Tải bản đầy đủ (.docx) (35 trang)

Tiểu luận tthcm về đcsnnvn cơ sở lý luận hình thành tư tưởng hồ chí minh về nhà nước của dân , do dân, vì dân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (219.15 KB, 35 trang )

MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU..................................................................................................1
Chương 1. NỀN TẢNG HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ
NHÀ NƯỚC CỦA DÂN , DO DÂN , VÌ DÂN.............................................4
1.1. Quan điểm của Mác-Lênin về nhà nước xã hội chủ nghĩa......................5
1.2. Vận dụng sáng tạo lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin.........................10
1.3. Bối cảnh thực tiễn trong nước................................................................13
Chương 2. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ NHÀ NƯỚC PHÁP
QUYỀN CỦA DÂN, DO DÂN, VÌ DÂN.....................................................17
2.1. Nhà nước của dân.....................................................................................18
2.2. Nhà nước do dân....................................................................................21
KẾT LUẬN....................................................................................................32
TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................34

0


LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã khẳng
định: “Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống những quan điểm toàn diện và
sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, kết quả của sự vận
dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác Lênin vào điều kiện cụ thể của
nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp
thu tinh hoa văn hóa nhân loại; là tài sản tinh thần vô cùng to lớn và quý giá
của Đảng và dân tộc ta, mãi mãi soi đường cho sự nghiệp cách mạng của
nhân dân ta dành thắng lợi”.
Theo Người, Nhân dân có vai trị cực kỳ to lớn trong đời sống chính trị
- xã hội của nước ta. Quyền lực của dân đứng ở vị trí tối thượng trong hệ
thống quyền lực của đất nước. Trong hệ thống cấu trúc quyền lực nhà nước
mới của nước ta từ tháng 9/1945 đến nay đã được ghi vào 05 bản Hiến pháp


là: tất cả mọi quyền lực đều thuộc về nhân dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh thường
nhấn mạnh rằng, nhân dân lao động làm chủ, cịn Đảng, Chính phủ cũng như
cán bộ, đảng viên, cơng chức chỉ là công bộc, là đầy tớ của nhân dân. Đây là
một vấn đề trở thành nguyên tắc khi xây dựng nhà nước pháp quyền Việt
Nam XHCN của dân, do dân, vì dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng phải đi đơi
với xây dựng một xã hội cơng dân.
Có thể nói khát vọng cháy bỏng trong cuộc đời sự nghiệp của chủ tịch
Hồ Chí Minh là giành độc lập cho dân tộc, đêm lại sự tự do hạnh phúc cho
nhân dân “tơi chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc là làm sao cho nước ta
được hoàn toàn độc lập,dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm
ăn áo mặc,ai cũng được học hành”. Vì thế, để thực hiện vai trị của dân,
Người đã đề ra đường lối, chính sách và kiên trì xây dựng một nhà nước thật
sự dân chủ - nhà nước của dân, do dân, vì dân. Đối với Người, mọi quyền lợi,
quyền hạn chỉ có giá trị khi nó phục vụ nhân dân “Nếu nước độc lập mà dân
1


khơng hưởng hạnh phúc, tự do thì độc lập cũng khơng có nghĩa lý gì” .Khát
vọng và lý tưởng ấy xuyên suốt mọi suy nghĩ, hành động trong suốt cuộc đời
cách mạng của người. Ngày 2-9-1945 tại quảng trường Ba Đình lịch sử, chủ
tịch Hồ Chí Minh đã long trọng đọc bản tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước
Việt Nam dân chủ Cộng hòa, mở ra một trang sử mới trong hàng ngàn năm
dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam. Nhân dân ta từ kiếp nô lệ trở
thành người làm chủ đất nước,nước ta từ một nước thuộc địa trở thành quốc
gia độc lập, có chủ quyền, tự quyết định vận mệnh của mình. Nhà nước ta
được xây dựng từ cách mạng tháng 8-1945 là nhà nước kiểu mới- nhà nước
pháp quyền của dân do dân vì dân. Với tư cách là người làm chủ đất nước,
nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng đã lập nên những chiến cơng trong
đấu tranh giải phóng dân tộc thống nhất đất nước và đưa nước ta đi lên chủ
nghĩa xã hội. Thực hiện công cuộc đổi mới 25 năm qua, chúng ta đã giành

được những thành tựu to lớn đưa đất nước từng bước thốt khỏi tình trạng
nghèo nàn,lạc hậu về kinh tế văn hóa xã hội ngày càng phát triển,dân chủ
được mở rộng đời sống tinh thần của người dân được cải thiện. Thành công
của công cuộc đổi mới càng làm cho chúng ta thấm thía bài học của chủ tịch
Hồ Chí Minh “dân là gốc”.
Nhận thức được ý nghĩa to lớn và tầm quan trọng trong tư tưởng Hồ
Chí Minh về Nhà nước của dân , do dân, vì dân ; với mong muốn tìm hiểu cơ
sở lý luận hình thành nên tư tưởng Hồ Chí Minh, tác giả quyết định chọn đề
tài “Cơ sở lý luận hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước của dân , do
dân, vì dân” làm đề tài tiểu luận .
2. Đối tượng, Phạm vi nghiên cứu:
+ Đối tượng : Cơ sở lý luận hình thành Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà
nước của dân , do dân vì dân.
+ Phạm vi nghiên cứu: Giai đoạn hình thành và phát triển các nội dung
cơ bản tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước của dân do dân vì dân

2


3. Phương pháp nghiên cứu : Phương pháp duy vật biện chứng, phối
hợp các phương pháp phân tích, tổng hợp ,điều tra,và đọc tài liệu,…..v..v..
4. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn: Đề tài tập trung nghiên cứu, làm rõ
những sự kiện chính trị trong q trình hình thành và phát triển tư tưởng Hồ
Chí Minh về nhà nước của dân, do dân, vì dân có ý nghĩa trong việc giúp
người học tiếp nhận và lãnh hội những nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh . Qua
đó vận dụng những giá trị thời đại mà tư tưởng để lại vào công việc và học
tập.
5. Kết cấu của đề tài :
Đề tài nghiên cứu gồm 2 chương:
Chương 1: NỀN TẢNG HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

VỀ NHÀ NƯỚC CỦA DÂN , DO DÂN , VÌ DÂN
Chương 2: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ NHÀ NƯỚC PHÁP
QUYỀN CỦA DÂN, DO DÂN, VÌ DÂN

3


Chương 1
NỀN TẢNG HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ NHÀ
NƯỚC CỦA DÂN , DO DÂN , VÌ DÂN
Theo từ điển Bách khoa Việt Nam, nhà nước là tổ chức chính trị của xã
hội, cơng cụ cơ bản của quyền lực chính trị trong xã hội có giai cấp. Nhà
nước ra đời trong q trình phân cơng lao động xã hội, hình thành chế độ sở
hữu tư nhân về tư liệu sản xuất và phân chia xã hội thành giai cấp. Là một bộ
phận quan trọng của kiến trúc thượng tầng, nhà nước phản ánh và phục vụ
những quan hệ sản xuất nhất định, những lợi ích của giai cấp chiếm địa vị
thống trị về kinh tế trong xã hội. Về mục đích ra đời của nhà nước thì nhà
nước nào cũng thực hiện chuyên chính nhằm bảo vệ giai cấp cầm quyền và
duy trì trật tự xã hội bằng những công cụ cưỡng bức (quân đội, cảnh sát, tòa
án, nhà tù…). Các nhà nước đều thực hiện hai chức năng đối nội và đối ngoại,
đối ngoại là sự kế tục của đối nội. Trong lịch sử đã có nhiều kiểu và hình thức
nhà nước khác nhau được hình thành. Tương ứng với các hình thái kinh tế xã hội thì có các kiểu nhà nước khác nhau : Nhà nước chiếm hữu nô lệ, nhà
nước phong kiến, nhà nước tư sản và nhà nước xã hội chủ nghĩa. Trong mỗi
kiểu nhà nước lại có các hình thức khác nhau. Nhân tố quyết định những hình
thức khác nhau của một kiểu nhà nước là tương quan lực lượng giai cấp và
đặc điểm dân tộc của từng nước.
Như vậy, nhà nước là một tổ chức đặc biệt của quyền lực chính trị,
một bộ máy chuyên làm nhiệm vụ cưỡng chế và thực hiện các chức năng
quản lý đặc biệt nhằm duy trì trật tự xã hội với mục đích bảo vệ địa vị của giai
cấp thống trị trong xã hội.

Có thể khẳng định rằng, cùng với quá trình ra đi tìm đường cứu
nước, cứu dân cũng là quá trình Hồ Chí Minh tiếp xúc với các lý luận về Nhà
nước, tìm kiếm mơ hình nhà nước kiểu mới phù hợp với dân tộc Việt Nam.
Bởi vì, vấn đề chính quyền nhà nước kiểu mới phù hợp với dân tộc Việt Nam.
4


Bởi vì, vấn đề chính quyền là vấn đề cơ bản của mọi cuộc cách mạng. Sau khi
giành chính quyền thì vấn đề thiết kế một nhà nước nằm giữ vững , củng cố,
phát huy hiệu lực của nó để tổ chức xây dựng cơ sở mới luôn đặt ra đối với
giai cấp cầm quyền. Vì vậy, quan niệm về một nhà nước kiểu mới, nhà nước
pháp quyền của dân, do dân vì dân đã hình thành trên những cơ sở nền tảng
lý luận và thực tiễn rất sâu sắc, đồng thời hình thành rất sớm trong suốt quá
trình cứu nước, giữa nước và xây dựng đất nước của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
1.1.

Quan điểm của Mác-Lênin về nhà nước xã hội chủ nghĩa

Theo lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, con đường hình thành kiểu
nhà nước xã hội chủ nghĩa nhất thiết và tất yếu phải thông qua cuộc cách
mạng. Giai cấp vô sản sử dụng bạo lực giành lấy chính quyền về tay mình và
tổ chức thành nhà nước chun chính vơ sản. Nhà nước chun chính vơ sản
ở thời kỳ đầu của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa thực chất chỉ là bước quá
độ đi lên xóa bỏ mọi giai cấp và đi đến xã hội không có giai cấp, khơng có
nhà nước- một nhà nước “nửa nhà nước”.
Trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, C. Mác và Ph. Ăngghen đặt
vấn đề xây dựng một xã hội mới, trong đó nhà nước tổ chức được đời sống
chung của nhân dân, bảo đảm được sự phát triển tự do tối đa và “phát triển
toàn diện con người”. “Tự do” đặt ra trong Tuyên ngôn được C. Mác quan
niệm “Là ở chỗ biến nhà nước, cơ quan tối cao vào xã hội, thành một cơ quan

hoàn toàn phụ thuộc vào xã hội”. Tự do ở mức độ cao hơn hay thấp hơn của
các hình thức nhà nước được xác định bởi mức độ chúng hạn chế “tự do của
nhà nước”. Giới hạn đó được xác định trong pháp luật mà cơ quan nhà nước,
viên chức nhà nước phải tuân theo.
Từ tiêu chí đề cao dân chủ, pháp luật và tính nhân văn của pháp luật
như là những giá trị cơ bản của nhà nước pháp quyền, có thể thấy rằng, C.
Mác và Ph Ăngghen đã hướng tới một nhà nước pháp quyền đích thực của xã
hội mới. Về mặt nhà nước, C. Mác chủ trương xây dựng một chế độ dân chủ
triệt để, dân chủ là do nhân dân tự quyết định, là bước chuyển từ xã hội thần
5


dân sang xã hội công dân, là từ nhân dân của nhà nước “sang” nhà nước của
nhân dân. Dân chủ là xuất phát từ con người và pháp luật cũng vì con người,
để cuối cùng thay cho xã hội tư sản cũ, với những giai cấp và đối kháng giai
cấp của nó, sẽ xuất hiện một liên hợp, trong đó sự phát triển tự do của mỗi
người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người. Xã hội mới sẽ
tạo ra những điều kiện cơ bản để giải phóng cá nhân, bởi lẽ, xã hội sẽ khơng
thể giải phóng cho mình được, nếu khơng giải phóng mỗi một cá nhân riêng
biệt. Và do vậy, xã hội đó phải được xây dựng trên cơ sở pháp luật.
Sang đầu thế kỷ XX, trong điều kiện của chủ nghĩa tư bản độc quyền
nhà nước và chủ nghĩa đế quốc, V.I. Lênin đã phát triển lý luận mácxít về nhà
nước xã hội chủ nghĩa lên tầm cao mới. Trước hết, về bản chất của nhà nước
chun chính vơ sản, V.I Lênin nhấn mạnh: Chun chính vơ sản là nhà nước
kiểu mới, nhà nước dân chủ kiểu mới (dân chủ đối với những người vơ sản,
nói chung là những người khơng có của) và chun chính kiểu mới (chống
giai cấp tư sản) và chun chính vơ sản là việc tổ chức đội tiền phong của
những người bị áp bức thành giai cấp thống trị đế trấn áp bọn áp bức. Chun
chính vơ sản là chính quyền nhà nước để bảo vệ và củng cố thành quả cách
mạng. Tuy nhiên, V.I Lênin cũng cho rằng thực chất của chun chính vơ ,

sản không phải chỉ là bạo lực đối với bọn bóc lột và cũng khơng phải chủ yếu
là bạo lực (TG nhấn mạnh) mà là ở tính tổ chức kỷ luật của giai cấp công
nhân và người lao động, ở địa vị làm chủ, và ở vai trò tổ chức xây dựng xã
hội mới. Do vậy, chủ nghĩa Mác – Lênin quan niệm nhiệm vụ hàng đầu của
chun chính vơ sản chính là tổ chức và xây dựng, quản lý đất nước. Có thể
thấy ở đây, trong khi đặt vấn đề xây dựng một xã hội mới, một nhà nước kiểu
mới, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin đã kế thừa và phát triển
những giá trị tiến bộ của tư tưởng nhà nước pháp quyền. Bằng một tư duy
triết học mới trên cơ sở phê phán triết học pháp quyền của Hêghen, C. Mác đã
phân tích nhà nước cũng như pháp luật được hiểu không phải là những hiện
tượng tự thân, cũng không phải do sự phát triển nhưng của tinh thần nhân
6


loại, mà bắt nguồn từ những điều kiện kinh tế tương ứng, giai cấp nào nắm
được những điều kiện đó thì sẽ nắm được quyền thống trị về mặt chính trị nắm được nhà nước và pháp quyền. Vì vậy, muốn thay đổi nhà nước và pháp
quyền đó, phải thay đổi các quan hệ kinh tế, trước hết là các quan hệ về sở
hữu. Muốn chuyển nhà nước và pháp quyền tư sản thành nhà nước và pháp
quyền của nhân dân lao động thì phải thay đổi chế độ tư hưu tư bản chủ nghĩa
thành chế độ công hữu xa hội chủ nghĩa. Cách tiếp cận vấn đề nhà nước cơ sở
kinh tế và đưa nội dung giai cấp vào khái niệm nhà nước, pháp quyền đã làm
cho vấn đề nhà nước trở nên hiện thực hơn. “Vậy, nhà nước quyết khơng phải
là một quyền lực từ bên ngồi áp đặt vào xã hội. Nó cũng khơng phải là cái
“hiện thực của ý niệm đạo đức”, là “hình ảnh và hiện thực của lý tính” như
Hêghen khẳng định”. Tính hiện thực của nhà nước chỉ có thể được đảm bảo
trước hết bằng nội dung kinh tế, bởi vì “pháp quyền khơng bao giờ có thể cao
hơn chế độ kinh tế và trình độ phát triển văn hóa của xã hội do chế độ kinh tế
quyết định”. Về vấn đề này, khi nghiên cứu về nhà nước trước khi những
người cộng sản Nga giành được chính quyền, V.I/ Lênin đã tiếp thu những tư
tưởng về nhà nước và pháp luật của C. Mác và Ph. Ăngghen, đó là: Trong giai

đoạn đầu, trong nấc thang thứ nhất, chủ nghĩa cộng sản chưa thể hồn tồn
thốt khỏi những tập tục hay những tàn tích của chủ nghĩa tư bản. Do đó, có
hiện tượng đáng chú ý là giới hạn chật hẹp của pháp quyền tư sản được duy
trì dưới chế độ cộng sản chủ nghĩa, trong giai đoạn đầu của nó.
Có thể nói, trước khi Cách mạng tháng mười Nga thành công, V.I.
Lênin đã suy nghĩ về việc xây dựng một nhà nước xã hội chủ nghĩa ở nước
Nga trên cơ sở tiếp thu những tư tưởng của học thuyết tiến bộ về nhà nước
của các nhà tư tưởng trước đó. Người viết: “Vậy là, trong một thời gian nhất
định, dưới chế độ cộng sản, khơng những vẫn cịn pháp quyền tư sản, mà vẫn
cịn nhà nước kiểu tư sản nhưng khơng có giai cấp tư sản”.
Sau khi cách mạng tháng mười Nga thành công, những tư tưởng ấy về
nhà nước được V.I. Lênin tiếp thu và phát triển trong quá trình xây dựng nhà
7


nước kiểu mới, trước hết là xác định rõ mục đích của chính quyền Xơviết là
thu hút những người lao động tham gia vào quản lý nhà nước, thực hiện một
nền dân chủ rộng rãi nhằm giải phóng con người và phát triển toàn diện con
người trong xã hội mới. Bời vì, như V.I. Lênin đã từng nói: “Khơng có chế độ
dân chủ thì chủ nghĩa xã hội khơng thể thực hiện được theo hai ý nghĩa sau
đây: 1) giai cấp vơ sản khơng thể hồn thành được cuộc cách mạng xã hội chủ
nghĩa nếu họ không được chuẩn bị cho cuộc cách mạng đó thơng qua các
cuộc đấu tranh cho chế độ dân chủ. 2) chủ nghĩa xã hội chiến thắng sẽ khơng
giữ được thắng lợi của mình và sẽ không dẫn được nhân loại đi đến chỗ chủ
tiêu nhà nước, nếu không thực hiện được đầy đủ chế độ dân chủ”.
Về mặt nhà nước, V.I. Lênin đã khẳng định hàng loạt quan điểm về xây
dựng nhà nước kiểu mới, nhà nước khơng cịn ngun nghĩa, nhà nước “nửa
nhà nước”, nhà nước quá độ để rồi chuyển dần tới một chế độ tự quản. Muốn
vậy, theo V.I. Lênin, nhà nước cách mạng khi bắt đầu vận hành bộ máy của
mình phải thực hiện ngay chế độ dân chủ theo các hướng cơ bản như sau:

- Quyền bầu cử được thực hiện ngay và dần dần được mở rộng, bầu cử
theo ngun tắc phổ thơng, bình đẳng, trực tiếp, bỏ phiếu kín là nguyên tắc
tiến bộ nhất của nên dân chủ hiện đại. Qua đó, những người lao động tự lựa
chọn được người xứng đáng nhất thay mặt mình giải quyết và quản lý công
việc của nhà nước và xã hội.
- Quyền tham gia quản lý nhà nước của những người lao động. Tất cả
mọi công dân, không trừ một người nào đều tham gia quản lý nhà nước, quản
lý xã hội, thể hiện vai trị làm chủ của mình và đóng góp tối đa cơng sức cho
xã hội.
- Quyền bãi miễn là quyền có ý nghĩa quan trọng trong việc thực hiện
chế độ dân chủ, thực hiện đúng vấn đề có tính ngun tắc này sẽ làm tăng
thêm trách nhiệm của đại biểu đối với cử chi và xã hội, tức là thực hiện sự
phục tùng thực sự của những người được bầu đối với nhân dân, là nguyên tắc

8


nhằm thực hiện triệt để chế độ dân chủ, bảo đảm quyền lực nhà nước thực sự
thuộc về nhân dân”.
- Về vai trò của pháp luật, chủ nghĩa Mác – Lênin cho rằng pháp luật có
vai trị vơ cùng quan trọng trong quản lý xã hội mới, là một trong những điều
kiện cơ bản để xây dựng thành công của chủ nghĩa xã hội. Trên quan điểm đó,
thực tế cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Nga cho thấy, cùng với việc đập tan bộ
máy nhà nước tư sản, thiết lập và củng cố nhà nước của giai cấp công nhân và
nhân dân lao động, thì cần phải xóa bỏ hệ thống pháp luật tư sản, xây dựng hệ
thống pháp luật để điều chỉnh các quan hệ xã hội trong điều kiện phát triển
nên dân chủ xã hội chủ nghĩa. Theo V.I. Lênin “nếu khơng rơi vào khơng
tưởng thì khơng thể nghĩa rằng sau khi lật đổ chủ nghĩa tư bản, người ta sẽ tự
khắc có thể làm việc cho xã hội mà khơng cần phải có tiêu chuẩn pháp quyền
nào cả, hơn nữa, việc xóa bỏ chủ nghĩa tư bản không thể đem lại ngay được

những tiền đề kinh tế cho một sự thay đổi như vậy”.
Tất nhiên, pháp luật xã hội chủ nghĩa có bản chất khác hẳn với pháp
luật của các kiểu nhà nước trước đó. Pháp luật xã hội chủ nghĩa là pháp luật
kiểu mới, thể hiện ý chí của giai cấp cơng nhân và nhân dân lao động – lực
lượng chiếm số đông trong dân cư. Pháp luật xã hội chủ nghĩa thể hiện những
nội dung mới, có đặc trưng riêng biệt so với các kiểu pháp luật của các xã hội
trước đó, nhưng đồng thời cũng có sự kế thừa các giá trị của văn minh pháp
luật của nhân loại. Pháp luật xã hội chủ nghĩa mang tính chất nhân đạo, phản
ánh những giá trị của sự tiến bộ xã hội và mang tính chất nhân rộng rãi. Pháp
luật xã hội chủ nghĩa khẳng định địa vị pháp lý, bảo vệ và bảo đảm cho sự an
toàn pháp lý của nhân dân lao động. Tính dân chủ là tính chất cơ bản của kiểu
pháp luật xã hội chủ nghĩa. Trong chế độ tư bản, dân chủ là hình thức. V.I.
Lênin viết: “ Dân chủ thuần túy, dân chủ nói chung, bình đẳng, tự do, tính
tồn dân, trong khi cơng nhân và tất cả những người lao động đều đói ăn,
thiếu mặc… và trong khi bọn tư bản và bọn đầu cơ vẫn tiếp tục nắm giữ “sở
hữu” ăn cướp được và bộ máy chính quyền nhà nước “y nguyên”, - như thế là
9


nhạo báng những người lao động và những người bị bóc lột… Giai cấp tư sản
buộc phải giả nhân giả nghĩa và gọi chế độ cộng hòa dân chủ (tư sản) là
“chính quyền tồn dân” hay dân chủ nói chung…, thực tế chế độ cộng hịa
dân chủ đó là chun chính của giai cấp tư sản, chuyên chính của những kẻ
bóc lột quần chúng lao động”.
Về phần mình, pháp luật xã hội chủ nghĩa điều chỉnh các quan hệ kinh
tế xã hội chủ nghĩa nhờ sở hữu xã hội chủ nghĩa, cơ chế quản lý kinh tế xã hội
chủ nghĩa, bảo vệ quyền tự do, dân chủ của đại đa số nhân dân lao động.
Trong pháp luật xã hội chủ nghĩa, biện pháp giáo dục, thuyết phục được áp
dụng rộng rãi, tính cưỡng chế của pháp luật xã hội chủ nghĩa mang nội dung
và phương thức khác với tính cưỡng chế của pháp luật của chế độ bóc lột.

1.2.

Vận dụng sáng tạo lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin

Góp phần hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước có vai trị
quan trọng của truyền thống văn hóa dân tộc, tinh hoa văn hóa phương Đơng;
phương Tây và đặc biệt là lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin về nhà nước.
Trong lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước, cha ơng ta đã
tích lũy được biết bao kinh nghiệm quý báu về xây dựng nhà nước, được phản
ánh trong các bộ sử lớn của dân tộc như Đại Việt sử ký hoàn thư, Lịch triều
hiến chương loại chí…. Kinh nghiệm làm luật, trị nước cũng được ghi lại
trong các bộ luật nổi tiếng như Hình thư ( đời Lý), Quốc triều hình luật (đời
Trần), bộ luật Hồng Đức ( đời Lê) …. Mà giá trị của nó có thể sánh ngang với
các bộ luật nổi tiếng ở phương Đơng, trong đó có những tư tưởng còn được đề
cập đến sớm hơn cả phương Tây, như vấn đề bình đẳng với phụ nữ : cho phép
ly hơn, có quyền thừa kế tài sản, cơng nhận cơng lao chung của vợ chồng
trong vấn đề tài sản, cho phép nhận con ni…
Những yếu tố tích cực của nhà nước thân dân thời kỳ phong kiến hưng
thịnh trong lịch sử dân tộc cùng với hình ảnh lý tưởng về nhà nước “ Vua
Nghiêu Thuấn, dân Nghiêu Thuấn”…. là những hành trang đầu tiên Hồ Chí

10


Minh mang theo trên con đường cứu nước và tìm kiếm một mơ hình nhà nước
tiến bộ cho đất nước sau khi giành độc lập.
Trên con đường học hỏi, Hồ Chí Minh đã biết làm giàu vốn tri thức của
mình bằng những di sản quý báu của văn hóa nhân loại. Người đã kế thừa các
học thuyết đó một cách đơn giản, mà có sự phân tích một cách sâu sắc, tìm ra
những yếu tố tích cực, hợp lý để phục vụ cho sự nghiệp cách mạng giải phóng

dân tộc. Với Nho giáo, khi tiếp thu tư tưởng chính danh, Hồ Chí Minh đã loại
bỏ tính chất duy tâm thiên mệnh, khơi phục lại quan hệ bình đẳng hai chiều tự
nhiên trong uqan hệ người với người. Người dạy rằng, dù là Chủ tịch nước,
Bộ trưởng, công nhân , nông dân, bộ đội hay người phục vụ nấu ăn, quét rác,
…. Đều là người tồi nếu khơng hồn thành được nhiệm vụ của mình, cịn nếu
làm tốt hơn người khác thì đều là anh hùng, chiến sĩ thi đua, là những “thánh
nhân”.
Tư tưởng nhân dân trong học thuyết chính trị của Nho giáo cũng được
Người vận dụng nhuần nhuyễn. Khổng Tử đã nhìn nhận thấy “dân là gốc của
nước”. Mạnh Tử cho rằng trong nước, dân là quý nhất, tiếp theo là xã tắc, vua
là nhẹ nên ai được lòng dân chúng thì được làm thiên tử. Việc đề cao dân
trong tư tưởng của Nho gia khơng chỉ nói lên mục đích vì dân của hoạt động
nhà nước mà cịn nói lên vai trị to lớn của dân chúng, sức mạnh của dân
chúng trong việc thực hiện các chính sách quản lý của nhà nước. Điều này
được Hồ Chí Minh tiếp thu trong việc xây dựng một nhà nước của dân, do
dân, vì dân :
“Gốc có vững cây mới bền,
Xây lầu thăng lợi trên nền nhân dân”
Tư tưởng của Nho giáo về đạo của người quân tử với tư cách là người
cầm quyền cũng được hồ chí Minh nhận thức và phát triển với những nội
dung mới. Các giá trị của người quân tử mà Nho giáo đề ra như nhân , nghĩa,
lễ, trí, tín, dũng, liêm, trung… được Hồ Chí Minh vận dụng trong q trình
rèn luyện đạo đức cách mạng của người cầm quyền, thậm chí là phát triển
11


thêm cho phù hợp với yêu cầu của cách mạng. Chẳng hạn, chữ “trung” trong
Nho giáo chỉ có nghĩa là cá nhân trung với cá nhân, trung với vua. Chủ tịch
Hồ Chí Minh dùng chữ “trung” với nghĩa mới hơn là trung với nước, trung
với Đảng, tức là trung với cả tập thể.

Tư tưởng chính trị của Mặc gia chủ trương chính sách kiêm ái trong
cơng cuộc cai trị, tức là nhà cầm quyền phải yêu thương nhân dân, tận tụy vì
những lợi ích của nhân dân. Thuyết kiêm ái hạn chế ở tính duy tâm và tính phi
giai cấp. Hồ Chí Minh đã loại bỏ những hạn chế đó, tiếp thu tinh thần “làm
đầy tớ” cho nhân dân của Mặc Tử.
Các lý thuyết về tổ chức nhà nước và thực tiễn tổ chức nhà nước ở các
quốc gia tư bản như Mỹ, Pháp có ảnh hưởng nhất định đến q trình Chủ tịch
Hồ Chí Minh tìm kiếm một mơ hình tổ chức nhà nước phù hợp cho Việt
Nam. Học thuyết của các nhà tư tưởng cách mạng tư sản về tổ chức quyền lực
nhà nước, chính thể cộng hịa tổng thống ở Mỹ, chính thể cộng hịa đại nghị ở
Pháp đã ảnh hưởng đến q trình Hồ Chí minh tìm kiếm một mơ hình nhà
nước hợp lý cho cách mạng Việt Nam. Cụ thể là chế định Chủ tịch nước trong
Hiến pháp năm 1946 có một số điểm giống với chế định Tổng thống trong
Hiến pháp Mỹ.
Tìm hiểu cách mạng Tân Hợi và tư tưởng của Tôn Trung Sơn, Nguyễn
Ái Quốc đã thấy chủ nghĩa tam dân mới và chính sách “thân Nga, liên Cộng,
phù trợ cơng nơng” có những tư tưởng tiến bộ, có thể vận dụng vào cách
mạng Việt Nam. Khẩu hiệu “Độc lập – Tự do – Hạnh phúc” mà Người đề ra
năm 1945 có phần vận dụng từ chủ nghĩa tam dân, kinh nghiệm cách mạng
Trung Quốc và tư tưởng “Tự do- Bình đẳng – Bác ái” của cách mạng tư sản
Pháp, nhưng đã được Người phát triển lên một trình độ mới mang tính giai
cấp, tính nhân dân, tính dân tộc và cách mạng triệt để của một cuộc cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong tiến trình cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Ngồi truyền thống văn hóa dân tộc và tinh hoa văn hóa nhân loại,
trong nguồn gốc hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung và tư tưởng Hồ
12


Chí Minh về nhà nước nói riêng khơng thể khơng kể đến chủ nghĩa Mác –
Lênin – Nguồn gốc lý luận quan trọng và quyết định nhất. Chính thế giới

quan và phương pháp luận Mác – Lênin đã giúp Hồ Chí Minh tổng kết kiến
thức và kinh nghiệm thực tiễn của lồi người để tìm ra con đường đi đúng
đắn. Lý luận Mác – xít về nhà nước cách mạng vô sản là cơ sở để Người đánh
giá, phê phán các học thuyết về tổ chức nhà nước cũng như thực tiễn tổ chức
nhà nước của các nước tư bản. Mơ hình nhà nước Xơ Viết mà Lênin tổng kết
là một mơ hình nhà nước mà Hồ Chí Minh mong muốn thiết lập ở Việt Nam
trong Chánh cương vắn tắt là biểu hiện của mơ hình nhà nước Xơ Viết. Lênin
đã khái quát chỉ ra một số nguyên tắc xây dựng nhà nước mới. Một là, bảo
đảm nguyên tắc toàn bộ quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân; Hai là, quyền
lực nhà nước là thống nhất, không phân chia; Ba là, Đảng Cọng sản lãnh đạo
nhà nước xã hội chủ nghĩa; Bốn là, nhà nước xã hội chủ nghĩa là nhà nước
pháp quyền; Năm là, nhà nước thực hiện theo nguyên tắc tập trung dân chủ.
Tất cả những nguyên tắc trong xây dựng nhà nước XHCN mà Lênin đưa ra
được Người tiếp thu và phát triển sáng tạo để xây dựng một nhà nước thật sự
của dân, do dân, vì dân ở Việt Nam.
1.3.

Bối cảnh thực tiễn trong nước

Đại tướng Võ Nguyên Giáp cho rằng, thực tiễn hoạt động cách mạng
của Hồ Chí Minh là một cơ sở có ý nghĩa quyết định đối với sự hình thành,
phát triển và hồn thiện tư tưởng Hồ Chí Minh.
Trước khi ra đi tìm đường cứu nước, Nguyễn Tất Thành đã từng tận
mắt chứng kiến cảnh sống cùng cực của nhân dân việt Nam. Điều kiện lịch sử
trong nước cuối thế kỷ XIX đầu thế kỉ XX đã giúp cho Người có điều kiện
tìm hiểu về Nhà nước phong kiến quân chủ chuyên chế và Nhà nước thuộc
địa nửa phong kiến.
Nhà nước phong kiến là nhà nước của giai cấp pgong kiến địa chủ, nó
nằm tỏng tay của một số ít người. Trong nhà nước đó tồn tại hai giai cấp chủ
yếu: địa chủ phong kiến và nông dân. Nhưng do chế độ bóc lột của giai cấp

13


địa chủ phong kiến đối với nông dân nên mâu thuẫn giữa hai giai cấp này rất
gay gắt, và đây là mâu thuẫn chủ yếu trong xã hội.
Trong xã hội mặc dù cũng có nhiều người yêu nước thương dân, trong
đó có cả những ơng vua phong kiến nhưng vẫn còn rất hạn chế, chưa trở
thành một xã hội thật sự thân dân vì chế độ của xã hội phong kiến khơng cho
phép tính triệt để, giai cấp thống trị khơng từ bỏ địa vị thống trị của mình.
“Thân dân” mới chỉ dừng lại ở tư tưởng chứ chưa trở thành hiện thực, nó
giống như sự ban ơn của kẻ bề trên đối với bề dưới, chứ không phải là quyết
tâm tận tụy phục vụ, vì lợi ích của nhân dân.
Đặc biệt, từ sau khi thực dân Pháp xâm lược mới thấy rõ sự nhu nhược
của chế độ phong kiến, đồng thời xuất hiện những mâu thuẫn đối kháng
không thể điều hịa được. Vì vậy, nếu thực dân Pháp khơng xâm lược Việt
Nam thì nhà nước phong kiến cũng khơng tồn tại được. Mặc dù cũng có một
số ưu điểm nhưng do bản chất nên nhà nước đó đã lỗi thời, lạc hậu, không thể
là sự lựa chọn của nhân dân Việt Nam trong con đường đi tiếp của lịch sử.
Nhà nước thuộc địa nửa phong kiến là nhà nước xấu xa, tàn bạo cả về
kinh tế, chính trị, văn hóa,tư tưởng. Năm 1858, thực dân Pháp nổ súng xâm
lược và xóa tên Việt Nam trên bản đồ thế giới vào năm 1884 sau khi ký hiệp
ước Pa – tơ- nốt. Nguyễn Tất Thành đã được chứng kiến chính sách chuyên
chế về chính trị: cấm mọi quyền tự do, dân chủ của nhân dân, sự bất bình
đẳng về xã hội, phân biệt màu da, thực hiện chính sách chia để trị…; là chính
sách độc quyền về kinh tế: khơng cho nhân dân làm kinh tế, nắm quyền phân
phối lưu thông hàng hóa và tiền tệ, bóc lột trong cơng nghiệp, nơng nghiệp…;
là chính sách nơ dịch về văn hóa : thực hiên chính sách ngu dân chia để trị,
bán rượu, bán thuốc phiện nhằm làm cho nhân dân ta suy kiệt… Đây thực sự
là một chế độ thối nát, tồi tệ hơn cả chế độ phong kiến, là một chế độ phản
động.

Đây cũng là thời kì mà Nguyễn Tất thành chứng kiến sự thất bại trong
việc tìm ra mơ hình nhà nước mới cho cách mạng Việt Nam. Đó là sự thất bại
14


của phong trào Cần Vương, phong trào nong dân Yên Thế với hy vọng quay
lại xây dựng nhà nước phong kiến trong khi bản thân nó đã khơng đáp ứng
được yêu cầu của lịch sử. Đó là Phan Bội Châu với mơ hình Nhà nước qn
chủ lập hiến hoặc Cộng hòa dân chủ kiểu phương Tây, Phan Chu Trinh với hy
vọng xây dựng một nền cộng hòa ở Việt Nam, Việt Nam quốc dân Đảng với
chủ trương đoàn kết trăm họ để xây dựng nhà nước cộng hòa… Thời kỳ này
được lịch sử đánh giá là ở trong đêm tối, dường như khơng có đường ra, cho
thấy sự bế tắc của các nhà hoạt động cách mạng trong việc tìm ra con đường
cứu nước nói chung và tìm ra mơ hình nhà nước phù hợp cho Việt Nam nói
riêng.
Sống dưới chế độ thuộc địa nửa phong kiến, nhân dân ta phải chịu cảnh
“một cổ hai trịng”: bị bóc lột dưới họng súng của thực dân Pháp và dưới
thanh gươm của triều đình phong kiến nhà Nguyễn. Do vậy , trong xã hội nảy
sinh hai mâu thuẫn : mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với đế quốc
và mâu thuẫn giữa nhân dân (chủ yếu là nông dân) với địa chủ phong kiến.
Trong đó mâu thuẫn thứ nhất là mâu thuẫn chủ yếu , đòi hỏi phải được giải
quyết ngay. Chính từ thực tiễn đó đã thơi thúc Hồ Chí Minh ra đi tìm đường
cứu nước, tìm một mơ hình nhà nước mới phù hợp với thực tiễn Việt Nam.
Hồ Chí Minh đã đến các nước tư bản Anh, Pháp , Mỹ, đã đến nhiều
nước thuộc địa và phụ thuộc ở khắp các châu lục. Ở đâu, Người cũng sống và
lao động thực sự như một người công nhân để xem xét đời sống kinh tế, chính
trị, xã hội của các tầng lớp nhân dân; nghiên cứu các cách thức tổ chức xã hội
và nhà nước, chế độ chính trị hiện thời; xem xét đời sống, nguyện vọng, hoạt
động đấu tranh của các dân tộc. Người cũng đã sống và chứng kiến hai cuộc
chiến tranh thế giới với những tổn thất nặng nề, những hy sinh to lớn và

những hậu quả thật lâu dài về mọi mặt của nó; đồng thời qua đó cũng thấy
được sức mạnh quật khởi của các dân tộc bị áo bức trong cuộc đấu tranh giải
phóng. Đặc biệt, Người có một số năm sống và làm việc , lao động, học tập

15


trên đất nước Liên Xô, đã miêu tả những ưu việt của chế độ và nhà nước xã
hội chủ nghĩa Xơ viết một cách cụ thể , tồn diện.
Người đã đi nhiều nơi, làm nhiều công việc, nghiên cứu, học tập kinh
nghiệm của các nước và phụ trách nhiều cương vị trong những điều kiện,
hoàn cảnh khác nhau. Sau này, Người đào tạo, tổ chức Đảng Cộng sản Việt
Nam, thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa – nhà nước công nông đầu
tiên ở Đông Nam Á; Người đứng đầu Đảng và Nhà nước ta, lãnh đạo nhân
dân ta đánh thắng hai đế quốc lớn và xây dựng xã hội mới. Đó là cơ sở thực
tiễn đầy sức sống cho tư tưởng Hồ Chí Minh hình thành,phát triển ngày càng
phong phú, toàn diện, nhất là những vấn đề về chính trị, về Đảng, về Nhà
nước . Nó là kết quả của sự tác động biện chứng giữa nhận thức và hành
động, lý luận và thực tiễn, vì vậy mà Người ngày càng tiếp cận với chân lý
của thời đại.
Từ thực tiễn hoạt động cách mạng sôi nổi, phong phú, Hồ Chí Minh đã
tìm ra những quy luật, đúc kết thành lý luận. Trong những năm bôn ba ở
những nước tư bản phát triển, Hồ Chí Minh đã nghiên cứu cách tổ chức nhà
nước ở đó, phê phán những mặt tiêu cực, tiếp thu những hạt nhân hợp lý trong
quá trình xây dựng mơ hình Nhà nước cách mạng Việt Nam. Cũng chính xuất
phát từ thực tiễn hoạt động cách mạng mà Người đã có những bước phát triển
lớn trong tư tưởng về hình thức nhà nước trong con đường cách mạng Việt
Nam. Đó là sự chuyển biến trong tư tưởng của Người từ một nhà nước quyền
lực thuộc về số đông đến Nhà nước Công- nông – binh và cuối cùng là Nhà
nước cộng hòa dân chủ nhân dân.


16


Chương 2
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN CỦA
DÂN, DO DÂN, VÌ DÂN
Nhà nước mới mà Hồ Chí Minh chủ trương xây dựng phải là nhà nước
của dân tộc, tiêu biểu cho khối đại đàn kết toàn dân, tập hợp được đội ngũ cán
bộ, cơng chức có đủ đạo đức và tài năng tham gia vào công cuộc xây dựng
nhà nước. Đây phải là nhà nước thật sự “của dân, do dân , vì dân”. Thực chất
khái niệm nhà nước “của dân, do dân, vì dân” khơng phải do Hồ Chí Minh là
người đầu tiên nêu ra. Người đầu tiên nêu ra là Tổng Thống Mỹ LinconNgười đã tiến hành cuộc chiên tranh ly khai nhằm xóa bỏ chế độ nơ lệ ở Mỹ.
Ơng từng tun bố : “Chế độ dân chủ là chính quyền của dân, do dân và vì
dân. Một chính quyền như vậy sẽ không tàn lụi khỏi trái đất này”.
Khái niệm “ Nhà nước của dân, do dân, vì dân” được Hồ Chí Minh
dùng lần đầu tiên năm 1927 khi ở Quảng Châu, Người nêu lên ý tưởng của
Nhà cách mạng Tôn Trung Sơn muốn : “Thành lập ở Trung Quốc một chính
phủ của dân, do dân và vì dân theo 3 nguyên tắc lớn của Người sáng lập Quốc
dân đảng”. Về sau, trong bài Dân vận đăng trên báo Sự thật số 120 ngày
15/10/1949, Hồ Chí Minh viết:
“NƯỚC TA LÀ NƯỚC DÂN CHỦ
Bao nhiêu lợi ích đều vì dân
Bao nhiêu quyền hạn đều của dân
Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân
Sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là công việc của dân
Chính quyền từ xã đến Chính phủ trung ương do dân cử ra
Đoàn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên
Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”.
Bài viết đó đã khái quát ngắn gọn, súc tích quan niệm về một nhà

nuowvs của dân , do dân, vì dân trong tư tưởng Hồ Chí Minh.
17


2.1. Nhà nước của dân
Thứ nhất, mọi quyền lực thuộc về nhân dân.
Theo Hồ Chí Minh, nhà nước của dân nghĩa trước tiên là quyền lực
thuộc về nhân dân. Điều này được Hiến pháp năm 1946 do Hồ Chí Minh làm
trưởng ban soạn thảo đã xác định rõ:
“Điều thứ 1. Nước Việt Nam là một nước dân chủ cộng hòa
Tất cả quyền bính trong nước là của tồn thể nhân dân Việt Nam,
khơng phân biệt giống nịi, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo”.
Điều 32. Những việc quan hệ đến vận mệnh quốc gia sẽ đưa ra nhân
dân phúc quyết, nếu hai phần ba tổng số nghị viên đồng ý”. Thực chất đó là
chế độ trưng cầu dân ý, một hình thức dân chủ trực tiếp được đề ra khá sớm ở
nước ta.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, nhân dân với tư cách là chủ thể quyền
lực nhà nước được hiểu là toàn thể nhân dân chỉ trừ bọn phản quốc. Đồng
thời, xuất phát từ lòng yêu thương, quý trọng nhân dân, Người thấy rõ nguồn
gốc sức mạnh vô tận của nhân dân. Chỉ có nhân dân mới có đủ sức mạnh để
giành, giữ và thực thi quyền lực của mình, trong đó có quyền lực nhà nước.
Vì vậy, Hồ Chí Minh chỉ rõ phải thực hiện cho được khối đại đoàn kết toàn
dân tộc để phát huy cao độ sức mạnh của nhân dân.
Thứ hai, dân có quyền dân chủ, có quyền làm bất cứ việc gì pháp luật
khơng cấm và có nghĩa vụ tn theo pháp luật.
Dân chủ trong tư tưởng Hồ Chí Minh được hiểu theo hai nghĩa: dân là
chủ - chỉ vị thế, tư cách xã hội của dân và dân làm chủ - chỉ trách nhiệm, năng
lực của dân. Trong tư duy và trong hoạt động thực tiễn, Hồ Chí Minh đặc biệt
chú ý đến sự khác biệt, đến khoảng cách nhiều khi rất lớn này giữa tư cách
“dân là chủ” với trạng thái “dân làm chủ”, giữa chủ trên thực tế và chủ trên

danh nghĩa. Hồ Chí Minh ln đặt lên hàng đầu yêu cầu nhà nước ta phải làm
sao cho “dân biết hưởng quyền dân chủ"". Để làm được điều đó, nhân dân
khơng những phải có quyền mà điều cũng rất quan trọng là nhân dân phải có
18


khả năng, năng lực làm chủ. Người nói: “Muốn làm chủ được tốt, phải có
năng lực làm chủ”. Ngay sau khi cách mạng Tháng Tám thành cơng, mối
quan tâm đó theo suốt Người trong cả thế kỷ về sau và lời Người nói với
những xã viên hợp tác xã Tảo Dương, xã Hồng Dương, huyện Thanh Oai,
tỉnh Hà Tây trong dịp Người về thăm và chúc Tết ngày mồng hai tết Đinh
Mùi (10/2/1967) phải được xem như một lời di chúc: “Làm sao cho nhân dân
biết hưởng quyền dân chủ, biết dùng quyền dân chủ của mình, đảm nói, dám
làm”.
Theo Hồ Chí Minh, để rèn luyện và nâng cao năng lực làm chủ của
nhân dân thì phải ra sức bồi dưỡng sức dân. Trong Chương trình hành động
của Chính phủ lâm thời được Người trình bày ngay sau khi đọc Tun ngơn
độc lập có nêu ra sáu nhiệm vụ cấp bách và sáu nhiệm vụ đó xét theo tính
chất, nội dung đều mang tính cấp thiết, đồng thời trực tiếp hoặc gián tiếp đều
có tác dụng bồi dưỡng sức dân, nâng cao dân trí, ni dưỡng dân khí, khơi
dậy ở mỗi người dân và ở tất cả các tầng lớp nhân dân ý thức, tinh thần làm
chủ nước nhà, ý thức trách nhiệm trước vận mệnh, tiền đồ của Tổ quốc Việt
Nam vừa giành được quyền độc lập, tự do.
Nói đến quyền dân chủ của nhân dân, Hồ Chí Minh ln đi kèm với nó
là tính từ “thực sự”, “thật sự”, “đầy đủ... để gián tiếp đối lập nó với một thứ
dân chủ chung chung, hình thức, chưa thực sự hoặc không thực sự. Theo
Người, “thực sự”, “thật sự” phải là một thuộc tính, một dấu hiệu khơng thể
thiếu của nền dân chủ của xã hội ta: “Nước ta phải đi đến dân chủ thực sự”.
Trong xã hội ta, “thực sự dân chủ” phải trở thành một điều kiện, một thứ
thước đo thực chất của chính quyền. Đồng thời, việc thực sự phát huy dân chủ

có tác dụng như một chiếc chìa khóa vạn năng để giải quyết mọi vấn đề: “Nhà
nước ta phát huy dân chủ đến cao độ đó là do tính chất Nhà nước ta là nhà
nước của nhân dân. Có phát huy dân chủ đến cao độ thì mới động viên được
tất cả lực lượng của nhân dân đưa cách mạng tiến lên”?

19



×