các mặt của đời sống xã hội nhằm phục vụ công
cuộc cách mạng. Từ những yêu cầu trên, Đảng và Nhà nước ta đã vận dụng quan
điểm của Lê - nin trong tác phẩm “Bàn về song trùng trực thuộc và pháp chế” để
thành lập cơ quan VKS, một cơ quan nhà nước mới của Nhà nước xã hội chủ nghĩa
với nhiệm vụ bảo đảm pháp chế thống nhất16.
Để đáp ứng yêu cầu trên, tổ chức và hoạt động của Viện công tố trong giai
đoạn này đã có nhiều thay đổi, chế định VKS lần đầu tiên được ghi nhận trong trong
lịch sử lập hiến. Hiến pháp năm 1959 ra đời đã quy đinh một loại hình cơ quan mới
trong bộ máy Nhà nước, đó là hệ thống cơ quan VKS. Ngày 15/7/1960, Quốc hội
khóa 2, kỳ họp thứ nhất thơng qua Luật TCVKSND và được Chủ tịch Hồ Chí Minh
ký Sắc lệnh số 20 - LCT công bố ngày 26/7/1960, đây là một bước ngoặt lớn của
Ngành kiểm sát nhân dân. Khác với Hiến pháp năm 1946, tại Điều 105 Hiến pháp
năm 1959 xác định rõ chức năng của cơ quan VKS là: “kiểm sát việc tuân theo pháp
luật của các cơ quan thuộc Hội đồng Chính phủ, cơ quan Nhà nước địa phương,
các nhân viên cơ quan Nhà nước và công dân,…Đồng thời, tại Điều 107 Hiến pháp
15

Trịnh Huy Tân, Bàn về chức năng công tố và thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát nhân dân trong tố

tụng dân sự, hành chính, tạp chí kiểm sát số 02/2010, trang 24.
16

Phan Mỹ Linh, Tổ chức và hoạt động của Viên kiểm sát nhân dân cấp huyện, Luận văn thạc sĩ, trang 17.


17


năm 1959 quy định: “Viện kiểm sát nhân dân các cấp chỉ chịu sự lãnh đạo của Viện
kiểm sát nhân dân cấp trên và sự lãnh đạo thống nhất của Viện kiểm sát nhân dân
tối cao”. Có thể thấy theo quy định của Hiến pháp năm 1959 thì VKS đã được tổ
chức thành một hệ thống thống nhất, độc lập với cơ quan xét xử và cơ quan hành
chính, chỉ chịu trách nhiệm và báo cáo trước Quốc hội. Ngoài việc thừa kế chức
năng công tố và quyền giám sát tư pháp của Viện công tố giai đoạn trước, VKS thời
kỳ này còn được Nhà nước giao cho thực hiện cả chức năng kiểm sát việc tuân theo
pháp luật (kiểm sát chung) trên các lĩnh vực hành chính, kinh tế, xã hội và lĩnh vực
hoạt động tư pháp.
Nghị quyết số 01/1965 của Viện trưởng VKSNDTC và chỉ thị số 27/CT,
28/CT xác định đẩy mạnh công tác kiểm sát, phục vụ bảo vệ tài sản của tập thể, của
Nhà nước trong tình hình mới. VKS đóng vai trị quan trọng trong việc kiểm sát
việc tuân theo pháp luật nói chung và kiểm sát dân sự nói riêng. Trong cơng tác
kiểm sát dân sự, đã mở rộng việc tham gia của VKS vào kiểm sát các vấn đề về hôn
nhân - gia đình, tham gia giải quyết các vụ việc bảo vệ tài sản chủ nghĩa xã hội. Giai
đoạn 1960 - 1964 VKS tham gia giám sát để bảo vệ thực hiện chế độ hơn nhân tiến
bộ một vợ, một chồng…
Có thể thấy trong giai đoạn này, vai trò của VKS trong TTDS không ngừng
được tăng cường. Nếu như trước đây Viện kiểm sát (Viện Công tố) chỉ được ghi
nhận một cách đơn lẻ khơng hệ thống và thiếu tính đồng bộ, vai trị của Viện Cơng
tố trong tố tụng chỉ bao gồm quyền khởi tố và tham gia giải quyết các vụ việc liên
quan đến lợi ích quốc gia thì thời kỳ này, VKS đã làm công tác kiểm sát chung trên
nhiều mặt của đời sống, phát hiện được nhiều vi phạm và khởi tố vụ án dân sự. Đối
với việc tham gia tố tụng của VKS đã được mở rộng thẩm quyền và quyền hạn trên
nhiều lĩnh vực tố tụng, có thể nói đây là những sự ghi nhận đáng kể của pháp luật về
vai trò của VKS trong TTDS.
Sau năm 1975 khi đất nước hoàn toàn thống nhất, trên cơ sở đường lối và
nhiệm vụ cách mạng được đề ra tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng
(năm 1967), Hiến pháp năm 1980 được ban hành, tiếp đó Luật TCVKSND ngày
04/7/1981 có hiệu lực, tại Điều 6, 7, 12, 13, 14 Luật này đã cụ thể hóa những quy

định về vị trí, vai trị và nhiệm vụ, quyền hạn của VKS trong Hiến pháp năm 1980.
So với Hiến pháp năm 1959 thì vai trị, vị trí của VKS đã được khẳng định rõ hơn
và có những điểm bổ sung mới trong Hiến pháp năm 1980. Nhìn chung, giai đoạn


18

này vai trò của VKS đã được nâng cao, Luật TCVKSND năm 1981 đã trao cho
VKS cả ba quyền là quyền yêu cầu (khoản 1, 2, 3 Điều 7), kiến nghị (khoản 5 Điều
7), kháng nghị (khoản 4, 5 Điều 13) để thực hiện chức năng giám sát của mình. Bên
cạnh đó, VKS cũng có những quyền hạn như quyền khởi tố vụ án dân sự (khoản 6
Điều 13), tham gia tất cả các phiên tòa, phiên họp xét xử vụ việc dân sự.
1.2.3. Vai trò của Viện kiểm sát theo quy định của pháp luật giai đoạn từ năm
1989 đến trước 01/01/2005
Ngày 22/12/1988, Quốc hội thông qua luật sửa đổi, bổ sung Luật TCVKSND
năm 1981 và ban hành vào ngày 04/01/1989. Tiếp đó là một loạt các văn bản pháp
luật khác được ban hành như: Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự năm
1989, Pháp lệnh giải quyết các vụ án kinh tế năm 1994, Pháp lệnh giải quyết các vụ
án tranh chấp lao động năm 1996,…Sự ra đời của một loạt các văn bản pháp luật
này đã đánh dấu một sự phát triển mạnh mẽ trong lịch sử pháp luật TTDS Việt
Nam. Luật TCVKSND sửa đổi năm 1989 quy định cụ thể chi tiết hơn về nhiệm vụ,
quyền hạn của VKS trong việc giải quyết vụ án hình sự, dân sự và thực hiện cơng
tác kiểm sát chung. VKS cùng với các cơ quan tư pháp khác đã thực hiện tốt nhiệm
vụ cách mạng do Đại hội lần IV, V, VI của Đảng đề ra.
Đến đầu những năm 1990, khi chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông
Âu xụp đổ, dẫn đến cuộc khủng hoảng toàn diện sâu sắc của các nước xã hội chủ
nghĩa. Đứng trước tình hình đó, Đảng và Nhà nước ta vẫn kiên quyết đi theo con
đường xã hội chủ nghĩa và đổi mới mọi mặt của đời sống xã hội, ban hành ra Hiến
pháp năm 1992. Chế định VKS được Hiến pháp năm 1992 ghi nhận tại Chương X
gồm 5 điều (Điều 126, 137, 138, 139, 140) quy định về vị trí, chức năng, nhiệm vụ,

hệ thống tổ chức, hoạt động của VKS và sự giám sát của các cơ quan dân cử đối với
hoạt động của VKS. Các quy định của Hiến pháp năm 1992 về VKS thể hiện bước
đổi mới quan trọng đối với các bản Hiến pháp trước đây. Theo đó, một mặt tiếp tục
khẳng định chế độ làm việc theo nguyên tắc tập trung thống nhất lãnh đạo trong
Ngành, đề cao tính độc lập của VKS đối với các cơ quan Nhà nước (Điều 138).
Trên cơ sở các quy định tại Điều 137, 138, 139, 140 của Hiến pháp năm 1992, ngày
02/4/1992 Luật TCVKSND năm 1992 được Quốc hội ban hành cùng với Pháp lệnh
số 03/2002/PL-UBTVQH quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của Kiểm sát viên
nhằm cụ thể hóa quy định của Hiến pháp và Luật TCVKSND. Tại Chương II của
Pháp lệnh số 03/2002/PL-UBTVQH đã quy định Kiểm sát viên có những nhiệm vụ,


19

quyền hạn rộng hơn, liên quan đến chủ trương giữ vững trật tự, kỷ cương pháp luật,
tăng cường pháp chế trong điều kiện mới.
Tuy nhiên tại Đại hội lần thứ IX của Đảng chỉ rõ: “Viện kiểm sát nhân dân
thực hiện tốt chức năng công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp”, trên cơ sở quan
điểm chỉ đạo ngày 25/12/2001 Quốc hội thông qua Nghị quyết 51/2001/QH10 sửa
đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 1992, trong đó có Điều 137 quy định:
“Viện kiểm sát nhân dân tối cao thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư
pháp, góp phần bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống
nhất. Các Viện kiểm sát nhân dân địa phương thực hành quyền công tố và kiểm sát
các hoạt động tư pháp trong phạm vi trách nhiệm do luật định”, quy định này đã
thu hẹp chức năng của VKS, đã bỏ đi chức năng “kiểm sát chung” của VKS. Với
vai trò, nhiệm vụ mới, VKS đã chú trọng vào các lĩnh vực thuộc chức năng, nhiệm
vụ của mình. Trong đó có cơng tác kiểm sát việc giải quyết các vụ án hành chính,
vụ việc dân sự, toàn Ngành đã tập trung kiểm sát việc giải quyết các tranh chấp về
nhà ở, quyền sở hữu tài sản, về hơn nhân - gia đình, kinh doanh, thương mại, lao
động,…trong đó chú trọng kiểm sát các bản án, quyết định của TA, tích cực tham

gia các phiên tịa, phiên họp giải quyết vụ án hành chính, vụ việc dân sự ở các giai
đoạn sơ thẩm, phúc thẩm và giám đốc thẩm theo quy định của pháp luật. Qua công
tác kiểm sát việc giải quyết các vụ việc dân sự, VKS đã ban hành nhiều yêu cầu,
kiến nghị, kháng nghị nhằm khắc phục các vi phạm pháp luật,…
Vào năm 2001, Hiến pháp năm 1992 được sửa đổi, bổ sung và sau đó Luật
TCVKSND năm 2002 được ban hành chú trọng cả chức năng công tố và chức năng
kiểm sát hoạt động tư pháp nhằm thực hiện nhiệm vụ của công cuộc cải cách tư
pháp. Thời kỳ này, VKS tham gia trực tiếp tại phiên tòa xét xử các vụ án dân sự của
TA ở cả ba cấp. Kết quả tổng kết 04 năm triển khai Nghị quyết 08/NQ-TW ngày
02/01/2002 và sơ kết 03 năm thực hiện Nghị quyết 49/NQ-TW ngày 02/6/2005 của
Bộ Chính trị thấy rằng, hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt
động tư pháp của VKS từ năm 1945 đến trước 2005 đã góp phần quan trọng trong
việc bảo vệ lợi ích hợp pháp của nhà nước, cá nhân, cơ quan, tổ chức17.
1.3. Vai trò của Viện kiểm sát trong hoạt động tố tụng dân sự của một số nƣớc
trên thế giới và so sánh với pháp luật Việt Nam
17

Nguyễn Thị Hoài Phương, Sự tham gia của Viện kiểm sát nhân dân trong TTDS và những vấn đề đặt ra
cho việc sửa đổi BLTTDS, tạp chí Tịa án nhân dân số 24/2009, trang 10.


×