Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Nghiên cứu khoa học " Nghiên cứu phục hồi rừng tự nhiên tại Tân Lập, Đồng Xoài, tỉnh Bình Phước " pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (127.67 KB, 8 trang )

Nghiên cứu phục hồi rừng tự nhiên tại Tân Lập, Đồng Xoài, tỉnh Bình Phước
Phạm Văn Đẩu
Phân Viện Khoa học Lâm nghiệp Nambộ
Rừng tự nhiên có ý nghĩa rất quan trọng đối với đời sống con người. Ngoài chức
năng cung cấp gỗ củi, động thực vật, các lâm sản quí hiếm… chúng còn đóng vai
trò tích cực trong phòng hộ, chống xói mòn, rửa trôi đất, điều hoà nguồn nước,
điều hoà khí hậu, bảo vệ môi sinh.
Theo kết quả đánh giá của Cục Phát triển Lâm nghiệp thì trong 8,252 triệu ha rừng
tự nhiên của nước ta hiện nay có 5,181 triệu ha rừng lá rộng thường xanh, trong đó
rừng giàu chiếm 567.500ha (11%), rừng trung bình 1.717.000ha (33,1%) và rừng
nghèo 2.896.300 ha (55,9%). Rừng giàu còn khả năng cung cấp gỗ phần lớn nằm
ở vùng xa, vùng sâu, địa hình hiểm trở, không thuận tiện cho vận chuyển. Rừng
nghèo thì có đến cả triệu ha đã trở nên kiệt, chỉ còn cây chồi lúp xúp, xen kẽ
những lỗ trống cỏ mọc, lác đác còn những cây gỗ thưa thớt ở tầng cao 15- 20m,
cây mẹ gieo giống có giá trị kinh tế còn rất ít, tái sinh rất kém, đa phần là cây tạp.
Nhiều nơi cây rừng chỉ còn dây leo, bụi rậm; nhìn bề ngoài còn một thảm thực vật
màu xanh nhưng bên trong rừng đã trở nên quá nghèo kiệt, chỉ còn thực hiện được
chức năng phòng hộ; nếu để diễn thế tự nhiên thì không biết đến bao giờ rừng mới
thực hiện được chức năng cung cấp gỗ.
Nghiên cứu phục hồi rừng thứ sinh, nghèo kiệt đã được ngành lâm nghiệp quan
tâm rất sớm. Nhiều công trình nghiên cứu khoa học của Viện Khoa học Lâm
nghiệp Việt Nam kết hợp với các cơ sở sản xuất trong ngành đã được triển khai
như ở vùng Cầu Hai - Phú Thọ (1964), Quỳ Châu - Nghệ An (1974), Kon Hà
Nừng - Gia Lai (1980), Lộc Ninh - Bình Phước (1983), La Ngà, Mã Đà - Đồng
Nai (1984), Phú Quốc - Kiên Giang (1984), Tánh Linh - Bình Thuận (1985)… và
đã khá thành công với việc xác định được nhiều loài cây thích nghi cho mỗi vùng
như: Chò nâu (Dipterocarpus tokinensis), ràng ràng mít, gội tía (Aglaia
gigantera), giẻ cau (Quereus platy calyx), trám trắng (Canarium album), giổi xanh
(Talauma gioi), vạng trứng (Endospermum chinense), giẻ đỏ (Pasania ducampii),
re hương (Cinnamomum albiforum), lát hoa (Chukracia tabularis), lim xẹt
(Pentophorum tonkiense), dầu rái (Dipterocarpus alatus), vên vên (Anisoptera


costata), gõ đỏ (afzalia xylocarpa), sao đen (Hopea odorata), sến mủ (Shorea
conchinchinensis), huỷnh (Tarrietia conchinchinensis)…
Rất tiếc hiện trường nghiên cứu thí nghiệm ở nhiều vùng do không được cấp kinh
phí theo dõi liên tục, nên chỉ duy trì được ít năm và phần lớn những hiện trường
này đến nay không còn nữa.
Tỉnh Bình Phước, với diện tích rừng thứ sinh nghèo kiệt trên 50.000ha, đang đặt ra
một yêu cầu bức xúc là phải có những giải pháp lâm sinh tác động vào rừng một
cách hợp lý, dễ thực hiện, bổ sung vào rừng một tập đoàn cây phong phú có chất
lượng, sinh trưởng khá để phát huy cao hơn chức năng phòng hộ và chuyển hoá,
làm giàu, cung cấp gỗ trong tương lai. Từ đầu năm 1998, đề tài nghiên cứu phục
hồi rừng thứ sinh nghèo kiệt bằng kỹ thuật làm giàu rừng theo rạch với diện tích
xây dựng mô hình 20 ha đã được triển khai trên đối tượng rừng Ic tại khoảnh 9,
tiểu khu 382 thuộc ban quản lý rừng kinh tế Tân Lập, Đồng Xoài, tỉnh Bình
Phước.
I. Phương pháp và vật liệu nghiên cứu
a. Thu thập các tư liệu trong khu vực thí nghiệm
- Điều tra lập danh mục các loại cây gỗ.
- Điều tra tái sinh các loại cây.
- Đào phẫu diện đất và phân tích các chỉ tiêu hoá tính 5 phẫu diện đại diện.
b. Bố trí thí nghiệm ngẫu nhiên theo rạch tối thiểu có 3 lần lặp với 2 nghiệm thức
- Cây trong rạch với tán rừng cây bụi lúp xúp có chiều cao 6-8m.
- Cây trong rạch với tán rừng cây bụi lúp xúp có chiều cao 6-8m và còn rải rác cây
gỗ có tán che trên cao 15- 20m.
c. Rạch bố trí thí nghiệm theo hướng Đông Tây, chiều rộng của rạch 4m được chặt
toàn bộ cây bụi, dây leo, cỏ dại, tre gai, chỉ chừa lại cây tái sinh có giá trị kinh tế,
tạo điều kiện ánh sáng cho cây trồng. Trên rạch bố trí một hàng cây, cây cách nhau
4m. Rạch chừa có chiều rộng 6m được phát luỗng tre gai, dây leo, cỏ dại. Khoảng
cách giữa các hàng cây là 10 m. Hố trồng có kích thước 50x 50x 50cm. Cây được
trồng vào tháng 8/ 1998. Bố trí 1ha rừng tự nhiên làm đối chứng không tác động.
d. Hàng năm đo đếm sinh trưởng cây trồng,thu thập các số liệu Dg, Hvn, tính toán

số liệu theo phương pháp thống kê toán học.
e. Vật liệu thí nghiệm là các loại cây gỗ có giá trị kinh tế, có nguồn giống được
gieo ươm trong vùng Đông Nam bộ, đa phần là cây bản địa, một số ít là cây nhập
nội đã được khảo nghiệm từ nhiều năm và hiện nay đã có nguồn giống, cây con
gieo ươm trong bầu màng PE. Các loài cây tham gia trong mô hình là:
Dầu nước Dipterocarpus alatus Roxb.
Sao đen Hopea odorata Roxb.
Vên vên Anisoptera costata Korth.
Chò chỉ Parashorea stellata Kurz.
Gõ đỏ Afzlia xylocarpa Craib.
Giáng hương Pterocarpus macrocarpus Kurz.
Muồng đen Cassia siamea Lam.
Lim xanh Erythrophroeum fordii Oliv.
Xà cừ Khayasenegalensis A. Juss
Xà cừ lá nhỏ Swietenia microphylla Cam.
Giái ngựa Swietenia macrophylla King.
Chiêu liêu Ternrinalia superba
Trám trắng Canarium album Roeusch
II. Kết quả nghiên cứu
Một số số liệu về sinh trưởng cây trồng được kê trong bảng dưới:
Sinh trưởng cây trồng (Số liệu đo đếm tháng 8/ 1998 và tháng 12/ 2000)
Đo sinh trưởng 12/ 2000 Trồng
8/1998
Rạch chừa cao 6-8m Rạch chừa cao 15-20m
STT

Loài cây
H
(m)
D

(cm)
H
(m)
?H D
(cm)
?D H
(m)
?H D
(cm)
?D
Dầu rái
Sao đen
Vên vên
Chò chỉ
Lim xanh
Mu
ồng đen
Gõ đỏ
Giáng
hương
Xà cừ
Xà cừ lá
nhỏ
Giái ngựa
Chiêu liêu

Trám trắng

0,82
0,75

0,72
0,45
0,35
0,55
0,88
0,90
0,95
0,95
0,98
0,75
0,78
0,8
0,6
0,8
0,5
0,4
0,5
0,9
0,9
1,1
1,2
1,2
0,6
0,7
2,23
1,96
2,30
1,76
3,27
5,89

2,19
2,51
4,07
3,64
3,78
4,11
1,78
0,60
0,52
0,68
0,56
1,25
2,29
0,56
0,69
1,34
1,15
1,20
1,44
0,42
3,2
2,2
3,0
1,7
3,4
5,4
2,6
3,0
5,4
4,6

4,6
5,8
2,3
1,0
0,7
0,9
0,5
1,3
2,1
0,7
0,9
1,8
1,4
1,4
2,2
0,7
1,63
1,63
1,88
1,49
2,21
3,17
2,97
2,63
2,89
0,35
0,38
0,49
0,45
0,79

1,12
0,86
0,71
0,92
2,0
1,7
2,1
1,4
2,4
2,4
3,3
3,3
3,5
0,5
0,5
0,5
0,4
0,8
0,8
0,9
0,9
1,2
Qua số liệu trong bảng và quan sát ở mô hình, có một số nhận xét:
- Cây trồng trong các rạch mà tầng rừng ở rạch chừa cao 6-8m sinh trưởng vượt
trội so với cây trồng trong các rạch mà tầng rừng ở rạch chừa còn lại lớp cây gỗ ở
tầng cao 15-20m.
- Các loài cây như dầu rái, sao đen, vên vên, chò chỉ, gõ đỏ, giáng hương là các
loài cây bản địa, tỏ ra sinh trưởng khá chậm ngay cả trên các rạch có đủ ánh sáng.
- Các loài như lim xanh, chiêu liêu, muồng đen, giái ngựa, xà cừ, xà cừ lá nhỏ
trồng trong rạch, được xử lý có đủ ánh sáng tỏ ra sinh trưởng khá, cá biệt có những

cây mới chỉ trồng được gần 3 năm mà chiều cao vút ngọn đã đạt được 8m, ngang
với tán rừng còn lại ở rạch chừa.
- Cây lim có tán lá xanh quanh năm, ngay cả trong những tháng mùa khô khắc
nghiệt, gõ đỏ, giáng hương dụng trụi hết lá thì lim xanh vẫn ra chồi non, vẫn sinh
trưởng.
- Nhìn chung, các loài cây đưa vào trồng trong rạch do bị tán rừng của rạch chừa
chèn ép nên chúng có xu thế vươn lên sinh trưởng về chiều cao mạnh hơn về
đường kính, tỉa cành tự nhiên mạnh hơn.
- Các rạch chừa được phát luỗng dây leo và loại bỏ các cây phi mục đích nên
thông thoáng hơn, môi trường được cải thiện, lớp cây tái sinh tự nhiên phát triển
khá hơn.
III. Thảo luận và kết luận
+ Mục đích của làm giàu rừng là duy trì và phát huy ngày càng cao tác dụng
phòng hộ của rừng tự nhiên, tận dụng sự hỗ trợ của nền rừng cũ với cây trồng mới
để xây dựng rừng với cây trồng làm giàu chiêm ưu thế, hỗn loại với cây sẵn có
trong tự nhiên. Để đi đến thành công thì việc tác động vào rừng phải hết sức tỷ
mỷ, phải được coi là biện pháp kỹ thuật thâm canh, phải giải toả được những mâu
thuẫn nảy sinh giữa thảm thực vật hiện có và cả hệ động vật, côn trùng, vi sinh vật
của rừng với cây trồng mới trong giai đoạn phát triển của cây trồng.
+ Các giải pháp kỹ thuật tác động vào rừng để đơn giản hoá về mặt tổ thành, tăng
thêm các loài cây có giá trị kinh tế cao, sinh trưởng nhanh, tạo ra những nhóm sinh
thái để rừng phát triển bền vững là vấn đề cần được tiếp tục quan tâm.
+ Làm giàu rừng trên nền rừng thứ sinh nghèo kiệt, dạng rừng Ib và Ic, theo
phương pháp mở rạch, tuy mới triển khai được 3 năm, nhưng qua sinh trưởng của
cây trồng mới với 13 loài cây đưa vào trồng thí nghiệm, kết quả rất khả quan.
Công trình cần được tiếp tục đầu tư theo dõi để hoàn thiện về công nghệ và sớm
đưa vào ứng dụng trong sản xuất của ngành.
Tài liệu tham khảo chính
1 - Baur. Geoge, 1976. Cơ sở sinh thái học kinh doanh rừng mưa. Vương Tấn Nhị
dịch, Nhà xuất bản KHKT.

2 - Nguyễn Văn Trương, 1986. Thâm canh rừng tự nhiên. Nhà xuất bản nông
nghiệp.
3 - Bộ Lâm nghiệp, 1993. Quy phạm các giải pháp kỹ thuật lâm sinh áp dụng cho
rừng sản xuất gỗ và tre nứa.
4 - Vũ Xuân Đề, 1985. Các giải pháp tổng hợp khai thác đảm bảo tái sinh cải tạo
và trồng rừng cây gỗ lớn, gỗ quý ở miền Đông Nam bộ (04.01.01.03)- Báo cáo
khoa học.
Research on natural forest rehabilitation at Tan Lap, Dong Xoai, Binh Phuoc
province.
Summary:There mentioned in this paper the research on rehabilitation of depleted
secondary forest by forest enrichment technique with row planting. A 20 ha model
was established in the area of Ic forest, compartment 9, block 382 of the Tan Lap
Management Board of Economic Forests, Dong Xoai, Binh Phuoc province.
It is only 3 years since the establishment now but rather satisfactory results have
been obtained through the growth of planted trees of high economic value species .
Investment must be continued for monitoring and having the technology perfected
and soon applied in production in forestry.

×