Tải bản đầy đủ (.pdf) (15 trang)

Sáng kiến kinh nghiệm lớp 2 môn tập làm văn một số biện pháp chỉ đạo dạy tốt phân môn luyện từ và câu lớp 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (339.82 KB, 15 trang )

I. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Như chúng ta đã biết, bậc học Tiểu học là bậc học nền tảng trong hệ thống
giáo dục. Mỗi môn học ở Tiểu học đều góp phần vào việc hình thành và phát
triển nhân cách của con người Việt Nam. Cùng với các mơn học khác, mơn
Tiếng Việt ở Tiểu học có vị trí hết sức quan trọng, là chìa khóa mở ra kho tàng
văn hóa trên mọi lĩnh vực đời sống, xã hội của con người. Trong mơn Tiếng
Việt thì phân mơn Luyện từ và câu có nhiệm vụ quan trọng, giúp học sinh lĩnh
hội Tiếng Việt, văn hóa, là cơng cụ giao tiếp tư duy và học tập. Đối với học sinh
khi sử dụng Tiếng Việt thì việc các kiến thức trong phân mơn Luyện từ và câu
giúp học sinh có đủ điều kiện để sử dụng Tiếng Việt đạt hiệu quả cao trong học
tập các mơn văn hóa, trong việc viết văn bản. Trong phân mơn Luyện từ và câu
thì hai nhiệm vụ rèn luyện về từ và rèn luyện về câu ln có mối liên mật thiết
với nhau. Luyện từ và câu lớp 2 giúp học sinh mở rộng vốn từ, cung cấp cho học
sinh một số hiểu biết sơ giản về từ loại, rèn cho học sinh kĩ năng dùng từ, đặt
câu, sử dụng dấu câu, bồi dưỡng thói quen dùng từ đúng, nói và viết thành câu.
Qua đó, bời dưỡng cho các em tình cảm u thích môn Tiếng Việt.
Qua thực tế giảng dạy trước đây và bây giờ là việc dự giờ thăm lớp ở lớp 2
nói chung và ở mơn Tiếng Việt 2 nói riêng, tơi thấy vốn từ của các em cịn rất
hạn chế, việc tìm hiểu và sử dụng từ cịn lúng túng, gặp rất nhiều khó khăn cần
phải được bổ sung và phát triển để đáp ứng nhu cầu học tập và giao tiếp. Muốn
nói hay viết giỏi đều phải dùng từ. Từ là phương tiện để cấu thành ngôn ngữ.
Hiểu được nghĩa của từ đã khó, cịn phải biết dùng từ như thế nào cho hợp văn
cảnh, đúng ngữ pháp còn khó hơn. Vì vậy, việc dạy cho học sinh nắm vững
Tiếng Việt không thể không coi trọng việc dạy phân mơn Luyện từ và câu vì nó
đặt nền móng cho việc tiếp thu tốt các môn học khác ở các lớp học trên.
Hiểu được tầm quan trọng của việc dạy học Luyện từ và câu, cho nên trong
những năm qua, tơi đã dành nhiều thời gian vào việc tìm hiểu phương pháp dạy
1/28



học phân môn này. Thực tế, tôi đã vận dụng có hiệu quả qua các tiết dạy học
trên lớp, và tham gia thao giảng các cấp. Đặc biệt, tôi đã có tiết dạy đạt xuất sắc
cấp Tỉnh. Nay trên cương vị một người quản lý, tôi vẫn dành nhiều thời gian vào
tìm hiểu phân mơn này với mong muốn đưa ra một số một số biện pháp chỉ đạo
dạy học ở trường đạt hiệu quả và cũng là để chia sẻ kinh nghiệm với các bạn
đồng nghiệp. Đề tài Một số biện pháp chỉ đạo dạy tốt phân môn Luyện từ và
câu Lớp 2 ở trường Tiểu học Xuân Quang hi vọng sẽ là những kinh nghiệm
bổ ích để các đờng nghiệp cùng chia sẻ!
2. Mục đích nghiên cứu
Tìm ra những khó khăn vướng mắc của giáo viên và học sinh thông qua
các giờ dạy và các bài tập Luyện từ và câu để tìm ra một số biện pháp cụ thể
nhằm chỉ đạo nâng cao chất lượng dạy và học mơn Tiếng Việt nói chung và
phân mơn Luyện từ và câu lớp 2 nói riêng.
3. Đới tượng nghiên cứu
Một số biện pháp chỉ đạo dạy tốt phân môn Luyện từ và câu Lớp 2
4. Phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp nghiên cứu lý thuyết.
- Phương pháp quan sát.
- Phương pháp sử dụng tình huống có vấn đề.
- Phương pháp thực nghiệm.
- Phương pháp điều tra khảo sát, thống kê.

2/28


II. NỘI DUNG
1. Cơ sở lý luận.
Luyện từ và câu là phân môn nền tảng trong môn Tiếng Việt ở Tiểu học
nói chung và ở lớp 2 nói riêng. Luyện từ và câu giúp học sinh có năng lực sử
dụng vốn ngơn ngữ Tiếng Việt trong nói và viết. Từ đó, sử dụng Tiếng Việt văn

hóa một cách thành thạo làm công cụ tư duy để học tập giao tiếp và lao động.
Ngay từ đầu của hoạt động học tập ở trường, học sinh đã được làm quen với lí
thuyết của từ và câu. Sau đó, kiến thức được mở rộng thêm và nâng cao dần để
phục vụ cho nhu cầu ngày một tăng trong cuộc sống của các em cũng như trong
lao động, học tập và giao tiếp. Chính vì vậy, việc dạy Luyện từ và câu có vị trí
rất quan trọng. Khơng có một vốn từ đầy đủ thì khơng thể nắm được ngơn ngữ,
khơng nắm được phương pháp giao tiếp. Việc dạy từ và câu ở giai đoạn đầu giúp
học sinh nắm được vốn tiếng mẹ đẻ, tạo điều kiện học tập và phát triển toàn
diện. Thực tế cho thấy, hiệu quả giáo dục nhiều mặt của Luyện từ và câu là rất
to lớn. Nó giúp học sinh phát triển ngôn ngữ, tư duy lôgic và các năng lực trí tuệ
như trừu tượng hóa, khái qt hóa, phân tích tổng hợp… và các phẩm chất đạo
đức như tính cẩn thận, cần cù. Ngồi ra, phân mơn Luyện từ và câu cịn có vai
trị hướng dẫn và rèn cho học sinh kĩ năng nói, đọc, viết.
Nhiệm vụ rèn luyện về câu của phân môn Luyện từ và câu ở lớp 2 là giúp
học sinh quen với các kiểu câu như : Ai là gì ? Ai làm gì ? Ai thế nào ? một số
thành phần trong câu, tập dùng một số dấu câu (dấu chấm, dấu phẩy, dấu chấm
hỏi, dấu chấm than, trọng tâm là dấu chấm và dấu phẩy). Dạy Luyện từ và câu ở
lớp 2 nói riêng cịn giúp cho học sinh hiểu về cấu tạo của từ, khái niệm về từ và
câu, có được những kĩ năng mà học sinh cần đạt trong giờ học đó là: Biết dùng
từ, đặt câu trong nói và viết, nói đúng, nói dễ hiểu và sử biết dụng các câu văn
hay, nhận ra những từ, câu chưa hay để loại ra khỏi vốn từ của mình. Bên cạnh
đó, dạy từ và câu ở lớp 2 giúp học sinh mở rộng, phát triển vốn từ (phong phú
hóa vốn từ), nắm được nghĩa của từ (chính xác hóa vốn từ), quản lí phân loại

3/28


vốn từ (hệ thống hóa vốn từ và luyện tập sử dụng từ), tích cực hóa vốn từ.
Ngồi ra học sinh cịn nắm được văn hóa chuẩn của lời nói, rèn cho học sinh khả
năng tư duy lôgic cao và khả năng thẩm mĩ.

Phân mơn Luyện từ và câu cịn có tác dụng to lớn trong q trình phát
triển tư duy ngôn ngữ cho học sinh. Qua phân môn Luyện từ và câu các em nắm
được từ và mở rộng vốn từ, giải nghĩa của từ và về câu. Các em nắm được các
kiểu câu, các dấu câu (dấu chấm, dấu phẩy, dấu chấm hỏi, dấu chấm than), biết
cách sử dụng từ và câu phù hợp với ngữ cảnh và lời nói. Ngồi ra, nội dung
chương trình của phân mơn Luyện từ và câu ở tiểu học được xây dựng phù hợp
với yêu cầu phát triển lời nói của học sinh, giúp các em mở rộng thêm kiến thức
trong quá trình học tập, lao động và giao tiếp ngày một tốt hơn, tiến bộ hơn, đạt
kết quả cao hơn.
2. Thực trạng của việc dạy học Luyện từ và câu lớp 2 ở trường Tiểu học
Xuân Quang.
2.1. Thực trạng dạy học của giáo viên :
Qua việc dự giờ trên lớp cũng như dự giờ thao giảng cấp trường tôi nhận thấy:
- Các hình thức tổ chức hoạt động học tập trong giờ học Luyện từ và câu
còn đơn điệu, chưa phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh.
- Tiết Luyện từ và câu thường trầm không sôi nổi, học sinh tập trung chú ý
chưa cao. Giáo viên lại phải chuẩn bị nhiều đồ dùng cho một tiết dạy. Mặt khác đờ
dùng trực quan sẵn có ở thiết bị nhà trường chưa đáp ứng đủ cho các tiết học
- Dạy Luyện từ và câu là khó so với các phân mơn khác, có nhiều từ, câu
chưa phân định rõ ràng nên trong khi giảng dạy giáo viên còn lúng túng trong
việc giúp học sinh phân định từ, câu.
- Việc rèn luyện các kĩ năng nghe nói, đọc viết, cho học sinh chưa được
thường xuyên
Ví dụ 1 : Khi dự giờ lớp 2B bài “Từ ngữ về muông thú” (tuần 23)

4/28


Nhận xét: Sau khi hướng dẫn học sinh làm bài tập 1: Xếp tên các con vật
vào hai nhóm thích hợp (thú nguy hiểm và nhóm thú khơng nguy hiểm), giáo

viên yêu cầu học sinh tìm thêm tên một số lồi thú nguy hiểm và thú khơng
nguy hiểm chưa có tên trong bài tập để giúp học sinh mở rộng vốn từ, có học
sinh nêu tên con rắn nhưng giáo viên đã công nhận câu trả lời của học sinh là
đúng. Tuy nhiên, tên con rắn mà học sinh liệt kê vào mng thú là sai vì nó
thuộc lồi bị sát.
Ví dụ 2 : Khi dự giờ lớp 2A bài Từ ngữ về sông biển. Dấu phẩy (Tuần 26).
Nhận xét : Giáo viên lần lượt hướng dẫn học sinh nắm yêu cầu của ba bài
tập (SGK trang 73,74). Sau đó cho học sinh lần lượt giải ba bài tập đó rời cho
học sinh nhận xét, kết luận, tiếp đó giáo viên chốt kiến thức. Giờ dạy trôi qua
một cách buồn tẻ do phương pháp và hình thức tổ chức dạy học của giáo viên
đơn điệu không gây được hứng thú học tập cho học sinh dẫn đến học sinh làm
việc mệt mỏi, có em khơng tập trung học bài dẫn đến hiệu quả giờ dạy chưa cao.
2.2.Thực trạng học của học sinh:
Qua khảo sát dự giờ học sinh lớp 2, tôi nhận thấy việc học và làm bài tập
Luyện từ và câu của học sinh có nhược điểm sau:
- Về Từ : Học sinh tìm cịn sai u cầu, số lượng ít, hiểu nghĩa từ cịn mơ
hờ, phát hiện từ loại chậm....
- Về Câu : Đặt câu chưa rõ nghĩa, tìm bộ phận trả lời của câu theo mẫu
cịn thừa hoặc thiếu, sử dụng dấu câu chưa thành thạo...
Để minh chứng cho điều này, năm học ………tôi đã tiến hành khảo sát
thực trạng khả năng nắm kiến thức Luyện từ và câu của học sinh hai lớp 2A,2B
theo từng giai đoạn (trước thực nghiệm và sau thực nghiệm) thông qua các bài
khảo sát ( trước thực nghiệm) và kiểm tra đối chứng ( sau thực nghiệm).
Bài khảo sát số 1 : Thời điểm sau khi học xong tuần 4, kiểm tra đồng
thời cả hai lớp 2A và 2B.
Bài 1 : Tìm các từ:
- Chỉ đờ dùng học tập

M : bút
5/28



- Chỉ hoạt động của học sinh

M : đọc

- Chỉ tính nết của học sinh

M : chăm chỉ

Bài 2 : Ngắt đoạn văn sau thành 4 câu rồi viết lại cho đúng chính tả:
Trời mưa to Hịa qn mang áo mưa Lan rủ bạn đi chung áo mưa với
mình đơi bạn vui vẻ ra về.
Kết quả khảo sát bài số 1 :
Lớp


số

Kết quả
Điểm 9-10

Điểm 7-8

Điểm 5-6

Điểm dưới 5

SL


%

SL

%

SL

%

SL

%

2A

25

6

24

9

36%

8

32%


2

8%

2B

23

5

21,7

8

34,8

7

30

3

13,5

Nhận xét về bài làm của học sinh : Nhìn chung nhiều em hiểu bài và làm
bài tập tương tốt tốt, các em tìm tương đối chính xác, biết sử dụng dấu câu,
nhiều em trình bày bài sạch sẽ cho nên điểm của các em khá cao. Tuy nhiên, bên
cạnh đó một số em còn chưa xác định đúng từ, xác định cách ngắt câu chưa
đúng, có em nắm kiến thức chưa chắc nên khi làm bài tập cịn tẩy xóa rất nhiều.
Ví dụ : Ở bài 1 có em tìm từ chỉ đờ dùng học tập là xe đạp; tìm từ chỉ

hoạt động của học sinh là ngoan. Ở bài 2 do chưa hiểu kĩ cách ngắt câu nên
nhiều em ngắt không đúng chỗ nên khi đọc lên có những câu vơ nghĩa như Trời
mưa to Hòa; Hòa quên áo mưa Lan...
Như vậy, qua kết quả khảo sát ta có thể thấy nguyên nhân dẫn đến sai sót
này là do đây là bước đầu học sinh tiếp xúc và làm quen với Luyện từ và câu
nên các bài làm của các em cịn nhiều hạn chế và thiếu sót cả về kiến thức và kỹ
năng cơ bản. Bên cạnh đó do nhận thức cảm tính nên sự vận dụng vốn sống vào
trong bài tập cịn thiếu chính xác; khả năng xác định từ, câu của học sinh còn
kém, các em còn nhầm lẫn dấu câu: dấu chấm và dấu phẩy.
Từ việc làm bài tập của học sinh, tôi thấy khả năng tư duy và sáng tạo của
học sinh là chưa cao. Việc rèn luyện bốn kỹ năng cơ bản : nghe, nói, đọc, viết
6/28


cho học sinh chưa thường xuyên. Vì vậy khả năng diễn đạt của các em chưa thật
sự tốt ở cả hai mặt nói và viết. Khi giao tiếp, tơi thấy học sinh nói chưa lưu lốt.
Đờng thời các em thường nói nhỏ khi chưa chắc chắn đúng, nói theo cảm tính
suy nghĩ của mình, nên khơng trau chuốt, khơng thành câu. Viết câu chưa đúng
chính tả như chưa chấm câu, chưa viết hoa, viết thiếu bộ phận chính..
Tóm lại, khả năng giao tiếp và nắm bắt ngôn ngữ của các em cịn nhiều
vấn đề cần bàn. Vì thế, vấn đề cần đặt ra là phải tìm ra nguyên nhân và có những
giải pháp hữu hiệu kịp thời để khắc phục nhược điểm, hạn chế của học sinh.
3. Một số biện pháp chỉ đạo dạy tốt phân môn Luyện từ và câu lớp 2 ở
trường Tiểu học Xuân Quang.
3.1. Biện pháp thứ nhất : Giúp giáo viên xác định đúng mục tiêu cần
đạt của mỗi bài tập và mục tiêu của tiết học.
Phân môn Luyện từ và câu lớp 2 không có bài lý thuyết cung cấp cho học
sinh kiến thức từ ngữ để ghi nhớ và học thuộc mà từ ngữ được cung cấp thông
qua các bài tập thực hành nên yêu cầu rèn luyện kỹ năng thực hành là yêu cầu cơ
bản trong từng tiết học Luyện từ và câu. Mỗi bài dạy Luyện từ và câu lớp 2

thường có hai phần : Mở rộng vốn từ (phần từ) và bài tập về câu (phần câu). Vì
vậy, giáo viên muốn dạy tốt thì phải xác định rõ mục tiêu của tiết học đó là mỗi
bài cần cung cấp kiến thức gì cho học sinh? kiến thức đó cung cấp trên cơ sở
nào? Bên cạnh đó, giáo viên cần phải chú ý “tích hợp” các kiến thức và kỹ năng
trong tiết học với những kiến thức kỹ năng đã học trước đó, tích hợp với vốn
sống của các em. Giáo viên cần giúp các em hiểu và vận dụng kiến thức để làm
bài tập một cách phù hợp.
Ví dụ : Tiết Luyện từ và câu tuần 26 ( Tiếng Việt 2 tập 2 trang 73)
* Mục tiêu về kiến thức : Giúp học sinh nhận biết một số loài cá nước
ngọt, nước mặn (BT1); kể tên một số con vật sống dưới nước (BT2). Biết đặt
dấu phẩy vào chỗ thích hợp trong câu còn thiếu dấu phẩy.

7/28


* Mục tiêu về kĩ năng: Giúp học nắm bắt, hiểu biết về các loài vật sống
dưới nước để vận dụng vào cuộc sống. Hình thành kĩ năng tư duy, biết đặt dấu
câu đúng chỗ, hợp lí.
Như vậy, dựa trên mục tiêu cần đạt thì sau bài học giáo viên cần phải giúp
học sinh nắm được các nội dung kiến thức đó là:
- Nhìn hình ảnh hoặc bề ngồi các em biết tên một số loài cá nước ngọt,
nước mặn như cá thu, cá chép, cá quả,...
- Nhớ và kể tên một số lồi vật sống dưới nước như tơm, cá, mực, cua
biển, ghẹ, hải cẩu, cá heo, ...
- Biết sử dụng dấu phẩy trong câu văn đúng lúc, đúng chỗ.
Bên cạnh đó giáo viên cần giúp học sinh biết “tích hợp” kiến thức các bài học
trước đó để vận dụng hiệu quả vào bài học trong tiết học này. Cụ thể, trước đó, ở
tuần 25 các em được học chủ điểm mới đó là chủ điểm Sơng biển. Và tất cả các bài
tập đọc, kể chuyện, chính tả đều thuộc chủ để sông biển. Bởi vậy, muốn giúp các em
làm tốt các bài tập này thì giáo viên phải giúp các em nhớ lại những kiến thức và kỹ

năng của các bài học tập đọc, luyện từ và câu, chính tả, kể chuyện để trên cở sở đó,
củng cố và mở rộng vốn từ cho các em một các hiệu quả nhất.
Ví dụ: Tuần 25 và 26 lớp 2, học sinh học chủ đề về Sông biển, học sinh
được học các bài tập đọc, chính tả, kể chuyện như: Tơm càng và cá con, Vì sao
cá khơng biết nói. Như vậy qua các bài học này các em đã có một vốn hiểu biết
cũng như vốn từ ngữ nhất định về các con vật sống dưới nước. Vì vậy, khi dạy
bài Luyện từ và câu tuần 26 “Mở rộng vốn từ: Từ ngữ về sông biển. Dấu phẩy”
giáo viên sẽ định hướng để học sinh nhớ và vận dụng các kiến thức của các bài
học này để làm các bài tập trong tiết học một các hiệu quả.
3.2. Biện pháp thứ hai : Định hướng để giáo viên lựa chọn các hình
thức học tập, các biện pháp tổ chức thực hiện thích hợp cho mỗi tiết học.
Việc lựa chọn các hình thức hoạt động của học sinh trong một tiết học có
tác dụng rất lớn để phát huy tính tích cực chủ động của học sinh, tạo khơng khí
sơi nổi trong giờ học giúp các em hứng thú với tiết học và các em nắm kiến thức
8/28


một cách hiệu quả. Nội dung các tiết Luyện từ và câu chủ yếu là luyện tập thực
hành nên khi chuẩn bị một tiết dạy, tôi thường định hướng cho giáo viên khi dạy
cần kết hợp các hoạt động của học sinh trong các tiết học theo các hình thức:
- Làm việc độc lập
- Làm việc theo nhóm
- Làm việc chung theo đơn vị lớp
Ví dụ : Tiết Luyện từ và câu Tuần 33 (Tiếng Việt 2 tập 2 trang 129), giáo
viên cần lựa chọn các hình thức hoạt động của từng bài như sau:
Bài 1 : Tìm từ ngữ chỉ một ngành nghề của những người vẽ trong tranh
dưới đây:
Đây là bài tập dựa vào tranh để tìm từ, trước hết, giáo viên cho học sinh
làm việc cá nhân quan sát kĩ từng bức tranh để tìm từ sau đó gọi học sinh nối
tiếp phát biểu tìm từ.

Bài 2 : Tìm thêm những từ chỉ nghề nghiệp khác mà em biết.
Mẫu: thợ may.
Ở dạng bài tập này, cần thay đổi hình thức học cá nhân sang học nhóm, tùy
vào số học sinh của lớp giáo viên chia thành 3-4 nhóm và tổ chức thi tìm nhanh
các từ. Sau đó, các em viết từ vào giấy khổ to và trong thời gian nhất định các
nhóm báo cáo kết quả, giáo viên tổng kết các từ học sinh tìm được và tun
dương nhóm tìm được nhiều, nhanh, chính xác để tạo khơng khí sơi nổi trong
giờ học.
Bài 3 : Trong các từ dưới đây, những từ nào nói lên phẩm chất của nhân
dân Việt Nam.
(Anh hùng, cao lớn, thông minh, gan dạ, rực rỡ, cần cù, đoàn kết, vui
mừng, anh dũng)
Với bài tập này, giáo viên vẫn cho học sinh hoạt động theo nhóm nhưng là
nhóm đơi. Các em trao đổi theo cặp để tìm từ, sau đó gọi đại diện của 2 hay 3
nhóm nêu kết quả, các nhóm khác bổ sung ý kiến.
Bài 4 : Đặt câu với mỗi từ tìm được ở bài tập 3
9/28


Sang đến bài tập 4, giáo viên cho học sinh làm việc cá nhân, sau một thời
gian các em làm việc gọi học sinh trả lời theo kiểu nối tiếp nhau sau đó nhận xét
và chữa câu các em đã đặt.
Với cách kết hợp các hình thức dạy học khi dạy Luyện từ cho học sinh sẽ
đạt hiệu quả rất cao, nhất là đối với các dạng bài tập mở rộng vốn từ, các em
được hoạt động theo nhiều hình thức, phát huy được vốn từ có sẵn của bản thân
đồng thời tạo ra sự tự tin, mạnh dạn trao đổi, thảo luận trong nhóm. Việc thay
đổi các hình thức học tập làm cho tất cả học sinh được hoạt động.
3.3. Biện pháp thứ ba : Giúp giáo viên nắm vững từng dạng bài và
phương pháp dạy từng loại bài để tổ chức các hoạt động dạy học trên lớp.
Phân mơn Luyện từ và câu ở lớp 2 có nhiều dạng bài, mỗi dạng có

phương pháp dạy khác nhau. Với những kinh nghiệm của bản thân, tôi đã định
hướng giúp giáo viên nắm vững phương pháp dạy từng dạng bài như sau:
a) Dạy học các bài mở rộng vốn từ :
Bài mở rộng vốn từ ở lớp 2 được chia thành các dạng: Mở rộng vốn từ
qua tranh vẽ; Mở rộng vốn từ theo quan hệ ngữ nghĩa; Mở rộng vốn từ theo cấu
tạo. Hệ thống từ ngữ cung cấp cho học sinh chủ yếu được dạy dưới dạng các bài
tập thực hành. Học sinh có kỹ năng nắm nghĩa của từ, mở rộng từ, sử dụng từ...
tất cả chỉ hình thành và phát triển thơng qua q trình luyện tập. Khi dạy cho
học sinh mở rộng vốn từ, tôi lưu ý giáo viên về phương pháp dạy như sau :
Dạng 1 : Mở rộng vốn từ qua tranh vẽ:
Tranh vẽ là loại thiết bị tạo hình, có tác dụng làm chỗ dựa cho việc tìm từ,
mở rộng vốn từ của học sinh, nhất là đối với học sinh lớp 2, mở rộng vốn từ qua
tranh vẽ giúp các em dễ nắm bắt nghĩa của từ và mở rộng từ một cách có hệ
thống. Khi dạy dạng bài tập này, giáo viên cho học sinh lần lượt đối chiếu từng
từ cho sẵn với các hình ảnh tương ứng, học sinh quan sát kĩ các tranh vẽ và nối
từ. Qua đó, các em nắm được nghĩa của từ và mở rộng thêm vốn từ. Các bài tập
về mở rộng vốn từ qua tranh vẽ là :
- Bài tập 1, tiết Luyện từ và câu tuần 1 (Tiếng việt 2 tập 1 trang 8) :
10/28


Chọn tên gọi cho mỗi người, mỗi vật, mỗi việc trong các tranh vẽ (học
sinh, cô giáo, xe đạp, nhà trường...)
- Bài tập 1, tiết Luyện từ và câu tuần 15 (Tiếng việt 2 tập 1 trang 122) :
Dựa vào tranh trả lời các câu hỏi (tìm từ chỉ đặc điểm) như xinh đẹp, dễ
thương, khỏe, to, chăm chỉ….
- Bài tập 1, tiết Luyện từ và câu tuần 17 (Tiếng việt 2 tập 1 trang 142) :
Chọn cho mỗi con vật một từ chỉ đúng đặc điểm của nó (nhanh, chậm,
khỏe, trung thành….)
- Bài tập 1, tiết Luyện từ và câu tuần 22 (Tiếng việt 2 tập 2 trang 35):

Nối tên các loài chim : đại bàng, cú mèo, chim sẻ, sáo sậu với tranh.
Tuy nhiên, trong số các bài tập này thì có một số bài mà từ khơng cho sẵn,
học sinh cần dựa vào tranh vẽ để gọi tên các từ được biểu hiện trong hình. Khi
dạy dạng bài này, giáo viên hướng dẫn quan sát kĩ từng bức tranh, suy nghĩ tìm
từ tương ứng. Thơng thường, học sinh tìm khá tốt các từ chỉ sự vật. Cịn ở các
bài tập tìm từ chỉ hoạt động, đặc điểm, tính chất,... học sinh cịn khó khăn. Để
học sinh có thể tìm được đúng từ theo tranh, giáo viên gợi mở dẫn dắt học sinh
qua các câu hỏi nhỏ.
Ví dụ : Bài tập 2, tiết Luyện từ và câu tuần 7 (Tiếng việt 2 tập 1 trang 59)
Để học sinh tìm đúng từ “đọc, xem ” trong bức tranh, giáo viên hỏi học sinh:
+ Bức tranh vẽ gì? (một bạn gái)
+ Bạn làm gì? (đọc sách hay xem sách)
+ Từ chỉ hành động của bạn là gì? (đọc, xem)
Trên thực tế khi dạy, ngồi từ “đọc, xem” học sinh cịn tìm được từ “học
bài, làm bài’’. Khi đó giáo viên cho học sinh quan sát tiếp và hỏi :
+ Trên tay bạn gái cầm gì? (một quyển truyện).
Như vậy giáo viên hướng dẫn học sinh loại bỏ những từ chưa đúng là “
làm bài, học bài” và chỉ còn lại từ “đọc, xem ”.
Đối với một số bài mà các vật vẽ trong tranh chưa rõ ràng. Để tìm được từ
chỉ các đờ vật đó địi hỏi phải quan sát kĩ mới nhận biết được. Khi dạy, ngoài
11/28


tranh vẽ in trong sách giáo khoa, giáo viên chiếu các tranh này lên màn hình để
học sinh tiện quan sát. Cũng có trường hợp khi học sinh tìm khơng đủ số lượng
đờ vật có trong tranh, giáo viên nêu rõ số lượng vật đó để các em tự tìm thêm.
Đồng thời giáo viên cũng cần chuẩn bị một bức tranh như vậy nhưng các đồ vật
đã được tô màu khác nhau để các em nhận diện rõ hơn về các đồ vật và học sinh
sẽ khắc sâu hơn về các từ ngữ này.
Ví dụ :

- Bài tập 3 tiết Luyện từ và câu tuần 6 (Tiếng việt 2 tập 1 trang 52): Tìm
các đờ dùng học tập ẩn trong tranh và cho biết các đồ vật ấy dùng để làm gì?
- Bài tập 1 tiết Luyện từ và câu tuần 11(Tiếng việt 2 tập 1 trang 90): Tìm
các vật ẩn trong bức tranh và cho biết mỗi vật đó dùng để làm gì?
Dạng 2 : Mở rộng vốn từ theo quan hệ ngữ nghĩa:
Ở dạng này có hai loại bài:
*Loại 1 : Loại bài về tìm từ ngữ cùng chủ điểm
Các từ cần tìm ở dạng này thuộc cùng một chủ điểm từ ngữ. Dạng bài tập
này ngoài tác dụng mở rộng vốn từ cho học sinh còn giúp các em hình thành
phát triển tư duy một cách có hệ thống hệ thống. Khi giảng dạy, giáo viên cần
chú trọng dựa vào ví dụ mẫu để học sinh có điểm tựa tìm từ, giúp các em hiểu rõ
yêu cầu của đầu bài, đồng thời gợi ý định hướng cho học sinh trong việc tìm từ.
Ví dụ 1 : Bài tập 2, tiết Luyện từ và câu tuần 1(Tiếng việt 2 tập 1 trang 9):
Tìm các từ chỉ :
- Đờ dùng học tập (mẫu : bút…)
- Chỉ hành động của học sinh (mẫu : đọc…)
- Chỉ tính nết của học sinh ( mẫu : chăm chỉ…)
Ví dụ 2 : Bài tập 1, tiết Luyện từ và câu tuần 28 (Tiếng việt 2 tập 3 trang 87):
Kể tên các loài cây mà em biết theo nhóm
a) Cây lương thực, thực phẩm : M : lúa
b) Cây bóng mát : M : cam
c) Cây ăn quả : M : xoan
12/28


d) Cây lấy gỗ :

M : bàng

đ) Cây hoa : M : cúc

Ví dụ 3 : Bài tập 1, tiết Luyện từ và câu tuần 30 (Tiếng việt 2 tập 2 trang 104).
- Tìm từ nói về tình cảm của Bác Hờ với thiếu nhi (mẫu: u thương….)
- Tìm từ nói về tình cảm của thiếu nhi với Bác Hờ (mẫu: biết ơn…)
Ví dụ : Bài tập 2, tiết Luyện từ và câu tuần 31 (Tiếng việt 2 tập 2 trang 112)
Tìm từ ngữ ca ngợi Bác Hờ, tơi có thể nêu từ “bao dung”, học sinh dựa vào đó
sẽ tìm được các từ ngữ như : Tâm hờn vĩ đại, vì nước vì dân,...
*Loại 2 : Loại bài về tìm từ trái nghĩa, cùng nghĩa, gần nghĩa:
Khi dạy bài tập dạng này, giáo viên cần giúp các em hiểu được như thế
nào là từ trái nghĩa, gần nghĩa, cùng nghĩa. Sau đó giáo viên cho học sinh tìm
các từ trái nghĩa theo yêu cầu của đề bài.
Ví dụ : Bài tập 1, tiết Luyện từ và câu tuần 16 (Tiếng việt 2 tập 1 trang 133):
Tìm từ trái nghĩa với các từ sau: tốt, ngoan, trắng...
- Bước 1: Giáo viên cho học sinh hiểu thế nào là từ trái nghĩa: Từ trái
nghĩa là những từ có nghĩa trái ngược lại từ cho sẵn.
- Bước 2: Học sinh tìm từ trái nghĩa với mỗi từ đã cho.
- Bước 3: Tổng kết, nhận xét và chốt lại kiến thức cho học sinh.
Dạng 3 : Mở rộng vốn từ theo cấu tạo :
Dạng bài tập mở rộng vốn từ theo quan hệ cấu tạo từ có nghĩa là dựa vào một
yếu tố cấu tạo từ cho sẵn, tìm những từ có cùng yếu tố cấu tạo và cùng kiểu cấu tạo.
Bài tập dạng này có tác dụng rất lớn trong việc giúp học sinh phát triển mở rộng vốn
từ. Trong sách giáo khoa, dạng bài tập này được đưa ra dưới hình thức cho sẵn một
từ, sau đó cho ghép thêm vào trước hoặc sau đó một tiếng để tạo thành từ mới hoặc
cho các tiếng, sau đó ghép hai tiếng lại với nhau để tạo thành từ.
Ví dụ 1 : Bài tập 1, tiết Luyện từ và câu tuần 2 (Tiếng việt 2 tập 1 trang 17).
Tìm các từ :
- Có tiếng “học” (mẫu : học hành)
- Có tiếng “tập” (mẫu : tập đọc)
13/28



Ví dụ 2 : Bài tập 1, tiết Luyện từ và câu tuần 25 (Tiếng việt 2 tập 2 trang 64):
Tìm các từ ngữ có tiếng biển (mẫu : biển cả, tàu biển...)
Ví dụ 3 : Bài tập 1, tiết Luyện từ và câu tuần 12 (Tiếng việt 2 tập 1 trang 99) :
Ghép các tiếng sau thành từ có hai tiếng: yêu thương, quý mến... (mẫu:
yêu mến, yêu quý...)
Khi dạy dạng bài tập này, ở ví dụ 1, giáo viên hướng dẫn học sinh dựa
vào mẫu cho sẵn trong sách giáo khoa để tìm các từ có cùng kiểu cấu tạo, đáp
ứng yêu cầu của bài tập. Hay ở ví dụ 3 giáo viên cho học sinh lần lượt ghép
tiếng thứ nhất với các tiếng còn lại để tạo từ và các em sẽ lựa chọn những từ
ghép được phù hợp, loại bỏ những từ khơng có nghĩa hoặc nghĩa không phù
hợp. Với cách ghép như vậy các em sẽ tìm được hết các từ một cách triệt để.
b) Dạy các bài lý thuyết về từ :
Khi dạy các bài lý thuyết về từ, tôi định hướng cho giáo viên chia thành
các dạng nhỏ và phương pháp sử dụng để dạy các dạng như sau :
Dạng 1 : Cho từ và nghĩa của từ, xác lập từ tương ứng.
Ở dạng bài tập này, từ và nghĩa của từ đều có sẵn, học sinh chỉ cần xác lập
sự tương ứng giữa từ và nghĩa trong từng trường hợp. Khi dạy giáo viên cho học
sinh lần lượt thử nối ghép từ và nghĩa cho sẵn (bằng cách nhẩm). Nếu có sự
tương ứng hợp lý giữa từ và nghĩa thì tức là đã làm đúng yêu cầu. Với cách làm
như vậy, học sinh có sự nhận biết được các nét nghĩa, sắc thái khác nhau trong
nghĩa của từng từ.
Ví dụ 1 : Bài tập 2, tiết Luyện từ và câu tuần 25 (Tiếng việt 2 tập 2 trang 64):
Tìm từ trong ngoặc đơn hợp với mỗi nghĩa sau :
- Dòng nước chảy tương đối lớn, trên đó thuyền bè đi lại được.
- Dịng nước chảy tự nhiên ở đời núi.
- Nơi đất trũng chứa nước, tương đối rộng và sâu, ở trong đất liền
( sông, suối, hồ)

14/28



được

Với bài tập này, giáo viên có thể hướng dẫn học sinh cách làm như sau: Để
biết
“Dòng nước chảy tương đối lớn, trên đó thùn bè đi lại

THƠNG TIN HỎI ĐÁP:
-------------------------Bạn cịn nhiều thắc mắc hoặc muốn tìm kiếm thêm nhiều tài liệu sáng kiến kinh
nghiệm mới mẻ khác của Trung tâm Best4Team
Liên hệ dịch vụ viết thuê sáng kiến kinh nghiệm
Hoặc qua SĐT Zalo: 091.552.1220 hoặc email: để hỗ trợ
ngay nhé!

15/28



×