Tải bản đầy đủ (.doc) (125 trang)

Nghĩa vụ cấp dưỡng khi ly hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (17.09 MB, 125 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH

TRỊNH THỊ NGUYỆT

NGHĨA VỤ CẤP DƯỠNG KHI LY HƠN
THEO LUẬT HƠN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH LUẬT DÂN SỰ VÀ TỐ TỤNG DÂN SỰ


TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2021


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH

NGHĨA VỤ CẤP DƯỠNG KHI LY HƠN
THEO LUẬT HƠN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH VIỆT NAM

Chun ngành: Luật Dân sự và Tố tụng Dân sự
Định hướng nghiên cứu
Mã số: 8380103

Người hướng dẫn khoa học: Ts. Bùi Minh Hồng
Học viên: Trịnh Thị Nguyệt
Lớp: Cao học Luật, khóa 29

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2021



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn tốt nghiệp về “Nghĩa vụ cấp dưỡng khi ly hôn
theo Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam” là cơng trình nghiên cứu của riêng tơi,
có sự hỗ trợ từ giảng viên hướng dẫn là Tiến sĩ Bùi Minh Hồng. Các số liệu và
thơng tin trích dẫn nêu trong Luận văn là hồn tồn trung thực, có nguồn gốc rõ
ràng và được thể hiện đầy đủ trong phần danh mục tài liệu tham khảo.
Tác giả luận văn

Trịnh Thị Nguyệt


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU.........................................................................................................3
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CẤP DƯỠNG KHI LY HÔN.....8
1.1. Khái niệm cấp dưỡng khi ly hôn..................................................................8
1.1.1. Khái niệm cấp dưỡng...............................................................................8
1.1.2. Khái niệm và đặc điểm của nghĩa vụ cấp dưỡng khi ly hôn...................11
1.1.3. Ý nghĩa của việc điều chỉnh pháp luật về nghĩa vụ cấp dưỡng khi ly hôn.
..........................................................................................................................18
1.2. Điều kiện phát sinh nghĩa vụ cấp dưỡng khi ly hôn.................................19
1.3. Quy định về cấp dưỡng ở Việt Nam qua các thời kì.................................23
1.3.1. Giai đoạn trước Cách mạng Tháng 8 năm 1945....................................23
1.3.2. Giai đoạn từ năm 1945 đến nay.............................................................27
1.4. Quy định về cấp dưỡng khi ly hôn của một số quốc gia trên Thế giới. . .33
1.4.1. Pháp luật của Pháp................................................................................33
1.4.2. Pháp luật của Anh..................................................................................35
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1........................................................................................38
CHƯƠNG 2. PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN HÀNH VỀ CẤP DƯỠNG KHI
LY HÔN, THỰC TIỄN ÁP DỤNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN................39

2.1. Xác định nghĩa vụ cấp dưỡng khi ly hôn...................................................39
2.1.1. Quy định của pháp luật về xác định nghĩa vụ cấp dưỡng khi ly hôn.....39
2.1.2. Vướng mắc trong thực tiễn áp dụng và kiến nghị giải pháp xác định
nghĩa vụ cấp dưỡng khi ly hôn.........................................................................40
2.2. Mức cấp dưỡng............................................................................................46
2.2.1. Quy định của pháp luật về mức cấp dưỡng............................................46
2.2.2. Vướng mắc trong thực tiễn áp dụng và kiến nghị giải pháp xác định mức
cấp dưỡng.........................................................................................................48
2.3. Phương thức thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng.............................................52


2.3.1. Quy định của pháp luật về phương thức thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng
..........................................................................................................................52
2.3.2. Vướng mắc trong thực tiễn áp dụng và kiến nghị giải pháp xác định
phương thức cấp dưỡng...................................................................................54
2.4. Thay đổi, tạm ngừng cấp dưỡng.................................................................56
2.4.1. Quy định của pháp luật về thay đổi, tạm ngừng cấp dưỡng..................56
2.4.2. Vướng mắc trong thực tiễn áp dụng và kiến nghị giải pháp thay đổi, tạm
ngừng cấp dưỡng..............................................................................................57
2.5. Chấm dứt nghĩa vụ cấp dưỡng...................................................................59
2.5.1. Quy định của pháp luật về chấm dứt nghĩa vụ cấp dưỡng.....................59
2.5.2. Vướng mắc trong thực tiễn áp dụng và kiến nghị giải pháp về chấm dứt
nghĩa vụ cấp dưỡng..........................................................................................62
2.6. Thi hành bản án, quyết định về cấp dưỡng...............................................63
2.6.1. Quy định của pháp luật về thi hành bản án, quyết định về cấp dưỡng. .63
2.6.2. Vướng mắc trong thực tiễn áp dụng và kiến nghị giải pháp về thi hành
bản án, quyết định về cấp dưỡng......................................................................65
2.7. Trách nhiệm khi không thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng...........................67
2.7.1. Quy định của pháp luật về trách nhiệm khi không thực hiện nghĩa vụ
cấp dưỡng.........................................................................................................67

2.7.2. Vướng mắc trong thực tiễn áp dụng và kiến nghị giải pháp quy định
trách nhiệm khi không thực hiện cấp dưỡng....................................................68
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2........................................................................................71
KẾT LUẬN..............................................................................................................72
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Từ trước đến nay, gia đình vẫn ln được xem là tế bào của xã hội, gia đình
ấm no, hạnh phúc là thước đo chuẩn mực cho xã hội ổn định và phát triển. Bên cạnh
vai trò là tế bào của xã hội thì gia đình cịn là cái nơi, là nền tảng giáo dục bước đầu
và cực kì quan trọng đối với trẻ em – thế hệ tương lai của đất nước. Chính vì vậy,
việc xây dựng gia đình ấm no hạnh phúc khơng chỉ là trách nhiệm của riêng mỗi gia
đình mà còn là trách nhiệm chung của Nhà nước và của Xã hội. Tuy nhiên, cùng với
sự phát triển của kinh tế và xã hội, khi mà con người ngày càng được giải phóng cả
về vật chất lẫn tinh thần thì quan điểm và cái tơi cá nhân cũng từ đó ngày một tăng
lên, dẫn đến sự bất đồng trong suy nghĩ và khơng tìm được tiếng nói chung của
nhiều cặp vợ chồng - nguyên nhân khiến gia đình tan vỡ và ly hơn.
Trong gia đình, vai trị của người cha, người mẹ là vơ cùng quan trọng. Do
đó, khi cha mẹ ly hôn, con sẽ phải chịu nhiều thiệt thịi cả về vật chất lẫn tinh thần
vì khơng nhận được sự quan tâm, chăm sóc, ni dưỡng, giáo dục cùng một lúc của
cả cha và mẹ. Chính vì vậy, việc bù đắp cho con khi cha mẹ ly hôn thông qua việc
cấp dưỡng là hợp lý và rất cần thiết. Việc cấp dưỡng cho con khi cha mẹ ly hơn góp
phần chia sẻ gánh nặng với người trực tiếp nuôi dưỡng con sau khi ly hôn và tạo
nên sợi dây gắn kết giữa cha, mẹ - người không trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn
với những người con của mình. Bên cạnh vấn đề cấp dưỡng cho con khi cha mẹ ly
hơn thì cấp dưỡng giữa vợ và chồng khi ly hôn cũng là một vấn đề được Luật Hơn

nhân và gia đình quan tâm và đề cập đến. Quy định này thể hiện sự tiến bộ trong tư
duy của Nhà làm luật cũng như thể hiện tính nhân văn trong truyền thống văn hóa
dân tộc Việt Nam từ xưa đến nay.
Về mặt lý luận, cấp dưỡng khi ly hôn là cần thiết; về mặt pháp lý, điều khoản
về cấp dưỡng khi ly hôn đã được quy định khá đầy đủ. Tuy nhiên, từ lý luận và quy
định của luật đến thực tiễn áp dụng lại cách nhau một khoảng khá xa. Bằng chứng là
từ thực tiễn xét xử cho thấy, đa phần các vụ tranh chấp về vấn đề cấp dưỡng đều
liên quan đến việc trốn tránh thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng giữa cha, mẹ đối với con
khi ly hôn; việc yêu cầu vợ hoặc chồng cấp dưỡng cho người cịn lại khi gặp hồn
cảnh khó khăn là điều khó có thể thực thi trên thực tế vì có quy định nhưng lại thiếu
hướng dẫn cụ thể. Việc trốn tránh thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng sẽ dẫn đến nhiều hệ


2
lụy không mong muốn như: con phải sống trong điều kiện thiếu thốn về vật chất lẫn
tinh thần, không nhận được sự chăm sóc, giáo dục và quan tâm đầy đủ từ phía cha
mẹ của mình; vợ/chồng lâm vào hồn cảnh khó khăn nhưng lại khơng nhận được sự
giúp đỡ từ vợ/chồng cũ khi ly hôn – điều mà lẽ ra cần phải có và đã được pháp luật
cơng nhận từ lâu…
Từ thực tiễn trên cho thấy, việc giải quyết các vướng mắc về vấn đề cấp
dưỡng khi ly hôn là rất cấp thiết, góp phần đáp ứng trực tiếp nhu cầu của các bên
trong quan hệ cấp dưỡng; giúp làm giảm thiểu gánh nặng trợ cấp của xã hội và góp
phần hồn thiện các quy định pháp luật về cấp dưỡng. Đây chính là lý do tác giả
quyết định chọn đề tài “Nghĩa vụ cấp dưỡng khi ly hôn theo Luật Hơn nhân và gia
đình Việt Nam” làm Luận văn thạc sĩ luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Quy định về nghĩa vụ cấp dưỡng nói chung và nghĩa vụ cấp dưỡng khi ly hơn
nói riêng là những quy định giữ vai trò hết sức quan trọng trong hệ thống các quy
định của Luật Hôn nhân và gia đình. Chính vì vậy, các quy định này đã được nhiều
tác giả nghiên cứu ở nhiều cấp độ khác nhau. Tuy nhiên, theo tìm hiểu của tác giả

thì cho đến nay vẫn chưa có cơng trình khoa học nào nghiên cứu chuyên sâu một
cách đầy đủ và có hệ thống các vấn đề về: xác định nghĩa vụ cấp dưỡng, thời điểm
thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng, mức cấp dưỡng, phương thức cấp dưỡng, thay đổi
mức và phương thức cấp dưỡng, phương pháp đảm bảo thực hiện nghĩa vụ cấp
dưỡng và thi hành án bản án, quyết định về cấp dưỡng… khi ly hơn. Hầu hết các
cơng trình chỉ phân tích một cách khái quát các vấn đề vừa nêu theo quy định của
luật mà không đưa ra các bất cập và kiến nghị cụ thể hoặc chỉ phân tích các vấn đề
về cấp dưỡng khi ly hơn với khía cạnh là một phần của quy định về cấp dưỡng,
chưa có sự đầu tư nghiên cứu sâu rộng và riêng biệt về vấn đề này. Các cơng trình
nghiên cứu khoa học có liên quan đến vấn đề trong nghĩa vụ cấp dưỡng khi ly hơn
có thể kể đến như sau:
Trường Đại học Luật Hà Nội (2008), Giáo trình Luật Hơn nhân và gia đình
Việt Nam, Nhà xuất bản Cơng an nhân dân. Tại Chương VII của giáo trình, trình
bày về Quyền và nghĩa vụ cấp dưỡng giữa các thành viên trong gia đình, trong đó
đã phân tích về khái niệm quan hệ cấp dưỡng, quyền và nghĩa vụ cấp dưỡng giữa
các thành viên trong gia đình, chấm dứt quan hệ cấp dưỡng,… Nhìn chung, vấn đề


3
về cấp dưỡng cũng chỉ được phân tích một cách khái quát, cho người đọc hiểu được
các quy định của pháp luật về cấp dưỡng nói chung và có một phần nhỏ đề cập đến
cấp dưỡng giữa vợ, chồng khi ly hơn. Như vậy, những vấn đề khó khăn khi áp dụng
các quy định về cấp dưỡng khi ly hôn trên thực tế vẫn chưa nêu lên được. Do đó,
cũng không đưa ra được giải pháp khắc phục những hạn chế nổi cộm về cấp dưỡng
khi ly hôn như: mức cấp dưỡng, thời điểm thực hiện cấp dưỡng, phương thức cấp
dưỡng, thi hành bản án, quyết định về cấp dưỡng…
Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2016), Giáo trình Luật Hơn
nhân và gia đình Việt Nam, Nhà xuất bản Hồng Đức – Hội Luật gia Việt Nam. Tại
Chương VII của giáo trình, trình bày về Nghĩa vụ cấp dưỡng giữa các thành viên
trong gia đình, trong đó chủ yếu phân tích về khái niệm, đặc điểm và phân loại

nghĩa vụ cấp dưỡng; nội dung các quy định của pháp luật về cấp dưỡng như: mức
cấp dưỡng, phương thức cấp dưỡng, người có quyền u cầu Tịa án thực hiện nghĩa
vụ cấp dưỡng, các trường hợp cấp dưỡng… Vấn đề cấp dưỡng khi ly hơn chỉ trình
bày một cách khái quát, sơ lược, chưa chỉ rõ được những thiếu sót, bất cập trong các
quy định của pháp luật hiện hành với thực tiễn thực hiện về thực hiện nghĩa vụ cấp
dưỡng khi ly hôn để đề xuất các giải pháp phù hợp, đưa ra các kiến nghị xác đáng
cho việc hướng dẫn thi hành Luật Hôn nhân và gia đình.
Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2018), Sách tình huống (Bình
luận bản án) Luật Hơn nhân và gia đình, Nhà xuất bản Hồng Đức – Hội Luật gia
Việt Nam. Tại Phần 3, Chủ đề 22 của sách tình huống trình bày về xác định mức
cấp dưỡng và thời điểm bắt đầu cấp dưỡng của cha, mẹ đối với con khi cha mẹ
không tồn tại quan hệ hôn nhân hợp pháp. Với cách tiếp cận vấn đề từ việc phân
tích và bình luận bản án trên thực tế, Nhóm tác giả đã nêu được các bất cập cụ thể
về xác định mức cấp dưỡng và thời điểm bắt đầu cấp dưỡng của cha, mẹ đối với con
khi cha mẹ không tồn tại quan hệ hôn nhân hợp pháp. Tuy nhiên, về kiến nghị thì
Nhóm tác giả đưa ra định hướng là pháp luật nên có sự quy định cụ thể về mức cấp
dưỡng, thường xuyên cập nhật nội dung mới về vấn đề này; quy định người bị xâm
phạm quyền do sự trốn tránh việc thực hiện mối quan hệ cấp dưỡng có thể yêu cầu
bồi thường thiệt hại nếu có…mà khơng đưa ra phương pháp nào cụ thể.
Quách Văn Dương (2018), “Chế độ hôn nhân và chế độ tài sản của vợ chồng
theo pháp luật hôn nhân và gia đình”, Nhà xuất bản Tư pháp Hà Nội. Trong cuốn
sách này, tác giả chủ yếu phân tích chung các điều luật về chế độ hôn nhân và chế


4
độ tài sản của vợ chồng, các nội dung về vấn đề cấp dưỡng chỉ được nêu một cách
khái quát các quy định điều luật của Luật Hôn nhân và gia đình về cấp dưỡng,
khơng nêu lên được các bất cập, từ đó dẫn đến khơng nêu được các kiến nghị về
giải quyết bất cập về cấp dưỡng khi ly hôn trên thực tế.
Trần Thế Hệ (2015), “Thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng cho con khi cha mẹ ly

hơn cịn nhiều bất cập”, Tạp chí Luật sư Việt Nam, Số 5/2015. Trong bài viết này
tác giả đề cập đến một số bất cập trong các quy định của Luật Hôn nhân và gia đình
liên quan đến mức cấp dưỡng; thời điểm thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng; thi hành
bản án, quyết định về cấp dưỡng. Tuy nhiên, về mặt kiến nghị sửa đối, tác giả chỉ
nêu các biện pháp mang tính định hướng như: pháp luật cần quy định rõ ràng về
mức cấp dưỡng; nên có văn bản hướng dẫn về thời điểm thực hiện cấp dưỡng; cần
có chế tài cụ thể; nghiêm khắc hơn, kiên quyết xử lý đối với các hành vi vi phạm;
nâng cao trình độ chuyên môn của cán bộ thi hành án, nâng cao ý thức của Tòa án
và của người dân…những đề xuất này chỉ mang tính định hướng, chung chung và
khơng đưa ra được đề xuất cụ thể, rõ ràng.
Lê Thanh Lâm (2016), “Một số vấn đề về thời điểm bắt đầu cấp dưỡng ni
con sau ly hơn”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, Số 10/2016. Bài viết tập trung
phân tích điểm cịn thiếu của Luật Hơn nhân và gia đình trong việc quy định thời
điểm bắt đầu cấp dưỡng nuôi con sau khi ly hôn dẫn đến nhiều cách hiểu khác nhau
ở các Tòa án khác nhau, gây thiệt thòi cho người được cấp dưỡng. Cuối bài viết, tác
giả cũng đã nêu được phương án giải quyết bất cập trong hai trường hợp: Một là,
trường hợp một bên vợ/chồng không trực tiếp nuôi con từ trước ngày xét xử sơ
thẩm và sau khi xét xử sơ thẩm vẫn tiếp tục không giao con cho họ; Hai là, trường
hợp một bên vợ/chồng đang trực tiếp nuôi con từ trước ngày xét xử sơ thẩm nhưng
sau khi xét xử Tòa án quyết định không giao con cho họ. Hai phương án mà tác giả
Lê Thanh Lâm đưa ra, theo tác giả là hợp lý và thuyết phục.
Lê Hùng (2018), “Giải quyết quyền nuôi con và mức cấp dưỡng nuôi con khi
cha mẹ ly hơn như thế nào cho đúng?”, Tạp chí Luật sư Việt Nam, Số 1 + 2/2018.
Bài viết tập trung phân tích về giải quyết quyền ni con và mức cấp dưỡng. Đề
xuất đưa ra là cần yêu cầu Tòa án thu thập chứng cứ thể hiện mức sinh hoạt trung
bình của đứa trẻ tại địa phương sinh sống từ cơ quan quản lý nhà nước về gia đình
và trẻ em để có thể đưa ra mức cấp dưỡng hợp lý và phù hợp với hoàn cảnh tại địa
phương cũng như điều kiện của người cấp dưỡng.



5
Tóm lại, mặc dù đã có khá nhiều cơng trình cũng như bài viết đề cập đến vấn
đề cấp dưỡng trong hơn nhân gia đình nhưng những cơng trình nghiên cứu này chủ
yếu vẫn tập trung phân tích các vấn đề về cấp dưỡng nói chung hoặc chỉ xem vấn đề
cấp dưỡng khi ly hôn là một trong các hệ quả pháp lý của chế định về cấp dưỡng
nói chung, hoặc có phân tích riêng các vấn đề liên quan đến nghĩa vụ cấp dưỡng khi
ly hôn nhưng tạm thời chỉ dừng lại ở cấp độ các bài viết trên tạp chí, chưa đi sâu
vào phân tích một cách có hệ thống từ lý luận đến thực tiễn. Trước thực trạng tình
hình nghiên cứu như trên, tác giả nhận thấy sự cần thiết của việc nghiên cứu một
cách toàn diện từ lý luận đến thực tiễn để hoàn thiện các quy định của pháp luật về
nghĩa vụ cấp dưỡng khi ly hơn theo Luật Hơn nhân và gia đình Việt Nam. Trên cơ
sở đó, tác giả nghiên cứu đề tài một cách riêng biệt, có chiều sâu và tồn diện về
xác định nghĩa vụ cấp dưỡng, thời điểm thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng, mức cấp
dưỡng, phương thức cấp dưỡng, thay đổi mức cấp dưỡng, phương pháp đảm bảo
thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng và thi hành án bản án, quyết định về cấp dưỡng… khi
ly hôn, dựa trên những thành quả nghiên cứu của các cơng trình khoa học đã công
bố và thực tiễn xét xử hiện nay.
3. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Đề tài nghiên cứu nhằm đạt được các mục đích chủ yếu sau:
- Nghiên cứu các vấn đề lý luận chung về quan hệ cấp dưỡng, từ đó đi sâu
vào phân tích các trường hợp cần cấp dưỡng khi ly hôn.
- Đánh giá việc áp dụng pháp luật về cấp dưỡng trong quá trình giải quyết ly hôn.
- Trên cơ sở thực tiễn áp dụng pháp luật về cấp dưỡng, chỉ ra được những
vướng mắc, bất cập của các quy định pháp luật cũng như các khiếm khuyết, sai sót
trong cơng tác xét xử của Tồ án. Từ đó, đề xuất những kiến nghị và giải pháp hoàn
thiện nhằm đảm bảo chất lượng, hiệu quả của cơng tác xét xử; bảo vệ quyền, lợi
chính đáng của các con và của vợ/chồng khi ly hôn.
4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu của đề tài và phương pháp nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu các quy định của pháp luật hiện hành về vấn đề cấp dưỡng

khi ly hơn và phân tích thực tiễn áp dụng pháp luật về vấn đề này qua các bản án
của Tòa án.


6
4.2. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Luận văn chủ yếu tập trung nghiên cứu các quy định của Luật Hơn nhân và
gia đình năm 2014 và một số văn bản khác có liên quan về cấp dưỡng khi ly hôn.
Đồng thời, nghiên cứu việc áp dụng pháp luật về giải quyết các vấn đề của quan hệ
cấp dưỡng khi ly hôn thông qua các bản án, quyết định của Tồ án. Từ đó đưa ra
một số biện pháp để đảm bảo hiệu quả của việc xét xử và thi hành bản án, quyết
định về cấp dưỡng khi ly hôn trên thực tế.
4.3. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu mà tác giả áp dụng trong Luận văn:
Phương pháp phân tích, tổng hợp: đây là phương pháp mà tác giả sử
dụng xuyên suốt Chương 1 và Chương 2 để phân tích các thơng tin và dữ liệu
nghiên cứu, từ đó tổng hợp khái quát, hệ thống hóa kiến thức và rút ra nhận xét, đưa
ra quan điểm cá nhân.
Phương pháp bình luận án: đây là phương pháp được tác giả sử dụng
chủ yếu ở Chương 2 để làm rõ thực trạng về các phán quyết của Tòa án, kết hợp
phương pháp phân tích, tổng hợp để đưa ra những nhận xét, đánh giá, kiến nghị
hồn thiện pháp luật về hơn nhân và gia đình.
Phương pháp so sánh: đây cũng là phương pháp mà tác giả sử dụng
xuyên suốt trong quá trình nghiên cứu để làm rõ được vấn đề cần nghiên cứu, rút ra
được các kiến nghị.
5. Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng của đề tài
Đề tài chú trọng nghiên cứu, làm rõ các quy định pháp luật hiện hành về vấn
đề cấp dưỡng khi ly hôn, đồng thời, đánh giá việc áp dụng pháp luật về vấn đề này
qua cơng tác xét xử của tịa án từ khi Luật Hơn nhân và gia đình năm 2014 có hiệu
lực đến nay. Qua đó, phát hiện những vướng mắc, bất cập trong quy định của pháp

luật cũng như trong quá trình áp dụng pháp luật trên thực tế để giải quyết vấn đề cấp
dưỡng khi ly hôn.
Trên cơ sở các kết quả nghiên cứu, luận văn đề xuất một số kiến nghị hoàn
thiện pháp luật về vấn đề cấp dưỡng khi ly hôn nhằm đảm bảo chất lượng, hiệu quả
của công tác xét xử; bảo vệ quyền, lợi chính đáng của các con và của vợ/chồng khi
ly hơn.


7
Bên cạnh đó, kết quả nghiên cứu của đề tài cịn là một cơ sở dữ liệu có giá trị
tham khảo, góp phần phổ biến kiến thức pháp lý cho sinh viên, học viên, nhà nghiên
cứu cũng như những người làm cơng tác thực tiễn.
6. Bố cục của luận văn
Ngồi mục lục, phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ
lục, nội dung của luận văn gồm hai chương:
Chương 1. Những vấn đề chung về cấp dưỡng khi ly hôn.
Chương 2. Pháp luật Việt Nam hiện hành về cấp dưỡng khi ly hôn, thực tiễn
áp dụng và giải pháp hoàn thiện.


8
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CẤP DƯỠNG KHI LY HƠN
1.1. Khái niệm cấp dưỡng khi ly hơn
1.1.1. Khái niệm cấp dưỡng
Việc chăm sóc, ni dưỡng lẫn nhau vừa là quyền vừa là trách nhiệm của các
thành viên trong gia đình. Tuy nhiên, khơng phải lúc nào nghĩa vụ ni dưỡng cũng
có thể thực hiện được. Trong những hồn cảnh nhất định, người có nghĩa vụ ni
dưỡng có thể khơng có điều kiện thực hiện nghĩa vụ này của mình như khi họ phải
đi công tác xa, bị bệnh nặng kéo dài, phải chấp hành hình phạt tù… Để đảm bảo

cuộc sống bình thường của người được ni dưỡng, trong những trường hợp này,
nghĩa vụ cấp dưỡng được đặt ra1.
Cấp dưỡng là thuật ngữ thể hiện việc một người có nghĩa vụ đóng góp tiền
hoặc tài sản khác để đáp ứng nhu cầu thiết yếu của người không sống chung với
mình khi thỏa mãn các điều kiện theo quy định của Luật Hơn nhân và gia đình.
Nghĩa vụ cấp dưỡng không chỉ là nghĩa vụ pháp lý đơn thuần mà nó xuất phát từ
các quy phạm đạo đức được nâng lên thành luật. Do đó, các quy định về nghĩa vụ
cấp dưỡng nói chung nắm giữ vai trị rất quan trọng trong hệ thống các quy định của
Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam.
Trong khoa học pháp lý, nghĩa vụ cấp dưỡng đã tồn tại và có lịch sử phát
triển lâu đời. Từ xa xưa, trong Luật La Mã Cổ, vấn đề cấp dưỡng giữa cha mẹ và
con đã được đặt ra2. Ngày nay, các quy định về quan hệ cấp dưỡng vẫn được đề cập
trong pháp luật của nhiều quốc gia trên Thế giới. Tuy nhiên, tùy theo quan điểm lập
pháp và chính thể của các nhà nước mà khái niệm và nội dung của quan hệ cấp
dưỡng có sự khác nhau nhưng bản chất vẫn nhằm hướng đến giá trị to lớn về mặt
đạo đức và đề cao vai trị của tình cảm gia đình.
Theo Từ điển Luật học của trường Đại học Oxford ở Anh, “Cấp dưỡng là
cung cấp thức ăn, quần áo và những thứ cần thiết khác của cuộc sống. Theo đó, vợ
và chồng cấp dưỡng cho nhau; cha, mẹ cấp dưỡng cho con chưa thành niên khơng
kể cha mẹ có kết hơn hay không kết hôn”3.
Trường Đại học Luật Hà Nội (2012), Giáo trình Luật Hơn nhân và gia đình Việt Nam, Nxb Công an nhân
dân, tr. 208.
2
Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2016), Giáo trình Luật Hơn nhân và gia đình Việt Nam,
Nxb Hồng Đức – Hội Luật gia Việt Nam, tr. 371.
3
Oxford University press, Dictiontary of law (third edition), tr.239.
1



9
Theo Từ điển Tiếng Việt của Viện ngôn ngữ học năm 2006, “Cấp dưỡng là
cung cấp cho người già hoặc yếu những thứ cần thiết cho đời sống”4. Theo Từ
điển từ Hán Việt thì: “Cấp dưỡng là cung cấp cho người già yếu những thứ cần
thiết cho cuộc sống”5.
Theo dòng thời gian, nghĩa vụ cấp dưỡng đã được quy định trong hệ thống
pháp luật Việt Nam từ rất sớm6 và trong từng giai đoạn lịch sử khác nhau thì quan
hệ cấp dưỡng cũng được điều chỉnh khác nhau tùy theo sự biến đổi của xã hội từng
thời kì. Sau khi miền Bắc được giải phóng, Luật Hơn nhân và gia đình năm 1959 đã
quy định về vấn đề cấp dưỡng nhưng không nhiều. Trước yêu cầu bức thiết trong sự
phát triển của đất nước, dựa trên nền tảng các quy định của Luật Hơn nhân và gia
đình năm 1959, Luật Hơn nhân và gia đình năm 1986 được ban hành, trong đó đã
kế thừa và phát triển các quy định về cấp dưỡng, tuy nhiên, các quy định này chưa
đầy đủ và khơng có tính hệ thống. Với sự ra đời của Luật Hơn nhân và gia đình năm
2000, khái niệm cấp dưỡng chính thức được quy định trong Luật và các quy định về
cấp dưỡng cũng được xây dựng thành một chương riêng biệt. Cụ thể, khái niệm cấp
dưỡng được quy định tại khoản 11 Điều 8 như sau: “Cấp dưỡng là việc một người
có nghĩa vụ đóng góp tiền hoặc tài sản khác để đáp ứng nhu cầu thiết yếu của
người khơng sống chung với mình mà có quan hệ hôn nhân, huyết thống hoặc nuôi
dưỡng trong trường hợp người đó là người chưa thành niên, người đã thành niên
mà khơng có khả năng lao động và khơng có tài sản để tự ni mình hoặc người
gặp khó khăn, túng thiếu theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình”. Luật Hơn
nhân và gia đình năm 2014 cũng kế thừa và giữ nguyên khái niệm về cấp dưỡng
như trên tại khoản 24, Điều 3.
Có thể nói, khái niệm cấp dưỡng nêu trên đã khái quát một cách khá đầy đủ
những nội dung cơ bản của quan hệ cấp dưỡng như: chủ thể của quan hệ cấp dưỡng,
điều kiện phát sinh nghĩa vụ cấp dưỡng và mục đích của việc cấp dưỡng. Chủ thể
của nghĩa vụ cấp dưỡng bao gồm hai đối tượng là: người có nghĩa vụ cấp dưỡng và
người được cấp dưỡng. Trong đó, người có nghĩa vụ cấp dưỡng là người không
sống chung với người mà mình có nghĩa vụ ni dưỡng và giữa họ có tồn tại quan

hệ hơn nhân, huyết thống hoặc ni dưỡng. Người được cấp dưỡng là người chưa
Viện Ngôn ngữ học (2006), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng – Trung tâm từ điển học, tr.124.
Phan Văn Các (2001), Từ điển từ Hán Việt, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, tr.71.
6
Tìm hiểu thêm các Bộ luật của nhà Lê như Bộ luật Hồng Đức, Hồng Đức Thiện Chính Thư và Bộ luật Gia
Long của nhà Nguyễn.
4
5


10
thành niên, người đã thành niên nhưng khơng có khả năng lao động và khơng có tài
sản để tự ni mình hoặc người gặp khó khăn, túng thiếu theo quy định của Luật
Hơn nhân và gia đình. Điều kiện thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng là người có nghĩa vụ
cấp dưỡng và người được cấp dưỡng không sống chung với nhau. Mục đích thực
hiện nghĩa vụ cấp dưỡng là đóng góp tiền hoặc tài sản khác để đáp ứng nhu cầu
thiết yếu của người được cấp dưỡng.
Về bản chất, nghĩa vụ cấp dưỡng được đặt ra khi người có nghĩa vụ nuôi
dưỡng không sống chung với người được cấp dưỡng hoặc có sống chung nhưng lại
vi phạm nghĩa vụ ni dưỡng. Xét dưới góc độ quy định của luật cho thấy nghĩa vụ
ni dưỡng và nghĩa vụ cấp dưỡng có mối quan hệ nội tại với nhau. Theo như nhận
định của TS Nguyễn Ngọc Điện, “Một cách tổng quát, nghĩa vụ cấp dưỡng có thể
được coi là một hình thức thực hiện nghĩa vụ ni dưỡng. Và hình thức này xuất
hiện khi các bên trong quan hệ nuôi dưỡng không còn chung sống dưới một mái
nhà hoặc giữa họ quan hệ tình cảm đã diễn biến theo chiều hướng xấu đến mức việc
thực hiện nghĩa vụ nuôi dưỡng không thể dựa vào ý thức tự giác của người có nghĩa
vụ cấp dưỡng”7. Để đảm bảo tối đa quyền lợi của chủ thể được cấp dưỡng thì ta cần
phân biệt rõ sự khác nhau giữa nghĩa vụ cấp dưỡng và nghĩa vụ ni dưỡng.
Theo đó, nghĩa vụ cấp dưỡng và nghĩa vụ nuôi dưỡng là hai nghĩa vụ đặc thù
phát sinh giữa những người có mối quan hệ hơn nhân, huyết thống hoặc nuôi

dưỡng. Nuôi dưỡng và cấp dưỡng không chỉ là một nghĩa vụ pháp lý đơn thuần, mà
còn là một nghĩa vụ đạo đức xuất phát từ bản năng con người 8. Riêng chủ thể có
mối quan hệ thiết lập dựa trên cơ sở hơn nhân thì pháp luật không quy định nghĩa
vụ nuôi dưỡng nhưng vẫn đặt ra nghĩa vụ cấp dưỡng xuất phát từ đạo lý vợ chồng
được quy định trong Hiến pháp. Nghĩa vụ nuôi dưỡng được hiểu là việc cung cấp
những điều kiện về vật chất như ăn, mặc, ở, đi lại và điều kiện về tinh thần như sự
quan tâm chăm sóc, yêu thương và chia sẻ giữa các thành viên trong gia đình. Khi
người có nghĩa vụ ni dưỡng khơng trực tiếp chăm sóc, khơng sống chung với
người được cấp dưỡng, hoặc người có nghĩa vụ ni dưỡng trốn tránh thực hiện
nghĩa vụ ni dưỡng thì nghĩa vụ cấp dưỡng được đặt ra. Như vậy, điểm khác biệt
mấu chốt làm phát sinh nghĩa vụ nuôi dưỡng và nghĩa vụ cấp dưỡng nằm ở yếu tố
không gian. Tức là, trong quan hệ nuôi dưỡng, người có nghĩa vụ ni dưỡng và
Nguyễn Ngọc Điện (2005), Bình luận khoa học Luật Hơn nhân và gia đình, Nxb Trẻ, tr.387.
Ngô Thị Hường (2005), “Mối quan hệ giữa nghĩa vụ nuôi dưỡng và nghĩa vụ cấp dưỡng trong Luật Hơn
nhân và gia đình”, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, Số 04, tr.13.
7
8


11
người được nuôi dưỡng sống chung với nhau. Ngược lại, trong quan hệ cấp dưỡng,
người có nghĩa vụ cấp dưỡng và người được cấp dưỡng không sống chung với nhau
hoặc trong trường hợp đặc biệt là mặc dù họ có sống chung với nhau nhưng lại có
sự vi phạm về nghĩa vụ nuôi dưỡng. Về nội dung, nếu như người có nghĩa vụ ni
dưỡng phải trực tiếp thực hiện các công việc cần thiết để đáp ứng nhu cầu của người
được ni dưỡng thì người có nghĩa vụ cấp dưỡng chỉ phải đóng góp tài sản để
phục vụ cho việc ni dưỡng.
Ngồi điểm khác biệt cơ bản về khơng gian và về nội dung, nghĩa vụ nuôi
dưỡng và nghĩa vụ cấp dưỡng cịn có sự khác biệt về chế tài đảm bảo thực hiện
nghĩa vụ. Theo đó, trong trường hợp người có nghĩa vụ ni dưỡng trốn tránh

khơng thực hiện nghĩa vụ thì Tịa án buộc họ phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng.
Nếu người có nghĩa vụ cấp dưỡng khơng thực hiện hoặc trốn tránh thực hiện nghĩa
vụ thì họ có thể bị áp dụng các biện pháp bảo đảm thi hành nghĩa vụ của Nhà nước
về dân sự, hành chính hoặc hình sự (nếu gây ra hậu quả nghiêm trọng). Tùy vào khả
năng của mỗi gia đình, mức nuôi dưỡng cao hay thấp phụ thuộc vào yếu tố kinh tế
của bên có nghĩa vụ ni dưỡng. Ngược lại, mức cấp dưỡng được xác định dựa trên
nhu cầu thiết yếu của người được cấp dưỡng và khả năng thực tế của người có nghĩa
vụ cấp dưỡng, nếu các bên khơng thỏa thuận được thì u cầu Tịa án giải quyết.
Tóm lại, cấp dưỡng là một khái niệm rất gần với nuôi dưỡng, nhưng giữa
chúng vẫn tồn tại những điểm khác biệt cơ bản. Việc xác định mối quan hệ giữa
nghĩa vụ nuôi dưỡng và nghĩa vụ cấp dưỡng trong Luật Hơn nhân và gia đình là cần
thiết, góp phần làm sáng tỏ bản chất, đặc điểm của nghĩa vụ cấp dưỡng và tầm quan
trọng của việc quy định nghĩa vụ cấp dưỡng trong Luật Hơn nhân và gia đình, bảo
vệ một cách tối ưu quyền lợi của các bên trong quan hệ cấp dưỡng.
1.1.2. Khái niệm và đặc điểm của nghĩa vụ cấp dưỡng khi ly hôn
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, hơn nhân (trong đó có ly hơn) là
hiện tượng xã hội, mang tính giai cấp sâu sắc. Ly hôn là một mặt của quan hệ hơn
nhân, nếu kết hơn là hiện tượng bình thường nhằm xác lập quan hệ vợ chồng thì ly
hơn là hiện tượng bất bình thường, là mặt trái của hơn nhân nhưng là mặt không thể
thiếu được khi quan hệ hôn nhân đã thực sự tan vỡ 9. Bản chất của hôn nhân theo
quan điểm của Nhà nước xã hội chủ nghĩa là hôn nhân tự nguyện và tiến bộ, đảm
bảo quyền tự do hôn nhân bao gồm quyền tự do kết hôn của nam, nữ và quyền tự do
9

Trường Đại học Luật Hà Nội (2012), tldd (1), tr. 251.


12
ly hơn của vợ chồng. Các Mác đã từng nói: “Người ta không thể là một người dân
chủ và xã hội chủ nghĩa nếu ngay từ bây giờ khơng địi quyền hồn tồn tự do ly

hơn, vì thiếu quyền tự do ấy là một sự ức hiếp lớn đối với giới bị áp bức, đối với phụ
nữ. Tuy hoàn toàn chẳng khó khăn gì mà khơng hiểu được rằng khi ta thừa nhận
cho phụ nữ tự do bỏ chồng thì không phải là ta khuyên tất cả họ bỏ chồng”10. Điều
này một lần nữa khẳng định: khơng thể có tự do hôn nhân nếu pháp luật không công
nhận quyền tự do ly hôn. Thực tế cho thấy, khi đời sống tình cảm yêu thương giữa
vợ chồng đã hết, mâu thuẫn gia đình sâu sắc, mục đích hơn nhân khơng đạt được,
đời sống chung khơng thể kéo dài thì vấn đề ly hôn được đặt ra là tất yếu và cần
thiết nhằm giải phóng cho vợ chồng, con cái và các thành viên trong gia đình thốt
khỏi những xung đột, bế tắc trong đời sống chung. Tuy nhiên, cần nhấn mạnh rằng,
pháp luật công nhận quyền tự do ly hôn không đồng nghĩa với việc cho ly hôn một
cách tùy tiện mà phải giải quyết ly hơn theo trình tự, thủ tục theo quy định của luật.
Trong hệ thống pháp luật Việt Nam hiện hành, quyền ly hôn đã được công
nhận trong văn bản pháp luật có giá trị cao nhất đó là Hiến pháp. Cụ thể, Hiến pháp
năm 2013 quy định: “Nam, nữ có quyền kết hôn, ly hôn. Hôn nhân theo nguyên tắc tự
nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng, tơn trọng lẫn nhau”11. Dựa
trên tinh thần quy định của Hiến pháp, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 cũng đã
đưa ra khái niệm về ly hôn như sau: “Ly hôn là việc chấm dứt quan hệ vợ chồng theo
bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án”12. Khoản 1 Điều 51 Luật Hơn
nhân và gia đình năm 2014 quy định: “Vợ, chồng hoặc cả hai người có quyền u cầu
Tịa án giải quyết ly hôn”. Việc giải quyết ly hôn có thể xuất phát từ yêu cầu của một
bên hoặc cả hai người (trong trường hợp thuận tình ly hơn). Như vậy, có thể hiểu
dưới góc độ pháp luật, ly hôn là việc chấm dứt quan hệ hôn nhân khi hai bên chủ thể
của quan hệ còn sống do một bên yêu cầu hoặc cả hai bên thuận tình, được Tịa án
cơng nhận bằng bản án xử lý cho ly hơn hoặc bằng quyết định thuận tình ly hơn.
Việc ly hôn, chấm dứt quan hệ hôn nhân giữa vợ và chồng tất yếu sẽ kéo theo
những hậu quả pháp lý cần được giải quyết. Những hậu quả pháp lý đó là những nội
dung liên quan đến quan hệ nhân thân, quan hệ tài sản của vợ và chồng, quan hệ
chăm sóc, ni dưỡng, quyền và nghĩa vụ của cha mẹ đối với con… Xuất phát từ lợi
Ly hôn – về một sự biếm họa của chủ nghĩa Mác và về chủ nghĩa kinh tế đế quốc , Toàn tập, Tập 30, Nxb
Tiến bộ, Matxcơva 1981, tr. 163.

11
Khoản 1 Điều 36 Hiến pháp năm 2013.
12
Khoản 14, Điều 3 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.
10


13
ích của gia đình, quyền và lợi ích chính đáng của vợ chồng, các con, sự ổn định của
các quan hệ hơn nhân và gia đình, việc quy định bằng pháp luật về hậu quả pháp lý
của ly hôn giúp Tịa án có đủ cơ sở để điều tra, tìm hiểu kỹ nguyên nhân dẫn tới
những mâu thuẫn vợ chồng, tâm tư, tình cảm của người trong cuộc để có thể giải
quyết ly hơn chính xác, đảm bảo quyền lợi của các bên, của gia đình và xã hội.
Nghĩa vụ cấp dưỡng là một trong những hậu quả pháp lý của việc ly hôn liên
quan đến quan hệ giữa cha mẹ với con, giữa vợ cũ với chồng cũ. Nghĩa vụ cấp
dưỡng khi ly hôn chỉ được đặt ra đối với nhóm quan hệ cha, mẹ, con và quan hệ vợ
chồng, khơng đặt ra đối với nhóm quan hệ giữa các thành viên khác trong gia đình
như: quan hệ giữa ông, bà đối với cháu, quan hệ giữa cô, dì, chú, bác đối với cháu
hay quan hệ giữa anh, chị, em với nhau bởi vì đó là những chủ thể không trực tiếp
tham gia và bị ảnh hưởng tới quyền và lợi ích khi ly hơn. Vợ, chồng dù khơng ly
hơn hay ly hơn thì với tư cách là con, cháu… đều có nghĩa vụ cấp dưỡng cho những
thành viên khác của gia đình theo quy định của Luật Hơn nhân và gia đình. Nói
cách khác, khi nói “nghĩa vụ cấp dưỡng khi ly hôn (hoặc sau ly hôn)” tức là nói đến
một nghĩa vụ phát sinh do có sự kiện ly hôn của vợ chồng. Khi ly hôn, quan hệ cấp
dưỡng chủ yếu được xác định là trách nhiệm của cha mẹ đối với con, người không
trực tiếp nuôi dưỡng phải cấp dưỡng cho con. Việc cấp dưỡng giữa vợ, chồng chỉ
đặt ra trong những trường hợp một trong hai người khơng có điều kiện để tự ni
mình do khơng cịn đủ sức lao động hoặc thu nhập q thấp, khơng đủ chi phí cho
cuộc sống của mình và bên cịn lại có khả năng cấp dưỡng.
Dựa trên khái niệm chung về cấp dưỡng như đã phân tích ở trên, ta có thể

hiểu khái niệm “cấp dưỡng khi ly hôn” như sau: Cấp dưỡng khi ly hôn là việc một
người có nghĩa vụ đóng góp tiền hoặc tài sản khác để đáp ứng nhu cầu thiết yếu
của vợ hoặc chồng khi ly hơn mà gặp hồn cảnh khó khăn, túng thiếu hoặc của con
chưa thành niên, đã thành niên nhưng khơng có khả năng lao động và khơng có tài
sản để tự ni mình nếu họ khơng trực tiếp ni con sau khi vợ chồng ly hơn.
Việc phân tích rõ các đặc điểm của quan hệ cấp dưỡng khi ly hôn sẽ giúp
chúng ta hiểu rõ hơn bản chất, vai trò và nguyên tắc áp dụng trên thực tế các quy
định của luật. Với đặc thù là một phần của quan hệ cấp dưỡng, cấp dưỡng khi ly
hôn cũng có những đặc điểm cơ bản của quan hệ cấp dưỡng nói chung. Bên cạnh
đó, nghĩa vụ cấp dưỡng khi ly hơn cũng có những đặc điểm riêng biệt như sau:


14
Thứ nhất, chủ thể của quan hệ cấp dưỡng khi ly hôn chỉ bao gồm quan hệ
giữa cha, mẹ, con và quan hệ vợ, chồng.
Khác với nghĩa vụ cấp dưỡng nói chung, nghĩa vụ cấp dưỡng khi ly hơn chỉ
được đặt ra đối với nhóm quan hệ cha, mẹ, con và quan hệ vợ chồng, khơng đặt ra đối
với nhóm quan hệ giữa các thành viên khác trong gia đình: quan hệ giữa ông, bà đối
với cháu, quan hệ giữa cơ, dì, chú, bác đối với cháu hay quan hệ giữa anh, chị, em với
nhau bởi vì đó là những chủ thể không trực tiếp tham gia và bị ảnh hưởng tới quyền
và lợi ích khi ly hơn. Đây là đặc điểm khác biệt cơ bản giữa nghĩa vụ cấp dưỡng nói
chung và nghĩa vụ cấp dưỡng khi ly hơn nói riêng, đó là sự khác biệt về nhóm các
chủ thể có quyền và nghĩa vụ cấp dưỡng. Bên cạnh đó, nghĩa vụ cấp dưỡng giữa vợ
và chồng cũng là một điểm đặc thù của quan hệ cấp dưỡng khi ly hơn vì nó chỉ phát
sinh khi có sự kiện ly hôn giữa vợ và chồng. Khi vợ, chồng vẫn tồn tại quan hệ hơn
nhân thì nghĩa vụ cấp dưỡng giữa vợ và chồng không được đặt ra.
Thứ hai, quan hệ cấp dưỡng khi ly hôn là quan hệ pháp luật về tài sản gắn
liền với nhân thân.
Dựa trên định nghĩa về cấp dưỡng theo quy định tại khoản 24 Điều 3 Luật
Hơn nhân và gia đình năm 2014 cho thấy, cấp dưỡng là việc một người có nghĩa vụ

đóng góp tiền hoặc tài sản khác để đáp ứng nhu cầu thiết yếu của người khơng sống
chung với mình mà có quan hệ hơn nhân, huyết thống hoặc ni dưỡng. Như vậy,
với vai trò là một trường hợp của nghĩa vụ cấp dưỡng nói chung thì trong quan hệ
cấp dưỡng khi ly hơn, người có nghĩa vụ cấp dưỡng sẽ có nghĩa vụ chuyển giao một
phần tiền hoặc tài sản khác sang cho người được cấp dưỡng (con không sống cùng
cha, mẹ; vợ, chồng lâm vào hồn cảnh khó khăn khi ly hôn) để đáp ứng các nhu cầu
thiết yếu của họ. Do đó, quan hệ cấp dưỡng khi ly hơn là quan hệ mang tính tài sản.
Tính nhân thân được thể hiện thông qua mối quan hệ giữa người có nghĩa vụ
cấp dưỡng và người được cấp dưỡng. Đó là quan hệ hôn nhân (giữa vợ và chồng
hợp pháp), quan hệ huyết thống (giữa cha mẹ đẻ với con đẻ) hoặc quan hệ nuôi
dưỡng (giữa cha mẹ nuôi với con nuôi hợp pháp). Đây là điều kiện bắt buộc để làm
phát sinh quan hệ cấp dưỡng theo quy định của Luật Hơn nhân và gia đình. Ngồi
ra, tính nhân thân cịn được thể hiện thơng qua đặc điểm khơng thể chuyển giao cho
người khác và không thể thay thế bằng nghĩa vụ dân sự khác. Cụ thể, khoản 1 Điều
107 Luật Hơn nhân và gia đình năm 2014 quy định: “Nghĩa vụ cấp dưỡng không thể



×