Tải bản đầy đủ (.pdf) (17 trang)

Tiểu luận xã hội học tôn giáo yếu tố ảnh hưởng tới hành vi đi lễ chùa của sinh viên học viện báo chí và tuyên truyền”

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (701.74 KB, 17 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết
Tơn giáo là một hình thái ý thức xã hội, xuất hiện từ rất sớm trong lịch
sử xã hội lồi người, có ảnh hưởng nhất định đến đời sống chính trị, tư tưởng,
văn hố, xã hội và tâm lý, đạo đức, lối sống, phong tục tập qn của nhiều
quốc gia, dân tộc. Tín ngưỡng và tơn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ
phận đời sống nhân dân,Việt Nam là một quốc gia đa tôn giáo, Đảng và Nhà
nước ta chủ trương thực hiện nhất qn chính sách tơn trọng tự do, tín
ngưỡng tơn giáo và khơng tín ngưỡng tơn giáo. Đặc biệt, tơn giáo hiện đại là
vấn đề mang tính thời sự, các vấn đề đời sống tôn giáo ngày càng thu hút
được sự quan tâm của các nhà nghiên cứu xã hội học. Trong thời kỳ đổi mới,
đặc biệt trong những năm gần đây, các tôn giáo ở Việt Nam luôn đồng hành
cùng dân tộc, được Nhà nước quan tâm, tạo điều kiện và bảo đảm hoạt động,
sinh hoạt tôn giáo theo đúng quy định của pháp luật.
Theo những nghiên cứu gần đây thì tỷ lệ thanh niên tham gia vào các
hành vi tơn giáo ngày càng nhiều, nổi bật trong đó là hành vi đi lễ chùa của
sinh viên. Bên cạnh đó, các nghiên cứu về Phật giáo chỉ ra rằng nữ giới có
khuynh hướng thiên về mặt tình cảm, họ sẽ dễ tin tưởng và tìm đến các
phương tiện thiên về tâm linh khi có các yếu tố khác quan tác động. Học viện
Báo chí và Tuyên truyền là một trong số những ngơi trường đại học có tỉ lệ
nữ sinh cao (chiếm 80% sinh viên trong trường). Từ những lý do xuất phát
từ những vấn đề trên, nhóm đã quyết định lựa chọn đề tài “Yếu tố tác động
tới hành vi đi lễ chùa của sinh viên Học viện Báo chí và Tun truyền”
làm đề tài nghiên cứu. Qua đó sẽ đưa ra một bức tranh chung về mục đích và
các yếu tố ảnh hưởng đến hành vi đó.


2. Tổng quan tài liệu
Về giới tính, một bài viết năm 2002 của tác giả Hoàng Thu Hương khi
thử nghiệm một nghiên cứu Xã hội học tại chùa Quán Sứ “Nhận diện sự đa
dạng nhóm của người đi lễ chùa” đã quan sát được tỷ lệ nữ giới nhiều hơn


nam giới; cụ thể vào ngày thường, nữ đến chùa chiếm tới 7/10 tổng số, hay
nam giới chỉ chiếm 1/7 số người đi nghe giảng kinh, còn vào ngày rằm, mùng
một thì tỷ lệ nam có cao hơn các thời điểm trên là 2/5 tổng số và nữ giới cũng
mang theo đồ lễ nhiều hơn nam giới (62.9% và 46.6%). Luận văn “Sự tham
gia hoạt động nghi lễ Phật giáo của Phật tử Hà Nội” của Hoàng Thị Thanh
Huyền 2014 cũng cho kết quả tương tự, với việc tham gia đại lễ Phật đản và
lễ Vu lan, nữ giới chiếm tỷ lệ khá lớn (tương ứng hai nghi lễ là 62.7% và
58.2%) hay các khóa lễ đáp ứng nhu cầu cũng thu hút sự quan tâm của nữ
giới hớn: tỷ lệ nữ luôn chiếm hơn 60%. Tuy nhiên, kết luận khi nghiên cứu
về nhóm khách thể là sinh viên lại chỉ ra giới tính khơng phải là yếu tố ảnh
hưởng đến hành vi đi lễ chùa (Trịnh Thị Tuyết, 2017).
Về độ tuổi, người đi chùa có xu hướng trẻ hố: nhóm 20-30 tuổi chiếm
ưu thế với 40.9%, nhóm 50-60 tuổi chỉ chiếm 8.7% và trên 60 tuổi chiếm
12% (Phạm Thị Thương, 2016). Hay theo kết quả nghiên cứu độ tuổi trung
bình của Phật tử chùa Thắng Nghiêm là 35 tuổi, điều này cho thấy đa phần
Phật tử trong độ tuổi còn trẻ: ở độ tuổi thanh niên (16-35) là 53% lớn hơn
Phật tử ở độ tuổi trung niên (47%) (Hoàng Thị Thanh Huyền, 2014) điều này
minh chứng Phật giáo đang ngày càng có sức hút đối với giới trẻ, và giới trẻ
ngày nay cũng có xu hướng tin tưởng và có tín ngưỡng đối với Phật giáo.
Dẫu vậy, trong khoảng thời gian cùng với hai nghiên cứu trên, khảo sát nữ
Phật tử lại nhận thấy phụ nữ cao niên (83%) chiếm tỉ lệ cao hơn hẳn phụ nữ


trung niên (30,8%) và thanh niên (10,2%); mức độ thỉnh thoảng đi lễ của
thanh niên (65,6%) và trung niên (57,6%) lại cao hơn cao niên (10,6%), tuy
nhiên với các khóa lễ đáp ứng nhu cầu như lễ cầu an, cầu siêu, cúng sao giải
hạn, ... thì nhóm thanh niên tham gia ít hơn tuổi trung niên. (Nguyễn Thị
Thành, 2016). Hay về hành vi chuẩn bị đồ lễ khi đi lễ chùa thì nhóm 40-59
tuổi có xu hướng mang nhiều đồ lễ hơn nhóm thanh niên 20-39 tuổi (lần lượt
là 63.6% và 55.7%) nhưng ở nhóm này lại chuẩn bị đồ lễ mang tính thực

dụng nhiều hơn (vàng mã, tiền cơng đức) (Hoàng Thu Hương, 2002).
Trong yếu tố cá nhân khi đi lễ chùa cịn có sự khác biệt về q quán/nơi
sinh sống, một vài nghiên cứu đã nêu ra như thanh niên ở nội thành Hà Nội
thường đi lễ chùa nhiều hơn người ở ngoại thành vì nhu cầu tơn giáo cá nhân
hoặc vì lịng mến mộ giáo lý của Phật giáo (Nguyễn Thị Minh Ngọc & cộng
sự, 2018). Tài liệu khác cho rằng khu vực miền núi có tần suất sinh viên đi
lễ chùa ít hơn so với nơng thôn và thành thị/thị trấn tuy nhiên sự khác biệt
không quá lớn, đặc biệt giữa nông thôn và thành thị (Trịnh Thị Tuyết, 2017).
Về đặc điểm tôn giáo của các cá nhân tham gia. Mặc dù trong phạm
vi tổng quan tài liệu, chỉ có một nghiên cứu phân tích sự khác biệt về đặc
điểm tôn giáo nhưng đây cũng là một trong những nhân tố quan trọng để có
thể “khắc họa” chân dung xã hội toàn diện về sinh viên HVBCTT khi đi lễ
chùa. Bài viết “Nguyên nhân đi lễ chùa của sinh viên trường Đại học Hồng
Đức” của Hoàng Thị Phương được đăng tải năm 2020, tác giả nhận thấy việc
có phải là Phật tử chính thức hay khơng có sự tác động đến mức độ đi lễ chùa
của sinh viên. Theo đó, sinh viên là Phật tử thường xun đến rất thường
xun đi lễ chùa hơn nhóm cịn lại (tương ứng 17.7% và 7.6%), đặc biệt vẫn
có 1.3% không theo tôn giáo nào lựa chọn chưa bao giờ đi chùa.
Với sự tác động từ người thân/ bạn bè, kết quả khảo sát của nghiên
cứu “Đặc điểm và hành vi đi lễ chùa của sinh viên Hà Nội hiện nay” cho


thấy sinh viên chủ yếu đi lễ chùa cùng người thân trong gia đình chiếm 74.6%
và là nhóm tỷ lệ cao nhất, cách biệt khá lớn là tỷ lệ sinh viên đi lễ cùng nhóm
bạn 17.4%. Hay nghiên cứu khác cũng nhận định “thanh niên đi lễ chùa còn
do truyền thống gia đình chi phối” (Nguyễn Thị Minh Ngọc & cộng sự,
2018). Điều này thấy rằng, gia đình và bạn bè hai yếu tố ảnh hưởng mạnh
mẽ tới việc đi lễ chùa, nếu mạng lưới thân cận của họ là những người có
niềm tin tơn giáo và thường xun có hoạt động đi lễ chùa có thể khiến việc
đi lễ chùa thành một hoạt động không thể thiếu, vấn đề này giúp nhóm có

thể tiếp tục triển khai phân tích bằng phỏng vấn sâu.
Qua tổng quan những nghiên cứu trên, hành vi đi lễ chùa của các nhóm
xã hội chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố khác nhau, trong đó nhóm thanh
niên, sinh viên hầu như đều có sự tác động từ phía cá nhân lẫn gia đình.
Những cơ sở tài liệu này sẽ tiếp tục cung cấp, bổ sung cho nhóm đề ra giả
thuyết và xây dựng khung phân tích phù hợp nhằm tìm ra sự khác biệt trong
các nhân tố ấy, liệu sinh viên HVBCTT có sự khác biệt như vậy khơng hay
đã có sự đổi mới, thay đổi so với những nghiên cứu đi trước.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn để chỉ ra những đặc điểm
và hành vi của nhóm sinh viên đi lễ chùa; những yếu tố tác động đến hành
vi đi lễ chùa của sinh viên Học viện Báo chí & Tuyên truyền.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
-Mô tả những đặc điểm của sinh viên Học viện Báo chí & Tun truyền.
-Tìm hiểu hành vi đi lễ chùa của sinh viên trong Học viện Báo chí & Tuyên
truyền.
-Phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến hành vi đi lễ chùa của sinh viên Học
viện Báo chí & Tuyên truyền.


4. Đối tượng, khách thể, phạm vi nghiên cứu
4.1 Đối tượng nghiên cứu: Yếu tốc tác động tới đi lễ chùa của sinh viên
4.2 Khách thể nghiên cứu: Sinh viên học viện báo chí tuyên truyền
4.3 Phạm vi nghiên cứu: tại Học viên báo chí tuyên truyền
5. Lý thuyết áp dụng, giả thuyết nghiên cứu
5.1 Lý thuyết áp dụng
5.1.1. Lý thuyết hành động xã hội.
Lý thuyết hành động xã hội là một trong những lý thuyết bắt nguồn từ
triết học. Lý thuyết này gắn liền với tên tuổi của các nhà xã hội: T. Parson,

Jurgen Habermas, Max Weber. Tuy có nhiều nhà xã hội học quan tâm đến
lý thuyết về hành động xã hội, nhưng người có cơng lớn nhất đưa ra lý thuyết
hành động xã hội phải kể đến Max Weber, nhà xã hội học, kinh tế học, triết
học người Đức, Một trong những luận điểm có ảnh hưởng to lớn đến lý thuyết
về hành động xã hội phải kể đến tác phẩm Wirtschaft und Gesellschaft (Kinh
tế và xã hội) (1922), ông định nghĩa xã hội học là “một môn khoa học nhằm
thông hiểu bằng cách lý giải hành động xã hội và nhờ đó giải thích một cách
nhân quả sự diễn tiến và các tác động của nó”. Khi nói tới hành động xã hội,
người ta hiểu rằng đó là hành động có liên quan đến người khác. Về mặt
phương pháp luận chủ thể nhận thức cần phân biệt hai nội dung của hành
động đó là cái “Ý” và cái “Nghĩa”. Cái “Ý “liên quan đến việc lý giải thế
giới nội tâm, thế giới tinh thần của chủ thể cịn cái nghĩa chính liên quan đến
lý giải dự đốn khả năng phản ứng từ phía người khác. (Các lý thuyết xã hội
học, Vũ Hào Quang, NXBĐHQG, 2017: 44)
Max Weber đã xác định: “Hành động xã hội là hành động mà chủ thể
gán cho nó những ý nghĩa chủ quan nhất định. Ý nghĩa chủ quan đỏ hưởng
tới người khác trong quá trình hành động và định hướng hành đồng của chủ
thể. Nói cách khác: “hành động được gọi là hành động xã hội khi nó tương


quan và định hướng vào hành động của người khác theo cái ý đã được nhận
thức bởi chủ thể hành động”. Như vậy không phải hành động nào cũng là
hành động xã hội. Khi hành động của cá nhân không có sự định hướng tới
người khác thì hành động đó không phải hành động xã hội. Phân loại hành
động xã hội: Thuyết hành động xã hội của Weber theo tác giả Lê Ngọc Hùng
(199-200) phân biệt rõ bốn loại hành động xã hội như sau: Hành động duy
lý - công cụ: là hành động được thực hiện với sự cân nhắc, tính tốn, lựa
chọn cơng cụ, phương tiện, mục đích sao cho có hiệu quả cao nhất. Hành
động duy lý giá trị: là hành động được thực hiện vì bản thân hành động (mục
đích tự thân). Thực chất loại hành động này có thể nhắm vào những mục

đích phi lý nhưng lại được thực hiện bằng những công cụ, phương tiện duy
lý. Hành động cảm tính (xúc cảm): là hành động do các trạng thái xúc cảm
hay tình cảm bộc phát gây ra mà khơng có sự cân nhắc, xem xét, phân tích
mối quan hệ giữa cơng cụ, phương tiện và mục đích hành động. Hành động
theo truyền thống: là loại hành động tuân thủ những thói quen, nghỉ lễ, phong
tục, tập quán đã được truyền lại từ đời này qua đời khác.
*Vận dụng lý thuyết vào đề tài
Lý thuyết hành động xã hội là lý thuyết nhằm lý giải sự tương tác giữa
con người và xã hội bằng cách gán cho nó một ý nghĩa nhất định. “Hành
động là của con người, do cá nhân hay nhóm thực hiện, nhưng động cơ và
mục đích của các hành động đó luôn chịu sự chi phối của bối cảnh và môi
trường xã hội. Chính vì vậy, khi nghiên cứu về hành động xã hội của con
người, nó vừa hướng đến lý giải những yếu tố mang tính chất riêng rẽ của
một cá nhân, nhóm cụ thể nhưng đồng thời cũng cho thấy được sự tác động
của yếu tố xã hội như: giá trị, chuẩn mực, tơn giáo tín ngưỡng, ... đến các
hành vi đó”. Vận dụng lý thuyết hành động xã hội vào đề tài sẽ giúp phân


tích mục đích đi lễ chùa của sinh viên HVBCTT, bên cạnh đó cịn có những
yếu tố từ mơi trường ảnh hưởng đến mục đích, hành động lễ chùa
5.1.2. Lý thuyết hành vi
Theo lý thuyết hành vi thì tất cả hay phần lớn hành vi của con người
đều được giải thích theo mơ hình kích thích – phản ứng và những phản ứng
này độc lập với động cơ chủ quan của con người, tức là những lý thuyết này
không quan tâm tới những tác động trong nội tâm con người, cái mà họ quan
tâm chính là những cái bộc lộ ra ngoài là những hành vi của con người.
Theo cách hiểu của lý thuyết hành vi chính thống rất phát triển ở Mỹ,
hành vi của con người chỉ là những phản ứng (máy móc) quan sát được sau
các tác nhân và nếu khơng quan sát được những phản ứng thì có thể nói rằng
khơng có hành vi. Lý thuyết này cho rằng chúng ta khoogn thể nghiên cứu

được những gì mà chúng ta không thể quan sát trực tiếp được. Do vậy, tâm
lý, ý thức con người không thể trở thành đối tượng nghiên cứu của lý thuyết
hành vi. Về sau trong quá trình phát triển thuyết hành vi, khái niệm hành vi
dần được mở rộng và chứa đựng thêm nhiều yếu tố mới. Các nhà hành vi
mới (hay còn gọi là các nhà hành vi xã hội) cho rằng giữa hai yếu tố tác nhân
và phản ứng cịn có các yếu tố trung gian được chia làm hai loại là các nhu
cầu sinh lý và các yếu tố nhận thức. Nhà xã hội học Mỹ G. Mead đưa ra luận
điểm về bản chất xã hội của hành vi con người: “Hành vi xã hội không thể
hiểu được nếu xây dựng nó từ các tác nhân và phản ứng. Nó cần phân tích
như một chỉnh thể linh hoạt, khơng một bộ phận nào của chỉnh thể được phân
tích hoặc có thể được phân tích độc lập”. Điều này có nghĩa, hành vi xã hội
là một thể thống nhất gồm các yếu tố bên trong và bên ngồi có mối quan hệ
chặt chẽ với nhau.
Như vậy, hành vi của con người là một tập hợp nhiều hành động (hay
việc làm cụ thể) liên kết với nhau một cách hết sức phức tạp và chịu ảnh


hưởng của nhiều yếu tố bên trong (như tính cách, di truyền, …) và các yếu
tố bên ngoài (như kinh tế, xã hội, văn hóa, chính trị, mơi trường,…) dưới
nhiều góc độ và mức độ khác nhau. Có 4 thành phần tạo nên mỗi hành vi của
con người là: kiến thức, niềm tin, thái độ và thực hành. Mỗi hành vi là sự thể
hiện của tất cả 4 thành phần bên trong một loạt các hành động có thể quan
sát được nhằm đáp ứng một kích thích bên ngồi nào đó tác động lên cơ thể.
Vận dụng lý thuyết vào đề tài
Theo quan điểm của lý thuyết hành vi, áp dụng vào đề tài nghiên cứu
này, tìm hiểu xem hành vi con đi lễ chùa của sinh viên Học viện Báo chí và
Tuyên truyền được sinh ra từ đâu hay có thể nói là từ suy nghĩ tới hành động
có những tác nhân nào (mơi trường, gia đình, bạn bè, ...). Gia đình, mơi
trường: là một nơi có thể là tác nhân tới hành vi đi lễ chùa vì có nhiều gia
đình, làng xá có truyền thống thờ cúng, sùng bái tự nhiên với tín ngưỡng đa

thần và âm tính (thờ Mẫu), đến thờ Tam, Tứ Phủ, hay thờ tứ Pháp (Mây,
mưa,sấm, đến thờ thực vật, động vật (Rồng tiên, Cây lúa,...) đến thờ Hồn,
Vía, Tổ nghề, Thành Hồng làng,... Rồi thờ Thần linh, như Thổ công, Thần
tài, Thần thánh, các anh hùng dân tộc và các tín ngưỡng tơn giáo du nhập
khác như Phật, Lão, Nho, Thiên chúa, Hồi, Tin lành hay mới bản địa hóa
theo nhu cầu của vùng đất mới như Cao Đài, Hòa hảo… Nếu trường hợp ít
ảnh hưởng hành vi tác nhân là bạn bè thì do có thể là hành vi “a dua” đi theo
hiệu ứng đám đông, chỉ đi chơi, chứ không hề có mục đích cụ thể nào.
5.2 Giả thuyết nghiên cứu
-Cầu bình an, tài lộc, tình dun là 3 mục đích phổ biến nhất của sinh viên
khi đi lễ chùa
-Sinh viên đi lễ chùa ít quan tâm đến giáo lý, giáo luật trong Phật giáo
-Sinh viên nữ thực hiện hành vi đi lễ chùa nhiều hơn sinh viên nam


-Phần lớn, hành vi đi lễ chùa của sinh viên vẫn chịu ảnh hưởng từ những
quan niệm truyền thống.
6. Khung lý thuyết, biến số
6.1 Khung lý thuyết
Quan điểm của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước

Đặc điểm cá nhân:
-Giới tính
-Năm học
-Tơn giáo
-Nơi cư trú

Yếu tố tác động đến
hành vi đi lễ chùa
của sinh viên

HVBCTT

-Thu nhập
-Điều kiện gia đình

Mơi trường kinh tế- văn hóa- xã hội


6.2 Biến số
Biến độc lập: giới tính, năm học, tơn giáo, nơi cư trú trước khi học đại học,
thu nhập, điều kiện kinh tế gia đình, học lực, hiện tại đang ở cùng ai
Biến phụ thuộc: Yếu tố tác động tới hành vi đi lễ chùa của sinh viên
HVBCTT
Biến can thiệp:
Quan điểm của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước
Mơi trường kinh tế - văn hóa - xã hội
7. Phương pháp nghiên cứu, phương pháp thu thập thông tin
7.1 Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu được thực hiện trên cơ sở sử dụng phương pháp luận của
Chủ nghĩa duy vật biện chứng cũng như hệ thống các quan điểm của Đảng,
chính sách nhà nước.
7.2 Phương pháp thu thập thơng tin
Để đảm bảo tính khách quan và thu thập đầy đủ thông tin như mục
nghiên cứu đã đề ra, nghiên cứu được thực hiện giữa phương pháp nghiên
cứu định lượng và phân tích tài liệu:
Phương pháp định lượng: Sử dụng phương pháp Anket (điều tra bằng
bảng hỏi) nhằm mô tả và làm rõ kết quả khảo sát về hành vi đi lễ chùa của
sinh viên Học viện Báo chí & Tuyên truyền.
Phương pháp phân tích tài liệu: Sưu tầm, tổng hợp, hệ thống hóa các
tài liệu, lý thuyết được đăng tải, cơng bố trên các phương tiện truyền thơng

đại chúng có liên quan đến vấn đề nghiên cứu.


8. Phương pháp chọn mẫu
Sử dụng phương pháp chọn mẫu phân cụm/theo chùm:
Bước 1: Lập danh sách các lớp chia theo 2 chùm là lớp thuộc khối lý luận và
lớp thuộc khối nghiệp vụ từ năm nhất đến năm tư năm học 2020 – 2021
(tương ứng K41 - K38)
Bước 2: Từ danh sách các lớp mỗi chùm, chọn ngẫu nhiên hệ thống 3 lớp
theo bước nhảy k.


Có 66 lớp khối lý luận: chọn ngẫu nhiên hệ thống 5 lớp theo bước

nhảy k=22. Cứ 22 lớp, chọn lấy một lớp vào mẫu. Chọn lớp đầu tiên trong
khoảng từ 1 – 66 theo danh sách quay vịng.


Có 81 lớp khối nghiệp vụ: chọn ngẫu nhiên hệ thống 5 lớp theo bước

nhảy k=27. Cứ 27 lớp, chọn lấy một lớp vào mẫu. Chọn lớp đầu tiên trong
khoảng từ 1- 81 theo danh sách quay vòng.
Bước 3: Chọn ngẫu nhiên đơn giản 30 sinh viên mỗi lớp. Tổng số bảng hỏi
phát ra là 300 bảng hỏi.
9. Phương pháp xử lý thông tin
-Thông tin định lượng được xử lý bằng phần mềm dữ liệu định lượng IBM
SPSS statistics 20.
10. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
10.1 Về mặt lý luận
Nghiên cứu của nhóm có đóng góp nhất định về mặt lý luận cũng như

phương pháp nghiên cứu xã hội học tôn giáo ở Việt Nam, trên cơ sở vận
dụng những lý thuyết xã hội học tôn giáo kinh điển kết hợp với các lý thuyết
và phương pháp nghiên cứu xã hội học hiện đại. Nghiên cứu sẽ góp phần vào


việc làm sáng tỏ cách thức vận dụng lí thuyết xã hội học phương Tây trong
nghiên cứu tôn giáo Việt Nam. Đồng thời góp phần nhỏ vào sự phát triển của
môn xã hội học tôn giáo ở Việt Nam.
10.2 Về mặt thực tiễn
Nghiên cứu hành vi đi lễ chùa của sinh viên Học viện Báo chí và
Tuyên truyền mang ý nghĩa thực tiễn hết sức sâu sắc. Đề tài được thực hiện
với mong muốn đem lại một bức tranh cụ thể hơn về hoạt động tôn giáo của
sinh viên đang diễn ra trên địa bàn thành phố Hà Nội nói chung và Học viện
Báo chí và Tun Truyền nói riêng. Trên cơ sở đó nghiên cứu chỉ ra các yếu
tố ảnh hưởng tới hành vi đi lễ chùa của giới trẻ hiện nay. Ngoài ra, nghiên
cứu này cũng là nguồn tư liệu tham khảo cho sinh viên của ngành xã hội học.
11. Thao tác hóa khái niệm
11.1 Khái niệm hành vi
Trong từ điển Tiếng Việt do Nguyễn Như Ý chủ biên đã định nghĩa
hành vi là “cách ứng xử trong một hồn cảnh nhất định được biểu hiện bằng
lời nói, cử chỉ nhất định”.
Theo từ điển Tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên: Hành vi là toàn bộ
những phản ứng, cách cư xử biểu hiện ra ngoài của một người trong hoàn
cảnh cụ thể nhất định.
Từ điển Tâm lý học do RJ Corsini chủ biên định nghĩa hành vi như
sau: hành vi được hiểu là những hành động, phản ứng, những tương tác đáp
lại kích thích bên trong và bên ngoài, bao gồm những cử chỉ quan sát được
một cách khách quan, những cử chỉ thuộc về nội tâm và q trình vơ thức.
Cũng trong từ điển Tâm lý học do Vũ Dũng chủ biên cho rằng: Hành vi là
sự tác động qua lại giữa cơ thể sống với môi trường xung quanh, do tính tích



cực bên ngồi (kích thích) và bên trong (nhu cầu) thúc đẩy. Thuật ngữ hành
vi dùng để chỉ hành động của các cá thể hay một nhóm, lồi.
Theo từ điển Xã hội học thì “Hành vi là thể hiện một sự thay đổi trạng
thái của sinh vật được điều khiển bởi tiền động cơ, như bằng thần kinh chẳng
hạn”. Nhà Xã hội học người Mỹ George Homans đưa ra rằng: Hành vi xã
hội là hành vi mà con người lặp đi lặp lại, khơng phụ thuộc vào việc nó có
có được hoạch định hay khơng và cơ sở của nó là sự trao đổi giữa hai hay
nhiều người. Có thể hiểu, hành vi con người là những phản ứng, cách cư xử,
những biểu hiện ra bên ngoài với xã hội trong mối quan hệ giữa các cá nhân
với nhau.
Như vậy có rất nhiều khái niệm khác nhau về hành vi. Tuy nhiên, trong
phạm vi nghiên cứu này, sử dụng hành vi với khái niệm chỉ hành động có ý
thức của chủ thể trước, trong và sau khi lễ chùa, nguyên nhân và mục đích
của hành động đó.
11.2 Khái niệm lễ chùa
“Chùa” là cơng trình được xây cất lên, làm nơi thờ Phật, là một nơi an
trí tượng Phật và là chỗ cư trú tu hành của các tăng ni. Tại đây, mọi người,
kể cả tín đồ hay những người khơng theo đạo đều có thể đến thăm viếng, thể
hiện lịng thành với Phật hay nghe giảng kinh hay thực hành các nghi lễ tôn
giáo.
Theo sách “Chùa Hà Nội”, “Chùa” là từ thuần Việt chỉ nơi đặt thờ
tượng Phật, là nơi cư trú, tu hành đạo Phật của các Tăng ni nơi thực hành các
nghi thức tơn giáo tín ngưỡng Phật giáo của phật tử. Chùa là nơi thờ Phật và
tu hành theo đạo Phật, do đó, chùa mang hai ý nghĩa: Thứ nhất, chùa là cơng
trình kiến trúc được xây dựng nhằm mục đích thờ phụng các Phật, Bồ Tát,
A La Hán, ... Thứ hai, chùa là địa điểm để thực hành các hoạt động, các lễ
nghi Phật giáo của các tín đồ.



Theo từ điển Tiếng Việt, nói một cách tổng quát thì “Lễ” với vai trị
là động từ là từ chỉ hành động vái, lạy để tỏ lịng cung kính theo phong tục
cũ (ví dụ: vào chùa lễ Phật) hay tham dự các nghi thức tơn giáo để tỏ lịng
cung kính với Chúa, Phật (ví dụ: đi lễ nhà thờ)
Theo từ điển Bách khoa Việt Nam: “Lễ là hệ thống các hành vi, động
tác nhằm biểu hiện lịng tơn kính của con người với thần linh, phản ánh ước
mơ chính đáng của con người trước cuộc sống mà bản thân họ chưa có khả
năng thực hiện.”
Trong cuốn “Xã hội học” của Richard T. Schaefer, nghi lễ hay các
nghi thức tôn giáo là tín ngưỡng của một tơn giáo nào đó, ít hay nhiều thể
chế hóa, bắt phải thực hiện để cho việc theo tín ngưỡng đó có thể nhìn thấy
và kiểm tra được.
Với tác giả Nguyễn Thị Thương: “Hành vi đi lễ chùa là những hành
động, phản ứng có ý thức của chủ thể đối với môi trường, với người khác và
với bản thân, thể hiện qua cách thức ứng xử của chủ thể trong quá trình đi lễ
chùa”
Trong nghiên cứu của mình, tác giả Nguyễn Thị Vân chỉ ra rằng:
“Những người đi lễ chùa hành lễ tại chùa sẽ mang theo đồ cúng lễ, lễ vật
dâng cúng để biểu hiện lịng thành kính. Lễ vật dâng cúng thơng thường ngày
nay là hương hoa, tiền vàng, nến, quả… hoặc những đồ tế tương tự như
chng, tượng. Người ta cũng có thể cúng tiền thật hoặc bỏ tiền vào hịm
cơng đức đặt tại các ban. Thứ nhất mục đích đi lễ của họ là cầu mong mưa
thuận gió hịa, vạn sự như ý, cầu mong đất nước thái bình, người người ấm
no. Cầu mong gia đình, nội tộc con cháu sum vầy, vui vẻ. Và cũng để giải
tỏa tâm lý căng thẳng sau một năm tập trung làm việc và cầu may cho năm
mới. Thứ hai đi lễ chùa là để vãn cảnh, du xuân như một nét văn hóa, có


những người thì kết hợp cả hai vừa để thỏa mãn đời sống tâm linh, vừa để

giải trí.”
Trong nghiên cứu này, tiếp cận nghĩa của từ “lễ chùa” với vai trị là
hành động có ý thức của chủ thể, tham dự nghi thức tôn giáo để đạt được
mong muốn, mục đích của mình. Hành động lễ chùa được thể hiện qua cách
thức hành lễ, sắm lễ, cầu nguyện và cách ứng xử.
11.3 Khái niệm sinh viên
Thuật ngữ “sinh viên” có nguồn gốc từ tiếng Anh là “student” với
nghĩa là người làm việc học tập, người khai thác tìm hiểu tri thức.
Định nghĩa của Từ điển tiếng Việt đưa ra: “SV là người đang học ở
bậc đại học” (22, tr.829). Có thể phân loại SV theo nhiều hình thức khác
nhau: sinh viên tập trung, sinh viên chính quy, sinh viên khơng tập trung,
sinh viên vừa làm vừa học.
Theo tác giả Phạm Minh Hạc (1995), SV là người đại biểu của nhóm
xã hội đặc biệt là thanh niên đang chuẩn bị cho hoạt động sản xuất vật chất
hay tinh thần của xã hội.
V.I. Lenin khi phân tích tình hình và hoạt động của giới SV cũng đã
nói về SV như sau: “Sinh viên là bộ phận nhạy cảm nhất trong giới tri thức
được gọi là tri thức chính vì nó phản ánh và thể hiện sự phát triển của các lợi
ích giai cấp và của nhóm chính trị trong tồn bộ xã hội một cách có ý thức
hơn cả, kiên quyết hơn cả và chính xác hơn cả”.
Dưới góc độ khoa học, SV có những đặc điểm cơ bản sau:
- Có đặc thù trong sự phân tầng xã hội, đó là khả năng di động xã hội cao,
do tính chất của hoạt động nghề nghiệp trong tương lai họ là những người có
cơ hội thuận lợi chiếm những vị trí cao trong xã hội.


- Là nhóm xã hội đặc thù về lứa tuổi và giai đoạn xã hội hóa so với các nhóm
thiếu niên, nhi đồng và nhóm trung niên cao tuổi.
- Có lối sống và ĐHGT đặc thù, đó là khả năng cơ động thích ứng cao, tiếp
thu nhanh những giá trị mới.

Theo nghiên cứu, SV HVBCTT là những người đang theo học hệ đại
học chính quy tập trung tại các chuyên ngành thuộc khối nghiệp vụ và lý
luận từ K38 đến K40 trong học viện, họ được đào tạo và trang bị kiến thức
cơ bản, chuyên sâu về chuyên ngành cũng như lý luận chính trị.
Sinh viên Học viện báo chí mang tinh đặc thù riêng của trường đại học
đồng thời là trường Đảng: năng động, sáng tạo. ham tìm tịi, học hỏi, sáng
tạo trong học tập và các hoạt động rèn luyện ln sẵn sàng tìm hiểu thơng
tin cho việc học tập và nghiên cứu, kịp thời nắm bắt thông tin kinh tế, chính
trị, xã hội. Sinh viên Học viện Báo chí tun truyền phần lớn có sự hiểu biêt,
quan tâm, nhạy bén về chính trị và có cơ hội tiếp xuc với lối làm việc tập thể
nhưng mặt khác sinh viên cũng có thể dễ bị chủ nghĩa cá nhân chi phối nếu
khơng có bản lĩnh vững vàng.

Tài liệu tham khảo
1. Phạm Thị Thương (2017); Giáo dục hành vi đi lễ chùa phù hợp lối
sống mới cho thanh niên Việt Nam hiện nay; Tạp chí Giáo dục


2. Trịnh Thị Tuyết (2017); Đặc điểm và hành vi đi lễ chùa của sinh viên
Hà Nội hiện nay; Viện Hàn lâm Khoa học xã hội, Luận văn Thạc sĩ
Xã hội học
3. Nguyễn Thị Minh Ngọc; Hoạt động tôn giáo của thanh niên phật tử
Hà Nội hiện nay; Viện Hàn lâm Khoa học xã hội & Đại học Quốc gia
Hà Nội
4. Hoạt động tôn giáo của thanh niên phật tử Hà Nội hiện nay" Văn Thị
Thanh Bình
5. “Nhận thức, thái độ, hành vi của sinh viên trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh

về hoạt động hiến máu nhân đạo”, Lê Vân Hà, Học viện Báo chí và
Tuyên truyền, 2016.


6. Hành vi tôn giáo của thanh niên Hà Nội và ảnh hưởng của nó trong
mối quan hệ gia đình hiện nay; Tạp chí Khoa học Xã hội số 11
7. Hồng Thị Phương (2019); Thực trạng đi lễ chùa của sinh viên trường
Đại học Hồng Đức; Tạp chí Khoa học Trường Đại học Hồng Đức số
46
8. Hoàng Thu Hương (2002); Nhận diện sự đa dạng nhóm của người đi
lễ chùa - Một thử nghiệm nghiên cứu xã hội học tôn giáo tại chùa
Quán Sứ ở Hà Nội hiện nay; Hội nghị Khoa học trẻ Đại học Quốc gia
Hà Nội
9. Hoàng Thị Phương (2020); Nguyên nhân đi lễ chùa của sinh viên
trường Đại học Hồng Đức; Tạp chí Khoa học trường Đại học Hồng
Đức số 52
10. “Sự thực hành nghi lễ tôn giáo của người Công Giáo nhập cư tại Hà
Nội hiện nay” (Nghiên cứu trường hợp Giáo xứ Cổ Nhuế, Quận Bắc
Từ Liêm, Hà Nội)



×