1
Những nhân tố đầu vào cho phát triển
lâm nghiệp có sự tham gia của cộng đồng thôn, bản
Hoàng Liên Sơn, Cao Lâm
Anh
Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam
Trong những thập kỷ qua, các nhà lâm nghiệp trên thế giới đã nhận ra
rằng cần phải thay đổi vai trò của mình từ những người “giám hộ tài nguyên
rừng” (guardians of the forest), thay vào đó là gia tăng vai trò hướng con người
vào các hoạt động lâm nghiệp và chú trọng hơn nữa những nhu cầu liên quan
đến rừng của người dân sống trong và gần rừng (FAO 1978; Ngân hàng thế
giới, 1978 dẫn từ Wiersum). Một khuôn mẫu quản lý rừng và đất rừng hướng
con người vào các hoạt động lâm nghiệp nhằm tìm kiếm giải pháp phát triển
rừng bền vững đã được thực hiện ở Việt Nam từ những năm 90, dưới những tên
gọi khác nhau như: Lâm nghiệp cho sự phát triển cộng đồng (Forestry for
community development), Quản lý rừng cộng đồng (Community forest
management), Lâm nghiệp cộng đồng (Community forestry), Lâm nghiệp xã
hội (Social forestry), Khuyến lâm (Forestry Extension), và Lâm nghiệp làng
bản (Village forestry). Theo đó, thực chất là khuyến khích và thu hút người dân
trong thôn, bản tham gia vào việc quản lý và chia sẻ lợi ích từ nguồn tài nguyên
rừng để đáp ứng những nhu cầu cơ bản của họ, tạo thêm thu nhập và việc làm,
và bảo vệ môi trường duy trì sự ổn định sản xuất nông nghiệp.
2
Nội dung của bài viết này tập trung thảo luận chiến lược và khả năng
thích ứng của nó cho sự phát triển lâm nghiệp có sự tham gia, cụ thể như sau:
Sự cung cấp dưới các dạng khác nhau của những nhân tố đầu vào
Sự tham gia của người dân trong các mô hình tổ chức thực hiện dự
án lâm nghiệp có sự tham gia.
Vai trò của những nhà chuyên môn lâm nghiệp trong các dự án đó.
Kết quả nghiên cứu: Đánh giá tình hình quản lý rừng cộng đồng (cấp
thôn bản) của một số dân tộc vùng núi bắc bộ và đề xuất khuyến nghị xây dựng
chính sách quản lý rừng cộng đồng (Cao Lâm Anh, 2001) cho rằng: Quản lý
rừng cộng đồng cần được tồn tại song song với các hình thức quản lý rừng
khác. Tuy nhiên về mặt pháp lý, Nhà nước chưa công nhận tư cách pháp nhân
của cộng đồng về quyền sở hữu và hưởng dụng. Đây được xem như là một cản
trở lớn nhất để duy trì và phát triển hình thức quản lý rừng này. Trên cơ sở vận
dụng những giá trị truyền thống trong quản lý, sử dụng rừng và chính sách giao
đất lâm nghiệp và khoán bảo vệ rừng, trong cả nước đã có khoảng 2.348.295 ha
rừng và đất rừng (Lâm Anh, 2002 dẫn từ Hà Công Tuấn, 2001) được cộng
đồng thôn, bản quản lý. Nhưng điều quan trọng hơn là phạm vi và tính đa dạng
của các nhân tố đầu vào với những mối quan hệ trong mô hình tổ chức vận
hành quản lý rừng có sự tham gia của cộng đồng thôn bản và các bên liên quan.
Đất đai, lao động, vốn, kiến thức kỹ thuật và tổ chức là những nhân tố đầu vào
cơ bản cần được cân nhắc trong dự án lâm nghiệp có sự tham gia. Những nhân
tố này có thể biểu hiện dưới các dạng khác nhau (Biểu 1) và được cung cấp bởi
các bên liên quan như: Chủ rừng (Nhà nước hoặc tổ chức, cá nhân), cơ quan
quản lý lâm nghiệp Nhà nước, cộng đồng thôn bản và các tổ chức hỗ trợ trong
và ngoài nước. Cộng đồng thôn bản đề cập ở đây bao gồm những nhóm sở
thích, nhóm hộ gia đinh, và các tổ chức xã hội cùng chia sẻ và bảo vệ các
nguồn lợi của rừng mà liên quan chặt chẽ tới mỗi người dân của cộng đồng
trong một khu vực địa lý nhất định.
3
Biểu 1. Các dạng khác nhau của các nhân tố đầu vào cơ bản
Các nhân tố đầu vào
Các dạng khác nhau
Đất lâm nghiệp 1. Quản lý, sử dụng của cá nhân, hộ gia đình
2. Quản lý, sử dụng của cộng đồng
3. Quản lý, sử dụng của Nhà nước
4. Thuê - mướn của cá nhân hoặc nhóm cộng đồng
Lao động
(Nguồn nhân lực)
1. Tự đầu tư - Tự nguyện - Thuê mướn
2. Có kỹ năng hoặc không có kỹ năng
3. Thời vụ hoặc thường xuyên
Vốn
(Nguồn lực tài chính)
1. Tiền
o Cá nhân – hộ gia đình
o Cộng đồng thôn bản
o Vay (chương trình tín dụng)
o Trợ cấp - hỗ trợ từ các tổ chức ngoài cồng
đồng
o Nguồn vốn của Nhà nước
4
2. Hàng hóa (Lương thực, nguyên vật liệu, v.v )
o Cá nhân – hộ gia đình
o Cộng đồng thôn bản
o Nhà nước hỗ trợ vốn bẳng hiện vật
Kiến thức kỹ thuật 1. Kiến thức bản địa
2. Kiến thức của các nhà chuyên môn
Tổ chức 1. Nhà nước
2. Chính quyền địa phương
3. Nhóm sở thích hoặc hộ gia dình
4. Các tổ chức xã hội trong cộng đồng thôn, bản
5. Các tổ chức hỗ trợ - tư vấn.
* Nguồn: Dựa trên sự phân loại của Wiersum, 1984.
Trên cở sở phân loại rừng và đất rừng theo 3 loại: Rừng sản xuất, rừng
đặc dụng, và rừng phòng hộ cùng với các chính sách về giao đất - khoán rừng
(nghị định 01/CP và Nghị định 163/CP), những nhân tố đầu vào cơ bản nêu
trên có thể hình thành nên những mô hình lâm nghiệp có sự tham gia của người
dân trong cộng đồng thôn bản. Trong điều kiện hiện tại của Việt Nam những
mô hình này có thể được mô tả như sau:
5
1. Mô hình lâm nghiệp có sự tham gia trên rừng và đất rừng của Nhà
nước
Đây là mô hình có thể được áp dụng cho rừng đặc dụng và rừng phòng hộ.
Người dân trong thôn bản cung cấp lao động và vốn ứng trước (nếu có) và nhận được
lợi ích từ việc cung cấp lao động của họ cho dự án. Chủ rừng Nhà nước cung cấp
đất lâm nghiệp, vốn, kiến thức chuyên môn và tổ chức, thực hiện dự án lâm
nghiệp có sự tham gia.
2. Mô hình lâm nghiệp có sự tham gia với sự hỗ trợ dịch vụ lâm nghiệp (khuyến
lâm)
Trong mô hình này, người dân trong thôn bản cung cấp phần lớn các
nhân tố cơ bản đầu vào, bao gồm: Kiến thức của người dân địa phương, vốn,
Chủ rừng Nhà
nước
Lao động, Vốn ứng trước
Dự án lâm nghiệp có
sự tham gia
Đất lâm nghiệp
Vốn
Kiến thức chuyên môn
Tổ chức thực hiện
Thôn bản
Thôn bản
Đất lâm nghiệp
Lao động
Vốn
Tổ chức thực hiện
Kiến thức bản địa
Cơ quan quản lý Nhà
nước về lâm nghiệp
Kiến thức chuyên môn
Dự án lâm nghiệp
có sự tham gia
6
lao động và đất lâm nghiệp được giao. Cơ quan quản lý Nhà nước về lâm
nghiệp với chức năng quản lý các hoạt động dịch vụ lâm nghiệp sẽ cung cấp
những kiến thức chuyên môn thông qua các hoạt động khuyến lâm, cung cấp
cây giống, thông tin thị trường, v.v Người dân thôn bản chủ động trong việc
tổ chức thực hiện dự án. Mô hình này có tính khả thi cao đối với đất lâm nghiệp
được giao cho các hộ gia đình, cá nhân trong thôn bản.
3. Lâm nghiệp có sự tham gia của cộng đồng gắn với chương trình hỗ trợ tín
dụng
Đối với các dự án lâm nghiệp có sự tham có sự hỗ trợ của các nguồn
vốn tín dụng, ngoài nguồn vốn tự có, các nhóm sở thích, nhóm hộ gia đình và
các tổ chức xã hội có thể vay trực tiếp từ các tổ chức tín dụng để hỗ trợ đầu tư
thêm cho dự án.
4. Mô hình lâm nghiệp có sự tham gia với sự hỗ trợ của các tổ chức tư vấn
Cơ quan quản lý Nhà
nước về lâm nghiệp
Dự án lâm nghiệp có
sự tham gia
Thôn bản
Đất lâm nghiệp
Lao động
Vốn
Tổ chức thực hiện
Kiến thức bản địa
Kiến thức chuyên môn
Tổ chức tín dụng
7
Một cơ chế “hai chủ” hoặc mô hình hợp tác hai bên, một bên là các chủ
rừng Nhà nước, các tổ chức và cá nhân, một bên là cộng đồng thôn bản cùng
với sự hỗ trợ của các cơ quan tư vấn về khoa học công nghệ, cơ chế chính sách,
và giám sát - đánh giá dự án, kiến thức chuyên môn, kiến thức bản địa và lao
động là những nhân tố đầu vào để phân định vai trò chính của mỗi bên trong dự
án. Trong khi đó, vốn và đất lâm nghiệp là những nhân tố thuộc cả hai bên để
có thể đóng góp vào dự án. Đối với các chủ rừng Nhà nước, nếu không đóng
góp đất lâm nghiệp cho dự án thì vai trò của nó được xem như là nhân tố thúc
đẩy cho sự phát triển lâm nghiệp có sự tham gia. Thông qua cơ chế hợp đồng
cả hai bên cùng phối hợp tổ chức thực hiện dự án lâm nghiệp có sự tham gia
của người dân trong thôn bản. Mô hình này có thể được áp dụng cho cả 3 loại
rừng phòng hộ, đặc dụng và sản xuất.
5. Mô hình phát triển tổ chức
Chủ rừng (Nhà nước
hoặc tổ chức, cá nhân)
Thôn bản
Hợp đồng
Tổ chức tư vấn
Phối hợp tổ
chức thực hiện
Dự án lâm nghiệp
có sự tham gia
Kiến thức chuyên môn Lao động
Kiến thức bản
địa
8
(Tham khảo từ một số mô hình phát triển lâm nghiệp có sự tham gia của Palin,
1980)
Tương tự như mô hình lâm nghiệp có sự tham gia với sự hỗ trợ của các
tổ chức tư vấn, kiến thức chuyên môn, kiến thức bản địa, lao động, vốn và đất
đai là những nhân tố đầu vào mà cả hai bên có thể đóng góp cùng phối hợp tổ
chức thực hiện dự án. Nhưng điều quan trọng là vai trò quản lý Nhà nước của
các cơ quan lâm nghiệp được đề cập trong mô hình như bên thứ ba, tạo nên mô
hình phát triển tổ chức với cơ chế "ba bên" hay "ba chủ" trong suốt quá trình
thực hiện dự án. Với chức năng quản lý Nhà nước, các cơ quan lâm nghiệp tiến
hành việc giám sát - đánh giá thực hiện quy hoạch, cung cấp kiến thức chuyên
môn thông qua những hoạt động khuyến lâm. Mô hình này có tính khả thi cao
cho cả 3 loại rừng và vai trò quản lý Nhà nước của các cơ quan lâm nghiệp
được đặc biệt quan tâm trong việc tạo ra những vùng nguyên liệu trên đất rừng
sản xuất và những giá trị về môi trường, đa dạng sinh học, bảo vệ nguồn nước
trên đất rừng đặc dụng và phòng hộ trên cơ sở giám sát - đánh giá quy hoạch
sản xuất lâm nghiệp đã vạch ra.
Chủ rừng (Nhà nước hoặc
tổ chức, cá nhân)
Thôn bản
Cơ quan quản lý Nhà
nước về lâm nghiệp
Giám sát thực hiện quy hoạch
(Kiến thức chuyên môn)
Kiến thức chuyên môn
Lao động
Kiến thức bản địa
Hợp đồng
Dự án lâm nghiệp có
sự tham gia
Phối hợp tổ
chức thực hiện
9
Những mô hình trên thể hiện những dạng khác nhau của mỗi nhân tố
đầu vào mà các bên tham gia là các cơ quan quản lý Nhà nước về lâm nghiệp,
chủ rừng (Nhà nước, tổ chức, cá nhân) và cộng đồng có khả năng đóng góp
trong một dự án lâm nghiệp có sự tham gia. Tùy thuộc vào quan hệ sản xuất
đối với từng loại rừng và đất rừng, những mô hình này tạo ra những cơ chế tổ
chức thực hiện khác nhau, làm rõ thêm vai trò của cơ quan quản lý Nhà nước
về lâm nghiệp, tổ chức tư vấn, các nhà tài trợ và đặc biệt đối với các nhà
chuyên môn lâm nghiệp trong việc tổ chức, hỗ trợ sự phát triển lâm nghiệp có
sự tham gia của cộng đồng.
Tài liệu tham khảo
Arnold, j. e. m, 1992. Community Forestry: Ten Years in Review. Food and
Agriculture Organization of the United Nations. Rome.
Cao Lam Anh, 2002. Đánh giá tình hình quản lý rừng cộng đồng (cấp thôn bản)
của một số dân tộc ở vùng núi bắc bộ và đề xuất khuyến nghị xây dựng chính
sách quản lý rừng cộng đồng. Báo cáo tổng kết, Phòng Nghiên cứu Kinh tế
Lâm nghiệp, Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam.
Wiersum , K. F, Developing Strategies for Social Forestry: A Conceptual
Approach. As published by Teaching - Learning Guide and Complilation of
Reading in Social Forestry. UPLB. College. Laguna. 1999.
Summary
Finding out suitable measures for sustainable forest management is the concern
of many people. This paper describes some models with different forms of each
input factor that the participants-state forest management boards, forest owners
and local communities can make their own contribution in a participatory forest
10
project. Depending on production relation concerning a given forest type and
forest land, these models create different organizational mechanisms for project
implementation making clear the role of state Forest Management Boards,
consultancy organizations, funding personnel and especially the foresters in
organizing and supporting the participatory forest development.