Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

Sáng kiến kinh nghiệm mầm non phát triển ngôn ngữ cho trẻ 5 6 tuổi thông qua hoạt động làm quen văn học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (181.6 KB, 18 trang )

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
PHÁT TRIỂN NGÔN NGỮ CHO TRẺ 5-6 TUỔI THÔNG QUA HOẠT ĐỘNG
LÀM QUEN VĂN HỌC

-1-


1.PHẦN MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài.
Văn họcđối với trẻ là một thế giới kỳ diệu đầy cảm xúc. Như chúng ta đã
biết văn học tác động vào con người ngay từ khi cịn nằm trong nơi khi được nghe
tiếng ru à ơi của mẹ, tiếng thủ thỉ của bà kể những câu truyện cổ tích, những bài ca
dao đồng dao mang nặng tình yêu về quê hương, gia đình, đất nước. Tâm hồn trẻ
ngây thơ trong sáng, ln luôn vui vẻ cho nên tiếp xúc với văn học là nhu cầu không
thể thiếu với trẻ. Qua những bài ca dao, câu chuyện, bài thơ là tấm gương mẫu mực
về lời ăn tiếng nói cho trẻ học tập, là phương tiện hữu hiệu trong việc giáo dục trẻ
lòng yêu thiên nhiên, yêu quê hương đất nước, tình yêu mến bạn bè với những người
thân thiết, biết được việc làm tốt, biết yêu cái đẹp, cái thiện, ghét cái ác, phê phán
những việc làm xấu, kính yêu Bác Hồ, thật thà, ngoan ngỗn, là phương tiện hình
thành các phẩm chất đạo đức trong sáng cho trẻ thơ
Việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ mầm non được xem là một trong những hoạt
động quan trọng, nhất là đối với trẻ 5-6T, độ tuổi này cần được trang bị kho tàng
ngôn ngữ và vốn từ phong phú để bước sang một cấp học mới với đầy sự tự tin và
phấn khởi, trong số đó, làm quen tác phẩm văn học là một trong những hoạt động
phát triển ngôn ngữ rất được yêu thích ở trường lớp mầm non
Thơng qua hoạt động làm quen với tác phẩm văn học sẽ giúp trẻ dễ dàng tiếp
cận với các môn học khác như : Môn tốn, mơn tạo hình, chữ cái, mơn âm nhạc ...đặc
biệt cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học trẻ sẽ giúp trẻ phát triển vốn từ, luyện
phát âm và dạy trẻ nói đúng ngữ pháp tiếng việt
Hiểu được tầm quan trọng đó, bản thân tơi đã mạnh dạn chọn đề tài “Phát triển
ngôn ngữ cho trẻ 5-6 tuổi thông qua hoạt động làm quen văn học” nhằm giúp các bé


có được một mơi trường hoạt động tích cực, giúp cho trẻ mở rộng vốn từ một cách
chủ động, luyện phát âm, phát triển khả năng biểu đạt, giao tiếp… trẻ biết trình bày ý
kiến, suy nghĩ, tự tin khi kể về một sự vật hay sự kiện nào đó bằng chính ngơn ngữ
của mình.
1.2. Điểm mới của đề tài.
Đề tài của tôi cũng được nhiều người nghiên cứu, tuy mỗi người, mỗi vùng
miền có một cách áp dụng khác nhau. Do vậy các biện pháp tôi đưa ra áp dụng cũng
không thể giống nhau, các biện pháp đều đảm bảo tính mới, tính sáng tạo như. Tơi
ln thay đổi các hình thức gây hứng thú đối với trẻ, phát triển ngôn ngữ cho trẻ ở
mọi hoạt động. Muốn thực hiện tốt điều này đòi hỏi người giáo viên phải tích cực
sáng tạo ra cái mới, đồ dùng phải phong phú, tuyên truyền phối hợp với các bậc phụ

-2-


huynh để năng cao ngôn ngữ cho trẻ, với những điểm mới đó giúp trẻ phát triển ngơn
ngữ tốt hơn, ln kích thích sự hứng thú, tị mị và tích cực tham gia vào hoạt động.
Tôi đã áp dụng công nghệ thơng tin vào giảng dạy. Sử dụng những hình ảnh, những
video sinh động, đẹp mắt giúp trẻ hứng thú và luôn lấy trẻ làm trung tâm.
1.3. Phạm vi áp dụng đề tài
Với đề tài này, tôi đã áp dụng tại trường mầm non nơi tôi công tác nhằm nâng
cao chất lượng phát triển ngôn ngữ cho trẻ 5-6 tuổi ở trường mầm non trong năm học
2020-2021. Đề tài này có thể áp dụng rộng rãi, có hiệu quả đối với các trường mầm
non trên toàn huyện
2.PHẦN NỘI DUNG.
1.1. Thực trạng nội dung cần nghiên cứu.
Trong khi thực hiện biện pháp này tôi đã gặp một số thuận lợi và khó kkăn sau
* Thuận lợi
- Được sự quan tâm giúp đỡ của Phòng Giáo dục và Đào tạo và của Ban giám
hiệu nhà trường đã tạo điều kiện đầy đủ về cơ sở vật chất cũng như tài liệu, trang bị

chuyên môn, kiến thức để giúp tôi được học hỏi bồi dưỡng chuyên môn, học tập tham
quan ở các trường bạn.
- Môi trường lớp học thân thiện, rộng rãi, sạch sẽ, thống mát, trang trí theo
hướng mở “Lấy trẻ làm trung tâm” cùng những đồ dùng, đồ chơi tự tạo ra giúp trẻ
hứng thú hơn trong các giờ hoạt động.
- Giáo viên nhiệt tình, yêu nghề mến trẻ, năng động sáng tạo, có trình độ trên
chuẩn, có ý thức học hỏi đồng nghiệp, qua các phương tiện thông tin đại chúng.
- Một số phụ huynh của lớp rất nhiệt tình, luôn quan tâm giúp đỡ và phối kết
hợp với cô giáo trong việc chăm sóc và giáo dục trẻ.
* Khó khăn:
- Đa số các bậc phu huynh làm nương rẫy, nên ít có thời gian quan tâm và nhận
thức chưa đúng đắn về việc học của con cái.
- Đa số trẻ là dân tộc Bờ ru-Vân kiều nên trẻ cũng như phụ huynh sữ dụng
tiếng dân tộc nhiều hơn , vì vậy việc giao tiếp ngơn ngữ bằng tiếng việt cho trẻ còn
hạn chế, trẻ đến lớp chưa chủ động mạnh dạn giao tiếp với cơ, với bạn.
- Trẻ cịn hạn chế nhiều về các tác phẩm văn học, nên gặp nhiều khó khăn
trong việc tổ chức các hoạt động cho trẻ.
- Bên cạnh đó vẫn cịn một số giáo viên khả năng còn cảm nhận các tác phẩm
văn thơ truyện còn hạn chế, giọng đọc và cách phối hợp ánh mắt, cử chỉ, điệu bộ,
minh họa chưa bộc lộ cảm xúc hấp dẫn cuốn hút trẻ, phương pháp lồng ghép tích hợp
chưa linh hoạt sáng tạo kết quả trên trẻ chưa cao, trẻ chưa thực sự say mê, hào

-3-


hứng, sử dụng đồ dùng dạy học chưa có khoa học, dẫn đến giờ học trẻ ít tập trung
chú ý
Qua khảo sát trẻ 5-6 tuổi năm học 2020-2021. Trước khi áp dụng đề tài.
(Tổng số 20 trẻ: 10trẻ nam/10trẻ nữ)
Số trẻ đạt

Số trẻ chưa đạt
Nội dung
Tổng
%
Tổng
%
Vốn từ của trẻ, nói nhiều câu có
nghĩa đầy đủ, phân biệt được ý
nghĩa một số từ.
5
25%
15
75%
Kinh nghiệm sống của trẻ, trẻ
hứng thú tham gia học, phát
biểu, kể chuyện, đọc thơ,ca dao
và đóng kịch.
4
20%
16
80%
Trẻ kể chuyện, đọc thơ, ca dao
theo trí nhớ
5
25%
15
75%
Trẻ đã tham gia đóng kịch thể
hiện vai diễn của mình
2

10%
18
90%
Trẻ phát âm chính xác , mạch
lạc, ít sử dụng ngơn ngữ địa
phương
6
30%
14
70%
2.2: Các biện pháp
2.2.1. Làm tốt công tác tự bồi dưỡng chuyên mơn nghiệp vụ:
Phải nói rằng việc tự học hỏi để nâng cao năng lực, kỹ năng nghề nghiệp là điều
đặt lên hàng đầu cho mỗi giáo viên. Hiểu rõ điều đó, bản thân tơi đã tranh thủ mọi cơ
hội, điều kiện có thể để tìm tịi, học hỏi, sáng tạo bằng nhiều cách khác nhau: Tham
quan trường bạn, dự giờ, tìm hiểu qua sách, báo, các phương tiện thơng tin đại chúng
đặc biệt mạng internet là một kênh thông tin phong phú để tơi khám phá tìm hiểu, học
hỏi kinh nghiệm cho bản thân.
Luôn nắm vững đặc điểm tâm sinh lý độ tuổi của trẻ để có các phương pháp tác
động phù hợp, kích thích tính tị mị, hứng thú ở trẻ.
Nghiên cứu chương trình GDMN để nắm vững mục tiêu, nội dung, phương pháp
giáo dục phù hợp với từng độ tuổi.
Tham gia đầy đủ các buổi sinh hoạt chuyên đề của trường, của phòng, của sở,
của Bộ GD&ĐT. Tham gia lớp học nâng cao trình độ chun mơn nghiệp vụ, đặc biệt
nghiên cứu kỹ các tài liệu bồi dưỡng “ Tăng cường tiếng việt cho trẻ mầm non người
dân tộc thiểu số”. Đây được xem như là kim chỉ nam để tôi mạnh dạn áp dụng trong

-4-



việc ”Phát triển ngôn ngữ cho trẻ 5-6 tuổi thông qua hoạt động làm quen văn học”
cho trẻ 5-6 tuổi tại trường.
Ln có ý thức học hỏi chị em đồng nghiệp trong trường, trong cụm như dự giờ,
tham quan để rút những kinh nghiệm cho bản thân trong công tác chăm sóc giáo dục
trẻ.
2.2.2: Xây dựng mơi trường làm quen văn học phù hợp cho trẻ
a. Môi trường trong lớp
Hiện nay, nếu giáo viên tạo được môi trường cho trẻ hoạt động tốt thì sẽ kích
thích trẻ phát triển ngơn ngữ, tham gia vào các hoạt động và kết quả đạt được rất cao.
Ngay từ đầu năm học tôi đã chú ý xây dựng góc văn học “Khu vườn cổ tích”,
ở đây tơi muốn giới thiệu thêm thật nhiều các tác phẩm văn học trong chương trình
giáo dục đến trẻ, bởi trong tiết học thì việc được tiếp xúc với tác phẩm văn học cũng
có nhưng chưa đáp ứng đủ nhu cầu ham học của trẻ ở lứa tuổi này. Qua “Khu vườn
cổ tích” tơi tổ chức các hoạt động đọc thơ, kể chuyện, cho trẻ tập đóng kịch để trẻ
được nói những ngơn ngữ của các nhân vật trong truyện để từ đó trẻ làm giàu vốn từ
của bản thân. Để gây được sự hứng thú của trẻ khi tham gia vào các hoạt động đó thì
việc tạo khơng gian mang đậm tính văn học là rất cần thiết, ngay từ đầu năm học tôi
đã vận động phụ huynh đóng góp tranh thơ, truyện tranh ngồi chương trình để trẻ kể
cho nhau nghe vào các hoạt động chiều và cho trẻ chơi trong giờ hoạt động góc.
b. Mơi trường ngồi lớp
Mơi trường ngồi lớp học là tế giới bên ngoài để trẻ hoạt đng và lỉnh hội kiến
thức qua các buổi dạo chơi…vì vậy trong giờ hoạt động ngồi trời tơi cịn tận dụng
những bức tranh tường ở trong trường, hàng rào bằng cách gợi mở cho trẻ cùng nhau
kể chuyện về những bức tranh đó hoặc có các con vật trong sân trường tôi cũng gợi
mở cho trẻ thi nhau kể chuyện về các con vật đó, hình thức này đã giúp trẻ có nhiều ý
tưởng sáng tạo hay và có ý thức thi đua để đạt kết quả tốt.
Ở vườn cổ tích tơi cho trẻ cùng nhau chiêm ngưỡng các câu chuyện được dựng
trên mơ hình bằng đá, tôi gợi hỏi trẻ tên câu chuyện, các nhân vật trong chuyện, tôi
cho trẻ nhắc đi nhắc lại và gọi nhiều trẻ nhắc nhằm phát triển ngôn ngữ cho trẻ
Tạo môi trường cho trẻ kể chuyện sáng tạo là một việc làm vơ cùng quan trọng

bởi nó là chỗ dựa, là cơ sở vững chắc cho trẻ kể chuyện sáng tạo.
2.2.3: Tuyên truyền và phối kết hợp với phụ huynh trong việc hỗ trợ trẻ
làm quen với các tác phẩm văn học
- Như chúng ta đã thấy môi trường tiếp xúc của trẻ chủ yếu là gia đình và nhà
trường. Chính vì vậy việc kết hợp giữa gia đình và nhà trường là một biện pháp
không thể thiếu.

-5-


- Trong cuộc họp đầu năm tôi nêu tầm quan trọng của lĩnh vực phát triển ngôn
ngữ cho trẻ đặc biệt là thông qua hoạt động dạy trẻ đọc ca dao đồng dao, đọc thơ, kể
truyện.
- Hàng tháng tuyên truyền với phụ huynh về các câu chuyện sáng tạo, bài thơ,
ca dao theo chủ đề. Qua đó phụ huynh thấy ngôn ngữ của trẻ được phát triển như thế
nào và có biện pháp kích thích sự phát triển ngơn ngữ cho trẻ tại gia đình, và huy
động phụ huynh thu gom nguyên vật liệu tự tạo để làm đồ dùng dạy học như đá cuội,
tre…
Tôi sử dụng 1 mảng tường ở ngoài cửa lớp để làm bảng tuyên truyền với phụ
huynh về chương trình dạy trẻ theo chủ đề và thay tin hàng tuần để phụ huynh biết và
phối hợp với giáo viên rèn luyện thêm ở nhà.
Ví dụ: Tơi cung cấp một số bài đồng dao để các bậc phụ huynh cùng học với
trẻ để trẻ được đọc từ chính xác khơng bị nói ngọng.
Tơi trao đổi với phụ huynh về những câu chuyện, bài thơ trẻ được học ở
trường, yêu cầu phụ huynh về nhà cùng đọc với trẻ và cho trẻ kể lại câu chuyện đó
hoặc kích thích trẻ kể lại câu chuyện. Như vậy ngơn ngữ của trẻ phát triển một cách
phong phú và đa dạng.
+ Tơi tổ chức 1 cuộc họp, qua cuộc họp đó tơi trao đổi với phụ
huynh những cháu nói ngọng như cháu Nhật Huy, Văn Dũng...những cháu nhút
nhát ...Để phối hợp cùng với gia đình giúp cháu phát âm chuẩn hơn, mạnh dạn hơn,

bên cạnh những cháu phát âm còn ngọng thì tơi cũng nêu ra hhững cháu mạnh dạn
năng động trong các hoạt động như kể chuyện , đọc thơ như : Bảo Trâm, Quỳnh
Nhung, Ngọc Hòa để phát huy tính tích cực của các cháu.
2.2.4: Tổ chức các hoạt động làm quen tác phẩm văn học vào mọi thời
điểm
a.Trong tiết học
Trong khi dạy trẻ đọc một bài thơ, hoặc kể một câu chuyện dạy cho trẻ trước
hết phải hiểu được nội dung, xác định được thể loại thơ truyện, phải hiểu được tâm
trạng của tác giả miêu tả gì ? Và câu chuyện gửi gắm điều gì ? Đặt những câu hỏi mở
kích thích trẻ suy nghĩ, tư duy
Ví dụ khi dạy về chủ đề thế giới động vật qua bài thơ “ Ong và bướm ” Cơ có
thể sử dụng vật thật ( con ong, con bướm …).hoặc chuẩn bị tranh, ảnh, cô cho trẻ
trực tiếp quan sát, “Con ong, con bướm đậu trên bông hoa hồng ”. Hỏi trẻ những câu
hỏi như: bài thơ nói về điều gì? Qua bài thơ các con học được điều gì? (Không ham
chơi la cà như bướm), nếu ham chơi la cà như bướm thì sẽ gặp chuyện gì? (Bị kẻ xấu
bắt đi)

-6-


- Khi cô cho trẻ đọc bài thơ này, cô luyện cho trẻ phát âm đúng rõ ràng có nhịp
điệu các âm l, n, x,s … Tập cho trẻ luyện phát âm thường xuyên liên tục, tập phát âm
từ từ, khơng nên nóng vội. Cơ nên chú ý đến những trẻ nói ngọng, nhút nhát, phát âm
địa phương nên động viên khuyến khích để trẻ tự tin, khi trẻ phát âm, nếu trẻ phát âm
sai cô không nên cười giễu cợt trẻ, nếu trẻ khơng phát âm đúng cơ có thể luyện cho
trẻ ở mọi lúc, mọi nơi, nếu cô cứ bắt ép trẻ phải phát âm đúng ngay,thì trẻ sẽ bị ức
chế, dễ dẫn dến chán nản, trẻ cũng khơng muốn phát âm nữa, thì dẫn đến hiệu quả
giờ dạy khơng cao.
- Giảng từ khó trong tác phẩm làm quen văn học: Địi hỏi cơ giáo phải đầu tư
về tranh ảnh vật thật phong phú, thì trẻ hấp dẫn và nhớ lâu hơn. Khi cơ giải thích từ

mới, từ khó cần cung cấp cho trẻ những từ có hình ảnh, cần giải thích các từ trong
tác phẩm một cách rõ ràng, dễ hiểu có thể dùng nhiều cách khác nhau để giải thích,
khơng nên cố gắng làm sai lệch đi nghĩa của từ, cơ khuyến khích trẻ sử dụng từ
hay,cơ có thể kể một câu chuyện ngắn trong đó có các từ khơng hay và đề nghị trẻ
chọn từ khác hay hơn để thay thế. Giờ học này cần sử dụng phương pháp trực quan,
phải tích cực hóa q trình nhận thức về ngơn ngữ cho trẻ.
Ví dụ khi cho trẻ kể về ơng của mình khuyến khích trẻ dùng từ như mái tóc
bạc phơ, ơng lưng cịng, đi phải chống gậy, đi lom khom, cơ khuyến khích động
viên cả lớp, đặc biệt những trẻ rụt rè để trẻ mạnh dạn trẻ lời và đọc các từ mới .
Trong khi trẻ được nói và trả lời câu hỏi của cô vốn từ của trẻ được tăng lên ngôn ngữ
của trẻ ngày càng phát triển.
Ví dụ: khi dạy trẻ đọc bài thơ “Rong và cá ” cô cho trẻ quan sát bể cá vàng
bơi, trẻ được tận mắt trông thấy bể cá trẻ sẽ nói được các từ như quẫy đi, ngoi lên,
lặn xuống, đớp mồi, trẻ được nhìn ngắm được đọc những từ mới qua đó vốn từ của
trẻ thêm phong phú .
- Sau mỗi bài thơ, câu chuyện nào được phổ nhạc thì cơ có thể hát cho trẻ
nghe, hoặc ngâm thơ cho trẻ nghe từ đó sẽ giúp trẻ nhanh thuộc và cảm nhận được
cái hay, cái đẹp trong tác phẩm.
b. Ngồi tiết học
- Tơi có thể tiến hành cho trẻ đọc hoặc kể chuyện ở mọi lúc mọi nơi, khi dạo
chơi tham quan cơ có thể lồng ghép cho trẻ đọc nhiều lần, thường xuyên như vậy vốn
từ của trẻ ngày càng mạch lạc và ngôn ngữ khi phát âm được phong phú hơn.
- Khi cho trẻ dạo chơi ngồi trời tơi cho trẻ quan sát hoa cúc lồng ghép cho trẻ
đọc bài thơ “Hoa kết trái” qua đó trẻ được gọi tên nhận biết màu sắc của các lồi
hoa, vốn ngơn ngữ của trẻ càng được phát triển .Ví dụ: Khi trời nắng cho trẻ quan sát
dạo chơi. Cơ cho trẻ đọc bài thơ “Ơng mặt trời ” “Chiếc bóng’’ “ Nắng mùa hè ”.

-7-



Qua bài thơ cơ có thể cho trẻ được làm quen với từ mới như “Ơng mặt trời ”cơ chỉ
trực tiếp lên ông mặt trời cho trẻ biết ông mặt trời như thế nào?
- Tôi cho trẻ làm quen với từ mới “Nhíu mắt ” cơ chỉ cho trẻ từ nhíu mắt khi
nhìn vào ơng mặt trời từ đó trẻ vừa trực tiếp được đọc, được nhìn ngắm vốn từ của trẻ
ngày càng phong phú hơn. Giáo dục trẻ khi ra nắng phải đội nón, mũ và trẻ biết được
nhiều cách gọi về từ “Mũ, nón ”
- Hoặc ở các trị chơi dân gian tơi phát triển ngơn ngữ cho trẻ bằng cách tổ
chức cho trẻ chơi và đọc các bài ca dao, đồng dao như dung dăng dung dẻ, lộn cầu
vồng, kéo cưa lừa xẻ, nu na nu nống, thông qua các bài ca dao, đồng dao trẻ biết thêm
nhiều từ vựng, các mối quan hệ, các quy tắc xã hội như rửa tay sạch, chào hỏi, thưa
gửi…
- Đến giờ lau mặt, rửa tay cho trẻ, tôi cho trẻ đọc bài thơ “Giữ tay cho
sạch” qua đó giúp trẻ có ý thức khi đi rửa tay, trẻ cũng được làm quen với từ “Sạch ”
và trẻ biết được khi rửa sạch tay là như thế nào ? Và vốn từ ngôn ngữ của trẻ ngày
càng được tăng thêm.
- Trong giờ hoạt động vui chơi cơ cho trẻ về góc xem tranh truyện, cho trẻ tập
kể chuyện sáng tạo theo tranh, cho trẻ thi đua đọc các bài thơ mà trẻ thích từ đó ngơn
ngữ của trẻ được phát triển mạnh mẽ theo thời gian ..
- Đến giờ ăn cơm trưa, trong khi chờ cô xơi cơm cô cho trẻ đọc bài thơ “Giờ ăn
trưa” cô cung cấp cho trẻ một số từ mới về thực phẩm, như là hôm nay cả lớp ăn cơm
với món gì? Thịt gì ? Canh rau gì? Khi cơ hỏi trẻ được trả lời, vốn từ ngôn ngữ của
trẻ ngày càng phong phú hơn. Qua đó cơ giáo dục trẻ khi ăn cơm khơng được rơi vãi,
đổ ra bàn ăn, và phải ăn hết xuất của mình.
- Vào giờ ngủ trưa, trước khi ngủ cô cho trẻ đọc bài thơ “Giờ đi ngủ” qua bài
thơ trẻ có ý thức khơng nói chuyện trong khi ngủ.
- Cô nên tận dụng mọi lúc, mọi nơi để cho trẻ làm quen tiếp cận với văn học
đến góc “khu vườn cổ tích” cơ cho trẻ quan sát các tranh ảnh, chữ to, khổ to để trẻ
có điều kiện làm quen với văn học , từ đó sẽ hình thành biểu tượng chữ cái ban đầu
cho trẻ, vốn từ ngôn ngữ của trẻ ngày càng phát triển phong phú và đa dạng hơn.
2.2.5: Phát triển ngôn ngữ cho trẻ thông qua hoạt động kể chuyện sáng

tạo, đọc thơ diễn cảm
Việc cho trẻ kể chuyện sáng tạo, đọc thơ sáng tạo và chơi trị chơi đóng kịch có
ý nghĩa rất quan trọng trong việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ. Nó khơng chỉ ảnh
hưởng trực tiếp tới sự phát triển ngơn ngữ mà cịn thúc đẩy sự phát triển xúc cảm,
tình cảm thẩm mĩ ở trẻ
a. Kể chuyện sáng tạo

-8-


- Qua sự tưởng tượng phong phú và những câu trả lời thơng minh dí dỏm, hồn
nhiên ngây thơ của trẻ. Thơng qua tình cảm, tình u đối với con người, với thiên
nhiên đã giúp trẻ sáng tạo ra những câu chuyện hay hấp dẫn mang đầy kịch tính qua
các hoạt động kể chuyện sáng tạo. Vào thời gian đầu của năm học tôi đã cho trẻ làm
quen với việc kể chuyện sáng tạo qua tranh ảnh, bằng cách cô kể phần đầu, yêu cầu
trẻ tưởng tượng sáng tạo phần tiếp theo và kết thúc câu chuyện.
- VD: Cô và trẻ cùng nghĩ ra một câu chuyện cổ tích “ Ngày sinh nhật của thỏ”
Thơng qua bức tranh có nhiều nhân vật như: Thỏ, Sóc,… Tơi tiến hành kể đoạn đầu
và trẻ tự suy nghĩ kể đoạn tiếp theo : Buổi sáng, Thỏ dậy sớm, đi ra thung lũng. Nó
mang theo cái trống và đánh rất to. Các con vật nghe thấy ồn liền kéo ra cả thung
lũng. Thỏ nói với các bạn “ Các bạn ơi hôm nay là sinh nhật của tớ. Tớ mời tất cả các
cậu tới dự lễ nhé”. Các con thử nghĩ tiếp xem ai đến dự sinh nhật Thỏ, tặng cho Thỏ
quà gì? Chú ý không nhắc lại lời kể của bạn, quà tặng mang đến cũng khác nhau.
- Cháu Bảo Đăng: Sóc con chạy về tổ nghĩ khơng biết Thỏ thích ăn gì nhất. Nó đi
ra lại đi vào một lúc, bỗng nó reo lên. Ta nghĩ ra rồi, Thỏ thích ăn cà rốt nhất.
- Cháu Hồng Ngân: Nhím con về tổ và nghĩ xem tặng q gì cho bạn. Nghĩ mãi
khơng ra nhím đành hỏi mẹ “ Mẹ ơi khơng biết bạn thỏ thích gì nhất nhỉ? Mẹ trả lời:
Cà rốt thì nhà thỏ lúc nào cũng có, nấm thì thỏ khơng ăn được. Mẹ nghĩ một bó hoa
tươi sẽ khiến thỏ rất cảm động đấy.
- Ngồi ra tơi cịn in những hình ảnh của những câu truyện để trẻ xem và kể truyện

theo tranh có sẵn và tơi chuẩn bị những đồ dùng cho trẻ sáng tạo trong góc học chữ
cái để trẻ nhớ lâu hơn và hứng thú hơn với các chữ cái
b. Đọc thơ diễn cảm
- Thường xuyên tổ chức có hiệu quả các hoạt động phát triển ngơn ngữ cho trẻ
qua các bài thơ sẽ giúp trẻ ngày càng hứng thú đọc thơ hơn, trẻ thấy tự tin và có được
vốn từ phong phú hơn. Những bài thơ ngắn, ngôn từ gần gũi với trẻ sẽ khiến trẻ thích
đọc vì trẻ dễ nhớ và dễ thể hiện.
- Để trẻ mầm non làm quen với thơ, cơ có thể tổ chức một số hoạt động dạy trẻ
đọc thơ dưới hình thức sân khấu biểu diễn, câu lạc bộ bé u thơ hoặc cùng cơ đóng
kịch về bài thơ... như vậy, trẻ rất hứng thú tham gia học và đọc thơ diễn cảm.
- Cùng với đó, để bài thơ đi sâu vào nhận thức của trẻ, cô hướng dẫn trẻ liên hệ
nội dung thơ với cuộc sống thường ngày thông qua việc hỏi bé những câu hỏi liên
quan đến thực tế. Như khi cơ dạy bé bài thơ “Tình bạn” Cơ có thể hỏi bé những câu
hỏi: Lớp chúng mình hôm nay vắng ai? Tại sao bạn không đi học? Khi biết bạn của
mình bị ốm các con cảm thấy thế nào ? Tại sao?... Mỗi lần như vậy bé sẽ tư duy để
vận dụng những kinh nghiệm bản thân và ngơn ngữ của mình để diễn đạt câu trả lời.

-9-


Như vậy giúp trẻ yêu thích khám phá, phát triển tư duy và ngơn ngữ nói một cách
tồn diện.
2.2.6: Thiết kế đồ dùng dạy học sáng tạo
- Bản thân tôi khẳng định: Đồ dùng dạy học là một trong những phương tiện
dạy học đạt kết quả cao nhất. Đồ dùng dạy học hấp dẫn sẽ giúp trẻ hứng thú, nhớ rất
lâu những kiến thức mà cô cung cấp, nhất là khi trẻ được trực tiếp quan sát, trực tiếp
hoạt động, qua đó trẻ cảm nhận dược tình cảm, tích cách của các nhân vật trong
truyện một cách sâu sắc. Vì vậy trước khi tổ chức cho trẻ làm quen với truyện tôi
chuẩn bị đồ dùng thật chu đáo. Tranh ảnh hấp dẫn, rối, nhạc nền khi kể phù hợp, sa
bàn phù hợp khi kể, có thể cho trẻ xem đĩa, hình ảnh trên máy tính...

- Để giờ kể chuyện, đọc thơ đạt hiệu quả cao thì đồ dùng phục vụ giờ dạy phải
đảm bảo:
+ Đồ dùng phải đẹp, màu sắc phù hợp đảm bảo tính an tồn (Khơng có cạnh
sắc nhọn) và vệ sinh cho trẻ (Khơng có bụi bẩn).
+ Đồ vật thật có liên quan đến câu chuyện
+ Thiết kế tranh ảnh, video, trị chơi trên máy tính phải đẹp, phù hợp với nhận
thức của trẻ
Ví dụ:
- Trong chủ đề “Giao thông”, tiết dạy thơ “ Con tàu”: Tôi sử dụng mơ hình
con tàu tự tạo từ những ngun vật liệu bỏ đi để gây hứng thú cho trẻ. Khi tôi làm
một chú thỏ bông cô đưa vào câu chuyện : “ Thỏ con không vâng lời ”. Lúc này tơi
có thể làm thỏ mẹ hoặc thỏ con cho xuất hiện nhân vật từ xa tới gần… sao cho phù
hợp với nội dung và tình tiết của chuyện. Trong câu chuyện “cây táo”:Quả táo xanh,
quả táo vàng, phải to, trịn, đẹp, màu sắc rõ nét với nhiều kích thước khác nhau.Cành
táo phải nhiều lá, nhiều quả, được cắm vào một chậu đẹp.Tranh vẽ phải đẹp và sinh
động, kích thước phù hợp không được to hoặc nhỏ quá.Sa bàn thấp: Có cây táo, ơng,
bé, gà trống, bươm bướm, mặt trời. Các nhân vật này có gắn que để điều khiển được.
- Với đồ dùng đồ chơi phù hợp với nhiều loại tiết dạy, dễ di chuyển và có thể
áp dụng ở mọi lúc mọi nơi, trong các tiết học và phù hợp với mọi lứa tuổi. Có thể thu
hút và thực sự lôi cuốn trẻ vào niềm say mê với những tiếng cười rộn rã ngộ nghĩnh
tuổi thơ. Với đồ dùng đồ chơi do cô tự sáng tạo phù hợp với từng câu chuyện và phù
hợp với lứa tuổi trẻ thu hút được sự chú ý nhiều hơn, trẻ thích tham gia vào giờ học
và các hoạt động hàng ngày.
- Từ những mảnh bìa cứng cartong tơi đã làm ra các loại rối trượt, sân khấu ,
điều khiển bằng dây, que. Những con rối biết cử động cùng lời nói rất thu hút lơi
cuốn trẻ. Ngồi ra tơi cịn dùng những miếng vải vụn , bông, len…để tạo thành những
con rối tay rất ngộ nghĩnh
- 10 -



- Ngồi những mẫu đồ dùng mà tơi đã tự thiết kế từ các nguyên phế liệu ra ,
để cho trẻ làm quen với các tác phẩm văn học thì những nhân vật, hình ảnh mà tơi tự
vẽ, chụp hoặc lấy ở trên mạng…Tơi đều đưa vào máy vi tính làm hiệu ứng cho chúng
cử động từng phần, sau đó đưa vào từng Slide để trình chiếu theo kết cấu nội dung
của từng tác phẩm cũng đã làm cho trẻ rất thích thú và say sưa hoạt động. Tơi đã thiết
kế được được rất nhiều tiết giáo án điện tử để trình chiếu trên Power point như: Bài
thơ chiếc bóng, ăn quả, mèo đi câu cá, Cáo thỏ và gà trống…
VD: Câu chuyện: “Cáo thỏ và gà trống” tôi đã xây dựng đoạn phim hoạt hình
về nội dung câu chuyện sau đó ghi âm lồng tiếng kể của tơi chèn vào đoạn phim đó
kết hợp với nhạc đệm trẻ rất hứng thú. Ngồi ra tơi cịn tạo các câu hỏi trên máy cho
trẻ trả lời.
- Mục đích của việc sử dụng công nghệ thông tin trong giảng dạy là trẻ được
trực tiếp xem các hành động, cử chỉ của các nhân vật và qua đó trẻ được tiếp xúc với
giọng kể hay với ngôn từ phong phú và đúng với tính cách của các nhân vật. Qua
cách làm quen như vậy trẻ biết nhận xét, đánh giá về đặc điểm tính cách của các nhân
vật thơng qua ngơn ngữ nói của mình. Bên cạnh việc kể chuyện cho trẻ nghe và cho
trẻ xem băng truyện tơi cịn chú ý đến việc giúp trẻ ghi nhớ cốt truyện với nội dung
và các tình tiết chính, các nhân vật chính của câu chuyện thông qua hệ thống câu hỏi,
nhắc trẻ logic của câu chuyện mối quan hệ và tác động của các nhân vật.
- Ngồi việc sử dụng các hình ảnh sống động trên máy vi tính, lời ghi âm của
cơ tơi còn ghi âm giọng kể của trẻ khi trẻ kể chuyện. Sau đó tơi dùng dây kết nối giữa
điện thoại với loa để bật lại cho trẻ nghe. Ngoài ghi âm giọng kể của trẻ bằng điện
thoại tơi cịn tận dụng chức năng quay phim để quay lại những vở kịch mà các nhân
vật đã đóng. Qua việc sử dụng điện thoại để quay phim và ghi âm giọng kể của trẻ tôi
thấy được hiệu quả rõ ràng trẻ hào hứng tham gia tập kể và đóng kịch hơn, trẻ biết
chau chuốt lời nói của nhân vật và nhập vai tốt hơn. Sau đó tơi mở cho trẻ xem lại vở
kịch mà trẻ đóng trẻ được nhận xét các giọng điệu của các nhân vật từ đó trẻ có thể
chỉnh sửa lại giọng điệu của mình hay hơn, phù hợp hơn.
2.2.7. Tổ chức trên tiết học kể chuyện
Để giúp trẻ phát triển ngơn ngữ được tốt hơn thì trong hoạt động học tôi chuẩn

bị tốt mọi điều kiện để tổ chức hoạt động kể chuyện như Lựa chọn nội dung câu
chuyện phù hợp với độ tuổi, lựa chọn mục tiêu phù hợp với tình hình và nhận thức
của trẻ, thực tế với địa phương, đồ dùng đồ chơi đầy đủ mang tính thẩm mỹ cao, tác
phong sư phạm của giáo viên, tính linh hoạt, sáng tạo, bao quát và xữ lí tình huống
của giáo viên. Bên cạnh đó tơi phải còn trau dồi kiến thức, kỹ năng kể chuyện phù
hợp với ngữ điệu hồn cảnh của từng câu chuyện, có như vậy mới thu hút trẻ tham
gia hoạt động.
- 11 -


* Trong tiết học kể chuyện “ Chú Dê Đen” tơi phát triển ngơn ngữ cho trẻ với
nhiều hình thức khác nhau như: Để giúp trẻ ghi nhớ được tên câu chuyện và phát âm
tên câu chuyện rõ ràng tôi cho trẻ phát âm tên câu chuyện nhiều lần, phát âm cả lớp,
phát âm theo tổ và phát âm cá nhân, phát âm cá nhân tôi gọi những trẻ ngôn ngữ phát
triển chưa mạch lạc, rõ ràng phát âm tên chuyện. Trẻ kể về tên các nhân vật trong câu
chuyện được học, ngoài việc gọi những trẻ xung phong phát biểu tôi luôn chú trọng
vào những trẻ nhút nhát, ngôn ngữ chưa mạch lạc để giúp trẻ phát triển hơn và tự tin
hơn trong hoạt động.
Như: Câu chuyện cô vừa kể có tên gọi là gì? (Cho trẻ gọi tên chuyện” Chú Dê
Đen” nhiều lần bằng hình thức cả lớp, tổ, cá nhân).
Trong câu chuyện có những nhân vật nào? (Tôi cho trẻ gọi tên các nhân vật
trong câu chuyện)
- Trong khi kể chuyện cho trẻ nghe có những lời thoại thì tơi kể chậm rải, sử
dụng giọng điệu, ngữ điệu, âm điệu phù hợp với từng nhân vật. Như giọng Dê đen thì
mạnh mẻ, giọng của dê trắng thì nhút nhát sợ hãi, giọng con cáo thì gian xảo…
Có những từ khó tơi giải thích trẻ hiểu và cho trẻ phát âm lại từ khó nhiều lần
và gọi nhiều trẻ phát âm. Như từ “Kim cương” (là loại đá quý, rất sáng và cứng
thường làm đồ trang sức) “ Chân Thép của ta có mống làm bằng Đồng” Thép và đồng
cũng là thứ kim loại quý hiếm dùng để chế tạo ra dao, kéo …
- Phần trích dẫn đàm thoại là sự kết hợp giữa giáo viên và trẻ một cách ăn ý, để

làm được điều đó địi hỏi giáo viên phải là người đem hết khả năng của mình truyền
thụ kiến thức cho trẻ, xây dựng những câu hỏi logic, ngắn gọn, dễ hiểu, hệ thống câu
hỏi từ dễ đến khó làm sao giúp trẻ hiểu được nội dung câu hỏi, từ đó trẻ hiểu được
nội dung câu hỏi và trả lời được câu hỏi một cách mạch lạc.
Như: Cơ kể các con nghe câu chuyện gì?
Trong câu chuyện có những nhân vật nào?
Dê Trắng vào rừng để làm gì?
Dê Trắng gặp ai?
Và điều gì xảy ra với Dê Trắng?
Khi gặp Sói, Dê Đen có sợ khơng? Dê đen đã làm gì?
Dê Đen có đuổi được Sói khơng? Vì sao Dê đen đuổi được Sói?
Dê Trắng là con vật như thế nào? Dê Đen là con vật như thế nào?
Các con học tập ai trong câu chuyện?…
Qua mỗi câu hỏi tôi gọi 2-3 trẻ trả lời, với những trẻ trả lời đúng, rỏ ràng tôi
động viên để các bạn trong lớp học tập, với những trẻ chưa hiểu nội dung câu hỏi,
thiếu mạnh dạn tự tin hoặc khó khăn về ngơn ngữ như nói ngọng…thì tơi có thể gợi ý

- 12 -


câu hỏi gần hơn, để trẻ hiểu và diễn đạt đúng. Với những trẻ nói ngọng, nói lắp thì tơi
sữa sai cách phát âm cho trẻ.
- Ở lứa tuổi này khả năng ghi nhớ của trẻ và khả năng phát triển ngôn ngữ của
trẻ tuy đã phát triển mạnh, tuy nhiên đặc thù ở lớp tôi 100% trẻ Bru- Vân kiều nên
cũng hạn chế về ngơn ngữ tiếng việt. Vì vậy Trong q trình dạy trẻ kể lại chuyện
cịn gặp rất nhiều khó khăn.
Để phát triển ngơn ngữ cho trẻ mạch lạc, rỏ ràng và giúp trẻ ghi nhớ nội dung
câu chuyện, ngồi các cách làm trên tơi cịn sữ dụng hình thức Dạy trẻ kể lại chuyện.
Với hình thức này tơi có thể tổ chức cho lần lượt trẻ kể từng đoạn chuyện hoặc tơi là
người dẫn chuyện cịn trẻ đóng vai các nhân vật trong chuyện.

Với câu chuyện” Quả bầu tiên” tôi cho lần lựợt từng trẻ kể từng đoạn chuyện theo
yêu cầu của cô. Mặc dù cùng một độ tuổi nhưng nhận thức cũng như phát triển ngơn
ngữ của trẻ khác nhau, có những trẻ phát âm tốt, có khả năng diễn đạt những cụm từ
dài, nắm được nội dung câu chuyện nhanh, mạnh dạn và tự tin, bên cạnh đó cũng có
những trẻ nói ngọng, nói chớt, nói lắp, diễn đạt những câu ngắn, nhút nhát, hạn chế
về nhận thức, nên trong quá trình trẻ kể tôi quan sát, lắng nghe để sữa sai, hổ trợ trẻ
trong cách kể chuyện.
Như: Bạn A kể đoạn từ đầu đến Chim chóc ríu rít đến hót vang quang nhà chú bé.
Bạn B kể đoạn tiếp theo Một hôm… đến chim én khỏi đau, cứ như vậy đến kế thúc
câu chuyện, mỗi lượt kể có thể 5 đến 7 trẻ.
Chuyện ở độ tuổi này có nội dung dài, có những câu có từ ngữ khó địi hỏi trẻ
phải có khả năng ghi nhớ tốt, ngôn ngữ phát triển rõ ràng, mạch lạc. Điều quan trọng
là sự lựa chọn câu chuyện nào phù hợp với hình thức đống kịch, kết hợp với sự
truyền thụ và cách kể chuyện cho trẻ nghe của giáo viên phải tạo được hứng thú cho
trẻ, phải thể hiện được giọng điệu, ngữ điệu của từng nhân vật trong chuyện có như
vậy trẻ mới tiếp cận được chuyện, diễn đạt được giộng điệu các nhân vật và thuộc
chuyện nhanh hơn. Khi tổ chức cho trẻ đống kịch, tơi khơng gị ép trẻ này phải chọn
vai này, trẻ kia phải chọn vai kia, tôi cho trẻ tự do chọn vai từng nhân vật trong
chuyện theo hứng thú và sở thích của trẻ, Tuy nhiên khơng thể để trẻ đống mãi một
vai trẻ thích mà tơi khéo léo hướng trẻ đống và khác có như vậy mới phát huy được
tính tích cực ở trẻ. Tơi ln động viên và quan tâm đến những trẻ thiếu tự tin, những
trẻ ngôn ngữ phát triển chưa mạch lạc, cịn nói ngọng, nói lắp tham gia với bạn để
nhập vai đống kịch.
Tôi lựa chọn Chuyện” Ba cô gái”
Tôi cho trẻ nhận vai: 1 bạn vai mẹ, 1 bạn vai cô chị cả, 1 bạn vai cô chị hai, 1
bạn vai cô út, 1 bạn vai sóc con, và tơi là người dẫn chuyện. Cứ như vậy cô dẫn đến

- 13 -



đoạn vai nào thì vai đó thể hiện, trong q trình trẻ thực hiện tơi ln quan sát giúp
đở trẻ để trẻ diễn tốt vai mình.
- Một yếu tố thành công trong việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ qua hoạt động
kể chuyện đó là đồ dùng đồ chơi phục vụ cho hoạt động như: rồi dẹp, rối tay, mơ
hình, tranh minh họa, sân khấu đống kịch …đã tác động rất lớn đến sự thích thú của
trẻ. Trong mỗi tiết chuyện tôi phải suy nghĩ sữ dụng những đồ dùng gì, đồ dùng đó
làm như thế nào, làm bằng chất liệu gì, sữ sung nó ra sao?.. điều tơi ln nghĩ đến đó
là tận dụng chất liệu từ thiên nhiên, từ nguồn sẳn có ở địa phương, và tận dụng vật
liệu dễ kiếm, dễ làm để huy động từ phụ huynh đống góp như mơ hình chuyện Chú
Dê Đen, Ba cô gái… làm bằng đá. Chuyện Quả bầu tiên, Sơn tinh thủy tinh…sữ dụng
vải củ làm bằng rối tay,…Mỗi câu chuyện, mỗi nhân vật, đồ vật tôi đề kèm theo chữ
viết để trẻ tiếp cận, còn các chi tiết khác sữ dụng bìa cát tơng, các loại chai…
2.3.Kết quả đạt được.
Bảng khảo sát kết quả sau khi đã áp dụng một thời gian của đề tài
(Tổng số 20 trẻ: 10trẻ nam/10trẻ nữ)

Nội dung
Vốn từ của trẻ, nói nhiều câu có
nghĩa đầy đủ, phân biệt được ý
nghĩa một số từ.
Kinh nghiệm sống của trẻ, trẻ
hứng thú tham gia học, phát
biểu, kể chuyện và đóng kịch.
Trẻ kể chuyện theo trí nhớ
Trẻ đã tham gia đóng kịch thể
hiện vai diễn của mình
Trẻ phát âm chính xác , mạch
lạc, ít sử dụng ngơn ngữ địa
phương


Số trẻ đạt
Tổng
%

Số trẻ chưa đạt
Tổng
%

20

100%

0

18
17

90%
85%

2
3

10%
15%

15

75%


5

25%

19

95%

1

5%

- Đối với trẻ: Ngôn ngữ của trẻ thông qua các câu chuyện cũng được tăng lên
rõ rệt. Trẻ đến lớp, trẻ được làm quen với tác phẩm truyện kể mọi lúc mọi nơi, ở tất
cả các hoạt động trong ngày, ngay cả khi chơi ngồi trời, chơi tự chọn ở các góc, hoạt
động theo ý thích buổi chiều, trẻ cũng được xem những tranh ảnh câu chuyện. Trẻ
thấy hứng thú hơn, cảm nhận các câu chuyện một cách nhẹ nhàng hơn, giúp cho quá
trình cảm thụ tác phẩm truyện kể một cách sâu sắc hơn, từ đó ngơn ngữ phát triển tích

- 14 -


cực hơn trẻ nói nhiều hơn, số lượng câu từ tng lên rõ rệt, đặc biệt là trẻ mạnh dạn tự
tin hơn trong giao tiếp giữa các mối quan hệ.
- Đối với giáo viên: Bản thân tôi và giáo viên cùng lớp đã chủ động hơn. Kỹ
năng sư phạm tốt hơn, tổ chức tiết học sáng tạo, chuyển tiếp linh hoạt hơn. Đặc biệt
là khả năng ứng dụng công nghệ thơng tin vào giảng dạy đã nhanh nhạy và có nhiều
sáng tạo hơn. Bản thân tích cực làm đồ dùng, đồ chơi theo chủ đề, đồ dùng minh họa
phong phú, đa dạng hấp dẫn trẻ hơn kích thích trẻ khám phá và tìm hiểu hứng thú hơn
trong học tập. Nhờ đó mà chun mơn nghiệp vụ được nâng cao, kỹ năng sư phạm tốt

hơn, có kinh nghiệm hơn trong việc tổ chức các hoạt động cho trẻ làm quen với tác
phẩm văn học
- Đối với phụ huynh: Việc làm tốt cơng tác tun truyền với phụ huynh đã giúp
ích cho cha mẹ trẻ hiểu hơn và quan tâm hơn về chương trình học của con trên lớp,
và về nhà có thể ôn lại để dạy trẻ, kể chuyện, đọc thơ cho trẻ nghe. Tuyên truyền đã
giúp ích rất nhiều cho việc bồi dưỡng cho trẻ tại nhà. Qua đó phụ huynh nắm bắt
được khả năng học tập và phát triển của con mình để từ đó phối kết hợp tốt giữa gia
đình và nhà trường để thống nhất trong cách chăm sóc và giáo dục con em mình.
3. PHẦN KẾT LUẬN.
3.1.Ý nghĩa của đề tài.
Qua quá trình nghiên cứu và thực hiện các biện pháp trên vào hoạt động tăng
cường phát triển ngôn ngữ cho trẻ thông qua tác phẩm văn học bản thân tôi đã rút ra
những bài học kinh nghiệm và ý nghĩa của việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ như sau:
- Nắm vững được các yếu tố đổi mới cơ bản trong tổ chức các hoạt động phát
triển ngôn ngữ cho trẻ thông qua hoạt động dạy trẻ học từ những thứ đơn giản nhất
của môi trường xung quanh để tăng vốn từ, chữ cái cho trẻ
- Nắm vững nội dung hoạt động cho trẻ phát triển ngơn ngữ để trẻ được hoạt động
tích cực .
- Biết thiết kế và tổ chức các hoạt động phát triển ngôn ngữ cho trẻ theo chủ đề
một cách linh hoạt, sáng tạo phù hợp với khả năng trẻ và điều kiện cụ thể của địa
phương.
- Biết quan sát ghi chép để theo dõi đánh giá quá trình phát triển những kĩ năng
cần thiết cho việc nói, và diễn đạt …. của trẻ nhằm điều chỉnh các biện pháp giáo dục
đối với từng cá nhân trẻ.
- Đầu tư trong soạn giảng trước khi lên lớp.
- Thường xuyên trao dồi, học hỏi kinh nghiệm để nâng cao trình độ và chun
mơn.
- Tạo môi trường học tập làm đồ dùng đồ chơi phong phú, đẹp mắt phù hợp kích
thích trẻ tham gia.
- 15 -



- Phối hợp với phụ huynh cùng nhau giúp trẻ phát triển vốn tiếng việt một cách
tốt nhất.
-Biện pháp này đã giúp cho trẻ lớp tôi phát âm chuẩn hơn và mạnh dạn hơn
trong khi giao tiếp với cô, với bạn, Trẻ còn biết chỉ cho bạn chưa biết, hoặc mạnh dạn
đến hỏi cơ, từ đó trẻ khơng cịn rụt rè như trước nữa và cũng từ đó mà vốn tiếng việt
của trẻ tăng lên rõ rệt.
Phát triển ngôn ngữ giữ vai trò quan trọng trong cuộc sống giao tiếp hàng ngày
và hoạt động nhận thức của con người nói chung và sự phát triển tâm lý nhận thức
của trẻ nói riêng, đặc biệt là trẻ lứa tuổi 5-6 tuổi khả năng ngôn ngữ của trẻ phát triên
rất nhanh tạo điều kiện cho trẻ chuẩn bị tâm thế bước sang một cấp học mới đầy tự
tin.
3.2. Kiến nghị
a. Đối với phụ huynh :
- Luôn phối hợp với giáo viên để thường xuyên theo dõi kết quả học tập của trẻ.
-Thường xuyên dành thời gian kể chuyện, đọc thơ, ca dao đồng dao cho
trẻ nghe
- Phụ huynh hỗ trợ thêm cho giáo viên về nguyên vật liệu sẵn có ở địa phương
để làm đồ dùng dạy học cho trẻ
b. Đối với giáo viên:
Tăng cường cơng tác dự giờ đồng nghiệp, tích cực tham gia học tập nâng cao
trình độ, đặc biệt là tự học tự bồi dưỡng thông qua các chuyên đề, bồi dưỡng chun
mơn, hội thi...
Giáo viên ln tìm tịi sáng tạo, linh hoạt, sáng tạo tổ chức các hoạt động văn
học để phát huy tính tích cực sáng tạo của trẻ nhằm phát triển ngôn ngữ cho trẻ một
cách tốt nhất.
c. Đối với nhà trường :
Tiếp tục đầu tư về cơ sở vật chất và tổ chức làm đồ dùng về chuyên đề làm quen văn
học mở rộng nhiều hơn.

d. Đối với Phòng Giáo dục :
- Tổ chức các lớp tập huấn về chuyên đề làm quen văn học
- Cung cấp thêm tài liệu tham khảo
Trên đây là những kinh nghiệm đúc kết của bản thân tôi về một số biện pháp
“Phát triển ngôn ngữ cho trẻ 5-6 tuổi thông qua hoạt động làm quen văn học”. Tuy
nhiên đây chỉ là những kinh nghiệm thực tế của bản thân, vì vậy chắc chắn cịn nhiều
biện pháp chưa phù hợp để áp dụng rộng rãi ở các đơn vị khác, q trình thực hiện
ghi chép lại cịn nhiều thiếu sót, chưa thực sự đầy đủ và khoa học. Kính mong Hội
đồng khoa học các cấp góp ý.
- 16 -


Tôi xin chân thành cảm ơn!

ĐÁNH GIÁ CỦA HỘI ĐỒNG KHOA HỌC NHÀ TRƯỜNG.
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
ĐÁNH GIÁ CỦA HỘI ĐỒNG KHOA HỌC PHÒNG GD&ĐT.
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………

- 17 -


- 18 -




×