Tải bản đầy đủ (.pdf) (15 trang)

Phân tích luận điểm của hồ chí minh nước độc lập mà người dânkhông được hưởng độc lập tự do thì độc lập cũng chẳng có ý nghĩa gì

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.76 MB, 15 trang )

BỘ GD&ĐT VIỆT NAM
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
------

BÀI TẬP LỚN
MƠN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
ĐỀ TÀI: Phân tích luận điểm của Hồ Chí Minh “Nước độc lập mà người dân
khơng được hưởng độc lập tự do thì độc lập cũng chẳng có ý nghĩa gì” Làm rõ
ý nghĩa của luận điểm đối với Việt Nam hiện nay.

Họ tên
MSV
Lớp
GV hướng dẫn

:
:
:
:

Hà Nội 2023

Nguyễn Thu Hương
11217100
LLTT1101(222)_24 – TTHCM
Thầy Nguyễn Hồng Sơn


MỤC LỤC

1




LỜI MỞ ĐẦU

2


NỘI DUNG CHÍNH

I.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề độc lập dân tộc

1. Độc lập, tự do là quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm của tất cả các dân
tộc
Lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam từ ngàn xưa đến nay
gắn liền với truyền thống yêu nước, đấu tranh chống giặc ngoại xâm. Điều đó nói
lên một khát khao to lớn của dân tộc ta là ln mong muốn có được một nền độc
lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân và đó cũng là một giá trị tinh thần thiêng liêng,
bất hủ của dân tộc mà Hồ Chí Minh là hiện thân cho tinh thần ấy. Người nói rằng:
“Cái mà tơi cần nhất trên đời là đồng bào tôi được tự do, Tổ quốc tôi được độc
lập.”
Năm 1919, nhân dịp các nước Đồng minh thắng trận trong Chiến tranh thế
giới thứ nhất họp Hội nghị Vécxây (Pháp), thay mặt những người Việt Nam yêu
nước, Hồ Chí Minh đã gửi tới Hội nghị bản Yêu sách của nhân dân An Nam, bao
gồm 8 điểm với 2 nội dung chính là địi quyền bình đẳng về mặt pháp lý và đòi các
quyền tự do, dân chủ của người dân Đông Dương. Bản yêu sách không được Hội
nghị chấp nhận nhưng qua sự kiện trên cho thấy lần đầu tiên, tư tưởng Hồ Chí
Minh về quyền của các dân tộc thuộc địa mà trước hết là quyền bình đẳng và tự do
đã hình thành. Căn cứ vào những quyền tự do, bình đẳng và quyền con người “những quyền mà khơng ai có thể xâm phạm được” được ghi trong bản Tuyên

ngôn độc lập của cách mạng Mỹ năm 1776, Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền
của Cách mạng Pháp 1791, Hồ Chí Minh tiếp tục khẳng định những giá trị thiêng
3


liêng, bất biến về quyền dân tộc: “Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình
đẳng; dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do… Đó là
những lẽ phải khơng ai chối cãi được.
Trong Chánh cương vắn tắt của Đảng (1930), Hồ Chí Minh xác định mục tiêu
chính trị của Đảng là: Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến; làm
cho nước Nam được hoàn toàn độc lập”. Trong Tun ngơn độc lập năm 1945, thay
mặt chính phủ lâm thời, Hồ Chí Minh trịnh trọng tuyên bố trước quốc dân đồng
bào và thế giới rằng: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thực
đã thành một nước tự do và độc lập. Toàn thể dân Việt Nam quyết đem tất cả tinh
thần và lực lượng, tính mệnh và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập ấy.”
Ý chí và quyết tâm trên còn được thể hiện trong hai cuộc kháng chiến chống
thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược. Trong lời kêu gọi Liên hợp quốc năm
1946, một lần nữa Hồ Chí Minh khẳng định: “Nhân dân chúng tơi thành thật mong
muốn hịa bình. Nhưng nhân dân chúng tơi cũng kiên quyết chiến đấu đến cùng để
bảo vệ những quyền thiêng liêng nhất. Toàn vẹn lãnh thổ cho Tổ quốc và độc lập
cho đất nước.” Khi thực dân Pháp tiến hành xâm lược Việt Nam lần thứ hai, trong
Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến ngày 19/12/1946, Người ra lời hiệu triệu, thể
hiện quyết tâm sắt đá, bảo vệ cho bằng được nền độc lập dân tộc - giá trị thiêng
liêng mà nhân dân Việt Nam mới giành được: “Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả,
chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ.”
Năm 1965, đế quốc Mỹ tăng cường mở rộng chiến tranh ở Việt Nam: ồ ạt đưa
quân viễn chinh Mỹ, chư hầu vào miền Nam tiến hành chiến lược “Chiến tranh cục
bộ” và gây chiến tranh phá hoại miền Bắc. Trong hồn cảnh khó khăn, chiến tranh
ác liệt đó, Hồ Chí Minh đã nêu lên một chân lý thời đại, một tuyên ngôn bất hủ của
các dân tộc khao khát nền độc lập, tự do trên thế giới: “Khơng có gì quý hơn độc

lập, tự do”. Với tư tưởng trên của Hồ Chí Minh, nhân dân Việt Nam đã anh dũng
chiến đấu, đánh thắng đế quốc Mỹ xâm lược, buộc chúng phải ký Hiệp định Pari,
4


cam kết tôn trọng các quyền dân tộc cơ bản của nhân dân Việt Nam, rút quân Mỹ
về nước.
2. Độc lập dân tộc phải gắn liền với tự do, hạnh phúc của nhân dân
Theo Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc phải gắn với tự do của nhân dân. Người
đánh giá cao học thuyết “Tam dân” của Tôn Trung Sơn về độc lập và tự do: dân tộc
độc lập, dân quyền tự do và dân sinh hạnh phúc. Và bằng lý lẽ đầy thuyết phục,
trong khi viện dẫn bản Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của Cách mạng Pháp
năm 1791 “Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi, và phải luôn luôn
được tự do và bình đẳng về quyền lợi.” Hồ Chí Minh khẳng định dân tộc Việt Nam
đương nhiên cũng phải được tự do và bình đẳng về quyền lợi. “Đó là những lẽ phải
không ai chối cãi được”. Năm 1930, trong Chánh cương vắn tắt của Đảng, Người
cũng xác định rõ ràng mục tiêu đấu tranh của cách mạng là “Làm cho nước Nam
được hoàn toàn độc lập… Thủ tiêu hết các thứ quốc trái… Thâu hết ruộng đất của
đế quốc chủ nghĩa làm của công chia cho dân cày nghèo. Bỏ sưu thuế do dân cày
nghèo… Thi hành luật ngày làm 8 giờ.” Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành
công, nước nhà được độc lập và một lần nữa Hồ Chí Minh khẳng định độc lập phải
gắn với tự do. Người nói: “Nước độc lập mà dân không được hưởng hạnh phúc tự
do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì.”
Độc lập phải gắn với hạnh phúc của nhân dân. Ngay sau thắng lợi của Cách
mạng Tháng Tám năm 1945, trong hồn cảnh nhân dân đói rét, mù chữ…, Hồ Chí
Minh yêu cầu chúng ta phải thực hiện ngay: làm cho dân có ăn, làm cho dân có
mặc, làm cho dân có chỗ ở, làm cho dân có học hành. Có thể thấy rằng, trong suốt
cuộc đời hoạt động cách mạng của Hồ Chí Minh, Người ln coi độc lập gắn liền
với tự do, hạnh phúc cho nhân dân. Người từng bộc bạch đầy tâm huyết: “Tơi chỉ
có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn

5


Document continues below
Discover more from:
Chủ nghĩa xã hội Neu
CNXH2021
999+ documents

Go to course

6

Bài tập lớn chủ nghĩa khoa học xã hội Phân tích bản chất của
nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Liên hệ trách nhiệ…
Chủ nghĩa xã hội Neu

144

100% (51)

[Tailieu VNU.com] - Giao-trinh-Chu-Nghia-Xa-Hoi-KhoaHoc- Cnxhkh-Tailieu VNU
Chủ nghĩa xã hội Neu

100% (35)

Tơn giáo trong thời kì q độ đi lên CNXH liên hệ với Việt Nam
11

Chủ nghĩa xã hội Neu


100% (32)

Giáo trình CNXHKH bản word
48

17

Chủ nghĩa xã hội Neu

100% (25)

Phân tích nội dung trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
và sự vận dụng của bản thân 1
Chủ nghĩa xã hội Neu

100% (22)


Nguyên nhân tồn tại của tôn giáo trong thời kỳ quá độ lên chủ
3

nghĩa xã hội

100% (20)
Chủ nghĩa xã hội Neu
độc lập, nhân dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ta ai cũng có cơm ăn áo mặc,

ai cũng được học hành.”
3. Độc lập dân tộc phải là nền độc lập thực sự, hoàn toàn và triệt để

Trong quá trình đi xâm lược các nước, bọn thực dân, đế quốc hay dùng chiêu
bài mị dân, thành lập các chính phủ bù nhìn bản xứ, tun truyền cái gọi là “độc
lập tự do” giả hiệu cho nhân dân các nước thuộc địa nhưng thực chất là nhằm che
đậy bản chất “ăn cướp” và “giết người” của chúng.
Theo Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc phải là độc lập thực sự, hoàn toàn và triệt
để trên tất cả các lĩnh vực. Người nhấn mạnh: độc lập mà người dân không có
quyền tự quyết về ngoại giao, khơng có qn qn đội riêng, khơng có nền tài
chính riêng…, thì độc lập đó chẳng có ý nghĩa gì. Trên tinh thần đó và trong hoàn
cảnh đất nước ta sau Cách mạng Tháng Tám cịn gặp nhiều khó khăn, nhất là nạn
thù trong giặc ngoài, để bảo vệ nền độc lập thật sự mới giành được, Người đã cùng
Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hịa sử dụng nhiều biện pháp, trong đó có biện
pháp ngoại giao, để đảm bảo nền độc lập thực sự của đất nước.
4. Độc lập dân tộc gắn liền với thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ
Trong lịch sử, dân tộc ta luôn đứng trước âm mưu xâm lược và chia cắt đất
nước của kẻ thù. Thực dân Pháp khi xâm lược đã chia đất nước ta ra ba kỳ, mỗi kỳ
có chế độ cai trị riêng. Sau Cách mạng Tháng Tám, miền Bắc nước ta bị quân
Tưởng Giới Thạch chiếm đóng, miền Nam bị thực dân Pháp xâm lược và sau khi
độc chiếm hoàn toàn Việt Nam, một lần nữa thực dân Pháp lại bày ra cái gọi là
“Nam Kỳ tự trị” hòng chia cắt nước ta một lần nữa. Nhưng, trong Thư gửi đồng
bào Nam Bộ (1946) Hồ Chí Minh khẳng định: “Đồng bào Nam Bộ là dân nước
Việt Nam. Sơng có thể cạn, núi có thể mịn, song chân lý đó khơng bao giờ thay
6


đổi”. Sau khi hiệp định Giơnevơ năm 1954 được kỳ kết, đất nước Việt Nam tạm
thời bị chia cắt làm hai miền, Hồ Chí Minh tiếp tục kiên trì đấu tranh để thống nhất
Tổ quốc. Tháng 2/ 1958, Người khẳng định: “Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt
Nam là một.” Trong Di chúc, Người cũng đã thể hiện niềm tin tuyệt đối vào sự
thắng lợi của cách mạng, vào sự thống nhất của nước nhà: “Dù khó khăn gian khổ
đến mấy, nhân dân ta nhất định sẽ hoàn toàn thắng lợi. Đế quốc Mỹ nhất định phải

cút khỏi nước ta. Tổ quốc ta nhất định sẽ thống nhất. Đồng bào Nam, Bắc nhất
định sẽ sum họp một nhà. Có thể khẳng định rằng, tư tưởng độc lập dân tộc gắn
liền với thống nhất Tổ quốc, toàn vẹn lãnh thổ là tư tưởng xuyên suốt trong cuộc
đời hoạt động cách mạng của Hồ Chí Minh.
II.

Ý nghĩa của luận điểm đối với Việt Nam hiện nay
Thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, dưới sự lãnh đạo của Đảng,

nhân dân ta đã nỗ lực phấn đấu, vượt qua mọi hy sinh, gian khổ và đã thu được
nhiều thắng lợi trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Sau gần 40 năm đổi mới, dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự nỗ lực của toàn dân,
toàn quân nền kinh tế nước ta đã đạt nhiều thành tựu rực rỡ. Đời sống vật chất và
tinh thần của nhân dân từng bước được cải thiện và không ngừng được nâng cao.
Trong những năm qua, đặc biệt là trong gần 40 năm đổi mới, các chủ trương
chính sách và phát triển kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước luôn hướng tới đem
lại hạnh phúc cho con người, đảm bảo sự ổn định và phát triển bền vững. Điển
hình là cơng cuộc xóa đói giảm nghèo ở nước ta đã đạt được những thành tựu to
lớn.Thành tựu đáng kể của Việt Nam trong công cuộc xóa đói giảm nghèo đã được
quốc tế cơng nhận: tỷ lệ người nghèo đã giảm mạnh từ 57% vào đầu những năm 90
xuống còn 5,2% vào năm 2020. Tuy nhiên gần đây hơn, hậu quả của COVID-19 đã
làm gián đoạn q trình tạo việc làm và tăng thu nhập, có khả năng đẩy lùi tiến bộ
7


trong giảm nghèo và gia tăng bất bình đẳng hơn nữa do thu nhập của phụ nữ,
những người làm việc trong khu vực phi chính thức và các hộ gia đình nghèo nhất
phục hồi chậm nhất từ giữa năm 2020 đến tháng 3 năm 2021. Theo Tổng cục thống
kê, GDP bình quân đầu người năm 2022 đạt 95,6 triệu đồng/người, tương đương
4.110 USD. Nhìn lại gần 40 năm đổi mới, có thể nhận thấy, chính sách xã hội ở

nước ta được triển khai tích cực, tồn diện, với hệ thống văn bản pháp lý đồng bộ,
ngày càng hoàn thiện; phản ánh tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa, đáp ứng
được nguyện vọng của nhân dân và đã đạt được những thành tựu hết sức quan
trọng trong việc chăm lo cho con người.
Thứ nhất, các chính sách về lao động và việc làm của Nhà nước đã chuyển
biến theo hướng ngày càng phù hợp hơn với nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa. Bộ luật Lao động ban hành năm 1994 được sửa đổi nhiều lần (2002,
2006, 2007, 2012) đã tạo hành lang pháp lý cho việc hoàn thiện các tiêu chuẩn lao
động, thiết lập quan hệ lao động giữa các chủ thể, điều chỉnh các quan hệ xã hội có
liên quan đến quan hệ lao động như: hợp đồng lao động, thỏa ước lao động tập thể,
tiền lương, bảo hiểm xã hội, thời gian làm việc, vệ sinh lao động, kỷ luật lao động,
giải quyết tranh chấp cho người lao động… Việc xây dựng, triển khai thực hiện
Luật Việc làm và Chương trình việc làm cơng đã góp phần định hướng nghề
nghiệp, ổn định và phát triển thị trường lao động ở Việt Nam. Chất lượng lao động
qua đào tạo không ngừng tăng lên, cơ cấu ngày càng phù hợp thị trường lao động.
Lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên quý IV năm 2021 là 50,7 triệu người. Tỷ lệ
tham gia lực lượng lao động quý IV năm 2021 là 67,7%, trong đó tỷ lệ lao động
qua đào tạo có bằng, chứng chỉ quý IV năm 2021 là 26,1%.
Thứ hai, Đảng và Nhà nước ta ln nhất qn về chính sách giảm nghèo bền
vững đi đơi với khuyến khích làm giàu hợp pháp. Đẩy mạnh việc triển khai thực
8


hiện các nghị quyết của Chính phủ và Chương trình mục tiêu quốc gia về giảm
nghèo, những năm qua, nước ta thường xuyên chú trọng chính sách giảm nghèo đa
chiều và khắc phục nguy cơ tái nghèo, nhất là đối với các huyện xã nghèo, ở khu
vực biên giới, đảo cịn nhiều khó khăn; thu hẹp chênh lệch về mức sống và an sinh
xã hội so với bình quân cả nước. Đồng thời, tiến hành điều chỉnh chuẩn nghèo theo
từng thời kỳ phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước. Nhờ đó, thành tựu
về giảm nghèo của Việt Nam được Liên hợp quốc và cộng đồng quốc tế đánh giá

cao; tỷ lệ hộ nghèo cả nước năm 2023 chỉ chiếm 4.03% tương đương với
1.057.374 hộ, tỷ lệ hộ cận nghèo cả nước chiếm 3.49 % tương đương với 915.274
hộ.
Thứ ba, việc quan tâm chăm sóc sức khỏe cho nhân dân có nhiều tiến bộ. Hệ
thống cơ sở y tế đã được hình thành trong cả nước; số bác sĩ, số giường bệnh trên
một vạn dân tăng nhanh; hệ thống dịch vụ y tế ngày càng mở rộng và nâng cao
chất lượng. Trong 10 năm gần đây, các quan điểm, chủ trương, chính sách của
Đảng đã được thể chế hóa trong Hiến pháp năm 2013 và 20 luật liên quan đến lĩnh
vực y tế, dân số, tạo cơ sở pháp lý quan trọng cho việc chăm sóc sức khỏe người
dân. Các chủ trương, giải pháp phát triển hệ thống y tế tương đối toàn diện, coi
trọng cả về xây dựng thể chế và phát triển đồng bộ: y tế dự phòng, y học cổ truyền,
quản lý thuốc, khám, chữa bệnh,... Trong năm 2022, số người tham gia bảo hiểm y
tế đạt 91,1 triệu người, chiếm 92,04% dân số, tăng hơn 2,2 triệu người so với năm
2021.
Thứ tư, chính sách ưu đãi người có cơng được Đảng, Nhà nước đặc biệt quan
tâm và ngày càng mở rộng đối tượng, mức thụ hưởng với chế độ ưu đãi tồn diện
hơn. Cùng với chính sách ưu đãi của người có cơng, các đối tượng tham gia các
thời kỳ kháng chiến, chiến tranh bảo vệ Tổ quốc (quân nhân, thanh niên xung
9


phong, dân quân du kích…) tiếp tục được hưởng các chế độ, chính sách và hỗ trợ
của nhà nước và cộng đồng. Các thiết chế chăm sóc người có cơng, tri ân các anh
hùng, liệt sĩ ngày càng hoàn thiện và được quan tâm đầu tư. Cơng tác tìm kiếm,
quy tập hài cốt liệt sĩ được chú trọng, thể hiện tinh thần “uống nước nhớ nguồn”
của dân tộc ta trong điều kiện mới.
Thứ năm, xây dựng và từng bước hoàn thiện hệ thống an sinh xã hội toàn diện,
đa dạng, ngày càng mở rộng, hiệu quả. Nhà nước giữ vai trị chủ đạo kết hợp với
xã hội hóa, mở rộng sự chia sẻ của cộng đồng; đồng thời, phát triển mạnh hệ thống
bảo hiểm, khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi để người lao động tiếp cận và

tham gia. Tính đến hết tháng 9/2022, đã có trên 17,08 triệu người tham gia BHXH,
đạt 37,01% lực lượng lao động trong độ tuổi, tăng khoảng 537.000 người so với
cuối năm 2021, trên 14 triệu người tham gia BHTN đạt 28,3% lực lượng lao động
trong độ tuổi, tăng 627.000 người với cuối năm 2021. Hệ thống an sinh xã hội
không ngừng phát triển phù hợp với trình độ phát triển kinh tế - xã hội, khả năng
huy động và cân đối nguồn lực của đất nước trong từng thời kỳ; trong đó, ưu tiên
những người có hồn cảnh đặc biệt khó khăn, người nghèo và đồng bào dân tộc
thiểu số. Chính sách bảo trợ xã hội được xây dựng và từng bước hoàn thiện, đối
tượng hưởng ngày càng nâng lên; mở rộng các hình thức cứu trợ xã hội, giảm thiểu
rủi ro…
Thứ sáu, từng bước đảm bảo cung ứng với chất lượng ngày càng cao hơn một
số dịch vụ xã hội cơ bản cho người dân. Người nghèo, người có hồn cảnh khó
khăn và đồng bào dân tộc thiểu số được đảm bảo nhu cầu tối thiểu về giáo dục, y
tế, nhà ở, nước sạch, thông tin. Nhà nước đã quan tâm xây dựng, ban hành và thực
hiện nhiều chính sách, pháp luật về bình đẳng giới, chăm sóc bà mẹ và trẻ em, hơn
nhân và gia đình, chăm sóc người cao tuổi, phòng, chống tệ nạn xã hội, bạo lực gia
10


đình; tiếp tục hồn thiện chính sách, pháp luật về dân tộc, tôn giáo; tăng cường đầu
tư về kết cấu hạ tầng, kinh phí cho miền núi, vùng sâu, vùng xa; bảo tồn, phát huy
những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của các dân tộc và các tôn giáo trong công
cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN.
Nói chung việc chăm lo sức khỏe đời sống vật chất tinh thần cho người dân đã
được nâng cao rất nhiều đời sống người dân tăng cao sau gần 40 năm thực hiện đổi
mới Việt Nam đã được nhiều thành tựu to lớn toàn diện cùng với tăng trưởng kinh
tế sự ổn định của kinh tế vĩ mô được duy trì các mặt chính trị, xã hội, quốc phịng an ninh được đảm bảo và ổn định trong đó có những thành tựu rất đáng khích lệ vì
thực hiện tiến bộ và cơng bằng xã hội gắn bó chặt chẽ với tăng trưởng kinh tế phát
triển nguồn năng lao động và chất lượng lao động khoa học và công nghệ. Thành
tựu đó ngày càng khẳng định luận điểm đúng đắn của Bác về vấn đề độc lập, tự do,

hạnh phúc sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố quyết định thành cơng của
đổi mới khích lệ động viên nhân dân tiếp tục hưởng ứng góp phần quan trọng vào
việc giữ dưỡng ổn định chính trị - xã hội tiếp tục thúc đẩy sự nghiệp đổi mới toàn
diện đất nước với những bước tiến cao hơn.
Luận điểm của chủ tịch Hồ Chí Minh có ý nghĩa rất quan trọng đối với cán bộ
Đảng và người dân Việt Nam. Đây đúng là kim chỉ nam hành động trong mỗi cán
bộ nằm trong hàng ngũ Đảng, trong mỗi cá nhân thực hiện trách nhiệm phụng sự
nhân dân, đối với bạn sinh viên như chúng ta, có thể coi thanh niên là nguyên khí
của quốc gia mọi người phải nhận thức được rằng nhiệm vụ của chúng ta rất nặng
này phải tự hào là mình có quyền tự do mà khơng phải ai cũng có được điều đó,
thấy được cơng lao của người đi trước, thấy được truyền thống tố chất của người
Việt Nam. Có thể nói tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội CNXH và con
đường quá độ lên CNXH ở Việt Nam thực sự là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam
11


cho sự nghiệp đổi mới của chúng ta hiện nay chúng ta cần học tập và phát huy tinh
thần của Bác.

KẾT LUẬN

12


TÀI LIỆU THAM KHẢO

13




×