Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

Tiểu luận tình huống quản lý nhà nước: giải quyết việc giáo viên quảng bá và mua bán bài giảng elearning trong phạm vi nhà trường

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (186.6 KB, 20 trang )

BỘ NỘI VỤ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ HÀ NỘI

TÌNH HUỐNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
LỚP BỒI DƯỠNG KIẾN THỨC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
CHƯƠNG TRÌNH CHUN VIÊN TẠI SƠNG LƠ

Tên tình huống: “"Giải quyết việc giáo viên quảng bá bài giảng E-learing
và thực hiện việc mua bán bài giảng trong phạm vi nhà trường"”

Học viên : Lê Thị Quế
Chức vụ: Phó hiệu trưởng
Đơn vị: Trường mầm non Phương Khoan
LỜI CẢM ƠN
LỜI CẢM ƠN
Để hồn thành tiểu luận tình huống này, tơi xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn

Sông Lô, năm 2019

của các Thầy, Cô giảng viên, cán bộ quản lý Trường Đại học Nội vụ Hà Nội


LỜI CẢM ƠN

Để hồn thành tiểu luận tình huống này, tôi xin cảm ơn của............................
cùng các thầy cô giảng viên, cán bộ quản lý trường Đại học Nội vụ Hà Nội cũng
như sự động viên, hỗ trợ từ các bạn đồng nghiệp.
Rất mong sự động viên, góp ý của Thầy/ Cô và các bạn.
Xin chân thànhcảm ơn!



MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN...........................................................................................................1
Mục lục......................................................................................................................2
Lời mở đầu................................................................................................................3
I. Mơ tả tình huống..................................................Error! Bookmark not defined.
1. Hồn cảnh ra đời của tình huống.........................Error! Bookmark not defined.
2. Mơ tả tình huống..................................................Error! Bookmark not defined.
II. Xác định mục tiêu xử lý tình huống....................Error! Bookmark not defined.
1. Cơ sở lý luận........................................................Error! Bookmark not defined.
2. Một số văn bản liên quan làm căn cứ để xử lý tình huống......Error! Bookmark
not defined.
III. Phân tích ngun nhân và hậu quả từ tình huống...........Error! Bookmark not
defined.
1. Nguyên nhân chủ quan:.......................................Error! Bookmark not defined.
2. Nguyên nhân khách quan:...................................Error! Bookmark not defined.
3. Hậu quả:...............................................................Error! Bookmark not defined.
IV. Xây dựng và phân tích lựa chọn phương án giải quyết tình huống...............Error!
Bookmark not defined.
1. Xây dựng phương án...........................................Error! Bookmark not defined.
1.1. Phương án 1: Ra quyết định cảnh cáo bà C và cô H............Error! Bookmark not
defined.
1.2. Phương án 2: Cách chức bà C và cô H và chuyển đi đơn vị khác................Error!
Bookmark not defined.
1.3. Phương án 3: Giáng chức bà C và kỷ luật cơ H thơi giữ chức kế tốn.....Error!
Bookmark not defined.
2. Lựa chọn phương án:...........................................Error! Bookmark not defined.
V. Lập kế hoạch tổ chức thực hiện phương án đã lựa chọn.........Error! Bookmark
not defined.
VI. Đề xuất, kiến nghị:............................................Error! Bookmark not defined.
1. Đối với Chính phủ và Bộ GD&ĐT:....................Error! Bookmark not defined.

2. Đối với các cấp quản lý địa phương:...................Error! Bookmark not defined.
KẾT LUẬN.............................................................Error! Bookmark not defined.
TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................Error! Bookmark not defined.


MỞ ĐẦU
Vĩnh Phúc, thành phố Vĩnh Yên là trung tâm chính trị - kinh tế - văn hóa
phát triển với nhịp độ tăng trưởng cao, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo xu
hướng công nghiệp - thương mại - dịch vụ, tương xứng với trung tâm công
nghiệp quan trọng không chỉ của tỉnh Vĩnh Phúc mà còn của cả nước; từng bước
hội nhập vào nền kinh tế khu vực ASEAN và tồn cầu.
Với xu thế phát triển đó, nhu cầu phát triển nhanh về các lĩnh vực ngành
nghề kinh doanh là điều tất yếu khách quan.
Quan điểm tư tưởng chỉ đạo của Đảng trong phát triển văn hóa nêu: phát
triển xã hội hóa hoạt động văn hóa cần phải chú trọng chống thương mại hóa
trong kinh doanh. Thực hiện chủ trương xã hội hóa theo Nghị quyết số 05/2005/
NQ-CP ngày 18/4/2005 về đẩy mạnh xã hội hóa các hoạt động văn hóa, giáo dục
và đào tạo, y tế, thể dục thể thao của Chính phủ. Thời gian qua, thành phố Vĩnh
Yên đã có bước phát triển rõ rệt của khu vực ngồi cơng lập; bước đầu huy động
được tiềm năng và nguồn lực xã hội; mở rộng quy mô, đa dạng hóa các loại hình
văn hóa.
Song song đó, các loại hình kinh doanh dịch vụ văn hóa và ngành nghề
nhạy cảm khác cũng nhanh chóng phát triển như: Nhà hàng karaoke, quán bar
bia ruợu, cà phê, cắt tóc gội đầu, massa xơng hơi, xoa bóp...
Cùng với q trình hội nhập, một bộ phận các chủ kinh doanh vì “hám
lợi” đã cạnh tranh không lành mạnh, hoạt động biến dạng, nhiều tệ nạn xã hội
xuất hiện trong kinh doanh đã làm ảnh hưởng xấu đến tư tưởng, đạo đức, lối
sống và thuần phong mỹ tục của dân tộc Việt Nam, gây nhiều dư luận xã hội và
làm đau đầu các cơ quan quản lý trên lĩnh vực hoạt động này.



Trước “báo động” thực trạng hoạt động dịch vụ văn hóa và ngành nghề
nhạy cảm ln diễn biến phức tạp. Tơi quan tâm và chọn: “Tình huống xứ lý,
kiểm tra xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực kinh doanh dịch vụ văn
hóa và ngành nghề có liên quan, ảnh hưởng đến mơi trường văn hóa trên địa
bàn thành phố Vĩnh Yên” để làm tiểu luận cuối khoá Lớp bồi dưỡng kiến thức
quản lý nhà nước ngạch chuyên viên năm 2019.
Là một công dân của tỉnh Vĩnh Phúc bản thân tôi nhận thức được một
cách đúng đắn tầm quan trọng của việc quản lý kinh doanh dịch vụ văn hóa và
các ngành nghề khác có liên quan, ảnh hưởng trực tiếp đến mơi trường văn hóa.
Sau khi được nghiên cứu, học tập lớp bồi dưỡng kiến thức quản lý Nhà nước
ngạch chuyên viên kết hợp với nghiên cứu thực tế tơi xin được đưa ra một tình
huống trên và các phương án lựa chọn xử lý. Do quỹ thời gian hạn hẹp, trình độ
nhận thức và hiểu biết của bản thân cịn hạn chế, nên bài viết khơng tránh khỏi
những khiếm khuyết. Kính mong nhận được sự góp ý của các Thầy giáo, Cô
giáo, bạn bè đồng nghiệp để tiểu luận được hồn chỉnh.
Tơi xin chân thành cảm ơn!
I. Mơ tả tình huống
Ơng Nguyễn Văn A đăng ký hộ khẩu thường trú tại thôn Ngạc Thị, xã
Phương Khoan, huyện Sông Lô, tỉnh Vĩnh Phúc. Năm 2015 ông A đến thành
phố Vĩnh Yên tỉnh Vĩnh Phúc để làm ăn sinh sống. Tháng 01/2017, Ông A thuê
căn nhà do bà Nguyễn Thị B làm chủ tại địa chỉ: 35 khu phố 3 phường Khai
Quang thành phố Vĩnh Yên để thành lập Doanh nghiệp tư nhân tại đây.
Sau khi tiến hành thủ tục, Ông A đã được Sở kế hoạch - Đầu tư tỉnh Vĩnh
Phúc cấp giấy phép thành lập Doanh nghiệp tư nhân số: 04, cấp ngày 10/2/2017,
mang tên “Doanh nghiệp tư nhân TA” với ngành nghề kinh doanh: Dịch vụ
massa, xơng hơi, xoa bóp.
Trong q trình hoạt động kinh doanh Doanh nghiệp tư nhân TA thường
để xảy ra tình trạng mất an ninh trật tự, gây nhiều bức xúc cho người dân xung
quanh. Ngày 10/8/2018, nhân dân khu phố 3 phường Khai Quang có đơn khiếu

nại phản ảnh về những biểu hiện thiếu lành mạnh tại cơ sở này như: nhân viên


nữ mặc trang phục hở hang chèo kéo khách nam trước cơ sở gây phản cảm;
thường xuyên hoạt động quá giờ quy định (sau 24h), mất an ninh trật tự ảnh
hưởng đến đời sống sinh hoạt của người dân chung quanh và phong trào “Toàn
dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” tại khu dân cư.
Thực hiện chỉ đạo của UBND thành phố Vĩnh Yên, Đội kiểm tra liên
ngành đã triển khai kế hoạch, tiến hành khảo sát, nắm bắt địa bàn. Xác định nội
dung đơn khiếu nại, tố cáo là có cơ sở. Vào lúc 22h00, ngày 20/8/2018, Đội
kiểm tra liên ngành thành phố Vĩnh Yên phối hợp Tổ kiểm tra liên ngành
phường Khai Quang tiến hành tổ chức kiểm tra Doanh nghiệp tư nhân TA. Qua
kiểm tra đã phát hiện vi phạm và tiến hành lập biên bản vi phạm hành chính đối
với cơ cở này.
II. Xác định mục tiêu xử lý tình huống:
Trước thực trạng hoạt động massa, xơng hơi, xoa bóp trên địa bàn thành
phố Vĩnh Yên đang diễn biến phức tạp và họat động len lỏi trong khu dân
cư. Do đó cần xác định mục tiêu như sau:
1. Đối với cơ quan quản lý nhà nước:
Nhằm lập lại trật tự kỷ cương trên lĩnh vực hoạt động văn hóa và ngành
nghề nhạy cảm, ngăn ngừa những biến tướng trá hình trong kinh doanh. Đề ra
những giải pháp vừa mang tính giáo dục, thuyết phục vừa kiên quyết răn đe giúp
chủ kinh doanh nhận thức, hiểu biết và chấp hành đúng chủ trương, đường lối,
chính sách của Đảng và Nhà nước.
2. Đối với chính quyền địa phương:
Tăng cường hơn nữa trách nhiệm vai trò lãnh đạo, chỉ đạo đối với Cấp ủy
Đảng, chính quyền trong cơng tác quản lý, kiểm tra hành chính trên địa bàn
mình quản lý.
Từ nội dung đơn phản ảnh của nhân dân, cần tiếp tục tuyên truyền, vận
động quần chúng tích cực tham gia đấu tranh, tố giác bài trừ các tệ nạn xã hội

trên địa bàn dân cư gắn liền với phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời
sống văn hóa” và thực hiện quy chế dân chủ cơ sở.
3. Đối với chủ Doanh nghiệp:


Nâng cao ý thức của chủ doanh nghiệp trong việc chấp hành các quy định
pháp luật. Trong tổ chức kinh doanh cần thể hiện trách nhiệm và đạo đức nghề
nghiệp, khơng vì lợi nhuận trước mắt đưa họat động trá hình vào kinh doanh,
làm ảnh hưởng đến đạo đức lối sống và trật tự an toàn xã hội trên địa bàn kinh
doanh.
III. Phân tích nguyên nhân và hậu quả của sự việc:
3.1. Nguyên nhân:
- Đối với cơ quan quản lý nhà nước:
Cơng tác quản lý nhà nước cịn bng lỏng, thiếu sự đồng bộ, chồng chéo
và thậm chí cịn vơ hiệu hóa lẫn nhau. Ngành này đình chỉ, thu hồi Giấy phép
đăng ký kinh doanh thì ngành khác lại cấp.
Cơng tác thanh tra, xử lý tệ nạn xã hội của cơ quan chức năng có nơi, có
lúc chưa kiên quyết, triệt để, đơi lúc cịn "nhẹ tay", nên các chủ doanh nghiệp “ỷ
nại” vẫn ngang nhiên hoạt động và bất chấp dư luận xã hội.
- Đối với chính quyền địa phương:
Công tác quản lý kiểm tra, nắm bắt địa bàn của công an khu vực và tổ
kiểm tra liên ngành thiếu sâu sát, chưa hướng dẫn kịp thời để chủ doanh nghiệp
nhận thức trách nhiệm của mình trong quá trình tổ chức kinh doanh.
Khi nhận được ý kiến phản ảnh của người dân thì chính quyền địa phương
cịn nể nang, chưa kiên quyết trong xử lý, để tình trạng kinh doanh gây mất an
ninh trật tự kéo dài.
- Đối với chủ doanh nghiệp:
Ngành nghề đăng ký kinh doanh massa, xông hơi, xoa bóp được quy định
trong danh mục ngành nghề kinh doanh cần có chứng chỉ hành nghề do ngành y
tế thẩm định. Tuy nhiên, sau khi được Sở Kế hoạch và đầu tư cấp giấy phép kinh

doanh, Ông A đã không tiến hành thủ tục đăng ký hành nghề theo quy định; sử
dụng nhân viên chưa có giấy chứng nhận, chứng chỉ chuyên môn kỹ thuật ngành
xông hơi, xoa bóp; khơng đặt chng cấp cứu từ phịng xơng hơi thuốc. Ngồi
ra, doanh nghiệp cịn mắc nhiều sai phạm khác về lĩnh vực an ninh trât tự, an
toàn xã hội như: không thực hiện bản cam kết an ninh và trật tự với cơ quan


cơng an; khơng trang bị lắp đặt thiết bị phịng cháy chữa cháy; không ký kết hợp
đồng lao động với nhân viên làm việc tại cơ sở kinh doanh.
Với những điều kiện bắt buộc trên, Doanh nghiệp không thể đổ lỗi là
không biết quy định này.
3.2. Hậu quả:
- Về phương diện đời sống tinh thần xã hội:
Đất nước ta đang vận hành theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa và đang trên tiến trình hội nhập quốc tế. Sự xâm nhập văn hóa từ bên
ngồi, lối sống thực dụng, văn hóa lai căng nhanh chóng du nhập vào nước ta.
Một bộ phận chủ cơ sở hám lợi, dùng nhiều phương thức “tiếp viên nữ” trong
kinh doanh nên dễ biến tướng thành tệ nạn xã hội (mại dâm) làm ảnh hưởng đến
mơi trường văn hóa và đời sống sinh hoạt cộng đồng, gây nhiều lo ngại và bức xúc
đối với người dân.
Đối với doanh nghiệp “TA”, mặc dù trong quá trình kiểm tra chưa phát
hiện và bắt quả tang những vi phạm về tệ nạn xã hội. Tuy nhiên massa, xơng
hơi, xoa bóp là loại hình kinh doanh nhạy cảm. Do vậy, chính quyền địa phương
hơn ai hết cần theo dõi và nắm chắc tình hình hoạt động để kịp thời uốn nắn
những biểu hiện lệch lạc, ảnh hưởng đến thuần phong mỹ tục của người Việt
Nam.
- Về Y tế và sức khoẻ:
Việc không chấp hành các quy định về lĩnh vực y tế như: sử dụng nhân
viên chưa có giấy chứng nhận, chứng chỉ chun mơn kỹ thuật ngành xơng hơi,
xoa bóp; khơng đặt chng cấp cứu từ phịng xơng hơi thuốc... điều này có thể

ảnh hưởng đến sức khoẻ, thậm chí cảnh báo nguy cơ “chết người” có thể xảy ra
mà báo chí đã lên tiếng phản ảnh.
- Về lĩnh vực thương mại dịch vụ:
Theo thống kê trên địa bàn thành phố Vĩnh Yên có đến gần 40 cơ sở kinh
doanh massa, xơng hơi, xoa bóp, thì đã có tới 80% trong số này vi phạm giấy
phép kinh doanh. Việc cấp giấy phép đăng ký kinh doanh tràn lan, cấm xong rồi
lại cấp phép, thiếu sự phối hợp đồng bộ. Theo quy định khơng có giấy chứng


nhận hành nghề có nghĩa là khơng đủ điều kiện kinh doanh thì giấy phép kinh
doanh cũng khơng sử dụng được. Doanh nghiệp “TA” chưa có giấy phép hành
nghề mà vẫn tổ chức hoạt động kinh doanh là trái quy định.
- Về lĩnh vực an ninh trật tự:
Trong quá trình hoạt động kinh doanh Doanh nghiệp tư nhân “TA”
thường để xảy ra tình trạng mất an ninh trật tự, gây nhiều bức xúc cho người dân
chung quanh, thường xuyên hoạt động quá giờ quy định (sau 24h), mất an ninh
trật tự ảnh hưởng đến đời sống sinh hoạt của người dân chung quanh và phong
trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” tại khu dân cư.
Như vậy, doanh nghiệp “TA” đã vi phạm quy định tại Điều 6, Nghị định
số 167/2013/NĐ-CP ngày 12 tháng 11 năm 2013 của Chính Phủ quy định xử
phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội; phòng,
chống tệ nạn xã hội; phòng cháy và chữa cháy; phịng, chống bạo lực gia đình.
“Điều 6. Hành vi gây ảnh hưởng đế sự yên tĩnh chung
1. Phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 100.000 đồng đến 300.000 đồng đối
với một trong những hành vi sau đây:
a) Gây tiếng động lớn, làm ồn ào, huyên náo tại khu dân cư, nơi công
cộng trong khoảng thời gian từ 22 giờ ngày hôm trước đến 06 giờ sáng ngày
hôm sau;
b) Không thực hiện các quy định về giữ yên tĩnh của bệnh viện, nhà điều
dưỡng, trường học hoặc ở những nơi khác có quy định phải giữ yên tĩnh chung;

c) Bán hàng ăn, uống, hàng giải khát quá giờ quy định của Ủy ban nhân
dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.
2. Phạt tiền từ 300.000 đồng đến 500.000 đồng đối với hành vi: Dùng loa
phóng thanh, chiêng, trống, cịi, kèn hoặc các phương tiện khác để cổ động ở
nơi công cộng mà khơng được phép của các cơ quan có thẩm quyền.
3. Hình thức xử phạt bổ sung:
Tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính đối với hành vi quy
định tại Khoản 2 Điều này.


Điều kiện quy định ngành nghề kinh doanh đặc biệt, khi sử dụng nhân
viên phục vụ phải ký kết hợp đồng lao động. Trong khi kiểm tra hành chính, Đội
kiểm tra liên ngành ghi nhận có 02 nhân viên khơng ký kết hợp đồng lao động
và nhân viên này chưa đủ 18 tuổi, như vậy Doanh nghiệp đã vi phạm Nghị định
số: 95/2013/NĐ-CP ngày 22/8/2013 Quy định xử phạt hành chính trong lĩnh vực
lao động, bảo hiểm xã hội và đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước
ngoài theo hợp đồng.
Quy định sử dụng lao động dưới 18 tuổi và hình thức xử lý khi vi phạm
quy định đó.
Lao động dưới 18 tuổi theo Điều 161 Bộ luật lao động 2012 là lao động
chưa thành niên, do đó, khi sử dụng đối tượng lao động này người sử dụng lao
động phải tuân thủ các nguyên tắc quy định tại Điều 162, 163 Bộ luật lao động
2012 như sau:
Điều 162. Sử dụng người lao động chưa thành niên
"
1. Người sử dụng lao động chỉ được sử dụng người lao động chưa thành
niên vào những công việc phù hợp với sức khoẻ để bảo đảm sự phát triển thể
lực, trí lực, nhân cách và có trách nhiệm quan tâm chăm sóc người lao động
chưa thành niên về các mặt lao động, tiền lương, sức khoẻ, học tập trong quá
trình lao động.

2. Khi sử dụng người lao động chưa thành niên, người sử dụng lao động
phải lập sổ theo dõi riêng, ghi đầy đủ họ tên, ngày tháng năm sinh, công việc
đang làm, kết quả những lần kiểm tra sức khoẻ định kỳ và xuất trình khi cơ quan
nhà nước có thẩm quyền yêu cầu.”
Điều 163. Nguyên tắc sử dụng lao động là người chưa thành niên
1. Không được sử dụng lao động chưa thành niên làm những công việc
nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm hoặc chỗ làm việc, công việc ảnh hưởng xấu tới
nhân cách của họ theo danh mục do Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội chủ
trì phối hợp với Bộ Y tế ban hành.
2. Thời giờ làm việc của người lao động chưa thành niên từ đủ 15 tuổi
đến dưới 18 tuổi không được quá 08 giờ trong 01 ngày và 40 giờ trong 01 tuần.


Thời giờ làm việc của người dưới 15 tuổi không được quá 4 giờ trong 01
ngày và 20 giờ trong 01 tuần và không được sử dụng làm thêm giờ, làm việc vào
ban đêm.
3. Người từ đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi được làm thêm giờ, làm việc vào
ban đêm trong một số nghề và công việc theo quy định của Bộ Lao động Thương binh và Xã hội.
4. Không được sử dụng người chưa thành niên sản xuất và kinh doanh
cồn, rượu, bia, thuốc lá, chất tác động đến tinh thần và các chất gây nghiện
khác;
5. Người sử dụng lao động phải tạo cơ hội để người lao động chưa thành
niên và người dưới 15 tuổi tham gia lao động được học văn hố.”
Trong đó về cơng việc và nơi làm việc cấm sử dụng lao động chưa thành
niên được quy định tại Điều 165 Bộ luật lao động 2012 và trong Danh mục công
việc và nơi làm việc cấm sử dụng lao động là người chưa thành niên Ban hành
kèm theo Thông tư số 10/2013/TT-BLĐTBXH ngày 10 tháng 06 năm 2013 của
Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội.
Tại Điều 165 của Bộ luật lao động 2012: các công việc và nơi làm việc
cấm sử dụng lao động là người chưa thành niên

1. Cấm sử dụng người chưa thành niên làm các công việc sau đây:
a) Mang, vác, nâng các vật nặng vượt quá thể trạng của người chưa thành
niên;
b) Sản xuất, sử dụng hoặc vận chuyển hóa chất, khí gas, chất nổ;
c) Bảo trì, bảo dưỡng thiết bị, máy móc;
d) Phá dỡ các cơng trình xây dựng;
đ) Nấu, thổi, đúc, cán, dập, hàn kim loại;
e) Lặn biển, đánh bắt cá xa bờ;
g) Công việc khác gây tổn hại cho sức khoẻ, an toàn hoặc đạo đức của
người chưa thành niên.
2. Cấm sử dụng người chưa thành niên làm việc ở các nơi sau đây:a) Dưới
a) Dưới nước, dưới lòng đất, trong hang động, trong đường hầm;


b) Công trường xây dựng;
c) Cơ sở giết mổ gia súc;
d) Sòng bạc, quán bar, vũ trường, phòng hát karaoke, khách sạn, nhà nghỉ,
phịng tắm hơi, phịng xoa bóp;
đ) Nơi làm việc khác gây tổn hại đến sức khoẻ, sự an toàn và đạo đức của
người chưa thành niên.
3. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội quy định danh mục tại điểm g
khoản 1 và điểm đ khoản 2 Điều này.
Như vậy, công ty “TA” thuê người dưới 18 tuổi làm việc tại phịng xoa
bóp đối chiếu với Điều 165 của Bộ Luật Lao động thì đã vi phạm việc sử dụng
người lao động dưới 18 tuổi làm việc trong lĩnh vực vị cấm nên sẽ bị xử lý vi
phạm hành chính theo quy định tại Điều 19 Nghị định 95/2013/NĐ-CP như sau:
Điều 19. Vi phạm quy định về lao động chưa thành niên
1. Phạt cảnh cáo đối với người sử dụng lao động có hành vi khơng lập sổ
theo dõi riêng khi sử dụng lao động chưa thành niên hoặc khơng xuất trình sổ
theo dõi khi cơ quan nhà nước có thẩm quyền yêu cầu.

2. Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 15.000.000 đồng đối với người sử
dụng lao động có một trong các hành vi sau đây:
a) Sử dụng người dưới 15 tuổi mà không ký kết hợp đồng lao động bằng
văn bản với người đại diện theo pháp luật;
b) Sử dụng lao động chưa thành niên làm việc quá thời giờ làm việc quy
định tại Khoản 2 Điều 163 của Bộ luật lao động;
c) Sử dụng người từ đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi làm thêm giờ, làm việc
vào ban đêm, trừ một số nghề, công việc được pháp luật cho phép.
3. Phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 25.000.000 đồng đối với người sử
dụng lao động có một trong các hành vi sau đây:
a) Sử dụng lao động là người chưa thành niên làm công việc, tại nơi làm
việc bị cấm sử dụng theo quy định tại Điều 165 của Bộ luật lao động;


b) Sử dụng người dưới 15 tuổi làm công việc ngoài danh mục được pháp
luật cho phép theo quy định tại Khoản 1 và Khoản 3 Điều 164 của Bộ luật lao
động.
Một trong những điều kiện kinh doanh ngành nghề đặc biệt cần thiết là
phòng cháy, chữa cháy. Đây là vấn đề ảnh hưởng trực tiếp tới tính mạng con
người. Thực tế, doanh nghiệp đã không chấp hành lắp đặt thiết bị phòng cháy
chữa cháy tại cơ sở lại còn thiết kế phòng ốc, lối đi, chật hẹp lòng vòng để đối
phó và làm chậm bước đồn kiểm tra cũng có nghĩa là tiềm ẩn nguy cơ chết
người khi có cháy, nổ vi phạm Nghị định số 167/2013/NĐ-CP ngày 12 tháng 11
năm 2013 của Chính Phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an
ninh, trật tự, an tồn xã hội; phịng, chống tệ nạn xã hội; phịng cháy và chữa
cháy; phịng, chống bạo lực gia đình.
Qua kiểm tra cịn nhận thấy doanh nghiệp có biểu hiện sử dụng tiếp viên
nữ phục vụ khách (tuy chưa bắt quả tang)... như vậy nguy cơ về tệ nạn xã hội là
khó tránh khỏi nếu cơ quan quản lý và chính quyền địa phương bng lỏng quản
lý.

IV. Xây dựng, phân tích và lựa chọn phương án giải quyết tình
huống:
4.1. Xây dựng và phân tích phương án giải quyết tình huống:
Sau khi kiểm tra và ghi nhận lỗi vi phạm tại cơ sở, căn cứ theo các văn
bản quy phạm pháp luật được quy định từng lĩnh vực ngành nghề. Đội kiểm tra
liên ngành xây dựng 3 phương án như sau:
Phương án 1: (Phương án lựa chọn trong xử lý tình huống)
Ngày 15/8/2012, Đội kiểm tra đã mời chủ cơ sở đến làm việc. Xét thấy
Doanh nghiệp “TA” vi phạm hành chính lần đầu, chưa vi phạm về tệ nạn xã hội
và ảnh hưởng về sức khoẻ. Đội kiểm tra xử lý bằng hình thức chế tài theo mức
bình quân (Lấy mức phạt cao nhất cộng mức thấp nhất chia đôi)
Phân tích: Sử dụng phương án này sẽ đem lại được kết quả cao, đảm bảo
được cơng bằng, đảm bảo tính hiệu lực của pháp luật và củng cố được lòng tin


của nhân dân nói chung, các Doanh nghiệp nói riêng với chính sách của Đảng,
Nhà nước.
Phương án 2: (Hình thức xử phạt tăng nặng)
Doanh nghiệp có hành vi trốn tránh hoặc không hợp tác với cơ quan chức
năng. Lỗi vi phạm liên quan đến tệ nạn xã hội, ảnh hưởng đến đời sống tinh thần
và sức khoẻ, thì phương án lựa chọn sẽ xử phạt theo mức phạt cao nhất và có thể
bị truy cứu trách nhiệm hình sự nếu gây chết người.
Phân tích: Nếu sử dụng phương án này sẽ thể hiện tính nghiêm minh,
mang tính răn đe, tăng cường pháp chế trong công tác quản lý. Tuy nhiên giải
pháp này khơng mang tính thuyết phục cao, mang tính cứng nhắc. Áp dụng biện
pháp này có nhiều khả năng Doanh nghiệp sẽ không nhận thức được hết các quy
định của chính sách Nhà nước mà miễn cưỡng thi hành và sẽ gây nhiều tiêu cực
khác.
Phương án 3: (Hình thức xử phạt giảm nhẹ)
Nếu xét thấy cơ sở vi phạm lần đầu, ít lỗi vi phạm khơng liên quan đến tệ

nạn xã hội nghiêm trọng, không để hậu quả về sức khoẻ. Sẽ xử lý bằng hình
thức chế tài mức phạt thấp nhất.
Phân tích: Nếu sử dụng phương án này Doanh nghiệp sẽ khơng thấy được
tính nghiêm minh của pháp luật và tính chất nghiêm trọng của các sai phạm gây
ra. Có nhiều khả năng sẽ dẫn đến tình trạng tái phạm tiếp theo.
4.2. Lựa chọn phương án giải quyết tình huống:
Trên cơ sở phân tích hồ sơ tài liệu, chứng cứ, căn cứ các quy định của
pháp luật và xem xét các phương án đã nêu, tôi đề xuất lựa chọn các phương án .
Theo tôi, đây là phương án hợp pháp, hợp lý nhất.
V. Các giải pháp thực hiện phương án đã chọn:
- Các buớc thực hiện:
Bước 1: Lập biên bản vi phạm hành chính đối với Doanh nghiệp tư nhân
“TA”.


Buớc 2: Mời chủ doanh nghiệp đến văn phòng Đội kiểm tra liên ngành
làm việc để xác định lỗi vi phạm, lắng nghe cở sở đưa ra ý kiến và bổ sung giấy
tờ liên quan (nếu có).
Buớc 3: Lập hồ sơ trình UBND thành phố Vĩnh Yên ra Quyết định xử phạt.
Bước 4: Căn cứ vào hồ sơ của Đội kiểm tra liên ngành, UBND thành phố
Vĩnh Yên ban hành Quyết định xử phạt.
Bước 5: Triển khai Quyết định xử phạt, phối hợp với Chính quyền địa
phương theo dõi quá trình chấp hành Quyết định của Chủ doanh nghiệp.
- Kết quả giải quyết:
UBND thành phố Vĩnh Yên ra Quyết định xử phạt Doanh nghiệp tư nhân
“TA” do Ông Nguyễn Văn A làm chủ như sau:
- Phạt tiền 3.500.000đ đối với hành vi vi phạm khơng đặt chng cấp cứu
từ phịng xông hơi thuốc, vi phạm vào Điều 32 khoản 2 điểm b Nghị định
176/2013/NĐ-CP ngày 14/11/2013 về việc xử phạt vi phạm hành chính trong
lĩnh vực y tế.

- Phạt tiền 20.000.000đ đối với hành vi vi phạm sử dụng tiếp viên làm
việc tại cơ sở không ký kết hợp đồng lao động, vi phạm Nghị định số: 95/2013/
NĐ-CP ngày 22/8/2013 Quy định xử phạt hành chính trong lĩnh vực lao động,
bảo hiểm xã hội và đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo
hợp đồng.
- Phạt tiền 10.000.000đ đối với hành vi vi phạm khơng có bản cam kết
thực hiện các điều kiện về an ninh trật tự với cơ quan công an, vi phạm điều 11
khoản 3 điểm a Nghị định số 167/2013/NĐ-CP ngày 12 tháng 11 năm 2013của
Chính Phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an
tồn xã hội; phịng, chống tệ nạn xã hội; phịng cháy và chữa cháy; phịng, chống
bạo lực gia đình.
- Phạt tiền 2.000.000đ đối với hành vi vi phạm không thực hiện các quy
định khác có liên quan khi kinh doanh dịch vụ có điều kiện (đặt hệ thống đèn
báo động), vi phạm điều 20 khoản 2 điểm b Nghị định số 185/2013/NĐ-CP ngày
15/11/2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt


động thương mại, sản xuất, buôn bán hàng giả, hàng cấm và bảo vệ quyền lợi
người tiêu dùng.
- Phạt tiền 10.000.000đ đối với hành vi vi phạm không trang bị, lắp
phương tiện, hệ thống phòng cháy chữa cháy theo quy định về xử phạt vi phạm
điều 20 khoản 5 Nghị định số 167/2013/NĐ-CP ngày 12 tháng 11 năm 2013 của
Chính Phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an
tồn xã hội; phịng, chống tệ nạn xã hội; phòng cháy và chữa cháy; phịng, chống
bạo lực gia đình.
- Phạt tiền 500.000đ đối với hành vi vi phạm về việc sử dụng nhân viên
không có giấy chứng nhận chun mơn kỹ thuật để hành nghề xơng hơi xoa bóp
(01 nhân viên) vi phạm điều 21 khoản 2 điểm c Nghị định số 167/2013/NĐ-CP
ngày 12 tháng 11 năm 2013của Chính Phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an tồn xã hội; phịng, chống tệ nạn xã hội; phịng

cháy và chữa cháy; phịng, chống bạo lực gia đình.
Tổng cộng 6 lỗi vi phạm với mức phạt tiền là: 46.000.000đồng.
Ngồi hình thức xử phạt chế tài nêu trên, cơ quan kiểm tra còn đề nghị
chủ Doanh nghiệp chấp hành thực hiện đúng các thủ tục giấy phép về ngành
nghề kinh doanh đặc biệt (giấy chứng nhận đăng ký hành nghề, giấy chứng nhận
về an ninh trật tự, an toàn xã hội và phòng cháy chữa cháy) trong thời gian chậm
nhất 30 ngày; Công an, Tổ kiểm tra liên ngành là cơ quan có trách nhiệm kiểm
tra, đơn đốc, nhắc nhở doanh nghiệp chấp hành.
Đảng và Nhà nước ta luôn coi trọng vai trị văn hóa trong q trình xây
dựng và phát triển đất nước, ban hành những chính sách chiến lược phát triển
văn hóa bền vững gắn với cơng tác xã hội hóa họat động văn hóa, được thể hiện
một cách cụ thể, rõ ràng trong những văn bản pháp luật theo trình tự thời gian,
phù hợp cơng cuộc đổi mới đất nước.
Ý thức trách nhiệm của người dân đóng vai trị tích cực và khơng thể
thiếu trong việc ngăn ngừa, phòng chống tệ nạn xã hội. Do vậy, cần nêu gương
điển hình và kịp thời khen thưởng những tổ chức, cá nhân tích cực tham gia
trong phong trào giữ gìn trật tự, an ninh khu phố.


Các quy định xử phạt hành chính trong lĩnh vực kinh doanh, cụ thể loại
hình massa, xơng hơi, xoa bóp chỉ có hình thức xử phạt chế tài, luật chưa có quy
định về hình thức xử phạt bổ sung như: đình chỉ hoạt động hoặc tước quyền sử
dụng Giấy phép kinh doanh. Điều này cho thấy văn bản luật chưa đủ mạnh, chưa
thể hiện tính nghiêm khắc; mức xử phạt chưa đủ tính răn đe nên vi phạm vẫn
tiếp tục gia tăng, có nhiều cơ sở chịu chấp nhận nộp phạt và tiếp tục vi phạm vì
“món hời” lợi nhuận khá cao. Hầu như việc xử lý vi phạm mới chỉ dừng lại ở
mức “hình thức”, phạt rồi lại cho phép hoạt động hoặc chỉ tiến hành theo phong
trào kiểu “đá ném ao bèo” đã dẫn đến tình trạng coi thường pháp luật.
Rõ ràng là với những điều khoản không thống nhất, không cụ thể như vậy
đã tạo ra những kẽ hở và bất cập của luật, để cho một số những cán bộ công

chức thừa hành lợi dụng để tham nhũng “làm luật” dẫn đến vơ hiệu hóa pháp
luật. Từ đó, đặt ra cho các nhà quản lý vấn đề về phẩm chất tư cách đạo đức nói
chung, đạo đức nghề nghiệp nói riêng của đội ngũ những người làm công tác
quản lý kiểm tra.


VI. Kiến nghị:
1. Kiến nghị giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác quản lý
trong lĩnh vực kinh doanh
Rà soát lại hệ thống các văn bản pháp luật liên quan để kịp thời sửa đổi,
bổ xung, điều chỉnh hoàn thiện phù hợp với tình hình mới. Trong các điều khoản
về xử phạt vi phạm hành chính cần tính đến các mức phạt đủ sức răn đe, tránh
việc tái vi phạm của các cơ sở dịch vụ văn hóa.
Tổ chức và sắp xếp lại bộ máy các cơ quan quản lý nhà nước, có cơ chế,
chính sách thu hút những cán bộ có tâm có tầm. Kiện tồn đội ngũ cán bộ thanh
tra, kiểm tra giám sát của ngành từ thành phố đến cơ sở, đảm bảo đủ về số lượng
cho hoạt động đạt hiệu quả. Tăng cường bồi dưỡng kiến thức quản lý, kiến thức
chuyên môn; khoa học công nghệ thông tin. Tăng đầu tư ngân sách và kinh phí
hoạt động, tạo điều kiện trang thiết bị đáp ứng công tác quản lý kiểm tra đạt hiệu
quả.
Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, phối hợp chặt chẽ với các ngành
có liên quan như: Cơng an, Lao động - Thương binh và xã hội, Dich vụ Thương Mại, chính quyền địa phương... Tập trung kiểm tra, truy quét tệ nạn xã
hội đối với các cơ sở kinh doanh có những biểu hiện vi phạm, có đơn thư phản


ảnh của quần chúng nhân dân; có biện pháp xử lý nghiêm khắc đối với các cơ sở
tái phạm nhiều lần. Việc thanh tra, kiểm tra, giám sát phải được tiến hành
thường xun, khơng mang tính hình thức tạo tâm lý coi thường pháp luật của
chủ doanh nghiệp.
Tuy nhiên tất cả những biện pháp trên có thể coi là những giải pháp tình

thế, chúng ta khơng chỉ chú trọng mặt “chống” mà cần quan tâm hơn nữa mặt
“xây”, vì đây là cách làm hiệu quả, là giải pháp cơ bản, bền vững nhất. Xây
dựng được mơi trường văn hóa lành mạnh là chúng ta đã thực hiện “chống”
những hiện tượng phi văn hóa đang diễn biến phức tạp trong xã hội.
Vì mơi trường văn hóa lành mạnh, vì lợi ích cộng đồng, mỗi cá nhân, mỗi
doanh nghiệp chúng ta tôn trọng kỷ cương phép nước, hãy "sống và làm việc
theo pháp luật” nhằm hướng tới một xã hội tốt đẹp, văn minh hơn.
KẾT LUẬN
Quản lý nhà nước về văn hóa là quản lý bằng chính sách và pháp luật gắn
chặt với công tác giáo dục tư tưởng và vận động, tuyên truyền kết hợp với quản
lý nhà nước về kinh tế. Tăng cường quản lý nhà nước trên lĩnh vực dịch vụ văn
hóa nhằm xây dựng và giữ gìn một nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc, làm cho văn hóa thực sự là nền tảng tinh thần, là động lực thúc đẩy phát
triển kinh tế, xã hội.
Trong xu thế đất nước hội nhập, sự lựa chọn phát triển nền văn hóa gắn
với tiếp thu những tinh hoa văn hóa nhân loại là con đường đúng đắn để bảo độc
lập và chủ quyền đất nước. Những thế lực thù địch đang phá hoại đất nước ta
bằng “diễn biến hịa bình”, đưa văn hố độc hại cùng với lối sống sa đọa, làm
băng loại những giá trị đạo đức. Chính vì vậy quản lý văn hóa là nhiệm vụ quan
trọng khơng chỉ của riêng ngành văn hóa mà cịn là của tồn đảng, tồn dân, của
các cấp, các ngành và toàn xã hội./.
Vĩnh Phúc, ngày 16 tháng 5 năm 2019
Người viết


Đinh Thị Tiến

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Bồi dưỡng kiến thức quản lý nhà nước Chương trình chuyên viên.
2. Luật Xử lý vi phạm hành chính.

3. Nghị định số 167/2013/NĐ-CP ngày 12 tháng 11 năm 2013của Chính
Phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an tồn
xã hội; phịng, chống tệ nạn xã hội; phòng cháy và chữa cháy; phòng, chống bạo
lực gia đình.
4. Nghị định 176/2013/NĐ-CP ngày 14/11/2013 về việc xử phạt vi phạm
hành chính trong lĩnh vực y tế.
5. Nghị định số 185/2013/NĐ-CP ngày 15/11/2013 của Chính phủ quy
định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động thương mại, sản xuất, buôn
bán hàng giả, hàng cấm và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.
6. Nghị định số: 95/2013/NĐ-CP ngày 22/8/2013 Quy định xử phạt hành
chính trong lĩnh vực lao động, bảo hiểm xã hội và đưa người lao động Việt Nam
đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng.
7. Bộ luật lao động năm 2012



×