Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Sáng kiến kinh nghiệm ngữ văn 7 một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực viết văn biểu cảm của học sinh khối 7 trường trung học cơ sở tân thành

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (152.41 KB, 22 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài.
Hiện nay học sinh có xu hướng xem nhẹ học những mơn xã hội nói chung,
mơn Ngữ văn nói riêng. Cũng chính vì thế mà chất lượng học văn có chiều
hướng giảm xuống, học sinh không say mê mà say mê vào những môn mang
xu hướng thời cuộc như: tiếng anh, điện tử, tin học…có vẻ như khơng hứng
thú với vần thơ lục bát truyền thống, những câu ca dao dễ thuộc dễ đi sâu vào
lòng người. Thế nhưng, trên thực tế phần lớn học sinh khơng thích học phân
mơn này, thậm chí có em cịn sợ mỗi khi đến giờ học văn... Từ thực tế đó địi
hỏi người giáo viên phải tự nghiên cứu, tìm tịi cho mình một phương pháp
dạy học tốt nhất nhằm giúp học sinh tiếp thu bài nhanh nhất. Muốn thế thì
phương pháp dạy học phải khơng ngừng đổi mới, nâng cao; phải mang tính
tích cực, chủ động cao nhằm tập trung vào việc khơi dậy sự tự rèn luyện, phát
triển khả năng tư duy, suy nghĩ và vận dụng một cách chủ động, phát huy tính
tích cực của học sinh. Điều này không phải dễ nhất là đang trong thời kì hiện
nay, nền kinh tế thị trường đang chi phối đến đời sống của giáo viên. Đòi hỏi
người giáo viên phải có tâm huyết với nghề.
Mơn ngữ văn là mơn học có vai trị cực kì quan trọng trong hệ thống giáo
dục và đào tạo nước ta. Bởi vì dạy văn là dạy cách ứng xử, cách làm người; là
cơng cụ đắc lực trong q trình hình thành và phát triển nhân cách trẻ. Môn
Ngữ văn ở trường THCS được chia làm 3 phân môn: Văn - Tiếng Việt - Tập
làm văn.
Trong đó phần tập làm văn là một phương diện giao tiếp quan trọng trong
xã hội, rèn luyện cách viết chữ, làm văn, lời hay ý đẹp qua mỗi bài văn. Nó đã
góp phần thể hiện rất rõ sức mạnh và sự tinh tế, uyển chuyển trong mỗi cách

Trang 1


làm bài. Mặt khác làm văn cịn gắn bó chặt chẽ với hoạt động nhận thức và tư
duy con người Việt Nam, mang rõ dấu ấn của tình cảm, suy nghĩ, và cách


sống của người Việt. Nó trở thành một phần máu thịt trong con người Việt
Nam. . Trong quá trình đó bản thân tơi đã đúc kết được cho bản thân cho nên
tôi chọn đề tài : “Một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực viết văn biểu
cảm của học sinh khối 7 Trường trung học cơ sở Tân Thành” .
Đây không hẳn là kinh nghiệm của riêng bản thân tơi mà chắc hẳn đã có
nhiều đồng nghiệp, các giáo viên đã có rất nhiều năm kinh nghiệm cũng đã
đúc kết được từ thực tế công tác. Nhưng ở đây là kinh nghiệm mà tôi đã rút ra
được khi dạy học sinh lớp 7 ở Trường trung học cơ sở Tân Thành. Mỗi trường
sẽ có một đặc điểm học sinh khác nhau, chính vì thế đây cũng là nét khác biệt
trong đề tài của tôi.
2. Lịch sử nghiên cứu.
Trong chương trình ngữ văn lớp 7, đặc biệt với chương trình đổi mới sách
giáo khoa hiện nay, phương pháp dạy học mới phải có sự tích hợp giữa các
phân môn của bộ môn Ngữ văn, phân môn Tiếng Việt sẽ giúp cho học sinh
học tốt hơn các phân môn khác. Học tốt làm văn, học sinh sẽ nắm được kiến
thức cơ bản về bố cục của bài văn, cách phân tích cảm thụ một bài văn, một
tình huống trong văn nghị luận. Từ đó học sinh sẽ dễ dàng phân tích và cảm
thụ các văn bản, có kĩ năng viết câu khi làm bài tập làm văn cũng như vận
dụng vào việc giao tiếp. Là một giáo viên trực tiếp giảng dạy môn ngữ văn lớp
7 tôi nhận thấy nhiều học sinh học rất yếu hoặc chưa hứng thú với việc học
phân môn tập làm văn mặc dù học sinh đã có một vốn tiếng Việt trước khi đến
trường và đã được học qua bậc Tiểu học. Việc nắm và vận dụng, cảm nhận tập
làm văn của học sinh chưa chuẩn xác, sai chính tả, đặt câu và viết đoạn văn
yếu. Qua 4 năm công tác, từ thực tế trên đã thôi thúc bản thân tôi không ngừng

Trang 2


suy nghĩ, cố gắng học hỏi, tìm tịi, nghiên cứu các phương pháp mới để dạy tốt
môn Ngữ văn, đặc biệt là phân mơn Ngữ văn lớp 7 để góp phần cùng nhà

trường từng bước nâng cao chất lượng dạy - học phần tập làm văn nói riêng và
mơn Ngữ văn lớp 7 nói chung, việc học Ngữ văn hiện nay học sinh gặp khó
khăn ở phân mơn Tập làm văn. Các em vẫn rất lúng túng trước một đề Tập
làm văn từ khâu lập dàn ý đến khâu sáng tạo một bài văn. Ngun nhân có từ
nhiều phía. Tuy nhiên, một trong những nguyên nhân chính là khâu rèn luyện
kĩ năng thực hành Tiếng Việt của các em chưa được chú ý đúng mức, ngay từ
những năm học Tiểu học. Các em còn rất thụ động trước cách giải quyết các
yêu cầu nêu ra ở đề bài, thụ động tiếp thu bài mẫu. Mặt khác, trong cuộc sống,
các em chưa có ý thức tích luỹ tri thức, làm giàu vốn liếng phục vụ cho việc
viết thành công một bài văn. Từ đó dẫn đến tình trạng học sinh chưa nhận thức
được yêu cầu của đề, chưa tự tin trong cách suy nghĩ và rất hạn chế trong việc
viết văn. Chính vì thế, việc rèn luyện, hướng dẫn các em viết tập làm văn theo
kiểu bài nhất định là rất cần thiết.
3. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu.
3.1. Phạm vi nghiên cứu
- Sáng kiến được thực hiện ở các tiết dạy Ngữ văn lớp 7 chính khố theo
phân phối chương trình tại Trường THCS Tân Thành năm học 2018-2019 và
các năm học tiếp theo.
3.2. Đối tượng nghiên cứu
- Sáng kiến áp dụng đối với học sinh khối 7 Trường THCS Tân Thành trong
năm học 2018-2019 và các năm học tiếp theo.
4. Mục đích nghiên cứu.

Trang 3


- Vấn đề đặt ra là làm thế nào để có giải pháp nâng cao năng lực viết văn
biểu cảm của học sinh khối 7. Bản thân tôi mong muốn đóng góp một số kinh
nghiệm để tìm ra giải pháp thiết thực, khả thi nhất.
- Mục đích của đề tài giúp học sinh khơng những hiểu đúng và cịn làm tốt

hơn về văn biểu cảm từ giúp các em yêu thích phân mơn Tập làm văn hơn.

Trang 4


PHẦN NỘI DUNG
1. Thực trạng đề tài.
1.1. Tầm quan trọng của môn ngữ văn đối với học sinh ở Trường
THCS
Trong mỗi thời kì, mỗi giai đoạn phát triển, người đi học, nhất là người học
văn cần phải được rèn luyện bốn kĩ năng: nghe, nói, đọc, viết. Những thao tác
này, người học sẽ được hướng dẫn thao tác tại trường. Trong bốn kĩ năng này
thì kĩ năng viết là “gian khổ” nhất, việc hướng dẫn viết là khó nhất. Muốn
hướng dẫn viết thật tốt, thật hay, tri thức của người thấy phải uyên bác, tâm
hồn phải tinh tế, vững chãi, phong phú, ôm trùm và mở rộng. Suy cho cùng,
viết là một hình thức tiến tới sự lập luận ngơn ngữ đó. Nhiệm vụ của người
giáo viên (người dạy) là làm sao mang đến cho công việc này một ý nghĩa, mà
tri thức văn hóa chính là nền tảng.
Chính vì vậy, cần đặt ra điều kiện học tập trên cơ sở đọc - nhận thức và tổ
chức tập viết các thể loại văn bản văn học. Một người học viết trong nhà
trường, tuổi cịn non trẻ, cần đọc nhiều, chính là một cách biến đổi tri thức văn
hóa trong quá trình rèn luyện cách viết của riêng cá nhân.
1.2. Thực trạng tình hình của đơn vị
1.2.1. Thuận lợi
Về học sinh, đa số các em luôn được sự quan tâm giáo dục của phụ huynh,
các thầy cô giáo nên rất ngoan, hiền và hiếu học.
Về cán bộ, giáo viên, nhân viên nhà trường đều đạt chuẩn và trên chuẩn,
luôn tâm quyết với ngành, u nghề mến trẻ có trình độ chun mơn cao, nhiệt
tình trong cơng tác, có tinh thần học hỏi nâng cao trình độ chun mơn nghiệp
vụ.


Trang 5


1.2.2. Khó khăn
- Khó khăn của nhà trường là vị trí trường nằm ở vùng sâu, nơi kinh tế
người dân cịn gặp nhiều khó khăn. Phần lớn người dân sống chủ yếu bằng
nghề nơng, khơng có nhiều thời gian để quan tâm các em.
- Do các em là học sinh thuộc vùng sâu của huyện nên các em còn nhút
nhát, chưa có chủ động sáng tạo của bản thân.
- Trường chưa có phịng học chức năng, chưa có tư liệu, tài liệu về các mơn
học nhiều, chưa có nơi tra cứu tài liệu, chưa có nhiều đầu sách hay để cho giáo
viên và học sinh tham khảo nên ảnh hưởng không nhỏ đến việc dạy và học.
1.3. Đội ngũ giáo viên Ngữ văn
Đảng và Nhà Nước ta luôn xác định đầu tư cho giáo dục là quốc sách hàng
đầu, đây là biện pháp để theo kịp các nước phát triển trong khu vực và trên thế
giới. Lúc nào cũng vậy người giáo viên với vai trò là cầu nối là nhân tố giữ vị
trí trung tâm giúp học sinh tiếp cận với nền tri thức tiên tiến.
Thực tế của môn Ngữ văn nói chung, dạy phân mơn học Ngữ văn nói riêng
thì cịn có nhiều người xung quanh nghĩ chưa đúng. Họ nghĩ rằng giáo viên
chỉ cần biết qua sách, giáo án và biết dạy theo sách là đủ, chỉ cần dạy cho học
sinh biết đọc và viết đúng chính tả là được. Nếu đứng bên ngồi thì số ít có
suy nghĩ như vậy, cịn thực tế thì khác. Trong một tiết dạy Ngữ văn nếu giáo
viên chỉ đơn thuần dạy đúng bài theo sách giáo khoa cho học sinh thì giờ học
văn đấy chỉ dừng lại ở mức độ dạy bình thường. Ở đây ta phải thấy điều quan
trọng là thông qua các bài học Ngữ văn như Tiếng Việt, Văn bản, Tập làm văn
mỗi phân mơn đó tạo cho các em sự khơi dậy và hưng phấn, sự hứng thú sáng
tạo và say mê theo từng phân môn, sự chú ý thích thú với nội dung đã học về
Tiếng Việt biết được tiếng ta giàu và đẹp qua các bài về câu, từ, ngữ….Về văn
bản giúp các em hiểu hơn về truyện cổ tích thời xa xưa, truyền thuyết về ông


Trang 6


cha ta đánh giặc về sự kì ảo, về các bài học giáo dục. Ngồi ra cịn một phân
mơn khơng thể thiếu đó là tập làm văn giúp các em biết làm thế nào là một bài
văn qua các dàn bài để miêu tả hay biểu cảm một đối tượng, nhân vật kể cả
những người thân xung quanh ta. Để làm được việc này địi hỏi mỗi giáo viên
phải có trình độ Ngữ văn nhất định và có hiểu biết về xã hội một cách sâu sắc.
Giáo viên phải thường xuyên học tập chuyên môn nghiệp vụ, học tập lý luận
chính trị, tìm tịi các phương pháp hay nhất để áp dụng vào bài giảng có hiệu
quả cao nhất.
Người giáo viên phải tăng cường nhiệm vụ tự học tập mọi lúc, mọi nơi, mọi
cách để mở rộng và cập nhật kiến thức để xử lý linh hoạt mọi tình huống xảy
ra trong giảng dạy. Trên thực tế người giáo viên khơng chịu học hỏi, tư duy
sáng tạo thì việc giảng dạy gặp nhiều khó khăn hạn chế về chun mơn, ví
như: sử dụng nhạc cụ khơng thành thạo, giọng hát chưa tự nhiên, chưa tìm
hiểu tác giả của bài hát trước… Điều này đã ảnh hưởng khơng nhỏ đến q
trình giảng dạy chính vì vậy mà việc học tập càng có ý nghĩa với giáo viên.
Một vấn đề quan trọng nữa yêu cầu mỗi giáo viên phải luôn bám sát vào
những mục tiêu quan điểm, nhiệm vụ và hướng chỉ đạo của cấp trên. Vì thực
tế trong chương trình của học sinh lớp 7 nói riêng và các khối lớp nói chung,
hàng năm vẫn có sự thay đổi, nhằm cải tiến từng bước cho phù hợp với thực
tế. Do vậy các giáo viên chuyên trách phải chủ động nắm bắt kịp thời những
chủ trương, nội dung chỉ đạo, hay chỉnh lý, thay sách của bộ giáo dục và đào
tạo. Khi nắm vững các hướng dẫn cụ thể của cấp trên người giáo viên chủ
động xây dựng kế hoạch chương trình làm việc đúng đắn có nội dung chất
lượng thiết thực bổ ích để thực hiện.
Hành trang của người giáo viên là kiến thức, kỹ năng, nghiệp vụ, chuyên
môn âm nhạc cùng với tấm lòng yêu ngành, yêu học sinh, yêu mái trường, yêu


Trang 7


quê hương…Người giáo viên luôn luôn học tập về cách sử dụng ngơn ngữ
trong trình bày diễn đạt, sử dụng ngơn ngữ giản dị, chính xác và đúng chuẩn
mực tiếng việt, để bài giảng đi vào lòng học sinh một cách nhẹ nhàng, tình
cảm mà chất lượng hiệu quả cao.
Nhưng thực tế qua khảo sát tôi thấy: Phần nhiều các bài soạn của giáo viên
giống với các sách hướng dẫn, đơi khi giáo viên cịn soạn một lúc nhiều bài,
thậm chí sử dụng giáo án của những năm trước để giảng dạy cho năm sau…
Đây là những thiếu sót chủ yếu ở một số ít giáo viên. Việc này cần được
nghiêm túc sửa chữa để trong việc soạn giáo án của giáo viên phải có sự sáng
tạo, tập trung nghiên cứu đồng bộ tới giai điệu, tiết tấu, hoà âm cho đến lời ca.
Làm cho học sinh có cảm hứng, say sưa, tập trung chú ý vào mỗi bài giáo viên
xây dựng mà khơng hề có một tí rụt rè, lúng túng.
1.4. Khả năng tiếp thu học văn của học sinh
Môn văn là một môn luôn theo các em từ đầu cấp tới cuối cấp thậm chí là
mơn thi tuyển sinh hay đại học. Nhưng nói chung học sinh của trường đặc biệt
là học sinh lớp 7 còn bở ngỡ khi tiếp cận với tự mình làm một bài văn thì rất
khó nhất là văn biểu cảm vì nào giờ các em chỉ biết làm một bài văn miêu tả
nên tiếp cận các em còn chưa quen.
Song hạn chế lớn nhất của các em là thói quen thụ động trong q trình học
tập giờ học mơn Ngữ văn cụ thể là phân môn học Tập làm văn, các em chưa
chủ động tìm hiểu bài, mà chỉ trơng chờ giáo viên lên lớp dạy làm và làm
theo. Đối với tập làm văn đòi hỏi các em phải tự nghiên cứu tự xây dựng dàn
bài trước thì các em ít làm và tỏ ra lúng túng, năng lực cảm thụ văn của các
em học sinh còn rất hạn chế, thực tế cho thấy vì quá lệ thuộc vào các bài các
bài văn mẫu trong sách giáo khoa, đây cũng là hạn chế vốn hiểu biết về phân


Trang 8


mơn học Ngữ văn nói chung phân mơn Tiếng Việt nói riêng trong chương
trình.
Do đề tài nghiên cứu của tơi chỉ đề cặp đến phân mơn học Ngữ văn nói
chung tập làm văn ở khối 7 nên không thể lấy số liệu từ kết quả học tập của cả
môn Ngữ văn nói chung được. Ở đây tơi chỉ dùng phương pháp điều tra thống
kê số học sinh ham muốn, hứng thú và thích học phân mơn học tập làm văn .
Kết quả điều tra:
Năm học

Khối /

Sỉ

Thích

Lớp

số

SL

7

55

20


Bình thường

Khơng thích

TL %

SL

TL %

SL

TL %

36,4

15

27,2

20

36,4

Cuối
năm học
2018-2019
Dựa vào bảng kết quả trên cho thấy: Trong năm học 2018-2019 thì số lượng
học sinh khối 7 thích học phân mơn học tập làm văn chỉ có 36,4%, số lượng
học sinh chưa có hứng thú học phân mơn học tập làm văn còn cao đến 36,4%

tương đương học sinh thích học. Vậy chúng ta cần phải có giải pháp hợp lí để
giúp các em có hứng thú và thích học phân mơn học tập làm văn hơn.

Trang 9


2. Giải pháp.
2.1. Một số kiến thức chung cần nắm về phân môn tập làm văn.
Tập làm văn là một phân môn quan trọng trong bộ môn Ngữ văn ở các bậc
học phổ thông. Mục tiêu cụ thể của môn học ở phần kiến thức là: “Nắm được
những tri thức và các kiểu văn bản thường dùng, có thể lĩnh hội và tạo lập các
kiểu văn bản đó”. Phần kĩ năng trong mục tiêu môn học cũng được quy định
với các kĩ năng: Nghe –nói, đọc –viết. Trong đó thao tác viết (tạo lập các kiểu
văn bản) không phải là khâu đơn giản .
Tạo lập văn bản là kĩ năng nổi bật trong hệ thống chương trình tập làm văn.
Kĩ năng sẽ là cơng cụ, là chìa khố để các em có thể tự tin mở khố cho các đề
bài cụ thể. Ở HKI, các em học sinh lớp 7 được học tập lý thuyết và rèn luyện
kĩ năng viết một bài văn biểu cảm. Mặc dù đấy là kiểu bài các em đã được
thực hành ở các bậc tiểu học nhưng cũng chỉ số ít học sinh giỏi là có thể viết
tốt dạng bài này, cịn lại đa số các em rất ngần ngại khi viết bài tập làm văn
hoặc chỉ viết có lệ, viết cho có để nộp cho thầy (cơ) giáo khi có u cầu .
Chúng ta điều biết có 6 phương thức biểu đạt chính ứng với 6 kiểu văn bản
thường gặp. Một trong 6 kiểu văn bản đó là biểu cảm.
+ Tính chất của văn biểu cảm là bày tỏ cảm xúc, suy nghĩ, tình cảm để khơi
dậy mối đồng cảm nơi người đọc ( văn biểu cảm cịn gọi là văn trữ tình).
Ví dụ: Thương thay con cuốc giữa trời
Dầu kêu ra máu có người nào nghe.
Con cuốc giữa trời gọi hình ảnh một sinh vật nhỏ nhoi cô độc giữa không
gian rộng lớn vô tận. Kêu ra máu là tiếng đau thương khắc khoải tuyệt vọng
về những điều oan trái của những thân phận nhỏ bé, bế tắc trong xã hội cũ.


Trang 10


+ Hình thức của văn biểu cảm có thể là tùy bút, thơ trữ tình, ca dao trữ
tình...và sử dụng các biện pháp tự sự, miêu tả, bày tỏ cảm xúc trực tiếp, gián
tiếp.
+ Tình cảm trong văn biểu cảm thường phải là tình cảm đẹp, tích cực, mang
tính nhân văn.
Ví dụ: Tình u Tổ quốc, nhân dân, dân tộc, lòng bác ái...
- Đặc điểm của văn biểu cảm:
+ Bài văn biểu cảm thường có 3 phần như những bài văn khác. Cách biểu
đạt tình cảm thể hiện theo nhiều hình thức khác nhau: trực tiếp, dùng hình
tượng ẩn dụ, tượng trưng...Tình cảm trong bài văn phải chân thật, tự đáy lịng
mình thì sức thuyết phục mới cao.
- Dàn bài bài văn biểu cảm thường có ba phần:
+ Mở bài: Giới thiệu chung về nhân vật và sự việc cần biểu cảm.
+ Thân bài: Bày tỏ cảm xúc thông qua miêu tả, tự sự. Có thể bộc lộ trực tiếp
hay gián tiếp.
+ Kết bài: Khẳng định cảm xúc của mình.
- Ngoài ra, để viết một bài văn biểu cảm người viết cần nắm kĩ các bước
tiến hành để làm một bài văn. Cụ thể gồm 5 bước:
+ Bước 1: Tìm hiểu đề bài.
+ Bước 2: Tìm ý
+ Bước 3: Lập dàn bài
+ Bước 4: Viết bài văn biểu cảm hoàn chỉnh.
+ Bước 5: Đọc và sửa chữa bài.
Nhìn chung lí thuyết của văn biểu cảm rất dễ hiểu, dễ nắm, nhưng việc vận
dụng thực hành là vấn đề khó đối với học sinh. Đây là vấn đề mà người giáo


Trang 11


viên hết sức quan tâm để giúp người học tìm được sự hứng thú trong quá trình
thực nghiệm…
2.2. Các giải pháp để tiến hành giải quyết vấn đề
2.2.1. Hướng dẫn học sinh nắm chắc lí thuyết của kiểu bài biểu cảm.
Ở các tiết học chính khố ở lớp, ngay từ những giờ Tập làm văn đầu tiên tôi
cần cho học sinh nắm chắc các kiến thức về :
- Khái niệm về văn biểu cảm.
- Đặc điểm của văn biểu cảm.
- Cách làm bài văn biểu cảm. Đây là bước quan trọng giúp các em làm bài.
Trong quá trình giúp học sinh nắm lí thuyết, tơi cần cho học sinh phân tích,
tìm hiểu ví dụ ngay ở những văn bản biểu cảm đã học nhằm giúp các em khắc
sâu kiểu bài, từng bước tiếp cận một đề biểu cảm cụ thể.
- Nhắc nhở các em chăm đọc sách nhằm trau dồi vốn tri thức của mình.
Ví dụ: Giúp học sinh tìm hiểu một đề biểu cảm về một bài ca dao, một bài
văn biểu cảm về tình yêu quê hương đất nước, gia đình, bạn bè... cho học sinh
nắm chủ đề, nhân vật, sự việc…
2.2.2. Vận dụng thực hành
Để làm tốt một bài văn biểu cảm, học sinh phải huy động toàn bộ kiến thức
đã học và vận dụng những kĩ năng làm bài. Những kĩ năng đó gắn liền với các
thao tác cơ bản sau đây, tôi phải từng bước tiến hành thật kĩ :
*Bước 1: Tìm hiểu đề bài.
Việc tìm hiểu, phân tích đề bài là việc làm trước tiên và rất quan trọng, quá
trình làm bài. Việc làm này có ý nghĩa quyết định đối với kết quả của bài làm .
Để tìm hiểu đề bài tơi hướng dẫn học sinh đọc kĩ đề, cần lưu ý từng từ, từng
câu, từng dấu câu. Nếu đọc đề qua loa, học sinh sẽ không xác định đúng yêu

Trang 12



cầu của đề bài dẫn đến lạc đề, xa đề ....Qua tìm hiểu phân tích đề bài, tơi giúp
các em xác định yêu cầu, nội dung, kiểu bài, trọng tâm của đề bài.
Ví dụ: Tìm hiểu đề: Cảm nghĩ về tình bạn.
+ Kiểu bài : Biểu cảm ( bộc lộ cảm xúc)
+ Nội dung : Đối tượng phát biểu cảm nghĩ mà đề văn nêu ra là gì? Em hình
dung và hiểu như thế nào về đối tượng ấy?.
+ Trọng tâm : Biểu cảm về tình bạn.
*Bước 2 : Tìm ý.
Đây là bước xác định những ý trọng tâm, những vấn đề cốt lõi của đề bài để
khi tiến hành kể khơng thiếu sót.
Ví dụ: Tìm ý cho đề bài sau: Cảm nghĩ về tình bạn.
Những sự việc chính trong đề bài:
+ Giới thiệu được đối tượng.
+ Ấn tượng chung về người bạn.
+ Biểu cảm về người bạn đó.
+ Trân trọng về tình bạn.
*Bước 3 : Lập dàn ý
Sau bước tìm ý, tơi tập cho các em có thói quen làm dàn ý. Cụ thể là giúp
các em xác định được các ý lớn rồi đến các ý nhỏ. Cho các em sắp xếp các ý
theo một thứ tự hợp lý. Từ đó hướng dẫn các em hình thành dàn ý đại cương,
dàn ý chi tiết. Trước hết các em cần nắm được dàn ý chung của bài Tập làm
văn biểu cảm :
+ Mở bài: Giới thiệu về người bạn mà em yêu quý.
+ Thân bài : bộc lộ cảm xúc tình bạn qua sự miêu tả, tự sự, có thể em bộc lộ
trực tiếp hay gián tiếp tình cảm đó với bạn.
+ Kết bài : Khẳng định cảm xúc của mình với bạn thân.

Trang 13



Sau đó, tuỳ đề bài mà học sinh lập dàn ý đại cương hoặc chi tiết .
Ví dụ: Đề bài “ Cảm nghĩ về tình bạn”.
Dàn ý:
a. Mở bài :
- Giới thiệu về người bạn mà em yêu quý.
- Giới thiệu vẻ đẹp của tình bạn.
b. Thân bài :
- Ấn tượng chung về người bạn.
- Biểu cảm về ngoại hình của bạn.
- Biểu cảm về tính tình của bạn.
- Biểu cảm về những kỉ niệm giữa hai người.
- Người bạn tốt là người “ Bánh ngon bẻ đôi, sách hay chung đọc...”.
c. Kết bài:
- Trân trọng và lưu luyến tình bạn.
- Cùng nhau xây đắp tình bạn chân chính...
*Bước 4: Viết bài văn biểu cảm hoàn chỉnh
Để viết được một bài văn tốt, địi hỏi học sinh có một số năng lực sau:
- Có vốn từ ngữ tương đối, diễn đạt câu đúng ngữ pháp.
- Biết liên tưởng, suy luận.
- Có cảm xúc chân thành.
Muốn học sinh có được vốn từ ngữ tương đối, trong q trình dạy Tiếng
Vịêt, tơi có thể giúp học sinh làm giàu vốn từ bằng cách vận dụng các từ trong
văn bản hoặc thay thế bằng các từ đồng nghĩa, trái nghĩa.
Tơi khuyến khích các em viết câu ngắn, nhưng cũng nên tránh chỉ sử dụng
những câu đơn làm cho bài văn rời rạc, khô khan. Cùng một tư tưởng tình
cảm, sự việc, tơi giúp các em biết diễn đạt bằng nhiều cách khác nhau, và luôn

Trang 14



ln tìm cách diễn đạt mới, hạn chế dùng những từ ngữ, hình ảnh, khái niệm
sáo mịn trở nên nhạt nhẽo và sáo rỗng hoặc bắt chước cách diễn đạt của người
khác một cách vụng về. Cần yêu cầu các em diễn đạt một cách chính xác, rõ
ràng và trong sáng. Vì đây là đối tượng học sinh trung bình, yếu kém, tơi
khơng nên nóng vội địi hỏi học sinh phải thực hiện tốt yêu cầu cả bài văn, mà
cần tiến hành thật chậm, luyện các em viết từng câu, từng đoạn. Bên cạnh việc
thực hiện các yêu cầu trên, tơi thường xun cho các em thực hành phân tích
để lập dàn ý và diễn đạt ý. Cùng một đề bài có thể gọi nhiều em lên bảng thực
hành và cho điểm để khuyến khích các em. Khơng những thế, tôi hướng dẫn
các em tự học ở nhà như: tự phát biểu cảm nghĩ, nêu cảm xúc của mình vào
những câu chuyện đã học cho một ai đó nghe, kể lại sự việc mình chứng kiến
trên đường về, trong lớp học….
*Bước 5: Đọc và sửa chữa bài : Học sinh cần đọc, rà sốt lại về câu cú,
dùng từ, chính tả… sau khi đã viết bài xong.
2.2.3. Uốn nắn, sửa chữa
- Qua mỗi tiết học cần nhắc nhở, lưu ý giúp học sinh những kiến thức trọng
tâm (theo chuẩn kiến thức) mà học sinh phải hiểu và nắm vững.
- Trong những tiết học có thực hành khả năng sáng tạo của học sinh, tôi
phải uốn nắn, sửa chữa giúp học sinh những lỗi sai của mình.
- Trong quá trình chấm bài, sửa bài, ngoài việc điều chỉnh, sửa chữa những
hạn chế, thiếu sót trong bài làm của học sinh, tơi cần chắt lọc, trân trọng
những ý sáng tạo của các em và cho điểm khuyến khích. Giới thiệu các ý đó
cho các học sinh khác cùng tham khảo.
Lưu ý: Trong những tiết luyện nói, cần cho học sinh chuẩn bị theo việc triển
khai từng ý chính ở dàn bài; bằng cách, giúp học sinh nói theo đoạn, viết
đoạn…rèn luyện nhiều lần đối với học sinh yếu (phụ đạo).

Trang 15



Trang 16


3. Kết quả.
Qua quá trình áp dụng những phương pháp mới vào việc giảng dạy mơn
học Ngữ văn của mình, tơi nhận thấy mức độ u thích và tiếp thu học tập của
học sinh đã được nâng lên một các rõ rệt. Việc áp dụng các phương pháp mới
đã tạo những hiệu quả rõ rệt và tôi đã rút ra được những kinh nghiệm sau.
Hơn nữa, khi bước vào dạy bài học, giáo viên cần dành một vài phút cho
học sinh luyện nói, tự nói như một bài thuyết trình để chuẩn bị vào bài.
Trong q trình học phân mơn tập làm văn giáo viên cần giúp các em phân
biệt sự khác nhau giữa văn miêu tả và văn biểu cảm, khi làm một bài văn cần
trau dồi kiến thức và nắm bắt các bước hay cách làm một bài văn biểu cảm
như thế nào là đúng. Có thể giáo viên đọc một bài mẫu cho học sinh nghe
đồng thời cho học sinh tự nhận xét cách biểu cảm trong bài phù hợp như thế
nào. Để tránh cho học sinh sai theo kinh nghiệm của bản thân tơi thì có một số
biện pháp sau:
+ Động viên tất cả học sinh đều làm bài tốt.
+ Tìm nhiều giải pháp để thu hút sự chú ý của học sinh,
+ Tạo điều kiện cho các em tự nói qua các tiết luyện nói trước lớp.
Sau khi áp dụng phương pháp giảng dạy trên tơi đã thu được kết quả như
sau:

Năm học

Khối /

Sỉ


Thích

Bình thường Khơng thích

Trang 17


2018-2019

Lớp

số

SL

TL %

SL

TL %

SL

TL %

7

55


40

72,7

10

18,2

5

9,1

Cụ thể kết quả viết bài văn biểu cảm như sau:
Khối 7
Bài viết số 1
Bài viết số 2
Bài viết số 3
Qua kết quả

TS HS 0->3.5 3.5->4.9 5.0->6.5 6.5->7.9 8.0->10
55
15
5
25
13
2
55
10
3
20

25
2
55
0
0
15
35
10
điều tra trên chúng ta thấy rằng đa số các em đều thích học

phân mơn học tập làm văn chiếm tỉ lệ cao hơn qua các năm. Cụ thể:
Rõ ràng, qua 3 bài viết tập làm văn biểu cảm, học sinh đã có sự tiến bộ rõ
rệt. Tuy vẫn còn học sinh yếu kém, nhưng đây là bước tiến rõ qua thời gian áp
dụng việc rèn luyện kĩ năng viết bài văn biểu cảm ở trên lớp …
Như vậy, sau khi áp dụng các biện pháp đã nêu thì tỷ lệ phần trăm học sinh
thích học phân mơn học tập làm văn ở cuối học kì năm học 2018-2019 đạt đến
93,7% so với những năm đầu áp dụng thì đạt được những kết quả rất khả
quan. Tỷ lệ phần trăm học sinh thích học phân mơn học tập làm văn của năm
sau lúc nào cũng cao hơn những năm trước.
Do những hạn chế về thời gian nên tôi chỉ mới áp dụng những biện pháp
này với khối lớp 7 ở Trường trung học cơ sở Tân Thành và thu được những
kết quả đáng khích lệ.
Trên đây là giải pháp tôi đưa ra chưa phải là tối ưu, nhưng tôi hài lòng với
các giải pháp này. Tùy vào điều kiện cụ thể chúng ta có thể áp dụng vào thực
tế sao cho phù hợp với đối tượng địa phương mình phụ trách để đạt kết quả tốt
trong công tác giảng dạy Ngữ văn.

Trang 18



PHẦN KẾT LUẬN
Để giúp học sinh có kĩ năng viết tốt bài văn tự sự, tơi cần phải có sự kiên
trì giải thích, rèn luyện cho học sinh trong mỗi tiết dạy. Ngoài ra, cần giúp các
em lĩnh hội tốt lí thuyết trong sách vở. Có như thế, học sinh mới thơng suốt
kiến thức thì khâu thực hành sẽ dễ dàng hơn. Vì thời gian thực hành trên lớp
rất ít cho nên người giáo viên cần phải tổ chức thêm các tiết học phụ đạo
nhằm tăng cường rèn luyện kĩ năng viết bài cho học sinh. Ngồi ra, tơi cần
giúp các em tự học và rèn luyện thêm ở nhà về văn biểu cảm; Hướng dẫn học
sinh đọc nhiều sách, trau dồi vốn từ…
- Qua đề tài, giáo viên nhận thấy sự tiến bộ rõ rệt của học sinh. Đồng thời,
nâng cao chất lượng giảng dạy của giáo viên. Từ đó thực hiện tốt việc đổi mới
phương pháp trong mơn học, phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh.
- Đề tài này cũng giúp giáo viên bộ môn Ngữ văn có thêm ý thức tìm tịi,
nghiên cứu q trình học tập của học sinh nhằm nâng cao chất lượng dạy học.
- Các cấp quản lí giáo dục cũng có thêm một cơ sở để nghiên cứu sách lược
nâng cao chất lượng hiệu quả đào tạo từng năm học: Cần phải phân hóa, tổ
chức lớp học đúng theo trình độ, năng lực, thái độ học tập của các em thì việc
dạy và học sẽ có hiệu quả hơn.
Cuối cùng, tơi muốn nói rằng để nâng cao chất lượng giảng dạy mơn Ngữ
văn nói chung và phân mơn học tập làm văn nói riêng trong các nhà Trường
THCS, vai trị của người giáo viên là quan trọng, bên cạnh đó sự quan tâm đầu
tư của các cấp lãnh đạo về cơ sở vật chất phục vụ cho việc giảng dạy và học
tập là một yếu tố không nhỏ đem lại thành công.

Trang 19


KIẾN NGHỊ ĐỀ XUẤT:
Trên đây chỉ là những kinh nghiệm của cá nhân tôi, dù hết sức cố gắng
nhưng kinh nghiệm vẫn cịn có sự thiếu sót, mong được sự góp ý của đồng

nghiệp để giúp tơi hồn thiện SKKN trên. Qua đó, tơi cũng có một vài ý kiến
đề xuất đối với các cấp lãnh đạo :
+ Việc rèn luyện kĩ năng trên phải được tiến hành trong tiết phụ đạo học
sinh, vì sách giáo khoa khơng bố trí tiết rèn kĩ năng làm bài. Trên lớp, tôi cũng
không có thời gian giúp các em thực hành thêm. Nhưng lớp phụ đạo thường
chỉ giới hạn cho học sinh yếu kém; trong khi nhiều học sinh trung bình khá
cũng rất cần rèn luyện kĩ năng làm bài.
+ Trang bị thêm các tài liệu tham khảo về môn Ngữ văn .
Xin chân thành và cảm ơn.

Trang 20



×