Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

Tom tat đảng bộ thành phố hà nội lãnh đạo bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa từ năm 1998 đến năm 2014

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (251.25 KB, 25 trang )

1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài luận án
Di sản văn hóa (DSVH) là những bằng chứng có ý nghĩa quan trọng,
minh chứng về lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc, giúp
con người biết được cội nguồn của dân tộc mình, hiểu về truyền thống lịch
sử, đặc trưng văn hóa của đất nước, góp phần hình thành nhân cách con
người Việt Nam hiện đại. Lịch sử hàng nghìn năm của dân tộc trong việc bảo
tồn DSVH tại Việt Nam không chỉ là bảo vệ, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc
mà cịn gắn liền với việc bảo vệ nền độc lập dân tộc.
Di sản văn hóa Việt Nam là bộ phận DSVH của nhân loại, đây là tài sản
quý giá của con người Việt Nam, là yếu tố quan trọng làm nên bản sắc của
dân tộc Việt Nam và cũng là cơ sở để sáng tạo những giá trị văn hóa, DSVH.
Việc bảo tồn, tôn tạo và phát huy DSVH là trách nhiệm của mỗi người, mỗi
tổ chức, mỗi dân tộc để thể hiện việc "uống nước nhớ nguồn" tri ân với tiền
nhân, đây cũng là những động lực tạo ra sức mạnh tinh thần và là cội nguồn
của sức mạnh vật chất để bảo vệ, xây dựng và phát triển đất nước.
Di sản văn hóa cịn chứa đựng những giá trị kinh tế to lớn, là nguồn lực
đối với phát triển kinh tế, nếu được khai thác, sử dụng tốt sẽ góp phần quan
trọng vào việc phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Nếu DSVH bị mất đi
không đơn thuần là mất tài sản vật chất, mà là mất đi những giá trị tinh thần
lớn lao khơng gì bù đắp nổi, đặc biệt là khi đất nước đang rất cần phát huy
tối đa nguồn nội lực để phát triển.
Trong thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế hiện nay, Đảng và Nhà nước
rất quan tâm đến việc bảo tồn và phát huy giá trị DSVH của dân tộc. DSVH
dân tộc được Đảng xác định là "tài sản vô giá, gắn kết cộng đồng dân tộc, là
cốt lõi của bản sắc dân tộc, cơ sở để sáng tạo những giá trị mới và giao lưu
văn hóa". Vì thế cần: "Bảo tồn và phát huy các di sản văn hóa dân tộc… chú
trọng gìn giữ, phát huy các di sản văn hóa phi vật thể, tơn tạo và quản lý tốt
các di sản văn hóa vật thể, các di tích lịch sử"...
Hà Nội là trung tâm hội tụ và tỏa sáng văn hóa số một của cả nước, với


sự giàu có, đa dạng về các loại hình DSVH vật thể và DSVH phi vật thể. Từ


2
khi triển khai thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII (1998) về xây
dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc
đến nay, công tác bảo tồn và phát huy giá trị DSVH ở Hà Nội đã đạt được
nhiều thành tựu quan trọng, góp phần mở rộng giao lưu và hội nhập văn hóa
với các nước trong khu vực và thế giới. Bên cạnh những thành tựu đạt được,
quá trình lãnh đạo bảo tồn và phát huy giá trị DSVH của Đảng bộ thành phố
Hà Nội từ năm 1998 đến nay cũng bộc lộ những hạn chế cả trong nhận thức
cũng như trong hoạt động thực tiễn, dẫn đến tình trạng xâm lấn đất đai, cảnh
quan di sản, làm biến dạng các DSVH, biến tướng các lễ hội truyền thống...
Thực tiễn quá trình Đảng bộ thành phố Hà Nội lãnh đạo bảo tồn và phát
huy giá trị DSVH từ năm 1998 đến nay với những ưu điểm và hạn chế nêu
trên rất cần được nhìn nhận, đánh giá một cách khách quan, trên cơ sở đó đúc
kết những kinh nghiệm để vận dụng trong thời gian tới.
Xuất phát từ tầm quan trọng của vấn đề, trong thời gian qua đã có rất
nhiều cơng trình nghiên cứu có liên quan đến Đảng bộ thành phố Hà Nội
lãnh đạo bảo tồn và phát huy giá trị DSVH được công bố dưới nhiều cấp độ
và phạm vi khác nhau. Tuy nhiên, chưa có cơng trình nào đi sâu nghiên cứu
một cách độc lập, có tính hệ thống về q trình Đảng bộ thành phố Hà Nội
lãnh đạo bảo tồn và phát huy giá trị DSVH từ năm 1998 đến năm 2014, dưới
góc độ chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam.
Với những lý do trên, nghiên cứu sinh chọn đề tài: Đảng bộ thành phố
Hà Nội lãnh đạo bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn
hóa từ năm 1998 đến năm 2014 làm luận án tiến sĩ, chuyên ngành lịch
sử Đảng Cộng sản Việt Nam.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu

Làm rõ q trình Đảng bộ thành phố Hà Nội lãnh đạo bảo tồn và phát
huy các giá trị DSVH từ năm 1998 đến năm 2014, trên cơ sở đó đúc kết một
số kinh nghiệm để vận dụng trong giai đoạn hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ của luận án
Tổng quan tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài luận án.


3
Làm rõ những yếu tố tác động đến quá trình Đảng bộ thành phố Hà Nội
lãnh đạo bảo tồn và phát huy giá trị DSVH từ năm 1998 đến năm 2014.
Trình bày có hệ thống chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng bộ thành phố
Hà Nội về bảo tồn và phát huy giá trị DSVH từ năm 1998 đến năm 2014, qua
hai giai đoạn 1998 - 2008 và 2008 - 2014.
Nhận xét và đúc kết kinh nghiệm từ quá trình Đảng bộ thành phố Hà
Nội lãnh đạo bảo tồn và phát huy giá trị DSVH từ năm 1998 đến năm 2014.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận án nghiên cứu hoạt động lãnh đạo của Đảng bộ thành phố Hà Nội
về bảo tồn và phát huy giá trị DSVH từ năm 1998 đến năm 2014.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Về thời gian: Từ năm 1998 đến năm 2014, với mốc chia chương là năm
2008: Năm 1998 là thời điểm Đảng Cộng sản Việt Nam ra Nghị quyết Trung
ương 5 khóa VIII về "Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc", cũng là năm Thành ủy Hà Nội ra chương trình hành
động thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII; Năm 2008 là năm Hà
Nội mở rộng địa giới hành chính (sáp nhập tỉnh Hà Tây, huyện Mê Linh và 4 xã
của huyện Lương Sơn, Hịa Bình); Năm 2014 là thời điểm các cấp bộ đảng
trên phạm vi cả nước tiến hành tổng kết 15 năm thực hiện Nghị quyết Trung
ương 5 khóa VIII, trong đó có Đảng bộ thành phố Hà Nội.
Về không gian: Nghiên cứu công tác bảo tồn và phát huy giá trị DSVH

trên địa bàn thành phố Hà Nội giai đoạn 1998 - 2008 (khi Hà Nội chưa mở
rộng) và khi thành phố Hà Nội mở rộng (giai đoạn 2008 - 2014).
Về nội dung: Luận án tập trung nghiên cứu làm rõ những yếu tố tác động;
chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng bộ thành phố Hà Nội về bảo tồn và phát
huy giá trị DSVH (bao gồm: bảo tồn và phát huy giá trị DSVH vật thể; bảo
tồn và phát huy giá trị DSVH phi vật thể); nhận xét và đúc kết kinh nghiệm
từ quá trình Đảng bộ thành phố Hà Nội về bảo tồn và phát huy giá trị DSVH.
4. Cơ sở lý luận, nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận


4
Luận án được thực hiện trên cơ sở lý luận là chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh; quan điểm của Đảng, chính sách của Nhà nước Việt
Nam về văn hóa, bảo tồn và phát huy giá trị DSVH.
4.2. Nguồn tư liệu
Các tác phẩm của Mác - Ăngghen, V.I. Lênin, Hồ Chí Minh; các văn
kiện của Đảng và Nhà nước; các văn kiện của Đảng bộ và chính quyền
Thành phố Hà Nội có liên quan đến văn hóa, bảo tồn, tôn tạo và phát huy giá
DSVH; các chương trình, báo cáo của Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch (nay
là Sở Văn hóa - Thể thao); các cơng trình nghiên cứu liên quan đến đề tài
luận án…
4.3. Phương pháp nghiên cứu
Luận án chủ yếu sử dụng phương pháp lịch sử và phương pháp lôgic,
kết hợp với phương pháp thống kê, so sánh, phân tích, tổng hợp... để làm rõ
các nội dung của luận án. Trong đó:
Phương pháp lịch sử được sử dụng để phân kỳ kỳ lịch sử, làm rõ bối
cảnh, quá trình hoạch định chủ trương và chỉ đạo của Đảng bộ thành phố Hà
Nội về bảo tồn và phát huy giá trị DSVH theo diễn tiến thời gian.
Phương pháp lôgic dùng để làm rõ các bước phát triển tư duy nhận thức

và chỉ đạo thực tiễn của Đảng bộ thành phố Hà Nội về bảo tồn và phát huy
giá trị DSVH; rút ra những ưu điểm, hạn chế, chỉ rõ nguyên nhân và đúc kết
những kinh nghiệm từ quá trình lãnh đạo của Đảng bộ Thành phố về bảo tồn
và phát huy giá trị DSVH từ năm 1998 đến năm 2014.
Phương pháp phân tích, tổng hợp, thống kê được sử dụng nhằm làm rõ chủ
trương và luận chứng các mặt chỉ đạo của Đảng bộ thành phố Hà Nội về bảo
tồn và phát huy giá trị DSVH qua hai giai đoạn 1998 - 2008 và 2008 - 2014.
Phương pháp so sánh được sử dụng để so sánh hoạt động lãnh đạo của
Đảng bộ thành phố Hà Nội về bảo tồn và phát huy giá trị DSVH giữa các
giai đoạn cũng như giữa Hà Nội với các địa phương khác.
5. Đóng góp về khoa học của luận án
Góp phần hệ thống hóa chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng bộ thành phố
Hà Nội về bảo tồn và phát huy giá trị DSVH năm 1998 đến năm 2014.


5
Đưa ra những nhận xét đánh giá có cơ sở khoa học về quá trình Đảng bộ
thành phố Hà Nội lãnh đạo bảo tồn và phát huy giá trị DSVH năm 1998 đến
năm 2014 trên cả hai bình diện ưu điểm, hạn chế, làm rõ nguyên nhân của ưu
điểm, hạn chế.
Đúc kết những kinh nghiệm chủ yếu từ quá trình Đảng bộ thành phố Hà
Nội lãnh đạo bảo tồn và phát huy giá trị DSVH từ năm 1998 đến năm 2014.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
6.1. Ý nghĩa lý luận
Góp phần vào việc tổng kết quá trình Đảng lãnh đạo bảo tồn và phát huy
giá trị DSVH trong thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế (qua thực tiễn địa
bàn thành phố Hà Nội).
Góp thêm luận cứ cho việc đổi mới chủ trương, chính sách bảo tồn và
phát huy giá trị di sản văn hóa trong thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn

Những kinh nghiệm được đúc kết trong luận án có thể được vận dụng
trong lãnh đạo bảo tồn và phát huy giá trị DSVH của thành phố Hà Nội trong
thời gian tới.
Luận án là tài liệu tham khảo phục vụ công tác nghiên cứu, hoạt động
tuyên truyền giáo dục về bảo tồn và phát huy giá trị DSVH; đồng thời là tài
liệu tham khảo cho công tác nghiên cứu, giảng dạy lịch sử Đảng và lịch sử
Đảng bộ địa phương.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
nội dung của luận án gồm 4 chương, 9 tiết.
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.1. Quan niệm về di sản văn hóa, bảo tồn và phát huy giá trị di sản
văn hóa


6
Trong nội dung này, luận án khái quát làm rõ hai vấn đề cơ bản: (1) Quan
niệm về DSVH, làm rõ DSVH là gì, phân tích DSVH vật thể và DSVH phi
vật thể, mối quan hệ giữa DSVH vật thể và DSVH phi vật thể. (2) Quan
niệm về bảo tồn và phát huy giá trị DSVH, làm rõ thuật ngữ bảo tồn và phát
huy giá trị DSVH, phân tích mối quan hệ biện chứng giữa bảo tồn và phát
huy DSVH, bảo tồn thành cơng thì mới phát huy được các giá trị của DSVH
và ngược lại, vì có mối quan hệ như vậy nên hoạt động này đôi khi được gọi
một cách ngắn gọn là hoạt động bảo tồn và nó tồn tại trong mơi trường động.
1.2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án
1.2.1. Các nghiên cứu chung về văn hóa, di sản văn hóa, bảo tồn và
phát huy giá trị di sản văn hóa dân tộc
Các cơng trình đã xuất bản thành sách như: Bảo tồn và phát huy bản sắc

văn hóa dân tộc (1999) của Nguyễn Quang Điển và cộng sự; Thành tựu
trong xây dựng và phát triển văn hóa Việt Nam 25 năm đổi
mới (1986 - 2010) (2010), của Phạm Duy Đức và cộng sự; Đảng lãnh
đạo xây dựng và phát triển văn hóa trong thời kỳ đổi mới (2012), của
Nguyễn Danh Tiên;... Luận án Tiến sĩ (2014), của Bùi Bạch Đằng: Đảng
Cộng sản Việt Nam lãnh đạo phát huy bản sắc văn hóa dân tộc từ năm 1998
đến năm 2014. Các bài viết: "Một số vấn đề bảo tồn và phát huy những di
sản văn hóa các dân tộc hiện nay", của Nguyễn Văn Huy (2003), Tạp chí
Cộng sản; "Bảo tồn và phát huy văn hóa phi vật thể", của Ngơ Đức Thịnh
(2007), Tạp chí Cộng sản; "Bảo tồn di sản văn hóa phi vật thể ở nước ta hiện
nay", của Nguyễn Chí Bền (2007), Tạp chí Cộng sản...
Những cơng trình đề cập đến những vấn đề lý luận chung về văn hóa,
DSVH; ví trí, vai trị, đường lối, chủ trương, q trình Đảng lãnh đạo và đề
xuất giải pháp nâng cao hiệu quả bảo tồn và phát huy các giá trị DSVH.
1.2.2. Các nghiên cứu về văn hóa, di sản văn hóa, bảo tồn và phát huy
giá trị di sản văn hóa ở các địa phương trên cả nước
Sách đã xuất bản như: Bảo tồn và phát huy di sản văn hóa phi vật thể
trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh (2002) của Đặng Văn Bài và cộng sự;
Công cuộc bảo tồn di sản thế giới ở Thừa Thiên - Huế (2013), của Trung tâm
Bảo tồn di tích cố đơ Huế... Các luận án tiến sĩ như: Vấn đề giữ gìn và phát


7
huy di sản văn hóa ở Thừa Thiên - Huế hiện nay (2014), của Trần Thị Hồng
Minh; Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh lãnh đạo cơng tác bảo tồn và phát
huy các giá trị di sản văn hóa từ năm 1998 - 2014 (2018), của Trần Thị Kim
Ninh; Đảng bộ tỉnh Nghệ An lãnh đạo bảo tồn và phát huy giá trị các di tích
lịch sử cách mạng từ năm 1996 đến năm 2015 (2018), của Hoàng Văn Vân.
Những cơng trình nghiên cứu đã đề cập đến thực trạng, kết quả, hạn chế,
giải pháp về công tác bảo tồn và phát huy giá trị DSVH.

1.2.3. Các nghiên cứu về di sản văn hóa, bảo tồn và phát huy giá trị di
sản văn hóa trên địa bàn thành phố Hà Nội
Các cuốn sách như: Bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa vật thể
Thăng Long - Hà Nội (2010), của Nguyễn Chí Bền và cộng sự; Bảo tồn, phát
huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể ở Thăng Long - Hà Nội (2010), của Võ
Quang Trọng và cộng sự... Các luận án tiến sĩ như: Mô hình định hướng và
giải pháp qui hoạch bảo tồn di sản đô thị tại Việt Nam, ứng dụng vào Hà
Nội (2003), của Trương Văn Quảng; Sự biến đổi văn hóa làng nghề truyền
thống ở Hà Nội hiện nay (qua trường hợp làng Triều Khúc và Thiết Úng),
Luận án Tiến sĩ (2015), của Nguyễn Thị Bích Thủy... Các bài viết như: "Bảo
vệ di sản văn hóa truyền thống ở các làng xã được chuyển thành phường tại
Thủ đô Hà Nội hiện nay" (2007), của Trần Thị Hồng Yến, Thạch Thiết Hà,
Tạp chí Dân tộc học; "Bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống
Hà Nội trong bối cảnh tồn cầu hóa và hội nhập quốc tế" (2014), của
Nguyễn Danh Tiên, Tạp chí Cộng sản...
Những cơng trình đã đề cập đến những vấn đề chung, riêng về DSVH,
nêu thực trạng bảo tồn và phát huy các giá trị DSVH; đề xuất phương hướng,
giải pháp nâng cao hiệu quả công tác bảo tồn và phát huy các giá trị DSVH
Hà Nội.
1.3. Khái quát kết quả nghiên cứu của các công trình đã cơng bố và
những vấn đề luận án tập trung nghiên cứu
1.3.1. Khái quát kết quả nghiên cứu của các cơng trình đã cơng bố
Một là, các cơng trình đã đề cập đến vấn đề văn hóa, DSVH; quan điểm
của Đảng, chính sách của Nhà nước, thực trạng, hoạt động; những ưu điểm,
nhược điểm, nguyên nhân và bài học kinh nghiệm; những vấn đề đặt ra trong


8
việc bảo tồn và phát huy giá trị DSVH dân tộc nói chung và Hà Nội nói riêng
dưới nhiều góc độ khác nhau.

Hai là, nhiều cơng trình đi sâu nghiên cứu làm rõ tầm quan trọng của
văn hoá, DSVH trong đời sống xã hội; đi sâu nghiên cứu văn hóa, DSVH,
những đặc điểm của các loại hình di sản và vấn đề quản lý di sản trong xu thế
mới, nhấn mạnh đến tính thời đại và nhu cầu của con người trong việc bảo
tồn, khai thác các DSVH nói chung và DSVH Hà Nội nói riêng.
Ba là, các cơng trình đều khẳng định quan điểm của Đảng Cộng sản
Việt Nam: "Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là
động lực thúc đẩy sự phát triển; nền văn hóa mà chúng ta xây dựng là nền
văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; nền văn hóa Việt Nam là nền văn
hóa thống nhất mà đa dạng trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam".
Trên cơ sở kế thừa và tiếp thu kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học
đi trước, luận án này nghiên cứu hoạt động lãnh đạo của Đảng bộ thành phố
Hà Nội về bảo tồn và phát huy giá trị DSVH từ năm 1998 đến năm 2014.
1.3.2. Những vấn đề luận án tập trung nghiên cứu
Một là, các yếu tố tác động và chủ trương của Đảng bộ thành phố Hà
Nội về bảo tồn và phát huy giá trị DSVH từ năm 1998 đến năm 2014.
Hai là, quá trình Đảng bộ thành phố Hà Nội chỉ đạo bảo tồn và phát huy
các giá trị di sản văn hóa từ năm 1998 đến năm 2014, qua hai giai đoạn 1998 2008 và 2008 - 2014.
Ba là, ưu điểm, hạn chế và những kinh nghiệm chủ yếu từ quá trình
Đảng bộ thành phố Hà Nội lãnh đạo bảo tồn và phát huy giá trị DSVH từ
năm 1998 đến năm 2014.
Chương 2
CHỦ TRƯƠNG VÀ SỰ CHỈ ĐẠO
CỦA ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ HÀ NỘI VỀ BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY
GIÁ TRỊ DI SẢN VĂN HÓA (1998 - 2008)
2.1. Những yếu tố tác động và chủ trương của Đảng bộ thành phố
Hà Nội về bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa


9

2.1.1. Những yếu tố tác động đến sự lãnh đạo của Đảng bộ thành phố
Hà Nội về bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa
2.1.1.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội của thành phố Hà Nội
* Đặc điểm tự nhiên
Thành phố Hà Nội trước khi mở rộng địa giới hành chính năm 2008 có
09 quận nội thành và 05 huyện ngoại thành, diện tích của Hà Nội là 920,97 km2.
Hà Nội có khí hậu nhiệt đới gió mùa, có nhiều sơng ngịi hồ đầm, địa hình đa
dạng và phong phú cảnh quan thiên nhiên. Điều đó có tác động lớn đến sự
tồn tại và việc bảo tồn và phát huy giá trị DSVH.
* Đặc điểm lịch sử, chính trị, xã hội, con người
Hơn 1000 năm xây dựng và phát triển Thăng Long - Hà Nội trở thành
Thủ đô của nước Việt Nam, là trái tim của cả nước, trung tâm lớn về chính
trị, văn hóa, khoa học, giáo dục, kinh tế và ngoại giao đã tạo cho Hà Nội là
nơi hội tụ và tỏa sáng cho văn hóa và truyền thống dân tộc Việt Nam.
Với vai trò trung tâm, Hà Nội là nơi tụ cư sinh sống và làm việc, buôn
bán của người dân khắp các vùng miền trên cả nước, sự hội tụ dân cư đa
dạng của các vùng miền và các tầng lớp dẫn đến sự đa dạng về đời sống văn
hóa, là điều kiện để giao lưu, hội tụ, tiếp biến văn hóa tạo nên văn hóa đặc
trưng của Hà Nội, đồng thời cũng lan tỏa ra các vùng miền trong nước và
quốc tế.
* Đặc điểm kinh tế
Với vị trí là trung tâm, Hà Nội có vai trị đặc biệt quan trọng trong sự
phát triển kinh tế của cả nước cũng như quốc tế, những năm 2010, tốc độ
tăng trưởng kinh tế trung bình hằng năm đạt 11,0%, GDP bình quân đầu
người đạt khoảng 38 triệu đồng, đã có ảnh hưởng lớn việc bảo tồn và phát
huy giá trị DSVH.
* Đặc điểm văn hóa, DSVH
Hà Nội là nơi hội tụ những tinh hoa văn hóa của cả nước tạo thành văn
hóa văn hóa kinh kỳ, Thăng Long - Hà Nội. Đồng thời, là nơi tập trung nhiều
di tích lịch sử, văn hóa, kiến trúc nghệ thuật, khảo cổ và danh lam thắng

cảnh. Mặt khác, cũng là nơi có nhiều DSVH phi vật thể có đặc trưng riêng và


10
DSVH phi vật thể mang tầm cỡ đại diện của nhân loại. Điều đó, vừa có thuận
lợi, vừa có những khó khăn trong bảo tồn và phát huy giá trị DSVH.
2.1.1.2. Thực trạng công tác bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa
ở Thành phố Hà Nội trước năm 1998
Bảo tồn và phát huy giá trị DSVH trước năm 1998 phải đối mặt với
nhiều khó khăn từ cuộc tái thiết và phát triển đất nước sau chiến tranh. Tuy
nhiên, Đảng bộ thành phố Hà Nội đã có những chủ trương, đặc biệt từ sau
năm 1986 đã chỉ đạo sát đối với phát triển văn hóa, bảo tồn và phát huy giá
trị DSVH. Dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo công tác bảo tồn và phát huy giá trị
DSVH đã đạt được một số kết quả cơ bản. Nhiều di tích lịch sử văn hóa được
đầu tư trùng tu tôn tạo, xây dựng nhiều dự án lớn như: Dự án đầu tư tơn tạo
di tích Cổ Loa; dự án di tích thành cổ Hà Nội, di tích Đoan Mơn, Thành Hà
Nội; dự án khu Văn Miếu - Quốc Tử Giám, khảo sát hiện tượng sử dụng đất
trong các di tích để đề xuất quy hoạch quản lý, đầu tư tơn tạo và phân cấp
quản lý các di tích danh thắng, di tích cách mạng kháng chiến trên địa bàn
thành phố.
Bên cạnh những ưu điểm vẫn còn tồn tại hạn chế như: Tổ chức lễ hội
cịn mang tính tự phát, phong trào, giáo dục chưa cao; tình trạng thương mại
hóa tín ngưỡng xuất hiện ngày càng nhiều gây bức xúc. Bảo tồn và phát huy
giá trị DSVH còn mang nặng tính tự phát, manh mún, tùy tiện; tình trạng
xâm hại DSVH ngày một gia tăng, phức tạp. Công tác xã hội hóa ở các
DSVH cịn mới mẻ, chưa có quy định, quy chế cho nên chưa phát huy được
tiềm năng trong nhân dân, nguồn lực cịn thiếu, yếu về trình độ nghiệp vụ,
chun mơn; cơ chế, chính sách và cơng tác quản lý của thành phố còn bất
cập, chưa theo kịp với nhịp độ phát triển của đời sống, chưa đi vào thực tiễn
cuộc sống…

2.1.1.3. Chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về bảo tồn và
phát huy giá trị di sản văn hóa
Chủ trương của Đảng về bảo tồn và phát huy giá trị DSVH: Đại hội
Đảng toàn quốc lần thứ VIII (1996), IX (2001), X (2006) khi đề cập đến vấn
đề về văn hóa đều khẳng định phải xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà


11
bản sắc dân tộc, kế thừa và phát huy các giá trị tinh thần, đạo đức và thẩm
mỹ, các DSVH của dân tộc và bảo tồn và tôn tạo các di tích lịch sử, văn hóa,
danh lam thắng cảnh của đất nước. Nghị quyết Trương ương 5, khóa VIII
(1998), Đảng phát triển quan điểm văn hóa lên một bước cao hơn khi đưa ra
nghị quyết riêng về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến
đậm đà bản sắc dân tộc và cho rằng: "Văn hóa là nền tảng tinh thần xã hội,
vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội". Đây
là lần đầu tiên Đảng, Nghị quyết này đã thể hiện sự phát triển cả nhận thức
và tư duy lý luận về văn hóa, lãnh đạo văn hóa của Đảng.
Chính sách của Nhà nước về bảo tồn, phát huy DSVH: Q trình hồn
thiện về luật pháp đối với lĩnh vự bảo tồn và phát huy giá trị DSVH các dân
tộc ở nước ta có bước tiến mới vượt bậc với Hiến pháp năm 1992, trong đó
hiến định trách nhiệm của Nhà nước, các tổ chức, nhân dân về bảo vệ, giữ
gìn và phát huy DSVH dân tộc. Quốc hội đã thơng qua Luật Di sản văn hóa
số 28/2001/QH10 ngày 29/6/2001. Ngày 11/11/2002, Chính phủ ban hành
Nghị định số 92/2002/NĐ-CP về việc quy định chi tiết một số điều Luật Di
sản văn hóa số 28/2001/QH10 ngày 29/6/2001.
Những quan điểm của Đảng và chính sách của Nhà nước đã chỉ ra
phương hướng cơ bản trong công tác bảo tồn và phát huy các DSVH dân tộc
trong thời kỳ mới. Đó chính là cơ sở quan trọng để Đảng bộ thành phố Hà
Nội quán triệt và tổ chức vận dụng thực hiện phù hợp với điều kiện thực tế
của địa phương mình.

2.1.2. Chủ trương của Đảng bộ thành phố Hà Nội về bảo tồn và phát
huy giá trị di sản văn hóa
Đại hội Đảng bộ Hà Nội lần thứ XII, nhiệm kỳ 1995-2000; Đại hội
Đảng bộ lần thứ XIII, nhiệm kỳ 2000-2005; Đại hội Đảng bộ lần thứ XIV,
nhiệm kỳ 2005-2010 đã đề ra chủ trương cho việc phát triển văn hóa, DSVH
Thủ đơ là phải nhanh chóng có quy hoạch; bảo tồn và tơn tạo các cơng trình,
di tích văn hóa - lịch sử - cách mạng; giữ gìn, tơn tạo các khu phố cổ, làng cổ
theo đề án đã được duyệt; bảo tồn và phát huy các loại hình văn hóa dân tộc,
các giá trị văn hóa. Mặt khác, xây dựng văn hóa Thủ đơ cần tập trung vào


12
việc xây dựng con người; đề cao vai trò chủ thế sáng tạo và thụ hưởng văn
hóa của nhân dân. Đồng thời phải phát triển văn hóa phải xứng tầm với Thủ
đô ngàn năm văn hiến, anh hùng, tiêu biểu cho đất nước.
Thành ủy có Chương trình hành động số 13-CTr/TU (1998) phấn đấu
xây dựng, phát triển văn hóa Hà Nội trở thành một bộ phận tiêu biểu của văn
hóa Việt Nam; Chương trình số 05-CTr/TU (2001) về kỷ niệm 1000 năm
Thăng Long - Hà Nội; Chỉ thị số 03-CT/TU (2006) về bảo tồn, tôn tạo và
phát huy giá trị di tích cách mạng kháng chiến; Chương trình số 08-Ctr/TU
(2006) về phát triển văn hóa, xây dựng người Hà Nội thanh lịch, văn minh,
thiết thực kỷ niệm 1.000 năm Thăng Long - Hà Nội. Các chương trình hành
động của Thành ủy đã cụ thể hóa nghị quyết Đại hội, đưa ra mục tiêu,
phương hướng, nhiệm vụ tập trung chăm lo phát triển văn hóa, DSVH và đưa
ra các nhóm giải pháp biện pháp tuyên truyền, giới thiệu giá trị văn hóa vật
thể và phi vật thể của Thủ đơ với bạn bè quốc tế; chủ động tiếp thu những
tinh hoa văn hóa thế giới để phát triển văn hóa Thủ đô.
2.2. Đảng bộ thành phố Hà Nội chỉ đạo bảo tồn và phát huy giá trị
di sản văn hóa
2.2.1. Chỉ đạo bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa vật thể

2.2.1.1. Bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa điển hình
Di sản văn hóa Khu phố Cổ Hà Nội: Quyết định số 911/QĐ-UB (1998)
thành lập Ban quản lý Khu phố Cổ trực thuộc thành phố; Quyết định số
45/1999/QĐ-UB (1999) ban hành Điều lệ tạm thời về quản lý xây dựng, bảo
tồn và tôn tạo Khu phố Cổ. Bộ Văn hóa - Thơng tin có Quyết định số
14/2004/QĐ-BVHTT (2004) xếp hạng di tích Khu phố Cổ Hà Nội là di tích
quốc gia và khoanh vùng bảo vệ.
Di sản văn hóa Hồng thành Thăng Long: Thủ tướng Chính phủ quyết
định giao Khu thành cổ cho thành phố Hà Nội năm 2004. Thành phố Hà Nội
có Quyết định số 4422/QĐ-UB, (2004) thành lập Ban Quản lý Khu Di tích
Thành cổ Hà Nội và Quyết định số 3855/QĐ-UBND (2006) đổi tên thành
Trung tâm Bảo tồn Khu di tích Cổ Loa - Thành cổ Hà Nội trực thuộc thành
phố để xây dựng kế hoạch, lộ trình thực hiện lập hồ sơ xếp hạng di sản Việt


13
Nam và thế giới. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã có Quyết định số
16/2007/QĐ-BVHTTDL (2007) xếp hạng di tích lịch sử và kiến trúc nghệ
thuật cấp quốc gia khu Trung tâm Hoàng thành Thăng Long - Hà Nội.
Di sản văn hóa Cổ Loa: Thành phố Hà Nội có Quyết định số 173/2002/
QĐ-UB (2002) quy hoạch chi tiết khu vực di tích Cổ Loa có diện tích 830,34
ha. Năm 2004 và 2006 Thường trực Thành ủy Hà Nội trực tiếp chỉ đạo và kết
luận về dự án "Bảo tồn, tơn tạo và xây dựng khu vực di tích Cổ Loa thành
khu du lịch chuyên đề quốc gia" Năm 2006, thành phố có Quyết định số
3855/QĐ-UBND thành lập Trung tâm Bảo tồn khu di tích Cổ Loa - Thành cổ
Hà Nội trực thuộc thành phố để triển khai Dự án.
Văn Miếu - Quốc Tử Giám: Năm 1962, Bộ Văn hóa đã xếp hạng Văn
Miếu - Quốc Tử Giám là di tích Quốc gia. Thực hiện chủ trương của Thành
ủy, thành phố Hà Nội đã có Quyết định số 1776/QĐ/UB (1988) thành lập
Trung tâm Hoạt động Văn hóa Khoa học Văn Miếu - Quốc Tử Giám để thực

hiện công tác tổ chức quản lý Văn Miếu - Quốc Tử Giám; Sở Văn hóa và
Thơng tin Hà Nội có Quyết định số 125/QĐ-VHTT (2005) quy định chức
năng, nhiệm vụ và cơ cấu, kiện toàn Trung tâm Văn Miếu - Quốc Tử Giám.
Đền Ngọc Sơn và khu vực Hồ Hoàn Kiếm: Bộ Văn hóa quyết định xếp
hạng là di tích lịch sử và thắng cảnh cấp quốc gia tại Văn bản số 92/VH/QĐ
ngày 10/7/1980. Thực hiện chủ trương của Thành ủy, thành phố Hà Nội đã
quyết định thành lập Ban Quản lý Di tích và Danh thắng Hà Nội trực thuộc
Sở Văn hóa - Thơng tin Hà Nội để thực hiện cơng tác bảo tồn và phát huy giá
trị đền Ngọc Sơn và khu vực Hồ Hồn Kiếm, trong đó tham mưu ban hành
quy chế quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị di tích lịch sử - văn hóa, danh lam
thắng cảnh trên địa bàn thành phố Hà Nội.
2.2.1.2. Bảo tồn và phát huy giá trị di tích lịch sử - văn hóa
và danh thắng
Thực hiện chủ trương của Thành ủy, thành phố Hà Nội đã ban hành và
triển khai thực hiện Kế hoạch số 55/KH-UBND (2006) về công tác bảo tồn
và phát huy DSVH. Giai đoạn này Hà Nội đã tập trung xây dựng quy hoạch
tổng thể các di tích, quản lý, tu bổ, tơn tạo và phát huy di tích. Chỉ đạo Sở


14
Văn hóa - Thơng tin và các cơ quan chun môn thực hiện công tác lập hồ sơ
xếp hạng các di tích, chống xuống cấp, tu bổ, tơn tạo đối với các di tích.
Trong 5 năm (2005 - 2010), Hà Nội đã khảo sát, lập hồ sơ xếp hạng 235 di
tích, năm sau cao hơn năm trước, trong đó có 2 di tích cấp quốc gia đặc biệt,
125 di tích cấp quốc gia và 104 di tích cấp thành phố. Kinh phí ngân sách là:
Năm 2005: 37.787 tỷ đồng; năm 2006: 46.047 tỷ đồng; năm 2007: 27.323 tỷ
đồng. Kinh phí xã hội hóa là: Năm 2005: 42.689 tỷ đồng; năm 2006: 56.908
tỷ đồng; năm 2007: 78.160 tỷ đồng.
Luận án trình bày việc phát huy giá trị DSVH thông qua giới thiệu,
quảng bá với khách du lịch đến với Thủ đô hằng năm; phân tích đối tượng

khách đến với từng thể loại di sản như: Du khách đến với di tích danh lam
thắng cảnh; di tích lưu niệm danh nhân; di tích cách mạng kháng chiến; di
tích kiến trúc, nghệ thuật; di tích khảo cổ. Mặt khác, phát huy giá trị di tích
được luận án trình bày qua các hoạt động tuyên truyền, giáo dục truyền thống
thông qua giá trị di tích, trưng bày bảo tàng, chuyên đề; tổ chức phát thanh
trên đài; làm phim giới thiệu di tích, tổ chức gặp gỡ phỏng vấn, ghi âm, ghi
hình các nhân chứng lịch sử. Du lịch DSVH phát triển góp phần phát triển
các ngành nghề dịch vụ, nhiều ngành nghề thủ công truyền thống, hoạt động
văn hóa truyền thống được phục hồi, phát triển phục vụ trở lại cho du lịch tạo
động lực cho sự phát triển kinh tế - xã hội Thủ đô và cả nước.
2.2.2. Chỉ đạo bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể
Trên cơ sở chủ trương của Thành ủy, luận án đã phân tích và làm rõ việc
thành phố Hà Nội xây dựng, triển khai Kế hoạch số 55 (2006) và giao cho
các sở ban ngành 32 đề án kèm theo kế hoạch để thực hiện Chương trình số
08-CT/TU (2006) của Thành ủy về Phát triển văn hóa, xây dựng người Hà
Nội thanh lịch, văn minh, thiết thực kỷ niệm 1000 năm Thăng Long - Hà Nội.
Từ năm 1998 đến năm 2008, thực hiện sự chỉ đạo của thành phố, Sở
Văn hóa - Thể thao và các đơn vị liên qua đã tiến hành công tác bảo tồn
DSVH phi vật thể như nghệ thuật biểu diễn, phong tục, tơn giáo, tín ngưỡng, lễ
hội, văn hóa ẩm thực, nghề thủ cơng truyền thống trên địa bàn thành phố. Điển
hình là lễ hội, trước khi mở rộng thì tổng số lễ hội của Hà Nội là 543 và Hà
Tây là 552, còn Mê Linh là 23 lễ hội. Trong đó có lễ hội là hội đình, được


15
mở ở đình làng, có hội là hội đền (thờ thánh, thần) và hội là hội chùa, lễ hội
có ở 9 quận nội thành và 5 huyện ngoại thành. Khôi phục nhiều lễ hội đang
tồn tại ở các làng trở thành lễ hội phố như trường hợp Đống Đa, Triều Khúc,
Đồng Cổ, chùa Hà, phủ Tây Hồ; lễ hội "Tứ bất tử", lễ hội "Tứ trấn thần" của
văn hóa lễ hội Thăng Long - Hà Nội; lễ hội trong Khu phố Cổ, ngành nghề

thủ cơng truyền thống, đình thờ tổ nghề, lối sống, nếp sống, ăn, mặc, ở, giao
tiếp của người dân trong Khu phố Cổ.
Mặt khác, phát huy giá trị lễ hội truyền thống, nghệ thuật trình diễn
dân gian, tập qn xã hội và tín ngưỡng, nghề thủ cơng truyền thống bằng
cách nghiên cứu, tuyên truyền, sưu tầm, trao truyền cho thế hệ trẻ các loại
hình DSVH phi vật thể, triển khai dự án giáo dục "Sân khấu học đường",
xuất bản sách giới thiệu DSVH phi vật thể Thăng Long - Hà Nội, biên soạn
và giảng dạy lịch sử địa phương cho học sinh phổ thông, phổ biến pháp luật
DSVH, giới thiệu loại hình múa rối với du khách, có chính sách đối với các
nghệ nhân.
Chương 3
ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ HÀ NỘI
LÃNH ĐẠO BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ
DI SẢN VĂN HÓA (2008 - 2014)
3.1. Những yếu tố mới tác động và chủ trương của Đảng bộ thành phố
Hà Nội về bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa
3.1.1. Những yếu tố mới tác động đến sự lãnh đạo của Đảng bộ thành
phố Hà Nội về bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa
3.1.1.1. Những biến chuyển của tình hình thế giới và trong nước
Tồn cầu hóa tạo điều kiện mang các giá trị văn hóa của dân tộc mình
đến với thế giới và mang giá trị văn hóa của thế giới đến với dân tộc mình và
ngược lại, tồn cầu hố cũng tác động tiêu cực đến nền văn hoá dân tộc.
Sau hơn 20 năm đổi mới, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu trong
việc dựng nền văn hóa văn tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, điều đó sẽ tạo điều


16
kiện phát triển cho giai đoạn tiếp theo. Tuy nhiên, đất nước cũng phải đối mặt
với nguy cơ lai căng về văn hóa, đánh mất bản sắc, các giá trị truyền thống...
3.1.1.2. Chủ trương, chính sách mới của Đảng và Nhà nước

Đại hội lần thứ XI (2011) của Đảng nhấn mạnh bảo tồn phát huy giá trị
DSVH gắn với hoàn thiện các quy định của pháp luật về DSVH, cũng như
gắn kết bảo tồn, phát huy giá trị DSVH với phát triển du lịch . Nghị quyết
Trung ương 9, khóa XI về Xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt
Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước đã đặt ra việc xây dựng
cơ chế để giải quyết hợp lý, hài hòa giữa bảo tồn, phát huy DSVH với phát
triển kinh tế - xã hội. Bảo tồn, tơn tạo các di tích lịch sử, văn hóa tiêu biểu,
phục vụ giáo dục truyền thống và phát triển kinh tế.
Ngày 18/6/2009, Quốc hội Việt Nam thông qua Luật sửa đổi bổ sung
một số điều Luật Di sản văn hóa; Ngày 21/9/2010, Chính phủ ban hành Nghị
định số 98/2010/NĐ-CP, quy định chi tiết một số điều Luật Di sản văn hóa
và Luật sửa đổi bổ sung một số điều Luật Di sản văn hóa; ngày 14/7/2011,
Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch ban hành Thông tư số 09/2011/TTBVHTTDL quy định về nội dung hồ sơ khoa học xếp hạng di tích lịch sử văn
hóa và danh lam thắng cảnh và Thông tư 18/2012/TT-BVHTTDL, ngày
28/12/2012 quy định chi tiết một số quy định về bảo quản, tu bổ, phục hồi
di tích.
Ngày 21/11/2012, Quốc hội Việt Nam khóa XIII thơng qua Luật Thủ đơ
Hà Nội, trong đó bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể
của Thủ đô phải bảo đảm tiêu biểu cho bản sắc văn hóa của dân tộc, xây
dựng văn hóa người Hà Nội thanh lịch, văn minh.
Những văn bản quy phạm pháp luật trên đã từng bước hoàn thiện hệ
thống chính sách bảo tồn và phát huy giá trị DSVH, tạo điều kiện tốt để Hà
Nội vận dụng trong bảo tồn và phát huy giá trị DSVH.
3.1.1.3. Sự điều chỉnh địa giới hành chính Thủ đơ Hà Nội
Năm 2008, Quốc hội khóa XII ban hành Nghị quyết số 15/2008/QH12
quyết định mở rộng địa giới hành chính Thủ đơ Hà Nội. Theo đó, sự hợp
nhất tồn bộ tỉnh Hà Tây, huyện Mê Linh tỉnh Vĩnh Phúc và 4 xã thuộc


17

huyện Lương Sơn tỉnh Hịa Bình vào thành phố Hà Nội nâng diện tích của
Hà Nội lên 3348,5 km2, dân số là 6.451.909 người và kho tàng DSVH của
Hà Nội càng thêm phong phú gồm có DSVH Thăng Long, DSVH xứ Đoài
và DSVH của đồng bào dân tộc miền núi (Mường, Dao...). Điều đó cho thấy,
Hà Nội có nhiều điều kiện thuận lợi cũng như không thuận lợi cho việc bảo
tồn và phát huy giá trị DSVH.
3.1.2. Chủ trương của Đảng bộ thành phố Hà Nội
Tiếp tục thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ thành phố Hà Nội lần
thứ XIV nhiệm kỳ 2005 - 2010 và Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Hà Tây lần
thứ XIV nhiệm kỳ 2005 - 2010. Trong đó chú trọng xây dựng quy chế quy
định, về phân cấp trách nhiệm để thuận cho việc quản lý, về giáo dục tuyên
truyền, về tập trung nguồn lực cho văn hóa, DSVH phục vụ kỷ niệm 1000 năm
Thăng Long - Hà Nội. Thành ủy khóa XIV có Chương trình 08-CTr/TU về
Phát triển văn hóa, xây dựng người Hà Nội thanh lịch, văn minh, thiết thực
kỷ niệm 1000 năm Thăng Long - Hà Nội.
Đại hội Đảng bộ thành phố Hà Nội lần thứ XV (2010), đặt ra nhiệm vụ
phải tiếp tục chăm lo phát triển văn hóa, xây dựng người Hà Nội thanh lịch,
văn minh; làm tốt hơn nữa công tác bảo tồn, phát huy giá trị DSVH. Thành
ủy có Chương trình số 04-CT/TU (2011), về phát triển văn hóa - xã hội,
nâng cao chất lượng nguồn nhân lực Thủ đô, xây dựng người Hà Nội thanh
lịch, văn minh giai đoạn 2011 - 2015, đặt ra nhiệm vụ giải pháp là hoàn
thành dự án điều tra, thống kê phân loại, đánh giá hệ thống di sản Thủ đô,
các quy chế quy định về DSVH, xây dựng và triển khai đề án tổng kiểm kê
văn hóa phi vật thể, đề cử danh mục DSVH phi vật thể cấp quốc gia.
Các chủ trương tác động tích cực đến việc định hướng, xác định mục
tiêu, nhiệm vụ lâu dài và trước mắt, tạo điều kiện cho văn hóa Hà Nội xứng
tầm là trung tâm văn hóa lớn của cả nước.
3.2. Sự chỉ đạo của Đảng bộ thành phố Hà Nội về bảo tồn và phát
huy giá trị di sản văn hóa
3.2.1. Chỉ đạo bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa vật thể

3.2.1.1. Bảo tồn và phát huy giá trị các di tích điển hình


18
Khu phố Cổ Hà Nội, kế thừa giai đoạn 1998-2007, Khu phố Cổ tiếp tục
được quan tâm, thành phố Hà Nội có Quyết định số 3414/QĐ-UBND (2008)
chuyển Ban quản lý Phố cổ Hà Nội về trực thuộc quận Hoàn Kiếm và được xác
định lại chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy tại Quyết định số 782/QĐ-UBND,
ngày 27/02/2008, trong đó mở rộng thêm chức năng nhiệm vụ của Ban. Ngày
09/01/2013, thành phố ra Quyết định số 168/QĐ-UBND phê duyệt Đề án
giãn dân Khu phố Cổ; ngày 24/10/2013 có Quyết định số 6398/QĐ-UBND
ban hành quy chế quản lý quy hoạch kiến trúc trong Khu phố Cổ; ngày
03/10/2014, khai trương mở rộng phố đi bộ tại khu vực bảo tồn cấp I Khu
phố Cổ, tạo ra một khơng gian văn hóa mới của Thủ đô, một điểm du lịch
hấp dẫn, thu hút khách du lịch trong và ngoài nước.
Khu di sản Hoàng thành Thăng Long - Hà Nội được Nhà nước công
nhận là Di tích quốc gia đặc biệt năm 2009 và được UNESCO công nhận là
DSVH thế giới ngày 31/7/2010 bởi những giá trị nổi bật toàn cầu.
Để bảo tồn và phát huy hiệu quả hơn, thành phố Hà Nội có Quyết định
số 5668/QĐ-UBND (2011) thành lập Trung tâm Bảo tồn di sản Thăng Long Hà Nội trực thuộc UBND thành phố Hà Nội trên cơ sở đổi tên Trung tâm bảo
tồn khu di tích Cổ Loa - Thành cổ Hà Nội và xác định lại chức năng, nhiệm
vụ của Trung tâm. Năm 2012, Thủ tướng Chính phủ có Quyết định số 1647/
QĐ-TTg phê duyệt nhiệm vụ quy hoạch chi tiết bảo tồn, tôn tạo và phát huy
giá trị Khu di tích trung tâm Hồng thành Thăng Long - Hà Nội (tỷ lệ 1/500).
Đây là cơ sở để xây dựng quy chế, đề án quản lý tổng thể khu di tích và triển
khai công tác đầu tư các dự án thành phần theo quy hoạch.
Khu di tích Cổ Loa, để thực hiện tốt hơn công tác bảo tồn và phát huy
khu di tích, ngày 30/12/2014, thành phố Hà Nội có quyết định số 7228/QĐUBND thành lập Ban quản lý Khu di tích Cổ Loa, là đơn vị sự nghiệp cơng
lập trực thuộc Trung tâm Bảo tồn di sản Thăng Long - Hà Nội, có tư cách
pháp nhân, có con dấu, có chức năng quản lý, tổ chức các hoạt động bảo tồn,

tơn tạo và phát huy giá trị Khu di tích. Nhằm từng bước nâng cao năng lực
của đội ngũ quản lý khu di tích, để dần chuyển đổi sang mơ hình "Cơng viên
lịch sử - sinh thái - nhân văn", trong đó phát triển dịch vụ và du lịch, theo xu


19
hướng bảo tồn di sản sống, bảo tồn không gian văn hóa, khơng gian làng mạc
truyền thống và cảnh quan mơi trường Cổ Loa.
Khu di tích Văn Miếu - Quốc Tử Giám, Thực hiện chủ trương của Thành
ủy, Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội có Quyết định số 589/QĐ-UBND
ngày 04/02/2009 thành lập Trung tâm Hoạt động văn hóa khoa học Văn
Miếu - Quốc Tử Giám, là đơn vị sự nghiệp cơng lập có thu trực thuộc Sở
Văn hóa, Thể thao và Du lịch Hà Nội, có tư cách pháp nhân, có con dấu, có
chức năng tổ chức các hoạt động văn hóa, khoa học, đón tiếp và hướng dẫn
khách du lịch, đồng thời bảo tồn, tôn tạo và phát huy giá trị khu di tích.
Cơng tác bảo tồn, trùng tu được đặc biệt chú trọng, điển hình như cổng
Tam quan, Khuê Văn Các, giếng Thiên Quang, điện Đại Thành; khn viên
cảnh quan của di tích cũng được cải tạo phù hợp với di tích, các bia tiến sĩ
được bảo vệ tránh sự xâm hại và hư hỏng, đã đưa Văn Miếu - Quốc Tử Giám
trở thành nơi thưởng ngoạn, du lịch khảo sát, nghiên cứu khoa học; du lịch
tham dự các hoạt động văn hóa - xã hội, vui chơi, giải trí; du lịch thực hành
nghi lễ tâm linh không thể bỏ qua của du khách. Điều này đã mang lại nguồn
thu lớn đối với Văn Miếu - Quốc Tử Giám, khơng những tự chủ được mà
cịn đóng góp vào tổng thu du lịch của Hà Nội.
Khu danh thắng Hồ Hoàn Kiếm và đền Ngọc Sơn được Ban Quản lý di
tích và Danh thắng Hà Nội thực hiện nghiêm túc có hiệu quả. Việc ban hành
quy chế "Quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị di tích lịch sử - văn hóa, danh
lam thắng cảnh trên địa bàn thành phố Hà Nội" đã tạo điều kiện thuận lợi cho
công tác quản lý, bảo tồn và phát huy giá trị của danh thắng. Trung bình
hằng năm khu danh thắng Hồ Hồn Kiếm và đền Ngọc Sơn cũng đón hàng

trăm nghìn lượt khách trong nước và quốc tế tới thăm quan.
3.2.1.2. Bảo tồn và phát huy giá trị di tích lịch sử - văn hóa
và danh thắng
Đối với cơng tác điều tra nghiên cứu di tích cách mạng kháng chiến, từ
năm 2006 đến năm 2015, thành phố đã tiến hành gắn biển 148/173 di tích và
lập hồ sơ khảo sát 147 di tích tại các quận, huyện, thị xã trên địa bàn Thủ đơ.
Đối với các di tích lưu niệm danh nhân cũng được cấp ủy, chính quyền các


20
cấp quan tâm bảo tồn, gìn giữ nhằm đáp ứng nhu cầu của nhân dân Thủ đô
và cả nước về hưởng thụ những giá trị văn hóa - lịch sử trong di tích lưu
niệm. Năm 2015, Hà Nội có 5.922 di tích lịch sử - văn hóa, trong đó có 01
DSVH thế giới; 1.182 di tích cấp quốc gia; 1.202 di tích cấp thành phố,
3.487 di tích chưa xếp hạng; 01 di sản tư liệu thế giới là Văn bia tiến sĩ Văn
Miếu - Quốc Tử Giám; 12 di tích quốc gia đặc biệt, trong đó 11 di tích do Hà
Nội quản lý.
Nguồn kinh phí từ ngân sách đầu tư cho cơng tác tu bổ, cải tạo di tích
được sử dụng một cách hợp lý và hiệu quả, từ năm 2008 đến cuối năm 2014
số kinh phí để tu bổ, cải tạo các di tích của Hà Nội là 1972,298 triệu đồng,
ngồi ra cịn huy động nguồn lực từ cơng tác xã hội hóa. Mặt khác, cơng tác
bảo tồn và phát huy giá trị DSVH bằng việc nghiên cứu, sưu tầm, kiểm kê,
bảo quản và giới thiệu thông qua hoạt động bảo tồn của bảo tàng nhà nước và
quản lý nhà nước đối với bảo tàng tư nhân. Bên cạnh đó, việc bảo tồn và phát
huy làng cổ, làng nghề truyền thống, khu phố cổ cũng được Hà Nội quan tâm
chỉ đạo. Việc phát huy giá trị DSVH được chú trọng, từ 2008 đến năm 2014,
lượng du khách trong và ngoài nước đến tham quan DSVH của Hà Nội
tăng trung bình trên 6%/năm so với giai đoạn 1998-2007, đón trung bình trên
3,5 triệu lượt/năm, đạt doanh thu hàng chục nghìn tỷ/năm.
3.2.2. Chỉ đạo bảo tồn và phát huy di sản văn hóa phi vật thể

Năm 2013, thành phố Hà Nội có Quyết định số 5924/QĐ-UBND thành
lập Ban kiểm kê DSVH phi vật thể Hà Nội giai đoạn 2013-2015; ngày
9/12/2013 thành phố Hà Nội có Quyết định số 7456/QĐ-UBND phê duyệt
Đề án tổng kiểm kê, bảo vệ DSVH phi vật thể Hà Nội.
Kết quả kiểm kê DSVH phi vật thể của Thủ đơ Hà Nội có 1.793 di sản
được đưa vào danh mục và được phân loại theo các loại hình khác nhau.
Nhóm các lễ hội truyền thống, có 1.206 DSVH phi vật thể chiếm 67,6% trên
tổng số 1.793 DSVH phi vật thể; nhóm các tập quán xã hội, có 213 di sản
chiếm 11,7% tổng số DSVH phi vật thể; nhóm các làng nghề thủ cơng truyền
thống, có 175 lễ hội, tập quán, làng nghề chiếm 9,7% tổng số DSVH phi vật
thể; nhóm tri thức dân gian, có 106 di sản chiếm 5,9% trong tổng số 1.793



×