1
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
BÁO CÁO SÁNG KIẾN
Một số biện pháp phát huy tính tích cực, tự học
cho học sinh lớp 5B trường PTDTBT TH&THCS Trà Vinh
1. Mô tả bản chất của sáng kiến:
1.1. Các giải pháp thực hiện, các bước và cách thức thực hiện:
Giáo dục tiểu học nhằm giúp học sinh hình thành những cơ sở ban đầu cho sự
phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ và các kĩ năng cơ
bản để học sinh tiếp tục lên trung học cơ sở. Bên cạnh đó đảm bảo cho học sinh có
những hiểu biết đơn giản, cần thiết về tự nhiên, xã hội và con người; có kĩ năng cơ
bản về nghe, nói, đọc, viết và tính tốn; có thói quen rèn luyện thân thể và giữ vệ sinh;
có những hiểu biết ban đầu về âm nhạc và mĩ thuật. Phương pháp giáo dục tiểu học
phải phát huy được tính tự giác, tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh; phù hợp
với đặc trưng môn học, hoạt động giáo dục, đặc điểm đối tượng học sinh và điều kiện
từng lớp học; bồi dưỡng cho học sinh phương pháp tự học, khả năng hợp tác, rèn
luyện kĩ năng, vận dụng kiến thức vào thực tiễn; tác động đến tình cảm, đem lại niềm
vui, hứng thú học tập cho học sinh. Trên ghế nhà trường, học trị có học thật, làm thật
mới sống thật nên người, có tích cực tự học, tự làm dưới sự hướng dẫn của thầy, mới
tự trang bị cho mình kỹ năng học, kỹ năng làm, kỹ năng sáng tạo và kỹ năng sống –
những kỹ năng cần thiết cho con người tiếp tục học hành sáng tạo suốt đời. Thực tế
nhu cầu tự học luôn gắn kết với nhu cầu làm, nhu cầu sống của con người ở mọi lứa
tuổi, mọi trình độ, mọi ngành nghề, mọi vị trí xã hội, mọi thời đại. Phát huy vai trị
“Mỗi thầy giáo, cơ giáo hãy là một tấm gương về đạo đức, tự học và sáng tạo” từ bỏ
lối “dạy áp đặt, truyền thụ một chiều”, “thầy giảng – trị ghi nhớ”, phát huy trí sáng
tạo, khả năng vận dụng, thực hành, kỹ năng sống, tự tìm, tự tạo việc làm và năng lực
tự học của người học là mục tiêu – phương pháp.
2
Cuộc sống luôn vận động và phát triển không ngừng. Nó địi hỏi con người phải
vận động để theo kịp sự phát triển của xã hội. Chính vì vậy mà tinh thần tự học có vai
trị vơ cùng quan trọng. Phát huy tính tích cực, tự học cho học sinh là một trong
những kĩ năng cốt lõi quan trọng trong học tập của học sinh. Để học sinh ln có ý
thức tựu học là vấn đề trăn trở của mỗi thầy cơ. Nếu xây dựng được cho học sinh có ý
thức tích cực, tự học sẽ giúp học sinh học tập tốt hơn.
Ý thức tích cực, tự học đối với học sinh tiểu học là một q trình khơng q khó
nếu như mỗi học sinh chịu cố gắng nỗ lực. Bên cạnh học sinh thì mỗi thầy cơ giáo đặc
biệt là thầy cô chủ nhiệm vừa giảng dạy truyền kiến thức cịn rèn đạo đức, hình thành
nhân cách cho mỗi học sinh. Chính vì vậy qua nhiều năm giảng dạy và chủ nhiệm,
bản thân đã tìm ra một số biện pháp phát huy tính tích cực, tự học cho học sinh. Một
số biện pháp như sau:
* Biện pháp 1: Người giáo viên chủ nhiệm phải phát huy hết chức năng, nhiệm
vụ của mình.
Giáo viên chủ nhiệm lớp là linh hồn của một lớp học, là người thay mặt hiệu
trưởng tổ chức các hoạt động, xây dựng lớp thành một tập thể vững mạnh để giáo dục
học sinh theo mục tiêu đã đề ra. Để làm tốt công tác giáo dục học sinh, nhiệm vụ đầu
tiên của giáo viên chủ nhiệm lớp là nghiên cứu để nắm vững tình hình chung của lớp
và của từng học sinh. Kết quả nghiên cứu sẽ là những căn cứ để xây dựng mục tiêu,
chương trình, kế hoạch năm học để xác định nội dung, phương pháp và các hình thức
tổ chức giáo dục phù hợp với đặc điểm của lớp. Người giáo viên chủ nhiệm phải nắm
bắt được hết tâm tư, nguyện vọng của học sinh, tìm hiểu về gia đình, hồn cảnh sống
của từng học sinh, hiểu biết những đặc điểm của từng em học sinh (về sức khỏe, sinh
lý, trình độ nhận thức, năng lực hoạt động, năng khiếu, sở thích, nguyện vọng, quan
hệ xã hội, bạn bè)………………. Ta cần xác định rõ vai trị của GVCN lớp, bên cạnh
đó cũng có sự hỗ trợ của giáo viên bộ môn, Tất cả các giáo viên phải hết lòng yêu
nghề, mến trẻ, thật sự tâm huyết.
Ngoài ra mỗi một giáo viên cần:
- Giáo viên chủ nhiệm cần thực hiện đầy đủ các công việc đầu năm của lớp mình
chủ nhiệm.
3
- Người giáo viên chủ nhiệm cần phải học hỏi, trau dồi kinh nghiệm, vốn sống,
năng lực chủ nhiệm luôn được năng cao.
– Theo dõi, kiểm tra, quan tâm đến tất cả các hoạt động của học sinh lớp mình
chủ nhiệm. Tránh bỏ qua, mặc kệ, không phân giải rõ ràng khi các em trao đổi hay
thưa kiện việc gì đó. Mà ngược lại phải biết xử lý tốt trong mọi tình huống.
- Quan tâm nhiều và đặc biệt đến các học sinh yếu ké, cá biệt, học sinh có hồn
cảnh khó khăn, hồn cảnh đặc biệt.
- Thường xun theo dõi nề nếp 15 phút đầu giờ, giao nhiệm vụ cho tổ trưởng
kiểm tra, chữa bài tập cùng với lớp trưởng và lớp phó học tập. Ban cán sự lớp tự tổ
chức giờ Sinh hoạt cuối tuần, các tổ trưởng, lớp trưởng lên nhận xét, đánh giá từng
bạn trong tổ, để các bạn noi gương, học tập lẫn nhau và đặc biệt là biết sửa chữa lỗi
của mình trước tập thể.
- Giáo dục đạo đức, nề nếp học sinh thông qua các biện pháp thuyết phục, nêu
gương tốt, rèn luyện, khen thưởng và kỉ luật.
- Nắm vững lí luận sư phạm, sử dụng các phương pháp giáo dục tập thể, có kinh
nghiệm tổ chức các hoạt động phù hợp với tâm lí lứa tuổi học sinh và với điều kiện
thực tế của lớp, của nhà trường một cách linh hoạt.
- Có tư cách đạo đức tốt, gương mẫu trong cuộc sống, lao động và trong quan hệ
với đồng nghiệp và học sinh. Giáo viên chủ nhiệm phải là tấm gương sáng về mọi
phương diện cho học sinh noi theo.
- Có khả năng tổ chức và có năng lực hoạt động văn nghệ, thể dục, thể thao... để
có thể lơi cuốn học sinh cùng tham gia.
- Tổ chức cho học sinh học nhóm, đơi bạn cùng học để hỗ trợ nhau học tập.
Trong lớp học, GVCN là người để các em noi theo. Cách hành động, suy nghĩ,
cư xử của GV sẽ ảnh hưởng rất nhiều về quan niệm của học sinh và phụ huynh về
giáoviên. Soạn bài trước khi đến lớp. Theo tôi, chỉ khi nào thầy cô cảm thấy hứng
thú với bài dạy thì sự hứng thú đó mới lây truyền sang HS. Sự hứng thú này đi đối với
sự soạn bài trước và có một chương trình trước cho những gì phải làm trong giờ học
thay vì một thái độ "tùy cơ ứng biến". GV cần chuẩn bị đầy đủ tài liệu, đồ dùng dạy
học trước khi dạy. Người dạy càng tận tâm thì các em càng cố gắng học. Bên cạnh đó,
4
GVCN biết thơng cảm và chia sẻ những khó khăn của các em. Trả lời những câu hỏi
của các em một cách thấu đáo. Hỏi các em về những khó khăn trong đời sống, những
khó khăn ở trường... giúp các em giải quyết những khó khăn này. Trong lớp học hay
ngồi lớp học, thầy cơ cịn phải đóng vai người anh, người chị, phải vừa là thầy, vừa
là bạn mà các em có thể tin tưởng, nhờ cậy được. Qua đó, các em sẽ biết sống nhẫn
nại, kiên trì và giàu lòng nhân ái.
Đặc biệt rất cần ở giáo viên chủ nhiệm có các phẩm chất như: Nhiệt tình, sâu sát,
cần cù, trí nhớ tốt, quan sát tinh, tâm lý giỏi, có khả năng xây dựng đội ngũ cán bộ
học sinh.
* Biện pháp 2: Phải xây dựng Ban cán sự lớp vững chắc:
Ban cán sự lớp là những thành viên đóng vai trị cánh tay đắc lực, chỗ dựa vững
chắc cho giáo viên chủ nhiệm, hỗ trợ cho giáo viên chủ nhiệm theo dõi lớp học, quản
lí lớp học trong suốt năm học. Ban cán sự lớp phải gương mẫu, uy tín, uy quyền,
mạnh là tập thể lớp ắc sẽ mạnh. Công tác tổ chức của lớp là một công việc quan trọng,
ban cán sự như thế nào thì lớp sẽ phát triển theo chiều hướng đó. Ban cán sự tốt là
trong các hoạt động giáo dục học sinh. Do đó, ngay sau khi nhận được cơng tác, giáo
viên chủ nhiệm cần suy nghĩ ngay đến việc bầu Ban cán sự lớp, dựa trên nghiên cứu
hồ sơ, học bạ và quan sát thực tiễn, chỉ định một ban cán sự lâm thời.
Phân lớp thành các tổ học sinh có cơ cấu học sinh nam, nữ, trình độ học tập
tương đối đồng đều. Phân công trách nhiệm cho ban cán sự và các tổ trưởng để quản
lí học sinh và bắt đầu tổ chức các hoạt động chung. Chậm nhất một tháng cho lớp bầu
ra ban cán sự và các tổ trưởng chính thức. Ban cán sự lớp phải là những học sinh thỏa
mãn các yêu cầu sau đây:
- Có học lực từ loại khá trở lên, có tư cách đạo đức tốt.
- Nhiệt tình, tạo được uy tín trước tập thể.
- Có năng khiếu văn nghệ, thể dục, thể thao...
- Biết quản lí tập thể, năng nỗ, hịa đồng, thân thiện.
- Có tinh thần gương mẫu, được đa số học sinh bầu chọn.
Giáo viên chủ nhiệm trở thành cố vấn về phương pháp công tác cho Ban cán sự
lớp để lớp học phát huy tính tích cực, tự học ngày càng tiến triển hơn.
5
* Biện pháp 3: Nâng cao hiệu quả sử dụng các phương pháp dạy học.
a. Phương pháp vấn đáp:
Là phương pháp trong đó giáo viên đặt ra câu hỏi để học sinh trả lời, hoặc học
sinh có thể tranh luận với nhau và với cả giáo viên; qua đó học sinh lĩnh hội được nội
dung bài học. Căn cứ vào tính chất hoạt động nhận thức, người ta phân biệt các loại
phương pháp vấn đáp:
+ Vấn đáp tái hiện: Giáo viên đặt câu hỏi chỉ yêu cầu học sinh nhớ lại kiến
thức đã biết và trả lời dựa vào trí nhớ, khơng cần suy luận. Đó là phương pháp được
giáo viên sử dụng khi cần đặt mối liên hệ giữa các kiến thức vừa mới học.
* Ví dụ : Khoa học, bài: “ Cây con có thể mọc lên từ một số bộ phận của cây
mẹ”
Khi dạy bài “ Cây con có thể mọc lên từ một số bộ phận của cây mẹ”, giáo viên
sử dụng phương pháp vấn đáp nhằm giúp học sinh:
+ Hệ thống hóa một số kiến thức về bài “ Cây con mọc lên từ hạt”.
+ Rèn luyện khả năng tập trung chú ý.
- Giáo viên chuẩn bị một cây xanh, trên cây xanh có treo những ngôi sao, mỗi
ngôi sao sẽ ứng với mỗi câu hỏi.
- Cách tiến hành:
+ Giáo viên sẽ gọi ngẫu nhiên tên các học sinh, lần lượt từng học sinh sẽ lên
chọn một ngôi sao và trả lời câu hỏi được ghi trong ngơi sao đó.
+ Sau mỗi câu trả lời của học sinh, giáo viên sẽ gọi học sinh khác nhận xét.
Nếu học sinh trả lời đúng sẽ được cả lớp vỗ tay tuyên dương, còn nếu học sinh trả lời
chưa đúng thì giáo viên sẽ gọi học sinh khác trả lời.
Lưu ý:
Sau đây là gợi ý một số câu hỏi mà giáo viên có thể hỏi:
- Nêu điều kiện nảy mầm của hạt?
- Mơ tả q trình phát triển của cây mướp từ khi gieo hạt cho đến khi ra hoa, kết
quả?
- Nêu cấu tạo của hạt?
…
6
+ Vấn đáp giải thích – minh hoạ: Nhằm mục đích làm sáng tỏ một đề tài nào đó,
giáo viên lần lượt nêu ra những câu hỏi kèm theo những ví dụ minh hoạ để học sinh
dễ hiểu, dễ nhớ. Giáo viên cần phải xây dựng hệ thống các câu hỏi phù hợp với từng
đối tượng học sinh. Đôi khi giữa giáo viên và học sinh có thể tranh luận để giải quyết
vấn đề đặt ra đưa học sinh cuốn hút vào bài học và tự tìm tịi những hiểu biết mới.
Giáo viên tránh làm thay, nói thay, nghĩ thay cho học sinh mà chú trọng dạy học theo
từng nhóm đối tượng học sinh, trân trọng và khuyến khích mọi suy nghĩ của học sinh.
Ví dụ: Khi dạy mơn Tốn bài “ Hình hộp chữ nhật, hình lập phương” để khắc
sâu nội dung bài học giáo viên đưa ra một số câu hỏi dẫn dắt các em như là:
- Hãy tìm các đồ vật có dạng hình lập phương, hình hộp chữ nhật
- So sánh sự giống và khác nhau giữa hình lập phương và hình hộp chữ nhật?
- Giáo viên cho nhiều học sinh trả lời và xem vật mẫu sau đó hình thành kiến
thức mới cho học sinh.
+ Vấn đáp tìm tịi: Giáo viên dùng một hệ thống câu hỏi được sắp xếp hợp lý để
hướng học sinh từng bước phát hiện ra bản chất của sự vật, tính quy luật của hiện
tượng đang tìm hiểu, kích thích sự ham muốn hiểu biết. Giáo viên tổ chức sự trao đổi
ý kiến – kể cả tranh luận – giữa giáo viên với cả lớp, có khi giữa trị với trò, nhằm giải
quyết một vấn đề xác định. Trong vấn đáp tìm tịi, giáo viên giống như người tổ chức
sự tìm tịi, cịn học sinh giống như người tự lực phát hiện kiến thức mới. Vì vậy, khi
kết thúc cuộc đàm thoại, học sinh có được niềm vui của sự khám phá trưởng thành
thêm một bước về trình độ tư duy.
* Tóm lại vấn đáp là cách thức tốt để kích thích tư duy độc lập của học sinh, dạy
học sinh cách tự suy nghĩ đúng đắn . Bằng cách này học sinh hiểu nội dung học tập
hơn là học vẹt, thuộc lịng. Giúp lơi cuốn học sinh tham gia vào bài học, làm cho
khơng khí lớp học trở nên sơi nổi, sinh động, kích thích hứng thú học tập và lòng tự
tin ở học sinh. Rèn luyện cho học sinh năng lực diễn đạt sự hiểu biết của mình và hiểu
ý diễn đạt của người khác.
b. Phương pháp hoạt động nhóm:
Thuận tiện của bản thân trong phương pháp này là ngay từ tuần học đầu tiên học
sinh cả lớp được sắp xếp ngồi thành 3 tổ: 2 tổ có 7 học sinh/ tổ và 1 tổ có 6 học sinh/
7
tổ, từng nhóm nhỏ từ 3 đến 4 em, như vậy khi hoạt động nhóm bàn trên có thể quay
xuống bàn dưới một cách dễ dàng, còn khi hoạt động nhóm 6 hoặc 7 thì 3 bàn sẽ gộp
lại thành một nhóm. Mỗi cặp đơi ngồi cùng một bàn được phân chia có chủ định một
em chậm tiến sẽ ngồi bên một em học tốt để cùng giúp nhau trong học tập, được thay
đổi hàng tuần, được giao cùng một nhiệm vụ hay những nhiệm vụ khác nhau.
Nhóm tự bầu nhóm trưởng và thay đổi nhóm trưởng thường xuyên mục đích là
để các em ai cũng được làm nhóm trưởng và biết cách điều hành, quản lí nhóm. Trong
nhóm có thể phân cơng mỗi người một phần việc. Trong nhóm nhỏ, mỗi thành viên
đều phải làm việc tích cực, khơng thể ỷ lại vào một vài người hiểu biết và năng động
hơn. Các thành viên trong nhóm giúp đỡ nhau tìm hiểu vấn đề nêu ra trong khơng khí
thi đua với các nhóm khác. Kết quả làm việc của mỗi nhóm sẽ đóng góp vào kết quả
học tập chung của cả lớp. Để trình bày kết quả làm việc của nhóm trước tồn lớp,
nhóm có thể cử ra một đại diện hoặc phân cơng mỗi thành viên trình bày một phần
nếu nhiệm vụ giao cho nhóm là khá phức tạp.
Phương pháp này tăng cường động cơ học tập, làm nảy sinh những hứng thú
mới cho học sinh. Kích thích sự giao tiếp, chia sẻ tư tưởng, nguồn lực và cách giải
quyết vấn đề. Tăng cường các kĩ năng biểu đạt, phản hồi bằng các hình thức biểu đạt
như lời nói, ánh mắt, cử chỉ…
Khích lệ mọi thành viên tham gia học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau, phát triển
mối quan hệ gắn bó, quan tâm đến nhau. Thơng qua hoạt động nhóm phát triển kĩ
năng giao tiếp và kĩ năng xã hội. Đó là các kĩ năng giao tiếp như: biết chờ đợi đến
lượt; tóm tắt và xử lí thơng tin; biết xây dựng niềm tin như bày tỏ sự ủng hộ qua ánh
mắt nụ cười, yêu cầu giải thích, giúp đỡ và sẵn sàng giúp đỡ; khả năng giải quyết bất
đồng như kiềm chế bực tức, không làm xúc phạm người khác khi bất đồng ý kiến.
* Việc sử dụng phương pháp dạy học theo nhóm trong giảng dạy đối với giáo
viên khơng phải là mới vì ngay từ khi việc đổi mới chương trình triển khai thì song
song đó giáo viên cũng được tập huấn những phương pháp dạy học theo hướng phát
huy tính tích cực của học sinh trong đó có phương pháp dạy học theo nhóm và giáo
viên cũng đã vận dụng trong công tác giảng dạy.
8
Ví dụ: Khi dạy phân mơn Luyện từ và câu, bài “ Tổng kết vốn từ” BT1: Tìm
từ đồng nghĩa và trái nghĩa với mỗi từ sau: Nhân hậu, trung hậu, dũng cảm, cần cù.
Giáo viên có thể cho học sinh thảo luận nhóm 4 theo các bước sau:
- Giáo viên cho học sinh nêu yêu cầu và nội dung của bài tập.
- Yêu cầu học sinh thảo luận nhóm 4 trong thời gian đã quy định và trình bày
vào bảng phụ.
- Nhóm trưởng điều hành các bạn thảo luận, thư kí ghi nhanh vào bảng phụ.
- Đại diện các nhóm lên trình bày, nhóm khác nhận xét, bổ sung.
- Giáo viên nhận xét, chốt đáp án đúng và tuyên dương các nhóm làm việc tích
cực.
* Đáp án:
Từ
Nhân hậu
Đồng nghĩa
Nhân từ, nhân đức,
Trái nghĩa
Độc ác, tàn ác, bất
Trung thực
nhân ái, phúc hậu,…
Thật thà, thành thật,
nhân,…
Gian dối, gian manh,
Dũng cảm
chân thật,…
dối trá,…
Gan dạ, anh dũng, mạnh Hèn nhát, nhút nhát,
Cần cù
dạn, bạo dạn,…
Chăm chỉ, siêng năng,
nhát gan, hèn yếu, …
Lười biếng, lười nhác,
tần tảo, chịu khó,…
chay lười,…
* Việc sử dụng phương pháp dạy học theo nhóm trong giảng dạy người giáo
viên cũng có thể sử dụng kĩ thuật “ Khăn trải bàn”. Những thuận lợi khi giáo viên sử
dụng kĩ thuật này là:
- Kĩ thuật này giúp cho hoạt động nhóm có hiệu quả hơn, mỗi học sinh đều phải
đưa ra ý kiến của mình về chủ đề đang thảo luận, không ỷ lại vào các bạn học sinh
năng khiếu.
- Kĩ thuật này áp dụng cho hoạt động nhóm với một chủ đề nhỏ trong tiết học,
toàn thể học sinh cùng nghiên cứu một chủ đề.
- Sau khi các nhóm hồn tất cơng việc giáo viên có thể gắn các mẫu giấy "khăn
trải bàn" lên bảng để cả lớp cùng nhận xét. Có thể dùng giấy nhỏ hơn, dùng máy
chiếu phóng lớn.
9
- Có thể thay số bằng tên của học sinh để sau đó giáo viên có thể đánh giá được
khả năng nhận thức của từng học sinh về chủ đề được nêu.
Kĩ thuật “ Khăn trải bàn” là hình thức tổ chức hoạt động mang tính hợp tác kết
hợp giữa hoạt động cá nhân và hoạt động nhóm nhằm:
- Kích thích, thúc đẩy sự tham gia tích cực.
- Tăng cường tính độc lập, trách nhiệm của cá nhân học sinh.
- Phát triển mơ hình có sự tương tác giữa học sinh với học sinh.
Cách tiến hành kĩ thuật "Khăn trải bàn"
Viết ý kiến cá nhân
1
Viết ý kiến cá
4
nhân
Ý kiến chung của cả nhóm
Viết ý kiến cá
nhân 2
về chủ đề
3
Vi
ết
ý
kiế
n
cá
nh
- Hoạt động theo nhóm (4 người / nhóm) (có thể nhiều người hơn)
- Mỗi người ngồi vào vị trí như hình vẽ minh họa
- Tập trung vào câu hỏi (hoặc chủ đề,...)
- Viết vào ô mang số của bạn câu trả lời hoặc ý kiến của bạn (về chủ đề...). Mỗi
cá nhân làm việc độc lập trong khoảng vài phút.
10
- Kết thúc thời gian làm việc cá nhân, các thành viên chia sẻ, thảo luận và thống
nhất các câu trả lời.
- Viết những ý kiến chung của cả nhóm vào ơ giữa tấm khăn trải bàn (giấy A0).
* Ví dụ: Mơn Địa lí, bài: Các đại dương trên thế giới
I. Mục đích: Giúp học sinh:
- Nhận biết và nêu được vị trí từng đại dương dựa vào lược đồ hoặc quả địa cầu.
- Rèn luyện khả năng tập trung chú ý.
II. Chuẩn bị:
Giáo viên chuẩn bị 5 tờ giấy A0 vẽ như hình minh họa ở trên.
III. Cách tiến hành:
- Giáo viên chia học sinh thành các nhóm, mỗi nhóm gồm 4 học sinh.
- Mỗi người ngồi vào vị trí như hình vẽ minh họạ.
- Mỗi học sinh tập trung vào câu hỏi.
- Viết vào ô mang số của bạn câu trả lời hoặc ý kiến của bạn. Mỗi cá nhân làm
việc độc lập trong khoảng vài phút.
- Kết thúc thời gian làm việc cá nhân, các thành viên chia sẻ, thảo luận và thống
nhất các câu trả lời.
- Viết những ý kiến chung của cả nhóm vào ơ giữa tấm khăn trải bàn (giấy A0).
- Giáo viên cùng học sinh nhận xét, bổ sung. Giáo viên chốt câu trả lời đúng và
tuyên dương nhóm hoạt động tốt.
Lưu ý:
Sau đây là gợi ý một số câu hỏi mà giáo viên có thể hỏi:
+ Học sinh 1: Thái Bình Dương giáp các châu lục và đại dương nào?
+ Học sinh 2: Đại Tây Dương giáp các châu lục và đại dương nào?
+ Học sinh 3: Ấn Độ Dương giáp các châu lục và đại dương nào?
+ Học sinh 4: Bắc Băng Dương giáp các châu lục và đại dương nào?
c. Phương pháp đóng vai:
Đóng vai là phương pháp tổ chức cho học sinh thực hành một số cách ứng xử
nào đó trong một tình huống giả định. Phương pháp đóng vai có những ưu điểm sau:
11
- Học sinh được rèn luyện thực hành những kỹ năng ứng xử và bày tỏ thái độ
trong môi trường an toàn trước khi thực hành trong thực tiễn.
- Gây hứng thú và chú ý cho học sinh.Tạo điều kiện làm nảy sinh óc sáng tạo
của học sinh.
- Khích lệ sự thay đổi thái độ, hành vi của học sinh theo chuẩn mực hành vi đạo
đức và chính trị – xã hội.
- Có thể thấy ngay tác động và hiệu quả của lời nói hoặc việc làm của các vai
diễn.
Cách tiến hành có thể như sau :
+ Giáo viên chia nhóm, giao tình huống đóng vai cho từng nhóm và quy định
rõ thời gian chuẩn bị, thời gian đóng vai.
+ Các nhóm thảo luận chuẩn bị đóng vai.
+ Các nhóm lên đóng vai.
+ Giáo viên phỏng vấn học sinh đóng vai.
- Vì sao em lại ứng xử như vậy ?
- Cảm xúc, thái độ của em khi thực hiện cách ứng xử ? Khi nhận được cách ứng
xử ( đúng hoặc chưa đúng).
+ Lớp thảo luận, nhận xét: Cách ứng xử của các vai diễn phù hợp hay chưa
phù hợp? Chưa phù hợp ở điểm nào? Vì sao?
+ Giáo viên kết luận về cách ứng xử cần thiết trong tình huống.
Những điều cần lưu ý khi sử dụng :
+ Tình huống nên để mở, không cho trước “ kịch bản”, lời thoại.
+ Phải dành thời gian phù hợp cho các nhóm chuẩn bị đóng vai.
+ Người đóng vai phải hiểu rõ vai của mình trong bài tập đóng vai để khơng
lạc đề.
+ Nên khích lệ cả những học sinh nhút nhát tham gia.
+ Nên hoá trang và đạo cụ đơn giản để tăng tính hấp dẫn của trị chơi đóng vai
d. Phương pháp trò chơi:
Phương pháp này thường được thực hiện trong mỗi tiết học ( phần khởi động)
hoặc sau những giờ học căng thẳng. Trò chơi là tổ chức cho học sinh tìm hiểu một
12
vấn đề hay thực hiện những hành động, việc làm hoặc hình thành thái độ thơng qua
một trị chơi nào đó.
Trị chơi khơng phải là thật mà là giả vờ như làm một cái gì đó nhưng mang tính
chân thật (nhập các vai chơi một cách chân thật, thể hiện động tác, hành vi phù
hợp…). Hơn nữa, đây là một hoạt động tự do, tự nguyện khơng thể gị ép hoặc bắt
buộc chơi khi các em khơng thích, khơng đáp ứng nhu cầu, nguyện vọng của chúng.
Trò chơi là phương tiện giáo dục và phát triển toàn diện học sinh, giúp các em
nâng cao hiểu biết về thế giới hiện thực xung quanh, kích thích trí thơng minh, lịng
ham hiểu biết, học cách giải quyết nhiệm vụ. Ngồi ra, trị chơi là phương tiện giáo
dục phẩm chất nhân cách cho học sinh. Các phẩm chất nhân cách được hình thành
thơng qua chơi như tính hợp tác, tính đồng đội, tính tập thể, tính kỷ luật, tự chủ, tích
cực, độc lập, sáng tạo, sự quan tâm lo lắng đến người khác, thật thà, dũng cảm, kiên
nhẫn,…Trò chơi còn là phương tiện giáo dục thể lực cho học sinh, giáo dục thẩm mỹ,
hình thành các kĩ năng giao tiếp, kĩ năng xã hội,...
Trị chơi là một phương thức giải trí tích cực, hiệu quả, mang lại niềm vui, sự
hứng khởi, hồn nhiên, yêu đời cho học sinh,…để các em tiếp tục học tập và rèn luyện
tốt hơn.
Trong q trình diễn ra trị chơi tất cả các thành viên của nhóm đều tham gia hết
mình và từ đó các em sẽ được trải nghiệm, bởi vì mỗi cá nhân cũng như cả nhóm
đang sống trong một tình huống khác với những gì các em đã sống trong cuộc sống
thực.
* Việc tổ chức trò chơi được giáo viên tiến hành cụ thể như sau:
- Chuẩn bị trị chơi, có thể là trị chơi vận động hoặc lồng ghép trả lời các câu hỏi
có trong nội dung bài học tiết trước.
- Cử người hướng dẫn chơi( có thể thay đổi).
- Phổ biến luật chơi.
- Học sinh tham gia trò chơi.
- Nhận xét, tuyên dương những bạn tham gia tốt trị chơi hoặc có câu trả lời
chính xác.
* Ví dụ : Mơn Địa lí, bài: Lâm nghiệp và thủy sản
13
Tên trị chơi: Xem ai nhớ nhất?
I. Mục đích: Giúp học sinh:
- Hệ thống hóa một số kiến thức về ngành nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản.
- Rèn luyện khả năng tập trung chú ý.
II. Chuẩn bị:
Mỗi học sinh chuẩn bị một bộ bìa gồm ba thẻ ghi các chữ A, B, C ( mỗi thẻ một
màu càng tốt) tương ứng với các nội dung sau:
A. Ngành nông nghiệp
B. Ngành lâm nghiệp
C. Ngành thủy sản
III. Cách tiến hành:
- Giáo viên chia học sinh thành các đội chơi theo dãy bàn.
* Cách chơi: Khi giáo viên đọc một câu hỏi nào đó về một trong ba ngành, học
sinh suy nghĩ và chọn thẻ chữ để giơ lên cho đúng.
Ví dụ: Khi giáo viên nêu câu hỏi: “ Ngành nào gồm hai hoạt động trồng, bảo vệ
rừng và khai thác gỗ, lâm sản sản?”, học sinh phải chọn và giơ thẻ có chữ B mới
đúng.
- Sau mỗi câu hỏi ( một lượt chơi), giáo viên hoặc học sinh được cử làm trọng tài
sẽ đếm số người trả lời đúng ở mỗi đội.
- Khi trò chơi kết thúc, giáo viên sẽ thống kê số học sinh trả lời đúng ở các lượt
chơi của mỗi đội. Đội nào có số người trả lời đúng nhiều nhất, đội đó thắng cuộc.
Lưu ý:
Sau đây là gợi ý một số câu hỏi mà giáo viên có thể hỏi:
- Ngành nào gồm hai hoạt động chính là trồng trọt và chăn nuôi?
- Ngành nào phân bố chủ yếu ở vùng núi và trung du?
- Vùng biển rộng, mạng lưới sơng ngịi dày đặc là điều kiện để phát triển ngành
nào?
…
* Ví dụ : Mơn Địa lí, bài: Châu Á( tiếp theo)
Tên trò chơi: Chạy việt dã
I. Mục đích: Giúp học sinh:
14
- Biết được một số hoạt động kinh tế ở châu Á và sự phân bố của các hoạt động
kinh tế đó.
- Rèn luyện kĩ năng làm việc với bản đồ/ lược đồ và tác phong nhanh nhẹn.
II. Chuẩn bị:
- Một số phiếu học tập.
- Bút và băng dán.
- Trên mỗi phiếu có kẻ bảng như sau:
A
Hoạt động kinh tế
1. Trồng lúa mì
2. Trồng lúa gạo
3. Khai thác dầu khí
4. Sản xuất ơ tơ
5. Trồng bơng
6. Chăn ni trâu, bị
B
Phân bố
a. Tây Nam Á, Đông Nam Á
b. Việt Nam, Thái Lan, Trung Quốc
c. Trung Quốc, Ấn Độ, Liên bang Nga
d. Trung Quốc, Ấn Độ
e. Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản
g. Ca- dắc- xtan, Ấn Độ, Trung Quốc
III. Cách tiến hành:
- Giáo viên chia lớp thành các nhóm, số nhóm tương ứng với số lá phiếu chuẩn
bị được. Mỗi nhóm chơi được phát một lá phiếu học tập.
- Cách chơi: Khi giáo viên hơ: “ Bắt đầu”, các nhóm quan sát hình 5 trang 106
trong sách giáo khoa Lịch sử và Địa lí 5, rồi nối mỗi ý ở cột A với một ý ở cột B trong
phiếu cho thích hợp.
- 5 nhóm làm xong sẽ lần lượt dán phiếu của mình lên bảng theo thứ tự từ trái
sang phải (nhóm làm xong đầu tiên dán trước, sau đấy nhóm thứ hai dán tiếp theo…
cứ thế cho đến nhóm thứ 6).
- Nhóm nào làm đúng và nhanh nhất là nhóm thắng cuộc.
* Biện pháp 4: Tăng cường nhận xét, đánh giá và khen thưởng kịp thời.
Tình cảm của học sinh tiểu học mang tính cụ thể trực tiếp và ln gắn liền với
các sự vật hiện tượng sinh động, rực rỡ… Lúc này khả năng kiềm chế cảm xúc của trẻ
còn non nớt, các em dễ xúc động và cũng dễ nổi giận nên giáo viên cần theo dõi từng
đối tượng học sinh để kịp thời giúp đỡ.
15
Một tràng pháo tay, một món quà nhỏ hay một câu khen ngợi khi các em có sự
tiến bộ dù nhỏ cũng khiến các em hứng thú và vui trong tiết học. Giúp các em có sự
chủ động trong việc học tập của mình.
Khen thưởng, động viên phải kịp thời, đúng lúc, đúng chỗ. Từ xưa ơng bà ta đã
nói: “Lời nói chẳng mất tiền mua - Lựa lời mà nói cho vừa lịng nhau”. Tuy nhiên
hiện nay cũng có khơng ít giáo viên lẫn phụ huynh vẫn “tiết kiệm” lời khen của mình
dành cho trẻ mà khơng đánh giá hết hiệu quả của “thần dược” này. Bên cạnh đó cũng
có nhiều giáo viên và phụ huynh tỏ ra vơ cùng hào phóng khi khen trẻ. Khen thưởng
phải kịp thời, đúng lúc và đúng chỗ. Nếu “tiết kiệm” thì trẻ sẽ khơng có động lực để
hành động và nếu q hào phóng thì lời khen sẽ mất đi giá trị vốn có của nó, trẻ sẽ
khơng cịn hào hứng, sung sướng khi nhận được lời khen.
Mỗi người giáo viên đều nắm giữ trong tay mình một vũ khí lợi hại đó là ngơn
ngữ. Khi sử dụng phương thức khen thưởng một cách đúng đắn thì nó sẽ trở thành thứ
“thần dược” có tác dụng vơ cùng to lớn trong việc giáo dục các em. Bên cạnh đó, một
điều mà tất cả các giáo viên, các bậc phụ huynh cần chú ý hơn cả đó là thái độ khi
khen thưởng các em. Một sự khen thưởng bằng tấm lòng, bằng sự tự hào và một tình
cảm chân thành nhất chính là “bí quyết” để sử dụng phương thức này thành cơng.
* Biện pháp 5: Rèn luyện tính tự giác, tự học trong học tập cho học sinh.
Đây là việc làm cần thiết để các em hình thành thói quen tích cực, đồng thời phát
huy năng lực trong việc tiếp thu kiến thức mới. Bên cạnh việc học tập kiến thức, thì
việc rèn luyện cho học sinh hình thành các kỹ năng như: tự làm việc, lên kế hoạch,
sắp xếp, thực hiện... là rất quan trọng. Đây chính là những kỹ năng cần thiết để các
em chủ động học tập, làm việc nhằm tích lũy tri thức cho bản thân, tạo bước đà để
thành công trong tương lai.
Để thực hiện tốt biện pháp này thì giáo viên phải có sự phối hợp thường xuyên
với phụ huynh học sinh. Khi nói về việc các em tự học, hầu hết người lớn đều nghĩ
đến hình ảnh con ngồi vào bàn và làm bài tập. Trên thực tế, tự học không đơn thuần là
việc các em chịu ngồi vào, mà là trước bất kỳ vấn đề hay hoạt động nào, bản thân
chúng ln biết mình cần làm gì, nguyên nhân và hậu quả của việc mình sẽ làm, cũng
như biết nhìn lại những việc đã xảy ra để rút kinh nghiệm cho lần sau.
16
Gặp và trao đổi, tư vấn cho phụ huynh thực hiện mơ hình “giờ học tự chủ
trên lớp” theo trình tự như sau:
- Bước 1: Nhìn lại ngày đã qua: Là bước giúp các em tái hiện lại những hoạt
động diễn ra trong ngày để biết được mình đã làm tốt hoặc chưa tốt việc gì, cịn việc
gì chưa hồn thiện.
- Bước 2: Lên kế hoạch buổi tối: Là bước sắp xếp thứ tự ưu tiên những công việc
cần làm trước và đưa ra thời gian hoàn thành cụ thể.
- Bước 3: Thực hiện kế hoạch: Đây là bước các em bắt tay vào cơng việc ngay
khi đã hồn thành kế hoạch.
- Bước 4: Rà soát: Ở bước này, chúng sẽ xem lại danh mục những việc cần làm,
sắp xếp đồ dùng học tập, sách vở, và lên kế hoạch cho ngày mai.
Việc chia ra các bước trên giúp các em nhìn về quá khứ một cách trọn vẹn và
đầy đủ nhất, từ đó đánh giá mọi hoạt động, sự việc, hiện tượng đã xảy ra để thay đổi
thái độ theo hướng tích cực. Đồng thời, các em sẽ biết cách lên kế hoạch, sắp xếp
công việc khoa học, logic và kiểm sốt được thời gian hồn thành kế hoạch ấy. Từ đó
các em đã có sự thay đổi đáng kể, hứng thú và chủ động hơn trong nhiệm vụ học tập,
mỗi tối đã biết tự ôn lại bài và chuẩn bị đồ dùng học tập cho hôm sau.
* Biện pháp 6: Tạo điều kiện cho học sinh tham gia các hoạt động ngoại khóa,
hoạt động trải nghiệm, tham quan, dã ngoại.
Hoạt động ngoại khóa mang lại nhiều lợi ích cho các em, một trong số đó là
mang lại sự thoải mái cho các em sau những giờ học. Ngày ngày đến trường với
những tiết học cứ lặp đi lặp lại sẽ khiến các em căng thẳng và chán nản. Thậm chí
nhiều em rất lười đến trường vì muốn ngủ nướng, ở nhà chơi. Vì vậy việc thường
xuyên tổ chức các hoạt động ngoại khóa, tham quan dã ngoại cũng là biện pháp để
giúp các em giảm bớt căng thẳng, mệt mỏi, có động lực đến trường. Tuy nhiên, Trà
Vinh là vùng khó khăn, dân tộc thiểu số việc tham quan dã ngoại là một việc rất khó
thực hiện. Nhà trường chưa có cơ hội tổ chức cho học sinh đi tham quan được xa.
Biện pháp này đang được đề xuất, kiến nghị Nhà trường tạo điều kiện.
1.2. Phân tích tình trạng của giải pháp đã biết (nếu là giải pháp cải tiến giải
pháp đã biết trước đó tại cơ sở):
17
Mục tiêu quan trọng trong giáo dục học sinh Tiểu học là hình thành cho các em
những kiến thức, kĩ năng cơ bản của các môn học để làm tiền đề cho các em học tập ở
các cấp học tiếp theo. Bên cạnh đó, một mục tiêu khơng kém phần quan trọng là giáo
dục cho các em kĩ năng sống( bao gồm các kĩ năng cần thiết để các em tự bảo vệ
mình, tự làm những cơng việc nhỏ phục vụ bản thân,…). Trong đó giáo dục học sinh
tính tích cực, tự giác trong học tập và sinh hoạt là một việc hết sức quan trọng và cần
thiết. Năm học 2021- 2022, tôi được phân công giảng dạy lớp 5B với tổng số học sinh
20 em ( trong đó 4 học sinh nữ). Qua thực tế giảng dạy, tôi thấy một số khó khăn sau:
a/ Về học sinh:
- Gần 2/3 học sinh trong lớp khả năng tiếp thu kiến thức cịn hạn chế, các em
chưa tự tìm tịi, khám phá nội dung các môn học, học một cách thụ động.
- Giờ học các em ít tập trung, ít tham gia giơ tay phát biểu xây dựng bài, khơng
tích cực suy nghĩ tìm câu trả lời cho những câu hỏi khó.
- Học sinh không nắm kĩ nội dung các bài đã học, chưa có sự chuẩn bị bài trước
khi đến lớp dẫn đến việc lĩnh hội kiến thức mới còn hạn chế.
- Đa số học sinh con em dân tộc thiểu số, gia đình khó khăn, điều kiện khơng cho
phép nên sự quan tâm cho con em cũng chưa cao, chưa chu đáo.
b/ Về phía giáo viên:
- Giáo viên chưa coi trọng việc tổ chức các hoạt động của học sinh.
- Giáo viên chưa sử dụng phối hợp các phương pháp và hình thức tổ chức dạy
học phù hợp với đặc điểm học sinh để giúp học sinh tự giác, chủ động trong việc học
của mình.
Thực tế cho thấy, hiện nay học sinh các cấp nói chung và học sinh Tiểu học nói
riêng các em chỉ nắm lí thuyết, rập khn, chưa phát huy tính tích cực và ý thức tự
học. Học sinh Tiểu học vốn sống, vốn kiến thức còn hạn chế, chưa có phương pháp
học cụ thể, việc tiếp thu kiến thức và vận dụng kiến thức đó chưa chủ động và linh
hoạt. Qua những khó khăn nêu trên, tơi thiết nghĩ nếu tình trạng này kéo dài thì làm
sao chất lượng của lớp học được nâng cao. Mặt khác, với lương tâm nghề, tơi ln có
suy nghĩ phải giúp các em học tập tốt, ln có ý thức phát huy tính tự học chứ khơng
học một cách thụ động, khơng khoa học. Chính vì vậy, để nâng cao chất lượng dạy –
18
học cho học sinh lớp 5 tơi đã tìm tịi, phân tích thực trạng và lựa chọn sáng kiến về
“Một số biện pháp phát huy tính tích cực, tự học cho học sinh lớp 5B trường PTDTBT
TH&THCS Trà Vinh
1.3. Nội dung đã cải tiến, sáng tạo để khắc phục những nhược điểm hiện tại (nếu
là giải pháp cải tiến giải pháp đã biết trước đó tại cơ sở):
1.4. Khả năng áp dụng của sáng kiến:
Các biện pháp trên đã được đưa ra nghiên cứu và áp dụng trong quá trình giảng
dạy và chủ nhiệm tại trường PTDTBT TH&THCS Trà Vinh với sự tham gia của 20
học sinh lớp 5B. Kết quả cho thấy việc giúp học sinh phát huy tính tích cực, tự học là
một việc làm hết sức quan trọng và cần thiết. Hình thành cho học sinh ý thức, tinh
thần tự học. Từ đó học sinh nhận thức được tầm quan trọng của việc học, hiểu được
rằng việc học sẽ giúp ích cho bản thân, gia đình và xã hội. Sáng kiến này có thể áp
dụng cho tồn bộ học sinh khối 5 tại trường.
1.5. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến:
a/ Đối với bản thân giáo viên:
- Thực hiện đổi mới phương pháp hay các biện pháp trong công tác chủ nhiệm
lớp là một yếu tố vô cùng quan trọng, luôn được đưa lên vị trí hàng đầu trong sự
nghiệp giáo dục.
- Ln có ý thức rèn luyện, học hỏi để nâng cao chất lượng dạy học.
- Luôn tạo điều kiện cho các em được trải nghiệm các tiết học ngoài trời, đi tham
quan dã ngoại.
- Thường xuyên tạo không gian lớp học rộng rãi để dễ dàng tổ chức các hoạt
động.
- Luôn chú trọng việc phối kết hợp giữa gia đình- nhà trường- xã hội một cách
nhịp nhàng và kịp thời hơn.
- Tạo tâm lí nhẹ nhàng, sự hứng thú và mong muốn chiếm lĩnh kiến thức của học
sinh. Khơng khí lớp học thoải mái, khơng gị bó. Xây dựng nhu cầu học tập cho các
em, giúp các em xác định được mục đích của việc học, tạo động cơ học tập đúng đắn.
b/ Đối với nhà trường:
19
- Luôn được sự quan tâm, chỉ đạo, hướng dẫn của nhà trường, của chuyên môn
trường, tổ chuyên môn.
- Được học tập, bồi dưỡng, tập huấn chuyên môn về đổi mới phương pháp dạy
học, các hình thức tổ chức, đánh giá học sinh tiểu học.
1.6. Hiệu quả sáng kiến mang lại:
Ở trường Tiểu học hiện nay nói chung và lớp 5B tơi đang nghiên cứu nói riêng,
phương pháp này đã làm cho học sinh học tập một cách tích cực, tự giác, độc lập và
sáng tạo. Mặt khác cịn kích thích được phong trào thi đua học tập trong lớp .
Do đó, kết quả mang lại rất khả quan; nhiều em rụt rè nay đã hăng say phát biểu
xây dựng bài, lớp học sôi nổi, học sinh hứng thú, tiếp thu kiến thức nhanh chóng, dạy
học theo hướng đổi mới này sẽ huy động được năng lực, nghệ thuật sư phạm của giáo
viên. Thực tế cho thấy rằng người giáo viên không chỉ cung cấp cho học sinh những
tri thức, kĩ năng cần thiết mà còn truyền đến cho các em cả lương tâm, tình cảm và
trách nhiệm của chính mình.
Khảo sát mức độ hứng thú khi đến trường, tự giác trong học tập:
Thời điểm
TSHS
Mức độ cao
Mức độ thấp
Đầu năm giáo viên
chủ nhiệm tự khảo
20
8
40 %
12
60 %
20
13
65 %
7
35 %
20
17
85 %
3
15 %
sát trong lớp
Cuối HKI giáo
viên chủ nhiệm tự
khảo sát trong lớp
Cuối HKII giáo
viên chủ nhiệm tự
khảo sát trong lớp
2. Những thơng tin cần được bảo mật: Khơng có
3. Danh sách những thành viên đã tham gia áp dụng thử hoặc áp dụng sáng kiến
lần đầu:
TT Họ và tên
Nơi công tác
Nơi áp dụng sáng kiến
Ghi chú
20
1
Phan Thị Thu Hồng
Trường PTDTBT Lớp 5B trường PTDTBT
TH&THCS Trà TH&THCS Trà Vinh
Vinh
Tôi xin cam đoan mọi thông tin nêu trong đơn là trung thực, đúng sự thật và
hoàn toàn chịu trách nhiệm trước pháp luật.