Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Sách 30 lý tùng hiếu (2018), phức hợp văn hoá tính tương đối của cái nhìn hệ thống

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (319.53 KB, 22 trang )

Phức hợp văn hố: tính tương đối của cái nhìn hệ thống

Lý Tùng Hiếu

PHỨC HỢP VĂN HỐ: TÍNH TƯƠNG ĐỐI CỦA CÁI NHÌN HỆ THỐNG
CULTURAL COMPLEXES: RELATIVITY OF SYSTEMIC PERSPECTIVES
Lý Tùng Hiếu*
TĨM TẮT
Nhờ các cơng trình nghiên cứu của F. de Saussure, C. Lévi-Strauss, B.K. Malinowski,
A.R. Radcliffe-Brown, L.A. White, K.L. von Bertalanffy, E. Morin…, lý thuyết hệ thống và cách
tiếp cận hệ thống trong nghiên cứu văn hố đã hình thành trong thế kỷ XX, với hai khuynh hướng
chính là cấu trúc luận và chức năng luận. Tuy nhiên, lý thuyết hệ thống và cách tiếp cận hệ thống
chỉ có một giá trị sử dụng tương đối, không bắt buộc người nghiên cứu phải áp dụng mọi lúc mọi
nơi. Bởi vì, để cho một tập hợp văn hố trở thành hệ thống, nó phải hội đủ một số điều kiện.
Trong đó, thời gian là điều kiện cần, và quan hệ tương tác giữa các bộ phận là điều kiện đủ, để
tập hợp các bộ phận văn hoá trở thành hệ thống. Thay vì xem lý thuyết hệ thống và cách tiếp cận
hệ thống như công cụ vạn năng, tác giả đề nghị xem xét khả năng vận dụng phối hợp các lý
thuyết hệ thống với lý luận tư duy phức hợp. Bởi vì văn hố, dù có tự tổ chức thành hệ thống hay
chưa, cũng chính là một phức hợp. Việc khảo sát văn hoá như một phức hợp hoặc hệ thống phức
hợp sẽ giúp khắc phục được cái nhìn cơ giới và cái nhìn nhị nguyên luận, tách rời lịch đại với
đồng đại, đồng quy tất cả các hiện tượng văn hoá vào hai nguồn gốc khởi nguyên đối lập nhau,
v.v.
Từ khoá: lý thuyết hệ thống, cách tiếp cận hệ thống, cấu trúc luận, chức năng luận, lý
luận tư duy phức hợp, hệ thống phức hợp.
ABSTRACT
Thanks to the works of F. de Saussure, C. Lévi-Strauss, B.K. Malinowski, A.R. RadcliffeBrown, L.A. White, K.L. von Bertalanffy, E. Morin ..., systemic theories and systemic approach in
cultural research have formed in the twentieth century, with the two main trends that are
structuralism and functionalism. However, systemic theories and systemic approach have only a
relative using value, which does not oblige the researcher to apply anytime and anywhere.
Because, in order for a cultural aggregation to become a system, it must meet certain conditions.
In particular, time is necessary condition, and the interaction between the elements is sufficient


condition for the aggregation of cultural components into system. Instead of considering systemic
theories and systemic approach as all-purpose tools, the author suggests considering the
possibility of combining system theories with complex thought theory. Because culture, whether
organized into a system or not, is a complex. Examining a culture as a complex or complex
system will help overcome mechanistic and dualist viewpoints, which separate the synchronic
and the diachronic, and converge all cultural phenomena into two opposite origins, etc.
Keywords: systemic theories, systemic approach, structuralism, functionalism, complex
thought theory, complex system.
1. ĐẶT VẤN ĐỀ

*

Tiến sĩ, Giảng viên chính, Khoa Văn hoá học, Trường ĐHKHXH&NV-ĐHQG-HCM. Email:

461


KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
TRONG PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI VÀ HỘI NHẬP QUỐC TẾ

ISBN: 978-604-73-6187-8

Thiên nhiên bao quanh cuộc sống của con người thường tự lập thành hệ thống. Điều đó
khơng khó nhận biết, nên các lý thuyết về tính hệ thống của giới tự nhiên đã hình thành rất sớm
trong lịch sử khoa học, mà tiên phong là các ngành thiên văn học, vật lý học và sinh học. Nhưng
đối với văn hoá là sản phẩm của con người thì tình hình khác hẳn. Trong lãnh vực nghiên cứu văn
hoá, các lý thuyết hệ thống (systemic theories) được khai sinh hoặc được vận dụng tương đối
muộn. Vào cuối thế kỷ XIX, khi khái niệm “culture” (văn hoá) đã trở thành thuật ngữ khoa học ở
phương Tây và là một khái niệm trung tâm trong dân tộc học và nhân học, vẫn chưa có nhà
khoa học nào đề cập đến tính hệ thống của “culture” và định nghĩa về “culture” như một hệ thống

hay cấu trúc. Đầu thế kỷ XX, các lý thuyết hệ thống liên quan đến văn hoá mới ra đời, bắt đầu từ
các cơng trình nghiên cứu ngơn ngữ và văn hố của các học giả phương Tây. Từ sự phát triển và
sự vận dụng các lý thuyết hệ thống, đã hình thành cách tiếp cận hệ thống (systemic approach)
trong nghiên cứu văn hố.
Trong bối cảnh hội nhập và tồn cầu hố hơm nay, người nghiên cứu văn hố Việt Nam
khơng thể quay lưng với các lý thuyết khoa học mà giá trị đã được thừa nhận trong nghiên cứu
văn hoá, trong đó có các lý thuyết hệ thống. Trong bài tham luận này, chúng tơi sẽ tóm lược nội
dung kèm theo nhận định về giá trị đóng góp của các lý thuyết ấy, để từ đó chọn lọc, đúc kết
những luận điểm phù hợp, có thể vận dụng vào việc nghiên cứu văn hoá Việt Nam.
2. CÁC LÝ THUYẾT HỆ THỐNG
2.1. Ferdinand de Saussure với “hệ thống tín hiệu”
Ferdinand de Saussure (1857-1913) là nhà ngôn ngữ học kiệt xuất người Thuỵ Sĩ. Khi
nghiên cứu các ngôn ngữ, ông nhận thấy mỗi ngôn ngữ đều tự lập thành một hệ thống các tín hiệu
khép kín (tiếng Pháp: un système clos de signes, tiếng Anh: a closed system of signs). Mỗi tín
hiệu ngơn ngữ là một thực thể tâm lý có hai mặt: khái niệm và hình ảnh âm thanh. Khái niệm tức
“cái được biểu đạt” (tiếng Pháp: signifié, tiếng Anh: signified) là phần nội dung trừu tượng, chỉ
có thể nhận biết bằng tư duy, tâm lý. Cịn hình ảnh âm thanh tức “cái biểu đạt” (tiếng Pháp:
signifiant, tiếng Anh: signifier) thì có tính vật chất, có thể nhận biết bằng giác quan của con
người. Cả “cái biểu đạt” và “cái được biểu đạt” của tín hiệu ngơn ngữ đều khơng tồn tại riêng rẽ
mà tồn tại và hành chức trong hệ thống của chúng. Trong một đơn vị ngôn ngữ, “cái biểu đạt” và
“cái được biểu đạt” được thể hiện đồng thời. Nhiều đơn vị như thế phối hợp với nhau tạo thành
một hệ thống. Và nhiều hệ thống như vậy phối hợp với nhau tạo thành một hệ thống lớn hơn. Mỗi
ngôn ngữ đều là một hệ thống, bao gồm nhiều tiểu hệ thống theo cấp độ từ thấp lên cao: âm vị hình vị, từ, ngữ cố định - câu - văn bản, ngôn bản. Mỗi cấp độ là một tiểu hệ thống: hệ thống âm
vị, hệ thống từ vựng, hệ thống ngữ pháp… Mỗi đơn vị, yếu tố trong một tiểu hệ thống vừa có
quan hệ với các yếu tố khác trong cùng tiểu hệ thống với nó (chẳng hạn, liên kết và đối lập với
các đơn vị ngang: chủ ngữ, vị ngữ, bổ ngữ trong một câu…, liên kết và đối lập với các đơn vị
dọc: từ ngữ đồng nghĩa, trái nghĩa…), vừa có quan hệ với các yếu tố ở tiểu hệ thống khác. Chỉ
trong những hệ thống ấy, hình thức và nội dung của “cái biểu đạt” và “cái được biểu đạt” mới
được xác định cụ thể và có thể tri nhận được. Do đó, mỗi tín hiệu được định nghĩa trong quan hệ
với những cái khác, chứ khơng phải theo đặc điểm của nó.

Như vậy, ngơn ngữ chính là một hệ thống tín hiệu, là kết quả phối hợp của những dấu
hiệu vật chất được quy ước, hồn tồn thốt khỏi hình ảnh thực của hiện tượng, nhằm truyền đi
một thơng báo nào đó có nội dung khác với bản thân dấu hiệu. Do đó mà trong cơng trình Cours
de linguistique générale (Giáo trình ngơn ngữ học đại cương, 1916), Saussure đã đưa ra định
nghĩa: “Ngơn ngữ là một hệ thống tín hiệu biểu đạt các ý tưởng”. Tính hệ thống ấy giúp cho ngơn
ngữ tồn tại như một chỉnh thể, và người ta có thể nghiên cứu các hệ thống ngôn ngữ một cách độc
lập, tách khỏi mơi trường văn hố của ngơn ngữ ấy. Từ nhận thức đó, Saussure khẳng định: “Đối
tượng duy nhất và chân thực của ngôn ngữ học là ngôn ngữ, xét trong bản thân nó và vì bản thân
nó”. Và ơng u cầu “gạt ra ngồi ngơn ngữ tất cả những gì xa lạ đối với cơ chế của nó, đối với

462


Phức hợp văn hố: tính tương đối của cái nhìn hệ thống

Lý Tùng Hiếu

hệ thống của nó, tóm lại là tất cả những gì mà người ta gọi là ‘ngơn ngữ học ngoại tại’ ”
[Saussure, Ferdinand de, 1973].
Với những phát hiện và những luận điểm ấy, Ferdinand de Saussure được xem là người
có cơng đem lại cho ngơn ngữ học tư cách một khoa học độc lập, và được đời sau gọi là “cha đẻ
của cấu trúc luận” (tiếng Pháp: père du structuralisme) mặc dù ơng ln nói về “hệ thống” chứ
không phải là “cấu trúc”. Theo Tim Ingold [2006: 23], “cơng trình của ơng về cấu trúc của ngơn
ngữ đã truyền cảm hứng cho một trong những dự án nhân học tuyệt vời nhất trong thế kỷ này là
cấu trúc luận của Claude Lévi-Strauss”.
2.2. Claude Lévi-Strauss với “cấu trúc luận”
Claude Lévi-Strauss (1908-2009) là nhà nhân học xuất sắc người Pháp, người đã sưu tầm,
phân tích và khái quát các tư liệu nhân học theo một phương pháp luận mới gắn liền với tên tuổi
của mình: cấu trúc luận (structuralism). Cơng trình Les structures élémentaires de la parenté
(Các cấu trúc sơ đẳng của thân tộc) công bố năm 1949 của ông được đánh giá như một cuộc

cách mạng về nhân học. Tiếp tục sử dụng phương pháp luận ấy, ông đã viết nhiều cơng trình vừa
có giá trị khoa học vừa có giá trị văn chương, như Race et histoire (Chủng tộc và Lịch sử, 1952),
Tristes tropiques (Nhiệt đới buồn, 1955, 1977), Anthropologie Structurale (Nhân học cấu trúc,
1958, bản tiếng Anh Structural anthropology, 1963), Totemism (Vật tổ giáo, 1963), Le triangle
culinaire (Tam giác bếp núc, 1965), The savage mind (Tinh thần hoang dã, 1966), The raw and
the cooked (Sống và chín, 1969), Myth and meaning (Huyền thoại và ý nghĩa, 1978). Đối với ơng,
các nền văn minh và văn hố đều có những giá trị lớn, ngang nhau, nói lên tính thống nhất của
lồi người, trong khi mỗi tộc người vẫn mang sâu đậm những bản sắc của mình.
Chịu ảnh hưởng của các nhà khoa học tiền bối như Émile Durkheim (1858-1917), Marcel
Mauss (1872-1950), Ferdinand de Saussure (1857-1913), Roman Jakobson (1896-1982), Claude
Lévi-Strauss đã xây dựng một lý thuyết mới về cấu trúc để nghiên cứu văn hoá của các tộc người.
Theo Đinh Hồng Phúc [2013], “vào những năm 1940, Lévi-Strauss đề xuất ý kiến rằng lĩnh vực
nghiên cứu riêng của các nhà nhân loại học khơng phải ở việc tìm hiểu xem các cộng đồng dân
tộc đã đưa thế giới của họ vào phạm trù ra sao, mà ở việc xét xem những khuôn mẫu nền tảng của
tư duy nhân loại tạo ra những phạm trù về thế giới như thế nào” 1. Từ đó, Claude Lévi-Strauss đã
dành cả quảng đời cịn lại để nghiên cứu xun văn hóa về quan hệ họ hàng, các huyền thoại và
tôn giáo để hiểu cho được “cái cấu trúc nền tảng của nhận thức con người”, và “những quá trình
logic làm cơ sở cho việc cấu trúc toàn bộ tư duy con người vận hành trong những ngữ cảnh văn
hóa khác nhau”. Cuối cùng, ông đưa ra khái niệm “các cặp đối lập nhị phân” như là khái niệm
nền tảng trong quá trình ông xây dựng lý thuyết về cấu trúc. Theo lý thuyết này, nói đến hệ thống
là nói đến cấu trúc, đến nguyên lý tổ chức hàm ẩn dưới bề mặt của các hiện tượng. Hệ thống thể
hiện tính nhất quán giữa các yếu tố. Còn cấu trúc thể hiện mối quan hệ hợp lý giữa các yếu tố vốn
chi phối và ràng buộc, tương hỗ lẫn nhau.
Theo Trần Ngọc Khánh [2011], “Claude LÉVI-STRAUSS (1908-2009), nhà nhân học
người Pháp, người được James Frazer xưng tụng là ‘cha đẻ ngành nhân học hiện đại’, đã đưa ra
một định nghĩa về văn hóa: Mọi văn hóa đều có thể xem là tồn thể các hệ thống biểu trưng được
đặt lên hàng đầu gồm ngôn ngữ, quy tắc hôn nhân, quan hệ kinh tế, nghệ thuật, khoa học, tôn
giáo. Tất cả các hệ thống này đều nhằm diễn tả một số phương diện hiện thực của tự nhiên và xã
hội, đặc biệt là các quan hệ mà hai loại hiện thực này trao đổi lẫn nhau và các hệ thống biểu trưng
của từng loại trao đổi với nhau [1950]. Lévi-Strauss chịu ảnh hưởng của nhân học văn hóa Mỹ về

tính tồn thể của văn hóa, đặc biệt là của Boas, Kroeber và Benedict do ông ở Mỹ một thời gian
khá lâu (1941-1947). Trong công trình Tristes tropiques [Nhiệt đới buồn, 1955], ơng mượn của
Ruth Benedict bốn ý tưởng chủ yếu: một, các nền văn hóa khác biệt do một mơ thức nào đó; hai,
1

Phạm trù (category): khái niệm khoa học phản ánh những thuộc tính và mối quan hệ chung, cơ bản nhất của các hiện
tượng, hoặc biểu thị loại sự vật, hiện tượng hay những đặc trưng chung nhất của chúng: “thời gian”, “khơng gian”, “vật
chất”, “tinh thần”, “tự nhiên”, “văn hố”, v.v.

463


KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
TRONG PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI VÀ HỘI NHẬP QUỐC TẾ

ISBN: 978-604-73-6187-8

các kiểu văn hóa khả dĩ tồn tại với số lượng giới hạn; ba, nghiên cứu các xã hội ‘nguyên thủy’ là
phương pháp tốt nhất để xác định sự kết hợp giữa các yếu tố văn hóa; bốn, sự kết hợp này có thể
được nghiên cứu tự bản thân chúng, độc lập với các cá thể trong nhóm và họ khơng có ý thức gì
về sự kết hợp này. Ngồi việc nghiên cứu các biến đổi văn hóa, Lévi-Strauss cịn phân tích tính
khơng thể biến đổi của một nền văn hóa đặc thù mà ông coi là ‘vốn chung’ của nhân loại. Tham
vọng về nhân học cấu trúc của Lévi-Strauss là nhận biết và tiếp thu các sự kiện bất biến, tức là
các ‘tư liệu’ văn hóa giữa các nền văn hóa ln ln giống nhau do tính thống nhất về đời sống
tâm lý của con người, tất nhiên là với số lượng có giới hạn. Tổ chức đời sống xã hội phụ thuộc
vào một nền văn hóa và địi hỏi thực hiện các quy ước xã hội. Trong các điều kiện chung về chức
năng của đời sống xã hội, có thể tìm gặp các quy ước phổ biến vốn là các nguyên tắc cần thiết của
mọi đời sống xã hội. Chẳng hạn, việc cấm loạn luân là cơ sở cần thiết cho các trao đổi của xã
hội”.
Sau Claude Lévi-Strauss, cấu trúc luận đã tiếp tục phát triển, trở thành một mơ hình lý

thuyết được các ngành xã hội học, nhân học, ngơn ngữ học, ngữ nghĩa học, văn hóa học vận dụng
để nghiên cứu các yếu tố nền tảng cho tất cả những điều mà con người suy nghĩ, cảm thụ, nhận
định. Theo Alison Assiter [2014], cấu trúc luận hiện có bốn ý tưởng rất phổ biến với các hình
thức khác nhau: (1) một cấu trúc xác định vị trí của từng thành phần trong một tổng thể; (2) mọi
hệ thống đều có cấu trúc; (3) quy luật cấu trúc đối phó với sự đồng tồn tại chứ khơng phải là thay
đổi; (4) cấu trúc là “những điều thực sự” nằm bên dưới bề mặt hay vẻ bên ngoài của ý nghĩa.
2.3. Bronisław Kasper Malinowski với “chức năng luận tâm lý học”
Bên cạnh cấu trúc luận, lý thuyết hệ thống còn được phát triển với những thành tựu của
chức năng luận (functionalism), một lý thuyết phổ biến trong nghiên cứu văn hóa, gắn với tên
tuổi của Bronislaw Kasper Malinowski và Arthur Reginald Radcliffe-Brown. Hai nhà khoa học
này đề xuất nghiên cứu theo hướng chức năng luận với các chiều kích khác nhau, từ đó hình
thành hai nhánh chính: chức năng luận tâm lý học (psychological functionalism) với đại biểu là
Bronislaw Kasper Malinowski; và chức năng luận cấu trúc (structural functionalism) với đại biểu
là Alfred Reginald Radcliffe-Brown.
Bronisław Kasper Malinowski (1884-1942) là nhà nhân học gốc Ba Lan, thường được
xem là một trong những nhà nhân học quan trọng nhất trong thế kỷ XX. Ông là người đã mở đầu
trường phái chức năng luận trong nhân học xã hội, với một luận điểm then chốt: Văn hoá thực
hiện chức năng để đáp ứng các nhu cầu của các cá nhân hơn là của tồn thể xã hội. Ơng lập luận
rằng khi các nhu cầu của các cá nhân trong xã hội được đáp ứng thì các nhu cầu của xã hội cũng
được đáp ứng. Đối với Malinowski, các cảm xúc của người dân và các động cơ của họ là những
kiến thức quan trọng để hiểu được cách xã hội của họ vận hành. Hay nói cách khác, thực tiễn xã
hội có thể được giải thích trực tiếp bởi khả năng của họ để thỏa mãn các nhu cầu sinh học cơ bản.
Theo C. Wright Mills [2006: 35]: “Malinowski xem tất cả các thể chế của một xã hội như
là có liên quan lẫn nhau về nội tại, và ông nhấn mạnh ý là mọi hiện tượng xã hội hoặc văn hoá
phải được nghiên cứu trong tồn bộ văn cảnh của nó. Ông cũng cho rằng các nhu cầu bẩm sinh
của con người là động lực trong sự phát triển các thể chế xã hội”.
Theo Trần Ngọc Khánh [2011], “Bronislaw MALINOWSKI (1884-1942), nhà nhân học
Anh gốc Ba Lan, mang quốc tịch Áo, là người đưa ra thuyết chức năng tập trung ở hiện tại, để
chống lại thuyết tiến hóa hướng đến tương lai và thuyết truyền bá hướng về quá khứ. Theo ông,
chỉ có quãng thời gian ở giữa là nơi mà nhà nhân học có thể nghiên cứu các xã hội loài người một

cách khách quan; cần quan sát trực tiếp các nền văn hóa trong tình trạng hiện tại, khơng cần truy
ngược về nguồn gốc vì hão huyền và khơng có chứng cứ khoa học; mỗi nền văn hóa hình thành
một hệ thống cân bằng theo chức năng, trong đó các yếu tố phụ thuộc lẫn nhau, nên cần loại trừ
việc nghiên cứu riêng rẽ; văn hóa biến đổi chủ yếu đến từ bên ngoài, do sự giao tiếp văn hóa. Để
giải thích các nền văn hóa có chức năng khác nhau, trong cơng trình Une théorie scientifique de
la culture [Lý thuyết khoa học về văn hóa, 1944], Malinowski xây dựng học thuyết về các ‘nhu

464


Phức hợp văn hố: tính tương đối của cái nhìn hệ thống

Lý Tùng Hiếu

cầu’ gây nhiều tranh cãi. Các yếu tố cấu thành một nền văn hóa có chức năng thỏa mãn các nhu
cầu chủ yếu của con người. Đối tượng của ngành nhân học không phải là nghiên cứu các đặc
trưng văn hóa vơ nghĩa, cũng khơng phải các sự kiện văn hóa riêng rẽ, mà là các thiết chế (kinh
tế, chính trị, pháp luật, giáo dục...) và quan hệ giữa các thiết chế trong tương quan của một hệ
thống văn hóa. Hạn chế của học thuyết chức năng là ít có khả năng giải quyết các mâu thuẫn nội
tại, các rối loạn chức năng và các hiện tượng bệnh lý của văn hóa. Tuy vậy, cơng lao của
Malinowski là chứng minh khơng thể nghiên cứu văn hóa từ bên ngồi và q lâu về thời gian.
Ơng khơng bằng lòng với phương pháp quan sát trực tiếp tại chỗ, mà đã hệ thống hóa việc sử
dụng phương pháp dân tộc học miêu tả, thường gọi là phương pháp ‘quan sát tham dự’ ”.
2.4. Alfred Reginald Radcliffe-Brown với “chức năng luận cấu trúc”
Alfred Reginald Radcliffe-Brown (1881-1955) là nhà nhân học người Anh, được xem là
người đã phát triển lý thuyết về chức năng luận cấu trúc (structural functionalism) và sự đồng
thích nghi (coadaptation). Radcliffe-Brown đã quyết liệt phản đối luận điểm của Malinowski:
“Malinowski đã giải thích rằng ơng là nhà phát minh ra chức năng luận, lý thuyết mà ông đã đặt
tên cho nó. Định nghĩa của ơng về nó rõ ràng, đó là lý thuyết hay học thuyết cho rằng mọi đặc
trưng văn hoá của bất kỳ người nào trong quá khứ hoặc hiện tại đều phải được giải thích bằng

cách tham khảo bảy nhu cầu sinh học của con người cá nhân. Tôi không thể nhân danh các tác giả
khác được dán nhãn nhà chức năng luận, mặc dù tơi rất nghi ngờ liệu Redfield hoặc Linton có
chấp nhận học thuyết này hay không. Đối với bản thân tơi thì tơi từ chối nó hồn tồn, xem nó
như cái gì vơ dụng và tồi tệ. Là một đối thủ kiên định đối với chức năng luận của Malinowski, tơi
có thể được gọi là một nhà phản chức năng luận (anti-functionalist)” [Radcliffe-Brown, A.R.,
1949: 320-321].
Radcliffe-Brown tuyên bố rằng các đơn vị cơ bản của nhân học là các quá trình của đời
sống con người và sự tương tác. Bởi vì đời sống con người và sự tương tác là những dịng chảy
liên tục, nên cái cần phải giải thích là sự ổn định xuất hiện trên dịng chảy ấy. Ơng nêu câu hỏi,
tại sao một số mơ hình thực tiễn xã hội đã tự lặp lại và thậm chí dường như đã trở nên bất động?
Ông lập luận rằng điều này ít nhất sẽ địi hỏi thực tiễn xã hội ấy không được xung đột với các
thực tiễn khác quá nhiều; và trong một số trường hợp, có thể là các thực tiễn ấy phát triển để hỗ
trợ lẫn nhau, một khái niệm mà ơng gọi là “coadaptation” (đồng thích nghi), bắt nguồn từ thuật
ngữ sinh học. Vậy, phân tích chức năng (functional analysis) chỉ là nỗ lực để giải thích sự ổn định
bằng cách khám phá làm thế nào các thực tiễn phù hợp với nhau để duy trì sự ổn định đó; “chức
năng” của một thực tiễn nào đó chỉ là vai trị của nó trong việc duy trì cấu trúc xã hội tổng thể,
ngõ hầu đạt đến một cấu trúc xã hội ổn định [Radcliffe-Brown A.R., 1957].
Chính vì lập luận trên đây mà đời sau đã xem Radcliffe-Brown là người khai sinh ra
“chức năng luận cấu trúc”, vì giới nghiên cứu tìm thấy những nét tương đồng của nó với “chức
năng luận tâm lý học” của Malinowski mà Radcliffe-Brown phản đối. Những điểm tương đồng
ấy hợp thành lý thuyết “chức năng luận” trong nghiên cứu văn hoá. Nó giúp người nghiên cứu
giải thích mối quan hệ tương tác giữa các thành tố văn hố, giải thích vai trị của các thành tố văn
hố cũng như quan hệ tương tác của chúng trong việc đáp ứng các nhu cầu xã hội và duy trì sự ổn
định của cấu trúc xã hội.
Theo Robert Layton [2007: 51-52, 213], giữa Malinowski với Radcliffe-Brown có sự
khác nhau về quan niệm đối với khái niệm “chức năng”: “Các lý thuyết gia Chức năng dùng ba
định nghĩa khác nhau về khái niệm chức năng: 1. Định nghĩa thứ nhất hiểu “chức năng” theo một
nghĩa có vẻ tốn học. Mọi tập tục đếu có tương quan với tất cả những tập tục khác trong cộng
đồng, vì vậy mỗi tập tục quy định tình trạng của những tập tục kia. 2. Định nghĩa thứ hai, đặc biệt
do Malinowski sử dụng, được rút ra từ sinh lý học. Chức năng của các tập tục là để thoả mãn

những nhu cầu sinh học chủ yếu của cá nhân thơng qua phương tiện văn hố. 3. Định nghĩa thứ
ba do Radcliffe-Brown lấy từ những lý thuyết của Durkheim. Chức năng của mỗi tập tục là vai
trị mà nó nắm giữ trong việc duy trì sự tồn vẹn của hệ thống xã hội”.

465


KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
TRONG PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI VÀ HỘI NHẬP QUỐC TẾ

ISBN: 978-604-73-6187-8

Nhưng giữa “chức năng luận tâm lý học” với “chức năng luận cấu trúc” vẫn có những
điểm tương đồng. Theo Bùi Thế Cường [2006: 74-85], tư tưởng cơ bản của chức năng luận có thể
tóm lược như sau: “Bất kỳ một hệ thống ổn định nào cũng bao gồm những bộ phận khác nhau
nhưng liên hệ với nhau, chúng cùng nhau vận hành để tạo nên cái toàn bộ, tạo nên sự ổn định hệ
thống. Có thể xem là hiểu được một bộ phận trong hệ thống khi hiểu được cái cách mà nó đóng
góp vào sự vận hành của hệ thống. Sự đóng góp vào việc vận hành ổn định của hệ thống được gọi
là chức năng. Các bộ phận có tầm quan trọng chức năng khác nhau đối với hệ thống”. Nói cách
khác, khái niệm “chức năng” vừa biểu thị vai trị mà yếu tố văn hóa cụ thể nào đó thực hiện trong
mối quan hệ với chỉnh thể, vừa diễn đạt tính phụ thuộc giữa các thành tố của văn hóa. Nghiên cứu
chức năng của một thiết chế, một thành tố văn hóa có nghĩa là tìm kiếm vai trị của nó trong
tương quan với những thiết chế, những thành tố văn hóa khác. Chức năng của một thiết chế, một
thành tố văn hố là ở sự đóng góp của nó đối với sự liên tục và sống cịn của tồn hệ thống.
Theo Nguyễn Văn Tiệp [2008: 25], quan niệm phổ quát của chức năng luận là mỗi thành
tố văn hóa đều có một chức năng nhất định trong hệ thống văn hóa. Như phát biểu của Bronislaw
Malinowski: “Bất kỳ văn hóa nào trong tiến trình phát triển của nó đều tạo ra một giá trị ổn định,
trong đó mỗi bộ phận của chỉnh thể đều thực hiện chức năng của nó”.
Tuy nhiên, bên cạnh sự đóng góp vào lý thuyết hệ thống, các nhà chức năng luận cũng có
phần cực đoan khi hồn tồn bác bỏ cách tiếp cận lịch đại (diachronic approach) trong nghiên cứu

văn hoá. Theo A.A. Belik [2000: 104], đối với các nhà chức năng luận, những tập tục hiện có của
các xã hội đều có chức năng nhất định chứ khơng đơn giản chỉ là tàn dư của thời kỳ trước đó.
Trên thực tế, các nhà chức năng luận không hứng thú với những biến đổi lịch sử của văn hóa. Cái
làm họ quan tâm là văn hóa hoạt động tại đây và hiện nay như thế nào, nó giải quyết các nhiệm
vụ gì, làm thế nào thì tái tạo được. Do đó, như nhận định của Robert Layton [2007: 213]: “Những
người đề xướng học thuyết chức năng bác bỏ việc nghiên cứu lịch sử, xem lịch sử không liên
quan đến sự vận hành chức năng hiện tại của một hệ thống xã hội, và như thế họ coi nhẹ những
suy đoán về tiến hoá xã hội cũng như việc tách rời các tập tục ra khỏi bối cảnh xã hội của chúng
như các nhà lý thuyết Khuếch tán đã làm”.
2.5. Leslie Alvin White với “hệ thống văn hoá”
Bất kể những tranh luận kéo dài, lý thuyết hệ thống vẫn tiếp tục phát triển và từ giữa thế
kỷ XX đã được các nhà nhân học xem là một cách tiếp cận tất yếu trong nghiên cứu văn hoá.
Tiêu biểu là quan điểm của nhà nhân học Mỹ Leslie Alvin White (1900-1975). Trong công trình
The Evolution of Culture: The Development of Civilization to the Fall of Rome (Sự tiến hoá của
văn hoá: Sự phát triển của văn minh dẫn đến sự sụp đổ của La Mã , 1959), dựa trên quan niệm về
“culture” như là một hiện tượng của con người nói chung, là tồn bộ tất cả các hoạt động văn hóa
của con người trên hành tinh (the total of all human cultural activity on the planet), Leslie Alvin
White phân biệt ba thành tố (components) của văn hóa: (1) thành tố cơng nghệ (technological);
(2) thành tố xã hội (sociological); (3) thành tố tư tưởng (ideological). Ba thành tố ấy có quan hệ
tương tác với nhau. Nhưng thành tố cơng nghệ đóng vai trị chính hoặc là yếu tố quyết định chính
chịu trách nhiệm cho sự tiến hố của văn hóa. Thành tố cơng nghệ này có thể được mơ tả như là
các cơng cụ vật chất, cơ khí, vật lý, hóa học, cũng như cách thức mọi người sử dụng những kỹ
thuật này.
Biện luận của White về tầm quan trọng của công nghệ như sau: Công nghệ là một nỗ lực
để giải quyết các vấn đề của sự sinh tồn. Nỗ lực này cuối cùng có nghĩa là nắm bắt đầy đủ năng
lượng và chuyển hướng nó cho nhu cầu của con người. Những xã hội nắm bắt được nhiều năng
lượng hơn và sử dụng nó hiệu quả hơn sẽ có lợi thế hơn các xã hội khác. Do đó, trong ý nghĩa
tiến hóa, các xã hội khác nhau này sẽ tiến bộ hơn. Cách tiếp cận duy vật của Leslie Alvin White
thể hiện rõ trong phát biểu: “Man as an animal species, and consequently culture as a whole, is
dependent upon the material, mechanical means of adjustment to the natural environment” (Con


466


Phức hợp văn hố: tính tương đối của cái nhìn hệ thống

Lý Tùng Hiếu

người là một loài động vật, và do đó nền văn hóa như một tồn thể, phụ thuộc vào các phương
tiện vật chất, cơ khí trong việc điều chỉnh môi trường tự nhiên) [White, Leslie Alvin, 1959].
Theo Hoàng Vinh [2001: 36-41]: “Là người theo quan điểm tiến hoá luận đa tuyến, L.
White cho rằng năng lượng là yếu tố chủ đạo trong sự phát triển xã hội. Theo ơng, năng lượng
tính theo đầu người hàng năm là yếu tố quyết định trong tiến hoá văn hoá ở bất kỳ thời gian và
địa điểm nào. Khi năng lượng tăng thì tính hiệu quả của các phương tiện cũng tăng lên. Ơng đã so
sánh hệ thống văn hố với hệ thống sinh học và nhận thấy rằng: sự tập trung năng lượng tăng lên
là nhờ ở tổ chức mang tính phức tạp hơn, chun mơn hố cao hơn và sự khác biệt lớn hơn. Do
tính độc đáo của một số quan niệm trên đây mà ngày nay, người ta nói đến ‘văn hố học của L.
White’, hoặc ‘Quyết định luận năng lượng’ trong ‘Lý luận văn hoá của L. White’ ”.
2.6. Karl Ludwig von Bertalanffy với “lý thuyết hệ thống chung”
Ngoài các nhà nhân học, việc phát triển và vận dụng lý thuyết hệ thống trong nghiên cứu
văn hoá còn thu hút sự quan tâm của nhiều ngành khoa học khác. Tiêu biểu là Karl Ludwig von
Bertalanffy (1901-1972), nhà sinh học người Áo, cùng thời với Leslie Alvin White. Bertalanffy
được biết đến như một trong những người sáng lập “lý thuyết hệ thống chung” ( General Systems
Theory). Cơ sở của lý thuyết này là mối quan hệ qua lại giữa các yếu tố gắn kết với nhau tạo
thành toàn thể. Trong các cơng trình An Outline of General System Theory (Phác thảo lý thuyết
hệ thống chung, 1950), General system theory – A new approach to unity of science (Symposium)
(Lý thuyết hệ thống chung – một cách tiếp cận mới để thống nhất khoa học (Tiểu luận), 1951),
General System Theory (Lý thuyết hệ thống chung, 1969), ơng giải thích lý thuyết hệ thống chung
như một lý thuyết liên ngành, nó mơ tả các hệ thống với các thành tố có quan hệ tương tác với
nhau, có thể áp dụng cho sinh học, điều khiển học điện tử và các lãnh vực khác. Thay thế cho các

mơ hình tổ chức theo tập quán, lý thuyết hệ thống chung cố gắng cung cấp các lựa chọn khác, nó
nhấn mạnh tính chỉnh thể (holism) để khắc phục giản hố luận (reductionism), và tính tổ chức
(organism) để khắc phục cơ giới luận (mechanism).
Trong khoa học xã hội, Bertalanffy tin rằng các khái niệm hệ thống chung đã được áp
dụng, chẳng hạn các lý thuyết được đưa vào lãnh vực xã hội học từ cách tiếp cận hệ thống hiện
đại, bao gồm “khái niệm về hệ thống chung, thông tin phản hồi, thông tin, truyền thông, v.v.”
[Bertalanffy, L. von, 1969: 196]. Nhưng Bertalanffy cũng nhận thấy rằng có những khó khăn khi
áp dụng một lý thuyết chung mới mẻ cho khoa học xã hội, do sự giao thoa phức tạp giữa các khoa
học tự nhiên và các hệ thống xã hội của con người. Mặc dù vậy, ngày nay lý thuyết hệ thống
chung của Bertalanffy vẫn được xem là cầu nối cho việc nghiên cứu liên ngành về các hệ thống
trong các khoa học xã hội.
2.7. Edgar Morin với “tính phức hợp” và “tư duy phức hợp”
Edgar Morin (sinh năm 1921) là nhà triết học và xã hội học người Pháp, được quốc tế
công nhận vì những cơng trình nghiên cứu về tính phức hợp (complexité, complexity), tư duy
phức hợp (pensée complexe, complex thought), và vì những đóng góp học thuật của ơng cho
nhiều lĩnh vực đa dạng như nghiên cứu truyền thơng, chính trị, xã hội học, nhân học hình ảnh,
sinh thái học, giáo dục và sinh học hệ thống. Cơng trình đỉnh cao về cách tiếp cận tính phức hợp
của ơng là bộ sách La Méthode (Phương pháp) gồm 6 cuốn: La Nature de la nature (Bản chất
của tự nhiên, 1977), La Vie de la vie (Đời sống của sự sống, 1980), La Connaissance de la
connaissance (Tri thức về nhận thức, 1986), Les Idées (Tư tưởng, 1991), L’Humanité de
l’humanité (Nhân tính của nhân loại, 2001), L’Éthique complexe (Đạo đức phức hợp, 2004).
Edgar Morin cũng là người nắm vững lý thuyết hệ thống. Trong bài giới thiệu “Một
phương thức tư duy mới” đăng trên Tạp chí Người đưa tin UNESCO (1996), ơng đã nhấn mạnh
một số định luật quy định cách thức các hệ thống vận hành. Theo đó, các thành tố của một hệ
thống thường xuyên chế ước lẫn nhau, giới hạn lẫn nhau, và cùng bị giới hạn bởi toàn hệ thống.
Tức là trong hệ thống, “các phần có thể có những phẩm chất bị cấu trúc toàn phần ức chế”.
Ngược lại, vì cùng hoạt động trong một hệ thống, các thành tố cũng thường xuyên phối hợp, bổ

467



KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
TRONG PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI VÀ HỘI NHẬP QUỐC TẾ

ISBN: 978-604-73-6187-8

sung cho nhau để từ đó tạo ra cho tồn hệ thống một giá trị mới, khác với tổng giá trị của các
thành tố ấy. Tức là, “toàn bộ một hệ thống vẫn hơn tổng số các phần” [Morin, Edgar, 1996: 12].
Tuy nhiên, là một triết gia, mối quan tâm của Edgar Morin là việc nhận biết con người,
nên ông đã lấy việc đó làm mục tiêu trung tâm cho lý luận về tư duy phức hợp. Trong cơng trình
Introduction à la pensée complexe (Nhập môn tư duy phức hợp, 2005), Edgar Morin cho biết, vào
cuối thập niên 1960, từ việc tìm hiểu lý thuyết thơng tin, điều khiển học, lý thuyết hệ thống, khái
niệm “tự tổ chức” đã xuất hiện trong suy nghĩ của ơng. Từ đó, “khái niệm phức hợp đã được hình
thành, lớn lên, phát triển và đâm chổi nảy lộc, nó đã chuyển hẳn từ vùng ngồi lề vào trung tâm
những suy tư của tơi, nó đã trở thành một khái niệm vĩ mơ, một vị trí tham vấn then chốt, từ nay
sẽ luôn là mấu chốt của vấn đề tưởng chừng như nan giải về mối quan hệ giữa cái kinh nghiệm,
cái logic và cái duy lý” [Morin, Edgar, 2009: 5-6].
Theo Phạm Khiêm Ích, trong quan niệm của Edgar Morin, “tính phức hợp, hay cái phức
hợp (la complexité, le complexus) được hiểu như là những gì liên kết lại với nhau, đan dệt cùng
nhau. Tính phức hợp liên quan đến khối lượng khổng lồ những tương tác giữa các bộ phận cấu
thành dị biệt, gắn bó hữu cơ với nhau, tạo nên ‘tấm dệt chung’ (tissue commun) không thể phân
cách và quy giản được. Bộ não người là một siêu phức hợp, gồm hơn 10 tỷ tế bào. Mọi hệ thống
tự-tổ chức, kể cả những tổ chức đơn giản nhất cũng đều được kết hợp bởi một số lượng rất lớn
các đơn vị và tương tác của chúng, lớn đến mức thách đố khả năng tính tốn của chúng ta”. Trong
quan niệm của Edgar Morin, tính phức hợp khơng loại bỏ tính đơn giản hố, và khơng đồng nhất
với tính tồn vẹn. “Tư duy phức hợp mong muốn đạt đến một tri thức đa chiều, chú trọng liên kết
tri thức, kết nối cái một với cái nhiều, thống nhất trong đa dạng (unitas multiplex)” [Morin,
Edgar, 2009: X-XI].
Sau khi ra đời, lý luận về tính phức hợp và tư duy phức hợp của Edgar Morin đã được các
nhà nghiên cứu văn hoá quan tâm. Theo Phạm Đức Dương [2011]: “Thế giới đang chuyển từ nền

văn minh công nghiệp sang văn minh hậu công nghiệp, từ tư duy phân tích sang tư duy phức hợp.
Sản phẩm của văn minh nông nghiệp là sản phẩm tự nhiên, làm cho con người gắn bó với tự
nhiên, và có tư duy tổng hợp, nguyên sơ. Sản phẩm của văn minh công nghiệp là máy móc, tư
duy cơ giới, phân tích, giúp loài người sáng tạo những cỗ máy thần kỳ. Chủ nghĩa cấu trúc ra đời
từ tư duy phân tích ấy, chia thế giới thành nhiều yếu tố, phối hợp với nhau thành một cỗ máy.
Tuy nhiên, con người là một cỗ máy có thể tự điều chỉnh, tự sửa chữa, do đó khơng thể áp dụng
cơ chế phân tích ấy để nghiên cứu con người. Hoạt động thần kinh cao cấp khác hoạt động ý thức
của con người. Để hiểu đúng con người, cần nhìn nhận bằng tư duy phức hợp. Một người phụ nữ
đẹp, có dun là được nhìn từ tổng thể chứ không thể chứng minh bằng từng yếu tố”.
Do đó, theo Phạm Đức Dương [2011], “nghiên cứu văn hố học địi hỏi quan điểm tổng
thể và tồn cục. Khung lý thuyết là tiền đề được đưa ra về một vấn đề khoa học. Khung phân tích
có 2 quan hệ là khơng gian nói lên yếu tố tĩnh, và thời gian nói lên yếu tố động. Lịch đại là lát cắt
động, bổ dọc thân cây; đồng đại là lát cắt tĩnh, cắt ngang thân cây. Nhưng theo tư duy phức hợp,
có quan hệ giữa lịch đại và đồng đại. Thí dụ trong tiếng Việt là quan hệ giữa phương ngữ và
ngôn ngữ cơ sở. Phương ngữ bảo lưu tàn dư ngơn ngữ tốt hơn: tiếng Quảng Bình: klơn klu, klắng
klẻo; tiếng Nghệ An: trơn tru, trắng trẻo; tiếng Hà Nội: chơn chu, chắng chẻo. Quan niệm nhị
nguyên và tất định là hệ quả của tư duy phân tích. Tư duy phức hợp không phân chia thế giới
thành hai yếu tố một cách cơ giới như vậy. Ngôn ngữ nhìn từ tư duy phân tích là có tuyến tính,
nhưng thực tế nó được cảm nhận theo cách phi tuyến tính”.
3. VẬN DỤNG CÁC LÝ THUYẾT HỆ THỐNG
Như vậy, nhờ các cơng trình nghiên cứu của các nhà ngơn ngữ học, nhân học, văn hoá
học, sinh học, địa lý học, triết học, xã hội học… phương Tây, các lý thuyết hệ thống đã hình
thành, phát triển trong thế kỷ XX, và làm hình thành cách tiếp cận hệ thống trong nghiên cứu văn

468


Phức hợp văn hố: tính tương đối của cái nhìn hệ thống

Lý Tùng Hiếu


hoá. Kể từ Leslie Alvin White, cách tiếp cận hệ thống đã trở thành một thứ lăng kính bắt buộc
phải dùng đối với những người nghiên cứu văn hoá, đặc biệt là đối với ngành văn hoá học
(cultural studies, culturology). Điển hình là quan niệm của Mario Augusto Bunge, nhà triết học
Canada gốc Argentine (sinh năm 1919). Trong cơng trình Social Science under Debate: A
Philosophical Perspective (Tranh luận trong khoa học xã hội: Cái nhìn triết học, 1998), ơng đã
xác định rằng văn hố học là việc nghiên cứu các hệ thống văn hoá cụ thể trên các mặt xã hội
học, kinh tế, chính trị và lịch sử.
Ở Nga, khi văn hố học hình thành vào cuối thế kỷ XX, cách tiếp cận hệ thống cũng đã
lên ngôi, khắc phục những quan điểm sai lầm của lý luận Marxist. Theo Mikhail Epstein [2007]:
“Khái niệm văn hóa trở thành khái niệm trung tâm đối với nhiều nhà tư tưởng ở nước Nga thời
hậu Stalin như một sự lựa chọn để thay thế khái niệm xã hội nổi trội trong lý luận Marxist. Khi xã
hội bị phân ra thành những giai cấp và những đảng phái, mỗi thế lực chiến đấu vì sức mạnh và uy
quyền, văn hóa có tiềm lực để liên kết con người và giúp vượt qua những phân chia xã hội, quốc
gia và lịch sử. Từ quan điểm văn hóa học, văn hóa có thể được xác định như một sự cộng cảm có
tính biểu trưng: Một cơng trình nghệ thuật hoặc một triết thuyết mới nào được đưa vào hệ thống
văn hóa đều làm thay đổi nghĩa của tất cả các thành tố khác, và bằng con đường này, không chỉ
quá khứ tác động đến hiện tại mà hiện tại cịn có ảnh hưởng lớn đối với q khứ. Mơ hình lịch sử
với tư cách là một vectơ theo một hướng duy nhất (unidirectional vector) thống trị lâu dài trong
trạng thái tinh thần Soviet, đã được thử thách bởi khái niệm văn hóa với tư cách là một thể liên
tục đa chiều kích (multidimensional continuum), trên đó những thời đại khơng phải là những
bước kế tiếp (successive steps) trong tiến trình của nhân loại mà là cùng tồn tại ngang bằng và có
ý nghĩa đối với nhau”.
Gần đây, Tạp chí Quốc tế Văn hố học, cơ quan đại diện cho mạng lưới trực tuyến của
các học giả văn hoá học trên thế giới, cũng cho biết chỉ cho đăng những tiểu luận chấp nhận cách
tiếp cận hệ thống và duy vật (systemic and materialist approach) đối với việc phân tích văn hố,
trong khi khuyến khích các lý thuyết khoa học và thử nghiệm. Theo lời phi lộ của Tạp chí này:
“Các nhà văn hố học ở đây hiểu văn hố khơng đơn giản như một tập hợp các ý tưởng kỳ quái,
mà như các hệ thống xã hội cụ thể bao gồm những con người sinh động có khả năng tư tưởng và
gắn bó với các hoạt động văn hoá và xã hội đa dạng. Họ nghiên cứu các hệ thống tín ngưỡng, các

hoạt động văn hoá và các quan hệ xã hội trong các bối cảnh văn hố, kinh tế, chính trị, xã hội
học, nhân học, địa lý và lịch sử của chúng - ở các cấp độ phân tích địa phương hoặc tồn cầu.
Mục đích của họ là thúc đẩy sự phân tích cặn kẽ hơn đối với các hệ thống văn hố bằng cách
khuyến khích các học giả mở rộng nghiên cứu của họ sang những địa hạt mới mẻ và chưa được
khám phá” [International Journal of Culturology, 2011].
Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là, lý thuyết hệ thống và cách tiếp cận hệ thống có phải là cơng
cụ vạn năng để người nghiên cứu soi nhìn vào văn hố? Theo chúng tôi, lý thuyết hệ thống và
cách tiếp cận hệ thống chỉ có một giá trị sử dụng tương đối. Bởi một lẽ: thực tiễn văn hố khơng
phải ln ln là hệ thống, buộc người nghiên cứu phải nhất thiết áp dụng lý thuyết hệ thống và
cách tiếp cận hệ thống mọi lúc mọi nơi. Xin hãy xem xét một thí dụ: một khu mỏ vàng mới mở ra
ở miền Viễn Tây của Mỹ hay của Úc vào giữa thế kỷ XIX, hay ở vùng núi Quảng Nam của Việt
Nam vào đầu thế kỷ XXI. Trên những vùng đất đó, các nhóm lưu dân đồng hương tập hợp nhau
dưới quyền chỉ huy của những tay anh chị dữ dằn, chiếm cứ một góc núi rừng, đào đãi ngày đêm,
ra sức tranh đoạt của thiên nhiên và tranh đoạt của các nhóm đào đãi khác. Xung quanh các lán
trại dã chiến của các nhóm là một mạng lưới dịch vụ mau chóng hình thành, để thu mua vàng
thành phẩm, cung ứng hậu cần, cung cấp thêm nhân lực. Như vậy, trên vùng đất đó, một xã hội
đã ra đời, và khi luật pháp chưa có mặt thì luật rừng là cơng cụ giải quyết các vấn đề nảy sinh từ
quan hệ giữa các cá nhân và các nhóm. Câu hỏi đặt ra là cái hỗn hợp văn hoá mạnh được yếu thua
của họ đã có tính hệ thống, đã trở thành hệ thống hay chưa. Rõ ràng là cho dù rất “rừng rú”,
những lề thói của hỗn hợp cư dân ấy vẫn là văn hoá, nhưng là một tập hợp văn hoá rời rạc chưa
thẩm thấu vào nhau, chưa dung hợp với nhau; mỗi người, mỗi nhóm vẫn giữ lấy và sử dụng cái

469


KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
TRONG PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI VÀ HỘI NHẬP QUỐC TẾ

ISBN: 978-604-73-6187-8


phần vốn văn hố hình thành từ văn hố q hương và từ quá khứ học hành, mưu sinh của bản
thân. Để cho cái tập hợp văn hoá của họ trở thành hệ thống, cần phải có thời gian, luật lệ và nhiều
thứ khác.
Trong thực tiễn văn hố, có khơng ít những thí dụ tương tự như vậy. Điều đó cho thấy
rằng văn hố của các cộng đồng người khơng phải bao giờ cũng tự lập thành hệ thống mà đôi khi
còn dừng lại ở dạng tập hợp nhiều bộ phận. Và đó có thể là lý do khiến nhiều nhà khoa học và
nhà hoạt động văn hoá rất uyên bác khơng đề cập đến tính hệ thống của văn hố, chứ khơng phải
là do họ có hay khơng có cái nhìn hệ thống. Cái nhìn hệ thống là cái nhìn có hiệu năng chứ khơng
phải vạn năng. Phải tuỳ theo thực tiễn văn hố mà vận dụng nó chứ khơng nên lạm dụng, nhìn
vào bất cứ nơi đâu cũng thấy hiện lên hệ thống.
Thật ra, để cho một tập hợp trở thành hệ thống, nó phải hội đủ một số điều kiện. Đó cũng
chính là những tiêu chí cho phép chúng ta có thể nhận diện tính hệ thống của một tập hợp bất kỳ .
Theo chúng tơi, có bốn tiêu chí sau đây:
- Quan hệ tương tác (interactive relations) giữa các thành tố: Các thành tố trong hệ thống
có quan hệ tương tác lẫn nhau, chứ không tồn tại riêng lẻ. Có hai quan hệ tương tác chủ yếu,
được thực hiện đồng thời: quan hệ tương sinh - phối hợp - bổ sung, và quan hệ tương khắc - kềm
chế - loại trừ.
- Giá trị trong hệ thống (values from system) của các thành tố: Giá trị trong h
ệ thống của từng thành tố hình thành từ quan hệ tương tác với các thành tố khác, chứ không phải
là giá trị tự thân của từng thành tố. Vì vậy, giá trị trong hệ thống của từng thành tố là giá trị tương
đối. Trong khi giá trị tự thân của từng thành tố là giá trị tuyệt đối. Giá trị trong hệ thống có thể
cao hơn hoặc thấp hơn giá trị tự thân của từng thành tố.
- Giá trị của hệ thống (value of system): Giá trị của hệ thống hình thành từ quan hệ tương
tác giữa các thành tố, chứ không phải là tổng số giá trị tự thân của các thành tố . Vì vậy, giá trị của
hệ thống là giá trị tương đối. Trong khi tổng số giá trị tự thân của các thành tố là giá trị tuyệt đối.
Giá trị của hệ thống có thể cao hơn hoặc thấp hơn tổng số giá trị tự thân của các thành tố.
- Quan hệ giữa hệ thống với môi trường (relation between system and environment): Các
thành tố của hệ thống quan hệ với môi trường thông qua hệ thống, với tư cách thành viên của hệ
thống, chứ không quan hệ riêng lẻ, trực tiếp với mơi trường. Vì vậy, trong quan hệ với mơi
trường, hệ thống mạnh thì các thành tố cũng mạnh lên, ngay cả khi giá trị tự thân của chúng

khơng cao. Hệ thống yếu thì các thành tố cũng yếu đi, ngay cả khi giá trị tự thân của chúng rất
cao.
Khi đã hợp thành hệ thống, tính chất của hệ thống sẽ phụ thuộc vào bốn tiêu chí:
- Tương quan lực lượng giữa các thành tố: hệ thống có hay khơng có thành tố đóng vai
trò thành tố trung tâm?
- Tổ chức của thành tố trung tâm: trung tâm của hệ thống là một thành tố hay nhiều thành
tố?
- Lực tác động đến quan hệ giữa các thành tố: hệ thống có xu hướng hướng tâm, hướng
nội hay ly tâm, hướng ngoại?
- Quan hệ giữa hệ thống với mơi trường: hệ thống có đặc tính đóng hay mở?
Tiến hành phân loại hệ thống theo bốn tiêu chí nêu trên, chúng ta có 12 mơ hình hệ thống
như sau: (1) hệ thống vô tâm, hướng nội, đóng; (2) hệ thống vơ tâm, hướng nội, mở; (3) hệ thống
vơ tâm, hướng ngoại, đóng; (4) hệ thống vơ tâm, hướng ngoại, mở; (5) hệ thống đơn tâm, hướng
nội, đóng; (6) hệ thống đơn tâm, hướng nội, mở; (7) hệ thống đơn tâm, hướng ngoại, đóng; (8) hệ
thống đơn tâm, hướng ngoại, mở; (9) hệ thống đa tâm, hướng nội, đóng; (10) hệ thống đa tâm,

470


Phức hợp văn hố: tính tương đối của cái nhìn hệ thống

Lý Tùng Hiếu

hướng nội, mở; (11) hệ thống đa tâm, hướng ngoại, đóng; (12) hệ thống đa tâm, hướng ngoại,
mở.
Vậy, một tập hợp các bộ phận văn hoá sẽ trở thành một hệ thống văn hoá, khi các bộ phận
của nó có quan hệ tương tác, chế ước lẫn nhau, và phối hợp với nhau tạo ra giá trị chung cho tập
hợp. Và đó là trường hợp của các nền văn hoá dân tộc, văn hoá tộc người, văn hố vùng, v.v. có
lịch sử hình thành phát triển đủ lâu, tạo nên các đặc trưng chung, giá trị chung, truyền thống
chung. Nói cách khác, thời gian là điều kiện cần, và quan hệ tương tác giữa các bộ phận là điều

kiện đủ, để tập hợp các bộ phận văn hoá trở thành hệ thống. Trong trường hợp các bộ phận văn
hoá đã trở thành hệ thống như vậy, người ta có thể và cần phải vận dụng lý thuyết hệ thống và
cách tiếp cận hệ thống để xem xét nó.
Theo đó, lý thuyết hệ thống và cách tiếp cận hệ thống cần được vận dụng để nghiên cứu
các hệ thống văn hoá dân tộc, văn hoá tộc người, văn hố vùng ở Việt Nam. Hiện nay, có một
thực trạng là một số cán bộ viên chức ngành văn hoá vẫn thiếu cái nhìn hệ thống đối với việc
quản lý, bảo tồn, phát huy các di sản văn hoá dân tộc, văn hoá tộc người, văn hoá vùng, dẫn đến
những cách ứng xử cục bộ, nửa vời đối với các di sản ấy. Cho nên, rất cần phổ biến những tri
thức về lý thuyết hệ thống và cách tiếp cận hệ thống đối với văn hố, để từ đó hình thành cái nhìn
hệ thống và các giải pháp có tính hệ thống trong công tác quản lý, bảo tồn, phát huy các di sản
nói trên.
Bên cạnh đó, thiết tưởng cũng cần xem xét khả năng vận dụng phối hợp các lý thuyết hệ
thống với lý luận về tính phức hợp và tư duy phức hợp. Văn hố dù có tự tổ chức thành hệ thống
hay chưa, cũng chính là một phức hợp, nên cũng cần được xem xét bằng tư duy phức hợp, thay
cho cái nhìn cơ giới và cái nhìn nhị nguyên luận, tách rời lịch đại với đồng đại, tách rời văn hoá
dân gian và văn hoá bác học, đồng quy tất cả các hiện tượng văn hoá vào hai nguồn gốc khởi
nguyên đối lập nhau, v.v. Như một nhận định của Phạm Đức Dương [2011]: “Quan niệm nhị
nguyên và tất định là hệ quả của tư duy phân tích. Tư duy phức hợp khơng phân chia thế giới
thành hai yếu tố một cách cơ giới như vậy” 2. Theo quan niệm của Edgar Morin [2009: X-XI], tư
duy phức hợp có thể giúp chúng ta giải quyết vấn đề này, vì “Tư duy phức hợp mong muốn đạt
đến một tri thức đa chiều, chú trọng liên kết tri thức, kết nối cái một với cái nhiều, thống nhất
trong đa dạng (unitas multiplex)”.
Phối hợp các lý thuyết hệ thống với lý luận tư duy phức hợp, có thể khảo sát văn hoá như
một phức hợp (complex) hoặc hệ thống phức hợp (complex system), do nhiều bộ phận hoặc thành
tố liên hệ chặt chẽ với nhau hợp thành. Trong bài “Văn hoá, phát triển và văn hoá học” đăng trên
Tạp chí Khoa học Xã hội, sau khi đối chiếu hai khuynh hướng đối lập nhau của hai nhà triết học,
kinh tế học Karl Marx (1818-1883) và Maximilian Karl Emil “Max” Weber (1864-1920) về vị trí
của văn hố, Nguyễn Phúc [2001: 30-35] đã đưa ra nhận định: “Cho đến nay, ít ra cũng đã có một
sự đồng ý rộng rãi giữa các nhà nghiên cứu của hai khuynh hướng đó về hai điểm chính: Thứ
nhất, văn hố là một trong những mặt cơ bản của đời sống xã hội và thứ hai, văn hố bản thân nó

là một tập hợp rộng lớn bao trùm lên nhiều (nếu không phải là tất cả) lĩnh vực đời sống xã hội.
Nói cách khác, phải xem xét văn hoá (culture) với tư cách hệ thống, đó là hệ thống phức hợp
(système syncrétique), bao gồm các cơ cấu (structures), các kỹ thuật, các thể chế, các chuẩn mực,
2

Lịch đại: tức cách tiếp cận lịch đại (diachronic approach), được ví như một lát cắt động, bổ dọc một thân cây, làm hiện rõ
quan hệ nguồn gốc, quan hệ nhân quả giữa các cấu trúc ở từng khúc đoạn. Trong nghiên cứu văn hoá, cách tiếp cận lịch
đại cho phép mơ tả và giải thích các ngun nhân, diễn trình văn hố và truyền thống văn hố của một nền văn hoá.
Đồng đại: tức cách tiếp cận đồng đại (synchronic approach), được ví như những lát cắt tĩnh, cắt ngang thân cây, làm lộ rõ
cấu trúc của thân cây ở từng khúc đoạn. Trong nghiên cứu văn hoá, cách tiếp cận đồng đại cho phép xem xét văn hoá như
một hiện tượng đang tồn tại, đang vận động và chuyển hoá, do quan hệ tác động lẫn nhau giữa các yếu tố trong hệ thống và
giữa hệ thống với môi trường.
Nhị nguyên: tức nhị nguyên luận (dualism), một lý thuyết chia các sự vật và thế giới thành hai phần riêng biệt, và quy tất
cả các hiện tượng văn hoá vào hai nguồn gốc khởi nguyên đối lập nhau.
Tất định: tức tất định luận (necessarianism), một lý thuyết cho rằng mọi sự trên đời đều là hệ quả tất yếu của những
nguyên nhân trước đó, và tất cả mọi thứ trong vũ trụ đều hoàn toàn phụ thuộc vào luật nhân quả.

471


KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
TRONG PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI VÀ HỘI NHẬP QUỐC TẾ

ISBN: 978-604-73-6187-8

các giá trị, các hệ tư tưởng và các tín ngưỡng, huyền thoại…”. Chúng tôi tán thành cách tiếp cận
này của Nguyễn Phúc như một kết quả của sự phối hợp cái nhìn hệ thống với cái nhìn phức hợp.
4. KẾT LUẬN
Nhờ các cơng trình nghiên cứu của Ferdinand de Saussure, Claude Lévi-Strauss,
Bronisław Kasper Malinowski, Arthur Reginald Radcliffe-Brown, Leslie Alvin White, Karl

Ludwig von Bertalanffy, Edgar Morin…, lý thuyết hệ thống và cách tiếp cận hệ thống trong
nghiên cứu văn hoá đã hình thành trong thế kỷ XX, với hai khuynh hướng chính là cấu trúc luận
và chức năng luận. Tuy nhiên, lý thuyết hệ thống và cách tiếp cận hệ thống chỉ có một giá trị sử
dụng tương đối, khơng bắt buộc người nghiên cứu phải áp dụng mọi lúc mọi nơi. Bởi vì, để cho
một tập hợp văn hố trở thành hệ thống, nó phải hội đủ một số điều kiện. Trong đó, thời gian là
điều kiện cần, và quan hệ tương tác giữa các bộ phận là điều kiện đủ, để tập hợp các bộ phận văn
hoá trở thành hệ thống. Đó là trường hợp của các nền văn hoá dân tộc, văn hoá tộc người, văn
hoá vùng, v.v. có lịch sử hình thành phát triển đủ lâu, tạo nên các đặc trưng chung, giá trị chung,
truyền thống chung.
Cho nên, thay vì xem lý thuyết hệ thống và cách tiếp cận hệ thống như công cụ vạn năng,
người nghiên cứu văn hoá nên xem xét khả năng vận dụng phối hợp các lý thuyết hệ thống với lý
luận tư duy phức hợp. Bởi vì văn hố, dù có tự tổ chức thành hệ thống hay chưa, cũng chính là
một phức hợp. Việc khảo sát văn hoá như một phức hợp hoặc hệ thống phức hợp sẽ giúp khắc
phục được cái nhìn cơ giới và cái nhìn nhị nguyên luận, tách rời lịch đại với đồng đại, đồng quy
tất cả các hiện tượng văn hoá vào hai nguồn gốc khởi nguyên đối lập nhau, v.v.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Assiter, Alison (2014), “Structuralism”, , 06/10/2014.
2. Belik, A.A. (2000), Văn hoá học - những lý thuyết nhân học văn hoá, Đỗ Lai Thúy & Hoàng Vinh
& Huyền Giang dịch, Hà Nội: NXB Văn hóa.
3. Bertalanffy, L. von (1969), General System Theory, New York: George Braziller.
4. Bùi Thế Cường (2006), “Phân tích chức năng trong nghiên cứu xã hội”, Tạp chí Khoa học Xã hội,
số 5(93)/2006, trang 74-85.
5. “Claude Lévi-Strauss”, , truy cập ngày 06/10/2014.
6. Đinh Hồng Phúc (2013), “Vài nét về Claude Lévi-Strauss và lý thuyết nhân loại học của ông”,
.
7. Epstein, Mikhail (2007), “Văn hóa học: culturology và cultural studies”, Nguyễn Văn Hiệu dịch
từ nguyên tác tiếng Anh Transcultural Experiments: Russian and American Models of Creative
Communication, New York: St. Martin’s Press, 1999, Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, số 9-2007.
8. Hồng Vinh (2001), “Góp bàn xây dựng bộ mơn văn hố học”, Tạp chí Khoa học Xã hội, số 5(51)
- 2001, trang 36-41.

9. International Journal of Culturology (2011), www.culturology.com.
10. Ingold, Tim (2006), “Nhân học là triết lý về con người”, Một số vấn đế lý thuyết và phương pháp
nghiên cứu nhân học, Vũ Thị Phương Anh & Phan Ngọc Chiến & Hồng Trọng dịch, NXB Đại
học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh, trang 9-28.
11. Layton, Robert (2007), Nhập môn lý thuyết nhân học, Phan Ngọc Chiến dịch, Lương Văn Hy hiệu
đính, từ nguyên tác tiếng Anh An introduction to the theory in anthropology, Pubished by the
press syndicate of the University of Cambridge, 1997, 1998, 2000, NXB Đại học Quốc gia TP.
Hồ Chí Minh.
12. Lévi-Strauss, Claude (1963), Structural Anthropology, trans. Claire Jacobson and Brooke
Grundfest Schoepf, London.

472


Phức hợp văn hố: tính tương đối của cái nhìn hệ thống

Lý Tùng Hiếu

13. Lý Tùng Hiếu (2012), “Văn hoá và hệ thống văn hố”, Tạp chí Khoa học Văn hoá và Du lịch, số
7 (61), tháng 11/2012, trang 19-28; , 12/12/2012.
14. Lý Tùng Hiếu (2015), “Văn hoá và cấu trúc của văn hoá trong bối cảnh đương đại”, báo cáo khoa
học tại Hội nghị Thơng báo văn hố năm 2015, Viện Nghiên cứu Văn hoá, Hà Nội, 26/11/2015.
15. Mills, C. Wright (2006), “Việc điều tra thực tế và sự giải thích”, Một số vấn đế lý thuyết và
phương pháp nghiên cứu nhân học, Vũ Thị Phương Anh & Phan Ngọc Chiến & Hoàng Trọng
dịch, NXB Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh, trang 28-46.
16. Morin, Edgar (1996), “Một phương thức tư duy mới”, Tạp chí Người đưa tin UNESCO, số
2/1996.
17. Morin, Edgar (2009), Nhập môn tư duy phức hợp, Chu Tiến Ánh & Chu Trung Can dịch từ
nguyên bản tiếng Pháp Introduction à la pensée complexe, Éditions du Seuil, 2005 (in lần đầu
năm 1990), NXB Tri thức.

18. Nguyễn Phúc (2001), “Văn hoá, phát triển và văn hoá học”, Tạp chí Khoa học Xã hội, số 5(51) 2001, trang 30-35.
19. Nguyễn Văn Tiệp (2008), Nhân học đại cương, NXB Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh.
20. Phạm Đức Dương (2011), “Văn hoá, đối tượng văn hoá và phương pháp nghiên cứu liên ngành”,
báo cáo chuyên đề tại Khoa Văn hoá học, Trường Đại học Văn hoá TP. Hồ Chí Minh, Lý Tùng
Hiếu lược ghi, www.vanhoahoc.edu.vn, 9/9/2011.
21. Radcliffe-Brown, A.R. (1949), “Functionalism: A Protest”, American Anthropologist.
22. Radcliffe-Brown, A.R. (1957), A Natural Science of Society, based on a series of lectures at the
University of Chicago in 1937 and posthumously published by his students.
23. Saussure, Ferdinand de (1973), Giáo trình ngơn ngữ học đại cương, Tổ Ngôn ngữ học Khoa Ngữ
văn Đại học Tổng hợp Hà Nội dịch từ nguyên bản tiếng Pháp Cours de linguistique générale,
Charles Bally & Albert Sechehayye soạn, xuất bản lần đầu năm 1916, Paris: NXB Payot, in lần
thứ 5, 1955, Hà Nội: NXB Khoa học Xã hội.
24. Trần Ngọc Khánh (2011), “Mấy cơ sở tiếp cận lý thuyết nghiên cứu văn hoá”,
www.vanhoahoc.edu.vn, 04/09/2011.
25. White, Leslie A. (1959), The Evolution of Culture: The Development of Civilization to the Fall of
Rome, New York: McGraw-Hill.

Nguồn: Lý Tùng Hiếu (2018), “Phức hợp văn hố: Tính tương đối của cái nhìn hệ thống”,
Khoa học xã hội và nhân văn trong phát triển kinh kế - xã hội và hội nhập quốc tế, nhiều tác
giả, Kỷ yếu Hội thảo quốc tế, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn - Đại học Quốc
gia TP. Hồ Chí Minh, 19/11/2017, NXB Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh, ISBN 978-60473-6187-8, 742 trang, trang 461-473.
Link: .

473


KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
TRONG PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI VÀ HỘI NHẬP QUỐC TẾ

ISBN: 978-604-73-6187-8


Viable systems approach
From Wikipedia, the free encyclopedia
The Viable systems approach (VSA) is a system theory in which the observed entities and
their environment are interpreted through a systemic viewpoint, starting with the analysis of
fundamental elements and finally considering more complex related systems (Ludwig von
Bertalanffy, 1968). The assumption is that each entity/system is related to other systems,
placed at higher level of observation, called supra-systems, whose traits can be detected in
their own subsystems (principle of system hierarchy). As such, the fundamental unit of
analysis is a system made up of many parts or structures (Parsons, 1971). In this sense, every
entity (a firm, or simply an individual, a consumer, or a community) as a system can be
considered a micro-environment, made up of a group of interlinked sub-components which
aim towards a common goal (this is the condition, for the aggregate, to be qualified as a
system). The Viable System Model was first proposed by Anthony Stafford Beer. In general
terms, a viable system is finalized toward its vitality throughout viable behavior based upon
consonant and resonant relationships (Barile, 2000; Golinelli, 2000, 2005, 2010; Barile, 2008,
2009).

Contents


1 Systems thinking



2 What is VSA?



3 VSA origins

o

3.1 Key Concepts

o

3.2 Fundamental concepts



4 VSA applications



5 See also



6 References



7 Further reading

Systems thinking
Systems thinking contributed in a significant manner to the creation of a new conception of
phenomenological reality, as a synthesis of philosophical, sociological, mathematical,
physical and biological approaches, influencing culture and its prevalent values founded on
the axiomatic corpus of Cartesian thought, has set off a paradigm revolution, moving on from
a reductionist-mechanistic approach to reality, and modifying the traditional investigation

model. Having rapidly spread to all areas of study, the systems approach has become the
result of reflection, theoretical contribution, and formalisation, creating an epistemological
approach to research and to the study of a complex reality. The origins of system theory go
back to the 1950s when a group of scholars from various scientific and social fields (von
Bertalanffy in 1956, and others) developed an interdisciplinary theory based on the concept
474


Phức hợp văn hố: tính tương đối của cái nhìn hệ thống

Lý Tùng Hiếu

of systems. Their system’s viewpoint rejected the idea that certain phenomena could be fully
understood exclusively through an analytical approach, especially when the investigated
subject consisted of complex phenomenon characterized by significant interaction among its
components, as with the firm. In such a case, full understanding could be achieved through a
global vision of the subject in question -a systemic vision- by applying a research method of
this organized complexity. Furthermore we can observe that system thinking comes from the
shift in attention from the part to the whole, implying a perception of reality as an integrated
and interacting unicuum of phenomena, where the individual properties of the single parts
become indistinct, while the relationships between the parts themselves and the events they
produce through their interaction, become more important (in other words we may say that
“system elements are rationally connected”; Luhmann, 1990). Moreover, the systems
approach does not coincide with the holistic approach and is not in opposition to the
analytical-reductionist approach. Rather, it is an approach which, placing itself within a
continuum with reductionism and holism at its extremities, is able to reconcile the two. From
the analysis of the elementary components of a phenomenon, it is always possible to arrive at,
and then explain, a phenomenon in its entirety (von Bertalanffy, 1968).

What is VSA?

The VSA is a scientific approach to business theory that has become increasingly prominent
in Italian academic circles in the past decade which decade is that?. Based upon system theory,
VSA focuses on the analysis of relationships among socio-economic entities in search of
viable interacting conditions (Barile, 2000; Golinelli, 2000). According to VSA, every entity
(a business or an individual) can be considered a system of many parts or structures (Parsons,
1971), made up of a group of interlinked sub-components, with the aim of realising a
common goal. The Viable Systems Approach proposes a deep analysis of the Structure Systems dichotomy when introducing that every system represents a recognisable entity
emerging from a specific changing structure (set of individual elements with assigned roles,
activities and tasks performing in compliance with rules and constraints). System origins then
from its own structure, this kind of evolution derives from the dynamic activation of static
existing basic relationships. A structure can be studied (what it is? How it is made?), a system
should only be interpreted (how does it work? What logics does it follow?)”. This means that
from the a static structure the dynamic interpretation of reality brings up the recognition of
various possible systems dependant on the finalities and final goal; in the same way a human
being is composed by many components assembled within a physical structure, but in the
dynamic view man and women may be eating, sleeping, playing tennis or bridge, and all of
these are different possible systems. Another important VSA proposal is represented in the
following figure, derived from Beer first conceptualization of decision making area and
operating structure. Basically the VSA advance upon Stafford Beer’s proposal is based upon
the allocation of numerous managerial and operative decision within the operating structure
area, limiting the real decision making to strategic and high level decisions involving every
decision maker. So we may say that the operating area of every human being involves the
decision of going to jog, and of course the fact that this includes the wearing of a sport outfit
and of running shoes; on the other hand the decision about deepening University studies
compared to starting a new venture or practicing within a business may be intended within
the decision making area.

475



KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
TRONG PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI VÀ HỘI NHẬP QUỐC TẾ

ISBN: 978-604-73-6187-8

The Viable Systems Approach, moreover, introduces a Conceptual Matrix based upon an
iterative process describing the process of conception and realization of a Viable System. It
starts from an idea that needs to be more framed within a logical structure, more detailed
through the definition of a physical structure. Once the physical structure is defined it can
relate with external resources and systems, embracing them within an extended structure that,
via its dynamics, can give birth to numerous specific structures and eventually end up to be a
Viable System. This recursive process may represent the development of a business just as
much as an industrial district.

VSA origins
Starting from this theoretical basis, the VSA has gathered several multidisciplinary
contributions finalizing them to the observation of complex entities, and principally it has
developed its theoretical mainstream around several key concept derived by other disciplines:
from system thinking (open system aspects), from natural and ecological sciences
(particularly interesting are the organic aspects of homeostasis and equifinality; Hannan and
Freeman, 1977); from chemical and biological disciplines (deepening concepts such as
autopoiesis; Maturana and Varela, 1975), from sociology and psychology (an enlightening
theory was cognitivism; Clark, 1993), from information technology (specifically we refer to
IT roots based on cybernetics studies; Beer, 1975). VSA enables an analysis to be made of
the relationships that exist among an enterprise’s internal components, as well as an analysis
476


Phức hợp văn hố: tính tương đối của cái nhìn hệ thống


Lý Tùng Hiếu

of the relationships between enterprises and other systemic entities in its environmental
context. According to VSA, an enterprise develops as an open system that is characterised by:


many components (both tangible and intangible);



interdependence and communication among these components;



activation of these relationships in order to pursue the system’s goal.

Key Concepts
The aim of this synthetic exposure was to provide some of the founding concepts of the VSA
clear to the reader (Golinelli 2000, 2005, 2008, 2009; Golinelli et al., 2002; Barile 2000,
2006, 2008, 2009a):
1. a viable system lives, its aim is to survive within a context which is populated by
other (viable) systems;
2. every context is subjectively perceived by a viable system’s top management (the
decision-maker) from analyzing its environment (a macro-system in which the
decision maker is immerged) distinguishing and identifying its relevant suprasystems (resources owners) in relation with its objective;
3. context is the synthesis of a reticulum of viable systems, within which it is possible
to distinguish a certain number of systems (relevant supra-systems), which are able
to condition top management decisions;
4. the system’s structural definition and the level of consonance between its evolved
components (interacting supra and sub systems), define a given system’s grade of

elaboration
5. a viable system has the capability of dynamic adjusting (auto-regulation) its
structure: hence we may refer consonance to the system’s attempt to correctly
interpret contextual signals, and resonance to the concretization of the consequent
competitive behavior in order to maintain stability (if the system satisfies external
expectations and needs displayed by relevant supra-systems.

Fundamental concepts
The 10 fundamental concepts (FCs) of VSA
Individuals, organisations, and social
People, families, networks, enterprises,
institutions are systems that consist of public and private organisations are
FC1
elements directed towards a specific
complex entities, all of which can be
goal.
understood as systems.
Every system (of level L) identifies
Every hierarchy of systems is determined
several supra-systems, positioned at a by observation from a specific perspective.
FC2
higher level (L+1), and several subThe designation of a ‘supra-system’ or a
systems, located at a lower level (L-1). ‘sub-systems’ is thus subjective.
477


KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
TRONG PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI VÀ HỘI NHẬP QUỐC TẾ

The interpretation of complex

phenomena requires interdisciplinary
approaches, and should synthesize both
FC3 a reductionistic view (analysing
elements and their relations) and an
holistic view (capable of observing the
whole).

ISBN: 978-604-73-6187-8

The contribution of relationships (static,
structural) and interactions (dynamic,
systemic) is fundamental to the observed
phenomenon (reality).

Nothing happens in isolation. The exchange
of information and service of open systems
is fundamental within every system
dynamic. Within systems boundaries not
only property resources are valorized, but
many available, thus accessible resources
(even though these are owned by other
systems.
Viable systems are autopoietic and self- Every system is autopoietic, and is thus able
organising; that is, they are capable of to generate new internal conditions.
self-generating internal conditions,
Every system is also self-organising as it
FC5 which through self-regulation, support continuously aligns internal and external
complexity. These two characteristics are the
the reach of equilibrated conditions,
thus synthesising internal possibilities basis for sustainable behaviour in the face of

opportunities and threats.
and external constraints.
The passage from structure to system
Every organisation is constituted by
involves a passage from a static view to a
components that have specific roles,
dynamic view, and focus shifts from
activities, and objectives, which are
individual components and relations to an
undertaken within constraints, norms,
holistic view of the observed reality. From
FC6 and rules.
the same structure, many systems can
From structure emerges a system through emerge as a consequence of the various
the transformation of relations into
combinations of internal and external
dynamic interactions with sub-systems
components designed to pursue various
and supra-systems.
objectives.
Consonant relationships refer to the static
Systems are consonant when there is a view (structure) where you could just
evaluate the chances of a positive and
potential compatibility among the
harmonic relation.
system’s components. Systems are
FC7
resonant when there is effective
Resonant relations are referred to a dynamic
harmonic interaction among

view (systemic) where you could evaluate
concrete and effective positive and harmonic
components.
interactions.
Systems are open to connection with
other systems for the exchange of
resources. A system boundary is a
FC4 changing concept within which all the
activities and resources needed for the
system’s evolutionary dynamic are
included.

FC8 A system’s viability is determined by its Viability is related to the system’s
capability, over time, to develop
competitiveness and to the systems coharmonic behavior in sub-systems and creation capability.
478


Phức hợp văn hố: tính tương đối của cái nhìn hệ thống

supra-systems through consonant and
resonant relationships.
Business dynamic and viability require
continuous structural and systemic
FC9 changes focused to the alignment of
internal structural potentialities with
external systemic demands.
Viable systems continuously align
internal complexity with external
complexity in order to better manage

changes affecting its viable behaviour.
FC10
Decision-makers within these cognitive
processes are influenced by strong
believes, his/her interpretational
schemes, and information.

Lý Tùng Hiếu

The evolutionary dynamics of viable
systems demonstrate continuous alignment
between internal potentials and external
expectations.
Internal and external alignment is
achievable through a cognitive alignment, a
knowledge process that includes chaos,
complexity, complication, and certainty
(through processes of abduction, induction
and deduction).

VSA applications


Decision making



Competitiveness




Social and human behaviour



Complexity



Organization strategy



Marketing design and management



Service science



Managerial systems

See also


Service dominant logic (marketing)




Service science



Viable system model

References


ASHBY, H.R. (1958), “General Systems Theory as a New Discipline”, in General
Systems (Yearbook of the Society for the Advancement of General Systems
Theory), vol.3, pp. 1–6.
479


KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
TRONG PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI VÀ HỘI NHẬP QUỐC TẾ

ISBN: 978-604-73-6187-8



BARILE, S., (2000), eds., Contributi sul pensiero sistemico, Arnia, Salerno.



BEER, S. (1972), Brain of the Firm, The Penguin Press, London.




CAPRA, F. (1997), The Web of Life, Flamingo, London.



CLARK, A. (1993), Associative Engines, MIT Press, Boston.













GOLINELLI, G.M. (2010), Viable Systems Approach – Governing Business
Dynamics, Kluwer/CEDAM, Padova.
LUHMANN, N. (1990), Soziale Sisteme – Grundriß einer Allgemeinen Theorie,
Suhrkamp Verlag, Frankfurt.
MATURNANA, H.R. and VARELA, F.J. (1975), Autopoietic Systems, BLC
Report 9, University of Illinois.
PARSONS, T. (1971), The System of Modern Societies, Prentice-Hall, Englewood
Cliffs.
VON BERTALANFFY, L. (1968), General System Theory – Foundations,
Development, Applications, George Braziller, New York.
WIENER, N., Cybernetics, MIT Press, 1948.


Further reading













480

BARABÁSI, A.L. (2002), Linked – The New Science of Networks, Perseus,
Cambridge.
BARILE, S. (2008), L’impresa come Sistema – Contributi sull’Approccio
Sistemico Vitale, II ed., Giappichelli, Torino.
BARILE, S. (2009a), Management Sistemico Vitale, Giappichelli, Torino.
BARILE, S. (2009b), “The dynamic of Information Varieties in the Processes of
Decision Making”, Proceeding of the 13th WMSCI - World Multi-Conference on
Systemics, Cybernetics and Informatics, Orlando, July.
BARILE, S. (Ed.) (2013), Contributions to theoretical and practical advances in
management. A Viable Systems Approach (VSA), Vol. II, Roma, ARACNE.
BARILE, S. and POLESE, F. (2010), “Linking Viable Systems Approach and
Many-to-Many Network Approach to Service-Dominant Logic and Service
Science”, in International Journal of Quality and Service Science, vol.2, n.1,
pp. 23–42.

BARILE, S. and SAVIANO, M. (2011), “Foundations of systems thinking: the
structure-system paradigm", in VARIOUS AUTHORS, Contributions to theoretical



×