Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

Đề kt tự luận phát triển kinh tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (206.74 KB, 14 trang )

Đề KT số 3: Anh (chị) phân tích lý thuyết tăng trưởng. Anh (chị) dựa trên sự hiểu
biết về lý thuyết tăng trưởng, hãy phân tích và đánh giá quá trình tăng trưởng kinh
tế của Việt Nam sau 30 năm mở cửa và hội nhập kinh tế
Bài làm tự luận
1. Phân tích về lý thuyết tăng trưởng:
 Tăng trưởng kinh tế là gì?
Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng của tổng sản phẩm quốc nội (GDP) hoặc tổng
sản lượng quốc dân (GNP) hoặc quy mô sản lượng quốc gia tính bình qn trên
đầu người (PCI) trong một thời gian nhất định.
Sự tăng trưởng kinh tế phụ thuộc vào 2 q trình: sự tích lũy tài sản (như vốn, lao
động và đất đai) và đầu tư những tài sản này có năng suất hơn. Tiết kiệm và đầu tư
là trọng tâm, nhưng đầu tư phải hiệu quả thì mới đẩy mạnh tăng trưởng. Chính
sách chính phủ, thể chế, sự ổn định chính trị và kinh tế, đặc điểm địa lý, nguồn tài
nguyên thiên nhiên, và trình độ y tế và giáo dục, tất cả đều đóng vai trị nhất định
ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế.
 Khái quát về tăng trưởng
Quy mô của một nền kinh tế thể hiện bằng tổng sản phẩm quốc nội (GDP) hoặc
tổng sản phẩm quốc dân (GNP), hoặc tổng sản phẩm bình quân đầu người hoặc
thu nhập bình quân đầu người (Per Capita Income, PCI).
Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng của GDP hoặc GNP hoặc thu nhập bình quân
đầu người trong một thời gian nhất định. Tăng trưởng kinh tế thể hiện sự thay
đổi về lượng của nền kinh tế. Tuy vậy ở một số quốc gia, mức độ bất bình đẳng
kinh tế tương đối cao nên mặc dù thu nhập bình quân đầu người cao nhưng
nhiều người dân vẫn sống trong tình trạng nghèo khổ.
 Các lý thuyết tăng trưởng kinh tế
- Lý thuyết cổ điển:
Lý thuyết cổ điển về tăng trưởng kinh tế bao gồm các nhà kinh tế tiêu biểu: Adam
Smith, R.Malthus, David Ricardo
- Adam Smith cho rằng tích lũy vốn và cả tiến bộ công nghệ cùng các nhân tố xã
hội, thể chế đều đóng một vai trị quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế của
một nước. Tăng sản lượng thông qua việc tăng số lượng đầu vào tương ứng – gia


tăng tư bản theo chiều rộng. Tuy nhiên vì đất đai là có hạn nên đến một lúc nào đó
sản lượng đầu ra sẽ tăng chậm dần


- R.Malthus: Dân số tăng theo cấp số nhân, còn lương thực tăng theo cấp số cộng
(do sự hữu hạn của đất đai). Muốn duy trì tăng sản lượng thì phải giảm mức tăng
dân số.
- Theo Ricardo: tăng trưởng là kết quả của tích lũy, tích lũy là hàm của lợi nhuận,
lợi nhuận phụ thuộc vào chi phí sản xuất lương thực, chi phí này lại phụ thuộc vào
đất đai. Do đó đất đai là giới hạn đối với sự tăng trưởng
Tóm lại các nhà kinh tế cổ điển như Adam Smith, R.Malthus và David Ricardo
nhấn mạnh đến vai trò quan trọng của nguồn lực tự nhiên (như đất đai) trong tăng
trưởng kinh tế.
- Lý thuyết của Các Mác:
Theo C. Mác, tăng trưởng kinh tế được thực hiện bằng hai con đường:
+Tăng thêm tư liệu sản xuất và sức lao động trong các ngành sản xuất vật chất. Đó
là tăng trưởng kinh tế dựa vào mở rộng quy mô sử dụng các nguồn lực, hay còn gọi
là tăng trưởng kinh tế theo chiều rộng.
+Tăng năng suất lao động trong các ngành sản xuất vật chất bằng cách ứng dụng
thành tựu khoa học - công nghệ. Đây là tăng trưởng kinh tế dựa vào nâng cao hiệu
quả sử dụng các nguồn lực, hay còn gọi là tăng trưởng kinh tế theo chiều sâu.
Như vậy, tăng trưởng kinh tế không chỉ là sự gia tăng sản lượng đầu ra, mà còn là
sự gia tăng quy mô và hiệu quả của các yếu tố đầu vào.
- Lý thuyết cổ điển mới:
Trường phái “Cổ điển mới” dựa vào yếu tố tâm lý chủ quan để giải thích các hiện
tượng và q trình kinh tế. Từ đó có thể thấy rằng, theo họ, tăng trưởng kinh tế phụ
thuộc vào nhu cầu, tâm lý của người tiêu dung
Trường phái “Cổ điển mới” đi sâu phân tích những vấn đề tác động đến tăng
trưởng kinh tế như: quan hệ cung cầu, giá cả... và những vấn đề mới như: cạnh
tranh và độc quyền, khủng hoảng, thất nghiệp, phúc lợi kinh tế..

- Lý thuyết trường phái Keynes:
- Mô hình Harrod-Domar
+ Khi cuộc Đại khủng hoảng kinh tế xảy ra (1929-1933) lý thuyết cổ điển tỏ ra bất
lực trong việc giải thích những hiện tượng kinh tế lúc bấy giờ như mức sản lượng
thấp và tỷ lệ thất nghiệp cao kéo dài.
+ Bên cạnh đó các thành tựu về khoa học kỹ thuật như máy kéo, phân bón thuốc
trừ sâu, kỹ thuật thâm canh, giống cây mới…. giúp cho sản lượng nông nghiệp


tăng lên nhanh chóng nên với lượng đất đai “có hạn” lương thực thực phẩm vẫn đủ
cung cấp cho mọi người
+ Tác phẩm Lí thuyết tổng quát về việc làm , lãi suất và tiền tệ (The General
Theory of Employment, Interest and Money) của John Maynard Keynes (1883 –
1946) được xuất bản vào năm 1936 đã nhấn mạnh các nền kinh tế hiện đại cần các
chính sách chính phủ chủ động để quản lí và duy trì tăng trưởng kinh tế. Điều này
đi ngược lại quan điểm của trường phái cổ điển về tăng trưởng kinh tế tự do không
cần sự can thiệp của nhà nước.
-Kết luận rút ra từ mơ hình Harrod-Domar
+ Tốc độ tăng trưởng kinh tế tỷ lệ thuận với tỷ lệ tiết kiệm và tỷ lệ nghịch với (K)
+ Vì (K) cố định trong một thời kỳ, để điều chỉnh chúng ta chỉ cần điều chỉnh (g)
+ Sự đánh đổi giữa tiêu dùng hiện tại và tiêu dùng trong tương lai
-Nhược điểm của mơ hình: Q đơn giản hóa mối quan hệ giữa tích lũy tư bản (K)
và tăng trưởng kinh tế (g) bỏ qua các yếu tố quan trọng như khấu hao, tiến bộ công
nghệ.
Như vậy lý thuyết trường phái Keynes nhấn mạnh đến vai trò của tư bản/vốn (K)
đối với tăng trưởng kinh tế
- Lý thuyết tăng trưởng tuyến tính:
Đây là mơ hình xuất hiện sau chiến tranh thế giới Thứ hai. Trên cơ sở nghiên cứu
quá trình tăng trưởng kinh tế mà các nước phát triển đã trải qua, nhà kinh tế học
người Mỹ W. W. Rostow đã khái quát thành các giai đoạn tăng trưởng mà các

nước đang phát triển nhất định sẽ phải trải qua. Theo Ơng, q trình tăng trưởng
kinh tế của các quốc gia sẽ lần lượt trải qua các giai đoạn:
+ Giai đoạn xã hội truyền thống: nông nghiệp là ngành kinh tế chủ yếu; năng suất
lao động thấp, mức thu nhập, mức sống của dân cư rất thấp.
+Giai đoạn chuẩn bị cất cánh: Hai đặc trưng và cũng là hai nhiệm vụ quan trọng
mà các quốc gia phải thực hiện trong giai đoạn này là: thương mại hoá sản xuất và
lựa chọn các ngành kinh tế mũi nhọn.
+Giai đoạn cất cánh: Đây là giai đoạn tăng trưởng kinh tế nhanh, mức thu nhập,
mức sống của dân cư tăng nhanh. Giai đoạn này có những đặc trưng kinh tế quan
trọng: tỷ lệ đầu tư phải lớn hơn 10% GDP; các ngành kinh tế mũi nhọn có tốc độ
tăng trưởng cao, trở thành “đầu tầu” kéo các ngành kinh tế khác tăng trưởng; hệ
thống các định chế (hệ thống ngân hàng, các thể chế, chính sách ...) được xây
dựng, hồn thiện hỗ trợ đắc lực cho q trình tăng trưởng kinh tế.


+ Giai đoạn chín muồi về kinh tế: Đây là giai đoạn hoàn thành việc xây dựng cơ sở
vật chất - kỹ thuật của xã hội; quốc gia nông nghiệp đã trở thành quốc gia công
nghiệp; đời sống vật chất và tinh thần của dân cư khá cao; các mặt của đời sống
kinh tế - xã hội được phát triển... Xã hội nông nghiệp chuyển thành xã hội công
nghiệp.
+ Giai đoạn xã hội tiêu dùng: Giai đoạn này được đặc trưng bởi mức sống, mức
tiêu dùng rất cao.
Mơ hình này có nhiều điểm hợp lý và việc nghiên cứu nó là bổ ích đối với nhiều
quốc gia đang phát triển. Tuy nhiên, mơ hình này đã khơng chú ý thích đáng đến
mặt xã hội của quá trình tăng trưởng.
- Lý thuyết hai khu vực:
+ Mơ hình được xây dựng xuất phát từ thực tế nền sản xuất có hai ngành kinh tế
chủ yếu: nơng nghiệp và cơng nghiệp. Mơ hình hàm ý: nền kinh tế có thể tăng
trưởng, phát triển bằng cách thay đổi cơ cấu giữa hai khu vực.
+Mô hình hai khu vực do D. Ricardo khởi xướng. Ơng cho rằng giới hạn của tăng

trưởng kinh tế là đất đai. Do diện tích đất đai có hạn và độ màu mỡ đất đai giảm
dần sản lượng lương thực sẽ tăng chậm dần và đạt ngưỡng tối đa. Thậm chí nếu
tiếp tục đầu tư lao động, sản lượng lương thực có thể giảm xuống
Như vậy, nền kinh tế có thể tăng trưởng bằng cách tập trung đầu tư cho công
nghiệp. Vốn lấy từ lợi nhuận công nghiệp, lao động lấy từ nơng nghiệp.
Nhược điểm:
+ Trước hết, theo mơ hình thì tỷ lệ chuyển lao động từ nông nghiệp sang công
nghiệp sẽ tương ứng với tỷ lệ việc làm tạo ra được trong cơng nghiệp và tích luỹ
vốn ở đó. Nếu các nhà tư bản công nghiệp dùng công nghệ cần nhiều vốn, ít lao
động thì ý nghĩa tạo việc làm của cơng nghiệp sẽ khơng cịn nữa.
+Thứ hai, giả định tồn bộ lợi nhuận cơng nghiệp được tái đầu tư là khá xa thực tế.
Trên thực tế, do đầu tư nhỏ hơn lợi nhuận nên mức tăng trưởng sẽ nhỏ hơn so với
mơ hình.
+Thứ ba, mơ hình giả thiết khu vực nơng nghiệp có lao động dư thừa cịn khu vực
cơng nghiệp có đầy đủ việc làm. Trên thực tế, điều này khơng đúng.
+Thứ tư, mơ hình giả định mức tiền lương trong cơng nghiệp cố định. Điều đó chỉ
đúng khi cịn lao động dư thừa trong nơng nghiệp. Khi lao động dư thừa trong
nơng nghiệp khơng cịn nữa, muốn thu hút lao động từ nơng nghiệp thì tiền lương


trong cơng nghiệp phải tăng lên. Lúc đó, lợi nhuận và đầu tư trong công nghiệp sẽ
giảm, nền kinh tế sẽ tăng trưởng chậm hơn.
- Lý thuyết hiện đại
Lý thuyết tân cổ điển cho biết để có tăng trưởng trong dài hạn thì phải có tiến bộ
cơng nghệ nhưng lại không chỉ ra các yếu tố quyết định tiến bộ công nghệ (coi đây
là yếu tố ngoại sinh); các lý thuyết tăng trưởng kinh tế sau này cố gắng đưa tiến bộ
cơng nghệ vào trong mơ hình (yếu tố nội sinh) để xem điều gì quyết định tiến bộ
cơng nghệ.
Paul Romer một nhà kinh tế học người Mỹ đã đưa ra lý thuyết tăng trưởng kinh tế
trong đó tiến bộ công nghệ được quyết định bởi vốn tri thức mà vốn tri thức lại phụ

thuộc vào hoạt động đầu tư cho lĩnh vực R&D của nền kinh tế.
Ông chỉ ra vốn tri thức là một loại vốn đặc biệt. Xét trên giác độ vi mơ thì nó có lợi
tức giảm dần (giống các loại hình vốn vật chất khác) nhưng xét trên giác độ vĩ mơ
thì nó có lợi tức tăng dần theo quy mơ
Vì các hãng khơng sẵn lịng đầu tư lắm cho hoạt động R&D nên chính phủ cần
phải thực hiện các chính sách nhằm thúc đẩy hoạt động này
+ Bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ
+ Trợ cấp cho hoạt động R&D
+ Trợ cấp cho giáo dục: (giáo dục là quốc sách hàng đầu)
2. Phân tích và đánh giá quá trình tăng trưởng kinh tế của Việt Nam sau
30 năm mở cửa và hội nhập kinh tế
 Bối cảnh kinh tế xã hội trước đổi mới (Đại hội VI năm 1986)
Giai đoạn này, tồn cầu hố kinh tế trở thành xu thế nổi bật và tất yếu chi phối thời
đại; là yếu tố quan trọng đối với sự phát triển kinh tế của các nước. Cùng với đó,
cuộc cách mạng khoa học cơng nghệ mới lần thứ 3 diễn ra với nhịp độ ngày càng
mạnh mẽ, mà cốt lõi là dựa trên việc ứng dụng các phát minh khoa học công nghệ,
phát triển các ngành công nghệ cao, như công nghệ truyền thông và tin học, công
nghệ vật liệu mới, công nghệ sinh học… đã làm thay đổi mọi mặt đời sống kinh tế
- chính trị và xã hội nhân loại.
Bối cảnh kinh tế thế giới thay đổi đã tác động và làm thay đổi các quan hệ kinh tế,
quản lý kinh tế. Làn sóng cải cách kinh tế rộng khắp theo hướng: (i) các nước tư
bản phát triển điều chỉnh chỉnh cơ cấu kinh tế theo hướng tập trung vào các ngành
có hàm lượng KHCN cao, thực hiện điều tiết kinh tế chủ yếu thông qua các cơng
cụ vĩ mơ, thực hiện tư nhân hóa khu vực kinh tế nhà nước, tăng cường vai trò kinh
tế tư nhân; (ii) các nước đang phát triển (Đông Á và Đông Nam Á) cải cách cơ cấu
theo hướng nâng cao sức cạnh tranh và phát triển mở cửa hội nhập, phát triển liên


kết kinh tế, khuyến khích xuất khẩu và thu hút vốn đầu tư nước ngoài, coi đây là
động lực cho phát triển kinh tế; (iii) các nước xã hội chủ nghĩa cũ trước các khó

khăn chồng chất cũng tiến hành cải cách kinh tế nhằm khắc phục cơ chế kế hoạch
hóa tập trung, chuyển sang cơ chế thị trường (Trung Quốc năm 1978).
Ở trong nước, sau khi thống nhất đất nước đến trước năm 1986, cơ chế kinh tế kế
hoạch hố tập trung quan liêu bao cấp và mơ hình cơng nghiệp hố xã hội chủ
nghĩa kiểu Xơ viết đã được áp dụng rộng rãi trên cả nước. Việc áp dụng quá lâu và
cứng nhắc, máy móc cơ chế này trong khi bối cảnh kinh tế trong và ngoài nước đã
có nhiều thay đổi làm cho tình hình kinh tế trong nước trở nên khó khăn. Nguồn
viện trợ của bên ngồi, các nguồn vốn và hàng hố vật tư, ngun liệu và hàng hoá
tiêu dùng đã bị cắt giảm đáng kể, lại thêm bao vây cấm vận của Hoa Kỳ ngăn cản
Việt Nam bình thường hố quan hệ với thế giới.
Trước bối cảnh đó, nhiều địa phương đã tiến hành tìm lối thốt và đổi mới kinh tế,
những cải tiến quản lý thử nghiệm được tiến hành từ những năm 1981 với khốn
trong nơng nghiệp, điều chỉnh kế hoạch và mở rộng quyền tự chủ cho xí nghiệp
cơng nghiệp quốc dân… song vẫn chưa thể thay đổi thực trạng của nền kinh tế
khủng hoảng vẫn rất trầm trọng, lạm phát có thời điểm lên đến 700%.
Trước thực trạng kinh tế như vậy, yêu cầu đổi mới toàn diện nền kinh tế trở thành
yêu cầu cấp bách ở nước ta và cơng cuộc đổi mới đất nước được chính thức tiến
hành từ Đại hội VI (năm 1986), ghi lại dấu ấn về vai trị đặc biệt của Cố Tổng Bí
thư Trường Chinh. Với nhận định về thực trạng nền kinh tế lúc bấy giờ “địi hỏi
phải có một cơ chế quản lý năng động có khả năng bãi bỏ tập trung quan liêu, bảo
thủ, trì trệ và bao cấp tràn lan” và Đảng phải “kiên quyết đấu tranh không khoan
nhượng để từng bước cùng với tập thể Bộ Chính trị và Ban Chấp hành T.Ư khóa V
xác lập nên mơ hình mới, cơ chế mới, đặt nền tảng lý luận cho đường lối đổi mới
toàn diện tại Đại hội Đảng VI”, cố Tổng Bí thư Trường Chinh đã đặt nền móng
cho các quan điểm, chủ trương cũng như đường lối chính sách để cải cách tồn
diện đất nước trong đó có lĩnh vực Hội nhập kinh tế quốc tế. Nội dung văn kiện
Đại hội Đảng VI dựa trên quan điểm đổi mới của Đ/c Trường Chinh “chuyển đổi
cơ cấu kinh tế và cơ cấu đầu tư (trong đó ưu tiên tập trung làm hàng xuất khẩu,
hàng tiêu dùng thay vì hàng cơng nghiệp; bỏ, hỗn các dự án lớn nhưng khơng
hiệu quả…” đã mở ra một trang mới cho Hội nhập kinh tế quốc tế của đất nước ta.

 Quan điểm của Đảng về Hội nhập kinh tế quốc tế
Cùng với sự chuyển biến của bối cảnh trong và ngoài nước, quan điểm và nhận
thức của Đảng về Hội nhập kinh tế quốc tế cũng có những thay đổi, làm kim chỉ
nam cho các chính sách đối nội và đối ngoại của đất nước trong từng thời kỳ. Nếu
như tại Đại hội V (1982), Đảng chỉ xác định “Ưu tiên mở rộng sự hợp tác toàn diện
giữa nước ta với Liên Xô và các nước trong Hội đồng tương trợ kinh tế” thì đến
Đại hội Đảng VI (1986) Đảng đã xác định quan hệ kinh tế quốc tế giai đoạn này
không chỉ tập trung vào Liên xô và các nước trong cùng hệ thống xã hội chủ nghĩa


mà phải mở rộng quan hệ với các nước thứ ba, các nước công nghiệp phát triển,
các tổ chức quốc tế và tư nhân nước ngồi trên ngun tắc bình đẳng, cùng có lợi .
Đây là quan điểm mở đường cho việc “đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ với
các quốc gia, các tổ chức kinh tế” của Việt nam giai đoạn sau này (Đại hội VII
năm 1991). Tuy nhiên, thuật ngữ “hội nhập” chỉ được chính thức được đề cập tại
Đại hội VIII (năm 1996) khi Đảng xác định nhiệm vụ, giải pháp cho giai đoạn mới
phải “đổi mới cơ chế kinh tế đối ngoại, hội nhập với khu vực và thế giới”.Tại Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng (năm 1996), lần đầu tiên Nghị quyết
của Đảng đã xác định việc đẩy nhanh quá trình Hội nhập kinh tế quốc tế (hội nhập
KTQT) nhằm phục vụ sự nghiệp phát triển của đất nước. Nghị quyết nhấn mạnh
“xây dựng một nền kinh tế mới hội nhập với khu vực và thế giới hướng mạnh về
xuất khẩu”, "Trên cơ sở phát huy nội lực, thực hiện nhất quán, lâu dài chính sách
thu hút các nguồn lực bên ngồi", "tích cực và chủ động thâm nhập và mở rộng thị
trường quốc tế".
Giai đoạn sau này (Đại hội IX, X, XI, XII), Đảng đã nhấn mạnh tới việc chủ động,
tích cực Hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực,
nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế song vẫn phải đảm bảo độc lập tự chủ. Khác với
giai đoạn trước, đẩy mạnh hợp tác với các nước trên thế giới và khu vực của giai
đoạn này không chỉ trong lĩnh vực kinh tế mà còn ở các lĩnh vực khác, thể hiện
tinh thần hội nhập toàn diện với khu vực và thế giới.

Nhằm thực hiện các quan điểm đó, nhiều văn bản đã được ban hành. Cụ thể: Ngày
27-11-2001, Bộ Chính trị khóa IX đã ban hành Nghị quyết số 07-NQ/TW “Về hội
nhập kinh tế quốc tế”; ngày 05-02-2007, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X
đã ban hành Nghị quyết số 08-NQ/TW “Về một số chủ trương, chính sách lớn để
nền kinh tế phát triển nhanh và bền vững khi Việt Nam là thành viên của Tổ chức
Thương mại thế giới”; Ngày 10-4-2013, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số
22-NQ/TW về hội nhập quốc tế; Ngày 7 tháng 1 năm 2016, Thủ tướng Chính phủ
đã ban hành Quyết định số 40/QĐ-TTg phê duyệt Chiến lược tổng thể hội nhập
quốc tế đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 của Việt Nam; Nghị quyết số 06NQ/TW Hội nghị Trung ương 4 khóa XII ngày 5/11/2016…
Đây là các văn kiện quan trọng, có ý nghĩa chiến lược, làm rõ và thống nhất nhận
thức trong toàn Đảng, toàn dân về hội nhập quốc tế trong tình hình mới. Xem xét
quan điểm về hội nhập quốc tế của Đảng suốt 30 năm qua, có một số điểm đáng
chú ý như sau: (i) Hội nhập kinh tế quốc tế do yêu cầu xuất phát từ nội tại nền kinh
tế nhằm xây dựng và phát triển đất nước. Do vậy Hội nhập kinh tế quốc tế là nhiệm
vụ của cả hệ thống chính trị; (ii) Hội nhập kinh tế quốc tế nhằm tranh thủ nguồn
lực bên ngoài cho phát triển đất nước nhưng phải gắn liền với việc giữ vững độc
lập dân tộc và chủ quyền đất nước; khẳng định mở cửa, hội nhập để khai thác các
mặt có lợi cho sự phát triển kinh tế của ta từ nền kinh tế thế giới.
 Thành tựu 30 năm đổi mới trong lĩnh vực Hội nhập kinh tế quốc tế


Các đường lối, chủ trương hội nhập kinh tế của Đảng đã được đề ra nhất qn,
khơng ngừng được hồn thiện và triển khai tích cực, phù hợp với tình hình cụ thể
của từng giai đoạn, phục vụ đắc lực cho sự nghiệp Đổi mới, phát triển đất nước.
Với phương châm “đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ đối ngoại. Việt Nam sẵn
sàng là bạn của tất cả các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hịa bình,
độc lập và phát triển”. Việt Nam ln thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc
lập tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; chính sách đối ngoại rộng mở, đa
phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế, đồng thời mở rộng hợp tác trên
nhiều lĩnh vực. Việt Nam là bạn, đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng

quốc tế, tham gia tích cực vào tiến trình hợp tác quốc tế và khu vực. Trong đó:
Về quan hệ hợp tác song phương. Với đường lối đổi mới, nước ta đã mở rộng và
củng cố quan hệ đối ngoại, vượt qua những khó khăn về thị trường do những biến
động Liên xô cũ và Đông Âu gây ra, tạo dựng môi trường quốc tế thuận lợi cho
công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc, nâng cao vị thế đất nước trên trường quốc
tế. Tính đến nay, Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với khoảng 180 quốc
gia trên thế giới, mở rộng quan hệ thương mại, xuất khẩu hàng hóa tới trên 230 thị
trường của các nước và vùng lãnh thổ, ký kết gần 100 Hiệp định thương mại song
phương, trên 60 Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư, khoảng 70 Hiệp định
tránh đánh thuế hai lần và nhiều Hiệp định hợp tác về văn hóa song phương với các
nước và các tổ chức quốc tế.
Về hợp tác đa phương và khu vực. Việt Nam đã có mối quan hệ tích cực với nhiều
tổ chức định chế tài chính quốc tế, cụ thể: ngày 15/9/1976, Việt Nam trở thành
thành viên chính thức của của Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), ngày 21/9/1976 Việt Nam
trở thành thành viên chính thức của Ngân hàng thế giới (WB), ngày 23/9/1976 Việt
Nam gia nhập vào Ngân hàng phát triển châu Á (ADB). Tháng 7/1995 Việt Nam
đã gia nhập vào Hiệp hội các quốc gia Đơng Nam Á (ASEAN) và chính thức tham
gia khu vực Thương mại tự do ASEAN (AFTA) từ 1/1/1996. Đây là sự kiện đánh
dấu bước đột phá của Việt Nam trong tiến trình Hội nhập kinh tế quốc tế. Tiếp đó,
năm 1996 Việt Nam tham gia sáng lập Diễn đàn hợp tác Á – Âu (ASEM) và đến
năm 1998, Việt Nam được công nhận là thành viên của Diễn đàn hợp tác kinh tế
Châu Á – Thái Bình Dương (APEC). Đặc biệt, ngày 11/1/2007 Việt Nam trở thành
thành viên của tổ chức thương mại thế giới (WTO). Tiến trình Hội nhập kinh tế
quốc tế của Việt Nam được nâng lên một tầm cao hơn thông qua việc tham gia ký
kết các hiệp định kinh tế đa phương và song phương. Thực hiện chủ trương, chính
sách lớn của Đảng về Hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam đã trở thành thành viên
của nhiều Hiệp định thương mại và cũng đang tham gia đàm phán một số hiệp định
thương mại quan trọng khác. Cụ thể: Tính hết năm 2016, Việt Nam đã ký kết và
thực thi 10 FTA, kết thúc đàm phán 2 FTA, và đang đang đàm phán 4 FTA khác.
Trong 10 FTA đã ký kết và thực thi có 6 FTA ký kết với tư cách là thành viên

ASEAN (gồm AFTA, 5 FTA giữa ASEAN với các đối tác Trung Quốc, Hàn Quốc,


Ấn Độ, Nhật Bản, Úc và New Zealand), 4 FTA ký kết với tư cách là một bên độc
lập (Chile, Nhật Bản, Hàn Quốc, Liên minh kinh tế Á-Âu). Hai FTA đã kết thúc
đàm phán là FTA với Liên minh châu Âu, và Hiệp định Đối tác chiến lược xuyên
Thái Bình Dương (TPP). Bốn FTA cịn lại đang được đàm phán bao gồm: Hiệp
định đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP), FTA ASEAN- Hồng Kông, FTA
với Israel và FTA với Khối thương mại tự do châu Âu (EFTA).
Từ quan điểm, chủ trương của Đảng, quá trình mở cửa, tích cực và chủ động hội
nhập kinh tế quốc tế đã mở ra không gian phát triển mới cho nền kinh tế Việt Nam.
Thể hiện trên những mặt chính sau:
Thứ nhất, tác động tới phát triển kinh tế. Hội nhập kinh tế quốc tế về cơ bản đã tác
động tích cực và dài hạn , góp phần thực hiện thành công các mục tiêu phát triển
kinh tế của đất nước trong thời gian qua: HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ đã thúc
đẩy tăng trưởng giá trị thương mại hai chiều giữa Việt Nam với các đối tác, tạo
điều kiện thuận lợi để thu hút vốn FDI, ODA cho phát triển kinh tế đất nước.
Trong đó:
Đối với hoạt động xuất, nhập khẩu: Kim ngạch xuất khẩu khơng ngừng được tăng
lên, đóng góp một phần quan trọng vào sự tăng trưởng GDP. Nếu năm 1986, tổng
kim ngạch xuất khẩu mới đạt 789 triệu USD, thì năm 2006 xuất khẩu đã đạt trên 39
tỷ USD và kể từ sau khi gia nhập WTO, kim ngạch xuất khẩu không ngừng tăng
lên, đạt trên 170 triệu USD năm 2016. Không chỉ xuất khẩu, kim ngạch nhập khẩu
cũng tăng lên tương ứng cho thấy mức độ mở cửa của nền kinh tế là tương đối lớn
với tỷ lệ tổng kim ngạch xuất nhập khẩu đã lên đến trên 150% GDP.
Hình 1: Diễn biến xuất nhập khẩu qua 30 năm đổi mới giai đoạn 1986-2016

Nguồn: Tổng cục Thống kê
Về cơ cấu, mặt hàng xuất khẩu ngày càng phong phú, đa dạng, có nhiều nhóm
hàng “chủ lực” đạt kim ngạch lớn. Nhiều mặt hàng xuất khẩu có khối lượng lớn,

kim ngạch đứng thứ hạng cao trên thế giới. Nếu như năm 1986 chúng ta chưa có
mặt hàng nào xuất khẩu trên 200 triệu USD thì hiện này đã có nhiều mặt hàng vượt


kim ngạch 1 tỷ USD, 5 tỷ USD. Cơ cấu mặt hàng đã có sự chuyển dịch theo hướng
tích cực: tỷ trọng hàng thô hoặc mới sơ chế giảm.
Đối với hoạt động thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI): Vốn FDI đã trở
thành một trong những động lực chính cho phát triển kinh tế của Việt Nam, đặc
biệt kể từ sau khi Việt nam gia nhập WTO. Nếu như những năm đầu của thời kỳ
mở cửa, vốn FDI vào Việt Nam khơng đáng kể thì kể từ sau năm 2007, lượng vốn
FDI không ngừng tăng lên. Số vốn đăng ký và cấp mới có năm (2007) cịn lên đến
trên 70 tỷ USD. Nếu xét về vốn thực hiện, xu hướng tăng lên cũng xuất hiện rõ rệt
kể từ năm 2007. Vốn FDI thực hiện đạt 15,8 tỷ USD, tương đương 23,4% tổng vốn
đầu tư toàn xã hội và tăng 9,4% so với cùng kỳ năm 2015.
Hình 2: Vốn FDI thực hiện trong giai đoạn 30 năm đổi mới 1986-2016
(đơn vị tính: triệu USD)

Nguồn: Tổng cục Thống kê
Thứ hai, tác động tới năng lực cạnh tranh quốc gia, doanh nghiệp và sản phẩm.
Thông qua những cam kết minh bạch, rõ ràng, HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
đã góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm huy động nguồn vốn và các nguồn lực
khoa học – công nghệ cho phát triển nền kinh tế. Bên cạnh đó, cũng thơng qua tính
minh bạch và hấp dẫn của mơi trường đầu tư, đơn giản hóa các thủ tục hành chính,
hài hịa hóa các quy trình,…HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ đã góp phần hỗ trợ
nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp và sản phẩm của Việt Nam tại các
thị trường trong và ngồi nước.
Thứ ba, thơng qua việc mở rộng quan hệ hợp tác với các quốc gia trong khu vực và
thế giới, Việt Nam đã tiếp thu được khoa học - công nghệ mới và cách quản lý tiên
tiến trên nhiều lĩnh vực: kinh tế, kỹ thuật, văn hóa - xã hội… góp phần tăng năng
suất lao động, nâng cao năng lực cạnh tranh trong hoạt động sản xuất, kinh

doanh… Bên cạnh đó, hội nhập quốc tế cũng đã góp phần đào tạo cho Việt Nam có
được đội ngũ nguồn nhân lực có trình độ và năng lực cả về chuyên môn lẫn quản
lý. Hội nhập kinh tế quốc tế cũng góp phần thúc đẩy cải cách hành chính, cải cách
thể chế kinh tế thị trường, góp phần nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc
tế.


Thứ tư, tác động tới việc xây dựng nền kinh tế thị trường đầy đủ. Thơng qua hồn
thiện mơi trường kinh doanh, HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ đã góp phần nâng
cao năng lực canh tranh quốc gia. Việc thực hiện các cam kết trong các khuôn khổ
hợp tác, đặc biệt là trong khuôn khổ Hiệp định thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ
(BTA) và việc gia nhập WTO đã giúp Việt Nam hoàn thiện được một hệ thống
pháp luật tương đối đầy đủ và đồng bộ với quy định của WTO, tạo ra mơi trường
kinh doanh ngày càng bình đẳng và thơng thống hơn. Ngồi ra, thơng qua q
trình đàm phán và ký kết các hiệp định thương mại tự do các đối tác đã cơng nhận
Việt Nam có nền kinh tế thị trường đầy đủ.
Thứ năm, tác động tới xã hội, văn hóa, mơi trường, chính trị, an ninh quốc phịng.
Trong q trình HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ, Việt Nam đã chú trọng thực
hiện các vấn đề an sinh xã hội, xóa đói giảm nghèo. Việt Nam đã mở rộng đối
tượng và tăng mức trợ cấp cho các đối tượng bảo trợ xã hội, hệ thống bảo hiểm xã
hội và bảo trợ xã hội cũng ngày càng được hồn thiện. thêm nữa, các chính sách
bảo vệ và phát huy những giá trị văn hóa của dân tộc cũng tăng cường thực hiện.
Các vấn đề về môi trường cũng được để ý và giải quyết. Ngoài ra, HỘI NHẬP
KINH TẾ QUỐC TẾ đã góp phần nâng cao các thiết chế dân chủ, xây dựng nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đi đôi với đổi mới và tăng cường sự lãnh đạo
của Đảng. Thông qua HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ, đặc biệt là thông qua việc
tham gia ASEAN và các Hiệp định thương mại tự do, Việt Nam đã mở rộng, tăng
cường, liên kết và hợp tác với các nước, điều này cũng tạo điều kiện thuận lợi
trong phát triển kinh tế - xã hội. Song song với đó, hoạt động an ninh quốc phịng
tiếp tục được đảm bảo, chính trị được giữ ổn định góp phần bảo vệ vững chắc tổ

quốc.
Sau gần 30 năm đổi mới, hội nhập kinh tế quốc tế đã tác động mạnh đến sự tăng
trưởng, phát triển kinh tế của Việt Nam. Nhờ tăng trưởng kinh tế cao và ổn định
mà quy mô của nền kinh tế được mở rộng nhiều lần, do đó thu nhập bình qn đầu
người cũng tăng lên đáng kể: Năm 2016, GDP đầu người đạt hơn 2.200 USD so
với 86 USD vào năm 1988.
 Những vấn đề đặt ra đối với Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế
quốc tế
Bên cạnh những kết quả đạt được, Việt Nam cũng cịn gặp khơng ít khó khăn, đặc
biệt là chưa tận dụng được hết những cơ hội mà quá trình hội nhập kinh tế quốc tế
đem đến mà ngược lại Hội nhập kinh tế quốc tế còn làm trầm trọng hơn những khó
khăn nội tại của nền kinh tế, cụ thể:
Thứ nhất, tiến trình Hội nhập kinh tế quốc tế càng nhanh, càng rộng thì áp lực cạnh
tranh đối với sản xuất trong nước càng lớn trong khi đó năng lực sản xuất trong
nước chậm cải thiện, đặc biệt là ở các ngành công nghiệp hỗ trợ nên nhập siêu đã
liên tục tăng lên (chủ yếu nhập các nguyên vật liệu đầu vào cho sản xuất). Trong
khi đó, sự chuẩn bị trong nước về cơ bản là chưa đầy đủ, chưa có sự nỗ lực chung


của cả cộng đồng để tận dụng cơ hội từ hội nhập. Do đó, cơ cấu kinh tế cịn chậm
chuyển dịch theo hướng hợp lý và hiệu quả. Tình trạng phát triển dàn trải, khơng
có trọng tâm của nền kinh tế trong điều kiện các nguồn lực hạn chế đang kìm hãm
khả năng tăng trưởng vượt bậc và bền vững. Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
vẫn ở mức thấp, khu vực tư nhân mặc dù đã phát triển song quy mơ cịn nhỏ và cịn
nhiều hạn chế về năng lực tài chính. Ngồi ra, các vấn đề về đất đai, lao động, vốn
và cơng nghệ cịn chưa phát triển đồng bộ … tất các những vấn đề này đều tác
động và ảnh hưởng lớn đến sự phát triển bền vững của Việt Nam trong tương lai.
Thứ hai, năng lực kiểm sốt và điều tiết các dịng vốn cịn yếu khiến cho hiệu quả
của FDI cũng như ODA chưa cao. Hội nhập KTQT đã mang lại cho Việt nam cơ
hội thu hút các dịng vốn nước ngồi cho phát triển kinh tế đất nước. Tuy nhiên,

thực tiễn cho thấy bên cạnh những tác động tích cực, chất lượng kiểm sốt và điều
tiết, quản lý các dòng vốn này chưa cao nên những vấn đề từ thu hút FDI (ô nhiễm
môi trường, chuyển giá, thất thu thuế, tác động lan tỏa từ khu vực kinh tế nhà nước
sang các khu vực khác kém…), hiệu quả sử dụng ODA, ổn định kinh tế vĩ mô…
đều là thách thức không nhỏ đối với Việt Nam trong quá trình Hội nhập kinh tế
quốc tế.
Thứ ba, các hoạt động Hội nhập kinh tế quốc tế và mở rộng quan hệ trong các lĩnh
vực khác chưa được triển khai đồng bộ, nhịp nhàng trong một chiến lược tổng thế.
Cơ chế chỉ đạo, điều hành, phối hợp thực hiện và giám sát quá trình hội nhập từ
Trung ương đến địa phương, giữa các ban, ngành còn nhiều bất cập. Chất lượng
nguồn nhân lực và kết cấu hạ tầng chậm được cải thiện. Năng lực đội ngũ cán bộ,
công chức, doanh nhân chưa đáp ứng được yêu cầu hội nhập.
Thứ tư, khả năng nhận định, đánh giá và dự báo trước tình hình diễn biến trên thực
tế để chủ động xử lý những vấn đề phát sinh trong q trình Hội nhập kinh tế quốc
tế cịn hạn chế.
 Một số giải pháp để chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế
Mặc dù hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn nhưng cục diện thế giới, khu vực
trong giai đoạn tiếp theo sẽ có nhiều chuyển biến nhanh và khó lường. Cục diện thế
giới đa cực, đa trung tâm sẽ ngày càng rõ nét và sẽ có những điều chỉnh theo các
tâm trục và lĩnh vực khác nhau, chủ nghĩa khu vực sẽ tăng lên. Các nước lớn vừa
hợp tác, vừa kiềm chế lẫn nhau, cạnh tranh gay gắt hơn, nhất là ở các địa bàn chiến
lược, giàu tài nguyên (trong đó có khu vực Biển Đơng)… Bên cạnh đó, điều có thể
nhận thấy rõ nét trong những năm gần đây là các nước đang đẩy mạnh tái cấu trúc
nền kinh tế theo hướng nâng cao chất lượng tăng trưởng và phát triển bền vững,
dựa vào tiêu dùng nội địa nhiều hơn nhằm ứng phó với sự trì trệ của tăng trưởng
kinh tế, thương mại toàn cầu. Sự chuyển biến bối cảnh kinh tế thế giới sẽ mở ra
những cơ hội phát triển nhanh nhưng cũng tiềm ẩn những nguy cơ, thách thức lớn
đối với Việt Nam trong quá trình nhập kinh tế quốc tế.



Để khắc phục những hạn chế, vượt qua những thách thức, thực hiện thành
cơng mục tiêu “thực hiện tiến trình Hội nhập kinh tế quốc tế, giữ vững ổn định
chính trị - xã hội, nhằm tăng cường khả năng tự chủ của nền kinh tế, mở rộng thị
trường, tranh thủ thêm vốn, công nghệ, tri thức, kinh nghiệm quản lý, bảo đảm
phát triển nhanh và bền vững, nâng cao đời sống nhân dân; bảo tồn và phát huy
bản sắc văn hoá dân tộc; giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất và tồn vẹn
lãnh thổ; nâng cao uy tín và vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế”, cần tập
trung vào các nhóm giải pháp cơ bản sau:
- Tăng cường cải cách trong nước nhằm nâng cao năng lực sản xuất và xuất khẩu
của doanh nghiệp trong nước, năng lực cạnh tranh quốc gia.
- Nâng cao năng lực kiểm sốt và điều tiết các dịng vốn nhằm đảm bảo an tồn
kinh tế vĩ mơ và nâng cao hiệu quả sử dụng của các dòng vốn. Xây dựng hệ thống
thu thập và xử lý thông tin về sự luân chuyển của dịng vốn nước ngồi kịp thời,
chính xác để đáp ứng u cầu cơng tác phân tích, dự báo và hoạch định chính sách.
Để có thể điều tiết tốt sự di chuyển của dịng vốn nước ngồi cũng như hạn chế tác
động của dòng vốn đến các yếu tố kinh tế vĩ mô lạm phát, tỷ giá… hay để đánh giá
được mức độ ảnh hưởng hệ thống thu thập dữ liệu phải được cập nhật thường
xuyên.
- Xây dựng khuôn khổ phối hợp chính sách vĩ mơ và các chính sách thận trọng vĩ
mơ, chính sách quản lý vốn nhằm điều tiết và giảm thiểu sự biến động của các
dòng vốn: Vai trị của chính sách kinh tế vĩ mơ đối với việc điều tiết dòng vốn,
giảm áp lực lên lạm phát là cần thiết song vẫn chưa đủ nếu không gian chính sách
bị giới hạn. Do các chính sách thận trọng vĩ mô chủ yếu tập trung vào giám sát và
đánh giá các rủi ro có thể xảy ra đối với (nhóm) định chế được giám sát, có tính
đến tác động lan truyền rủi ro trong tương lai của đối tượng được giám sát tới các
đối tượng khác trong hệ thống tài chính và trong nền kinh tế. Vì vậy, phối hợp
chính sách giám sát thận trọng vĩ mơ với các chính sách điều hành kinh tế vĩ mơ
khác (chính sách tài khóa, chính sách tiền tệ,…) sẽ hỗ trợ quản lý tốt rủi ro hệ
thống từ đó có những đối sách phù hợp để giảm thiểu khả năng xảy ra khủng
hoảng.

- Nâng cao nhận thức, năng lực lãnh đạo và chỉ đạo tổ chức thức hiện. Quán triệt
nhận thức về chủ trương, đường lối của Đảng về quá trình Hội nhập kinh tế quốc tế
tại các cấp, các ngành và các địa phương. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và
thống nhất chỉ đạo triển khai thực hiện có hiệu quả các mục tiêu, nhiệm vụ đã đề
ra. Ngoài ra, các cấp, các ngành và các địa phương còn chủ động bám sát các chủ
trương, đường lối, các quan điểm chỉ đạo của Đảng và nhà nước về Hội nhập kinh
tế quốc tế trong quá trình thực hiện.
- Tiếp tục xây dựng, hồn thiện hệ thống pháp luật, chính sách nhằm nâng cao hiệu
quả Hội nhập kinh tế quốc tế. Nhằm đáp ứng tốt các yêu cầu của các đối tác quốc
tế cũng như nâng cao hiệu quả trong Hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam cần tiếp


tục xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, chính sách để thực hiện các hiệp
định, thỏa thuận kinh tế - thương mại, qua đó góp phần thúc đẩy, gia tăng thị phần
xuất khẩu, thu hút đầu tư nước ngoài, khai thác tốt nhất tiềm năng lợi thế so sánh
và lợi thế quốc gia trong quan hệ kinh tế quốc tế. Ngồi ra, cịn giúp tận dụng tối
đa những cơ hội và hạn chế những thách thức trong Hội nhập kinh tế quốc tế .
- Các doanh nghiệp cần chủ động, tích cực tìm hiểu thơng tin các cam kết về hội
nhập, tập trung tìm hiểu và nắm chắc những thơng tin về lộ trình cắt giảm thuế liên
quan đến các mặt hàng kinh doanh của mình để có chiến lược điều chỉnh sản xuất,
kinh doanh và cạnh tranh phù hợp nhằm tận dụng tối đa các cơ hội.
- Nhà nước cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền cho các doanh nghiệp về các cam
kết của Việt Nam cũng như các cam kết của các đối tác để giúp các doanh nghiệp
tận dụng được các cơ hội và vượt qua được các thử thách; thêm nữa nhà nước cần
có chiến lược rà soát quy hoạch phát triển ngành, vùng phù hợp với tiến trình hội
nhập cũng như cần có nhiều hoạt động tham vấn cộng đồng doanh nghiệp để hịan
thiện khn khổ pháp luật nhằm cạnh tranh theo hướng minh bạch, ổn định. Ngoài
ra, nhà nước cần đẩy mạnh cải cách các thủ tục hành chính, từng bước hồn thiện
môi trường kinh doanh để thu hút đầu tư nước ngoài.




×