Tải bản đầy đủ (.docx) (80 trang)

Bộ đề Môn Xây dựng Đảng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (524.57 KB, 80 trang )

Câu 1: Các nguyên lý của Đảng kiểu mới của V.I.Lê-nin và liên hệ vào thực tiễn xây dựng Đảng Cộng
sản Việt Nam hiện nay..........................................................................................................................................2
Câu 2: Tính tất yếu, nội dung, giải pháp để thực hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng hiện
nay.........................................................................................................................................................................10
Câu 3: Sự cần thiết phải nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở Đảng. Nhiệm vụ,
giải pháp để nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng hiện nay......................16
Câu 4: Các quan điểm chỉ đạo và giải pháp xây dựng đội ngũ cán bộ trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước..................................................................................................................................21
Câu 5: Vai trị và các nguyên tắc của công tác tư tưởng. Giải pháp nâng cao chất lượng công tác tư
tưởng.....................................................................................................................................................................30
Câu 6: Quan điểm đổi mới công tác dân vận của Đảng. Giải pháp nâng cao chất lượng công tác dân vận
của Đảng hiện nay...............................................................................................................................................37
Câu 7: Phương pháp công tác kiểm tra của Đảng. Giải pháp nâng cao chất lượng công tác kiểm tra, giám
sát hiện nay..........................................................................................................................................................42
Câu 8: Sự cần thiết phải đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng trong giai đoạn hiện nay. Giải pháp
tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XII của Đảng..........50
Câu 9: Kinh nghiệm thực hiện công tác bảo vệ chính trị nội bộ và giải pháp tăng cường cơng tác bảo vệ
chính trị nội bộ trong thời kỳ mới.....................................................................................................................55


Câu 1: Các nguyên lý của Đảng kiểu mới của V.I.Lê-nin và liên hệ vào thực tiễn xây dựng Đảng Cộng
sản Việt Nam hiện nay.
1. Các nguyên lý của Đảng kiểu mới của V.I.Lê-nin
V.I. Lênin đã từng tuyên bố: “Hãy cho chúng tôi một tổ chức những người cách mạng, và chúng tôi sẽ
đảo lộn nước Nga lên”. Tổ chức những người cách mạng mà Lênin nói đến đó là “một đảng kiểu mới, thực sự
cách mạng và thực sự cộng sản”. Tư tưởng của V.I. Lênin về đảng kiểu mới và xây dựng Đảng Cộng sản cầm
quyền chính là sự bảo vệ và phát triển sáng tạo, độc đáo những tư tưởng của C.Mác và Ph. Ăngghen về Đảng
cách mạng trong điều kiện nước Nga những năm đầu của thế kỷ XX.
Hệ thống những nguyên lý cơ bản của Lênin về Đảng kiểu mới của giai cấp công nhân có thể khái quát
thành 8 điểm sau:
1. Chủ nghĩa Mác-Lênin là nền tảng tư tưởng, là kim chỉ nam cho mọi hoạt động của Đảng.


Chủ nghĩa Mác-Lênin là một hệ thống lý luận khoa học về cuộc cách mạng của giai cấp cơng nhân
nhằm tự giải phóng mình, là kết quả của sự phát triển một cách khoa học những tư tưởng tiên tiến của xã hội
loài người, thể hiện đúng đắn lợi ích cơ bản của giai cấp công nhân, đã chỉ ra cho giai cấp công nhân thấy rõ
những phương hướng chính trị của tất cả các mặt hoạt động cần thiết trong cuộc đấu tranh để thực hiện sứ mệnh
lịch sử thế giới của mình. Lênin đã chứng minh rằng, khơng có lý luận cách mạng sẽ khơng có phong trào cách
mạng, và khi lý luận cách mạng đã thâm nhập vào quần chúng nhân dân thì nó sẽ trở thành sức mạnh vật chất to
lớn. Chủ nghĩa Mác-Lênin là cơ sở khoa học của công tác xây dựng Đảng, là ngọn cờ đoàn kết những người
cộng sản và là cơ sở để vạch ra cương lĩnh hành động, chiến lược và sách lược của cách mạng. Đảng Cộng sản
Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo có ý nghĩa phát triển lý luận chủ nghĩa Mác-Lênin
vào điều kiện cụ thể của cách mạng Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Chủ nghĩa Lênin đối với
chúng ta, những người cách mạng và nhân dân Việt Nam, không những là cái “cẩm nang” thần kỳ, không
những là cái kim chỉ nam, mà còn là mặt trời soi sáng con đường chúng ta đi tới thắng lợi cuối cùng, đi tới chủ
nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản” .
Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam viết: “Đảng lấy chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm
nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hành động, tiếp thu tinh hoa trí tuệ của dân tộc và của nhân loại, nắm
vững quy luật khách quan và thực tiễn của đất nước để đề ra Cương lĩnh chính trị, Đường lối cách mạng đúng
đắn và phù hợp với yêu cầu, nguyện vọng của nhân dân”. Đó là nguồn gốc của những thắng lợi của nhân dân
Việt Nam. Tuy nhiên, Đảng cũng nhận thấy còn lạc hậu về lý luận, thể hiện trên cả hai mặt nhận thức và vận
dụng các quy luật của chủ nghĩa xã hội như giáo điều, duy ý chí, giản đơn, nóng vội. Đảng đã nghiêm khắc tự
phê bình và nhấn mạnh rằng, đổi mới tư duy là yêu cầu bức thiết của cuộc sống. Báo cáo chính trị của Ban
Chấp hành Trung ương Đảng tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VII đã chỉ ra rằng, cần phải “tổ chức tốt
công tác nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn, nâng cao trình độ và năng lực vận dụng chủ nghĩa MácLênin
vào hồn cảnh cụ thể của nước ta, góp phần xây dựng chủ trương, chính sách của Đảng, lý giải những vấn đề
mới mà cuộc sống đặt ra. Đổi mới căn bản công tác giáo dục chính trị, lý luận”.
2. Đảng Cộng sản là đội tiên phong chính trị có tổ chức và là đội ngũ có tổ chức chặt chẽ nhất, giác
ngộ nhất của giai cấp công nhân
Đảng là một bộ phận của giai cấp công nhân, nhưng phải phân biệt Đảng với toàn bộ giai cấp. Theo
Lênin, Đảng là đội tiên phong chính trị và là đội ngũ có tổ chức chặt chẽ, có giác ngộ nhất của giai cấp công
nhân, Đảng là người đưa yếu tố tự giác nhất vào phong trào công nhân, là người định hướng chính trị và là
người giáo dục, động viên, tổ chức cho quần chúng hành động cách mạng. Lênin chỉ ra rằng: “Không được lẫn

lộn Đảng, tức là đội tiên phong của giai cấp cơng nhân, với tồn bộ giai cấp”. Vai trò tiên phong của Đảng được
thể hiện trước hết trên lĩnh vực lý luận. Lênin đã chỉ rõ: “Chỉ Đảng nào được một lý luận tiền phong hướng dẫn
2


thì mới có khả năng làm trịn vai trị người chiến sỹ tiền phong”. Đòi hỏi đầu tiên về tư cách người Đảng viên
phải là giác ngộ lý tưởng cộng sản chủ nghĩa, có trình độ nhất định về chủ nghĩa Mác-Lênin, nắm vững được
đường lối chính sách của Đảng. Theo Lênin: “trong điều kiện có chính quyền, Đảng phải là trí tuệ, danh dự và
lương tâm của thời đại chúng ta”. Vai trò tiên phong của Đảng còn được thể hiện về mặt tổ chức và sự hoạt
động gương mẫu của người Đảng viên trong thực tiễn. Đảng phải được tổ chức chăt chẽ để bảo đảm là một đội
ngũ thống nhất ý chí và hành động, có kỷ luật nghiêm minh. Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: “Đảng ta tuy nhiều
người, nhưng khi tiến đánh thì chỉ như một người” . Đảng là của giai cấp, nhưng không phải là tồn bộ giai cấp.
Khơng được lẫn lộn giữa Đảng và giai cấp. Đảng chỉ thu hút vào đội ngũ của mình những người giác ngộ nhất,
có ý thức tổ chức và kỷ luật cao nhất trong giai cấp cơng nhân và nhân dân lao động.
3. Khi có chính quyền, Đảng là lực lượng lãnh đạo hệ thống chính trị của chủ nghĩa xã hội và là
một bộ phận của hệ thống đó
Đảng là đội tiên phong giác ngộ có tổ chức chặt chẽ nhất của giai cấp, do đó, trong hệ thống chính trị xã
hội chủ nghĩa chỉ có Đảng mới đủ phẩm chất chính trị và năng lực xứng đáng là người lãnh đạo. Lênin viết:
“Chủ nghĩa Mác giáo dục Đảng công nhân, là giáo dục đội tiên phong của giai cấp vô sản, đội tiên phong này
đủ sức nắm chính quyền và dẫn dắt toàn dân tiến lên chủ nghĩa xã hội, đủ sức lãnh đạo và chức một chế độ mới,
đủ sức làm thầy, làm người dẫn đường, làm lãnh tụ của tất cả những người lao động và những người bị bóc lột
để giúp họ tổ chức đời sống xã hội của họ, mà không cần đến giai cấp tư sản và chống lại giai cấp tư sản” .
Sự lãnh đạo của Đảng là điều kiện tiên quyết đảm bảo cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội thành
công. Buông lỏng sự lãnh đạo của Đảng là sai lầm về nguyên tắc, là thủ tiêu sức mạnh của Nhà nước và của cả
hệ thống chính trị trong chủ nghĩa xã hội, là mở đường cho những phần tử phản động trở lại con đường tư bản
chủ nghĩa. Hiện nay, chủ nghĩa cơ hội, xét lại hiện đại đang ra sức thổi phồng cái gọi là “đa nguyên”, “đa
Đảng”, lợi dụng “con đường dân chủ” nhằm tiếm đoạt quyền lãnh đạo của các Đảng Cộng sản. Những sự kiện
ở Đông Âu và Liên Xô trong thời gian qua đã chứng minh điều đó. Đảng lãnh đạo về chính trị trên mọi mặt
hoạt động của Nhà nước và các tổ chức quần chúng bằng đường lối và các chính sách của Đảng. Thông qua các
tổ chức Đảng cùng với đội ngũ cán bộ, Đảng viên hoạt động trong các cơ quan Nhà nước và trong các tổ chức

quần chúng, mà mọi định hướng chính trị, đường lối, chủ trương của Đảng được cụ thể hóa thành những chính
sách, những quy định pháp lý. Đảng ý thức rõ rằng, trong xã hội xã hội chủ nghĩa, sự lãnh đạo của Đảng luôn
luôn gắn liền với việc phát huy hiệu lực quản lý của Nhà nước và vai trò của các tổ chức quần chúng. Đảng phê
phán thói chun qùn, độc đốn, bao biện, làm thay cơng việc của Nhà nước và các tổ chức khác trong hệ
thống chính trị xã hội. Đồng thời, Đảng cũng lên án sự bng lỏng, xem nhẹ vai trị lãnh đạo của Đảng.
4. Tập trung dân chủ là nguyên tắc cơ bản trong xây dựng tổ chức sinh hoạt và hoạt động của Đảng.
Đảng là một liên minh tự nguyện của những người cùng chung lý tưởng và lợi ích cơ bản của những đại
biểu ưu tú nhất của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Thực hiện dân chủ là nhằm phát huy cao nhất trí
tuệ và mọi khả năng sáng tạo của những chiến sỹ tiên phong trong Đảng. Đó là điều kiện cơ bản đảm bảo cho
Đảng có trí ṭ cao nhất để làm trịn được vai trị người lãnh đạo tồn xã hội. Đảng cịn là một tổ chức chiến
đấu. Dân chủ trong Đảng phải có sự chỉ đạo của tập trung để đảm bảo sự thống nhất ý chí và hành động trong
Đảng. Tập trung là quyền lực của tập thể giao cho những người lãnh đạo để thực hiện ý chí của đa số. Tập trung
dân chủ hoàn toàn đối lập với chuyên qùn độc đốn, vơ chính phủ.
Ngun tắc tập trung dân chủ trong Đảng được thực hiện, vận dụng phù hợp với điều kiện lịch sử cụ thể
của cuộc đấu tranh giai cấp, với điều kiện hoạt động và vị trí của Đảng trong đời sống xã hội. Thiếu sự chỉ đạo
tập trung, dân chủ có thể trở thành vơ chính phủ. Coi nhẹ dân chủ là phá hoại tính tập thể lãnh đạo và sẽ dẫn
đến tình trạng tập trung quan liêu, chun qùn, độc đốn. Bng lỏng tập trung sẽ rơi vào tình trạng vơ chính
phủ, cục bộ, địa phương chủ nghĩa, phá hoại sự thống nhất và làm giảm sức chiến đấu của Đảng.
3


Trong điều kiện Đảng nắm chính quyền, nguyên tắc tập trung dân chủ của Đảng phải được thực hiện
trong bộ máy Nhà nước nhằm bảo đảm xây dựng được một cơ chế quản lý tập trung và phân cấp hợp lý giữa
trung ương và địa phương, cấp trên và cấp dưới; bảo đảm xây dựng được chế độ trách nhiệm của mỗi cấp, mỗi
tổ chức và mỗi cá nhân, giữ vững được nguyên tắc tập thể lãnh đạo đi đôi với phân công trách nhiệm cá nhân
phụ trách rõ ràng. Tập trung dân chủ là nguyên tắc chỉ đạo trong xây dựng tổ chức và hoạt động của Đảng.
Những nội dung cơ bản của nguyên tắc này được phản ánh sâu sắc trong Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam.
Nguyên tắc tập trung dân chủ kết hợp hữu cơ giữa tập trung và dân chủ; tập trung phải trên cơ sở dân chủ và
dân chủ phải dưới sự chỉ đạo của tập trung. Đảng ta kiên quyết phản đối việc phủ nhận nguyên tắc tập trung dân
chủ. Sự phủ nhận đó khơng tránh khỏi tạo nên sự lỏng lẻo về kỷ luật, rạn nứt về tổ chức trong Đảng. Đảng coi

tập trung dân chủ “là nguyên tắc tổ chức cơ bản, phân biệt chính Đảng kiểu mới của giai cấp công nhân, Đảng
cách mạng chân chính, với các Đảng khác. Phủ nhận nguyên tắc này là phủ nhận Đảng Cộng sản từ bản chất” .
5. Đảng là một khối thống nhất về chính trị, tư tưởng, tổ chức. Tự phê bình và phê bình là quy luật
phát triển của Đảng
Đồn kết thống nhất là quy luật trưởng thành của Đảng. Sự đoàn kết thống nhất trong Đảng bắt nguồn
từ bản chất của giai cấp vô sản, từ sự kết cấu chặt chẽ của Đảng. Đảng chỉ thu nhận vào đội ngũ của mình
những đại biểu ưu tú của giai cấp vơ sản tự ngụn xin gia nhập Đảng. Đó là những người có cùng lý tưởng,
mục đích và lợi ích. Trong nhiều tác phẩm của mình, Lênin đã lý giải một cách toàn diện, sâu sắc tính tất yếu và
tầm quan trọng đặc biệt của sự thống nhất trong đội ngũ Đảng. Theo Lênin, muốn đưa cách mạng đến thắng lợi,
Đảng “phải có một sự thống nhất ý chí hết sức chặt chẽ, tuyệt đối”.
Trong điều kiện có chính quyền, Lênin đặc biệt quan tâm đến sự thống nhất củaĐảng. Thực tế ở nhiều
nước xã hội chủ nghĩa đã chứng tỏ sự thống nhất đội ngũ Đảng là nguồn gốc của mọi thắng lợi, là nhân tố để
đoàn kết toàn dân, quyết định sự vững mạnh của Nhà nước xã hội chủ nghĩa và nền tảng chính trị, xã hội của
nó. Lênin cịn chỉ rõ, khi đã có chính qùn, nếu để xảy ra chia rẽ thì khơng chỉ là nguy hiểm mà còn là cực kỳ
nguy hiểm nếu Đảng đó lại nắm chính quyền ở một nước mà giai cấp công nhân chiếm một tỷ lệ nhỏ bé trong
dân cư.
Để đảm bảo sự thống nhất trong Đảng luôn luôn được củng cố và phát triển, Đảng cần phải thường
xuyên và nghiêm chỉnh thực hiện tự phê bình và phê bình. Lênin chỉ ra rằng: “Thái độ của một chính Đảng
trước những sai lầm của mình là một trong những tiêu chuẩn quan trọng nhất và chắc chắn nhất để xem xét
Đảng ấy có nghiêm túc khơng và có thực sự làm trịn nghĩa vụ của mình đối với giai cấp mình và đối với q̀n
chúng lao động khơng. Cơng khai thừa nhận sai lầm, tìm ra nguyên nhân sai lầm, phân tích hoàn cảnh đã đẻ ra
sai lầm, nghiên cứu cẩn thận những biện pháp để sửa chữa sai lầm ấy, đó là dấu hiệu chứng tỏ một Đảng
nghiêm túc, đó là Đảng làm trịn những nghĩa vụ của mình, đó là giáo dục và huấn lụn giai cấp, rồi đến quần
chúng”. Tự phê bình và phê bình là biện pháp quan trọng nâng cao trí tuệ, phát hiện và giải quyết những mâu
thuẫn trong Đảng. Tự phê bình và phê bình địi hỏi phải có tính Đảng, tính nguyên tắc cao, phải đảm bảo tăng
cường sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng, nâng cao được mối quan hệ chặt chẽ giữa Đảng và quần chúng. Tự
phê bình và phê bình là một nội dung thường xuyên của sinh hoạt Đảng.
Đảng ta đã trải qua nhiều thời kỳ đấu tranh cách mạng và trong bất kỳ một thời kỳ nào, Đảng cũng ln
ln coi trọng xây dựng khối đồn kết thống nhất của Đảng. Hồ Chí Minh dạy: “Đoàn kết là sức mạnh, là then
chốt của thành công”. Đảng ta rất coi trọng việc xây dựng khối đoàn kết thống nhất trong Đảng và thường

xuyên, nghiêm chỉnh thực hiện tự phê bình và phê bình. Trong điều kiện có chính quyền, Đảng đặc biệt chăm lo
xây dựng khối đoàn kết thống nhất và coi đó là cơ sở để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ của Đảng trong điều kiện
mới. Đảng kiên quyết ngăn chặn và phê phán nghiêm khắc những hiện tượng như: đàn áp, trù dập người phê
bình, chủ nghĩa thành tích, che dấu khuyết điểm, coi tự phê bình và phê bình là dịp để đả kích lẫn nhau, đi đến
chia rẽ, bè phái trong Đảng.
4


6. Đảng gắn bó chặt chẽ với quần chúng, kiên quyết đấu tranh để ngăn ngừa và khắc phục bệnh
quan liêu, xa rời quần chúng
Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng. Đảng là một tổ chức tự nguyện, đấu tranh vì sự nghiệp giải
phóng q̀n chúng khỏi ách áp bức bóc lột. Quần chúng cần có Đảng với tư cách là người lãnh đạo họ trong
cuộc đấu tranh ấy. Nếu khơng có sự đồng tình và ủng hộ của q̀n chúng thì mọi chủ trương, đường lối của
Đảng khơng trở thành hiện thực. Xây dựng chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản là một sự nghiệp hoàn toàn
mới mẻ và vơ cùng khó khăn. Sự nghiệp đó chỉ có thể thành cơng nếu Đảng tổ chức và phát huy được tính sáng
tạo, cách mạng của quần chúng. Lênin chỉ ra rằng, những người cộng sản chỉ như những giọt nước trong đại
dương nhân dân mênh mông và chỉ riêng với bàn tay những người cộng sản thì khơng thể xây dựng thành công
chủ nghĩa xã hội. Tính sáng tạo linh động của quần chúng, đó là nhân tố cơ bản của xã hội mới. Chủ nghĩa xã
hội không phải là kết quả của những sắc lệnh từ trên ban xuống. Tính chất máy móc, hành chính và quan liêu
không dung hợp được với tinh thần của chủ nghĩa xã hội; chủ nghĩa xã hội sinh động, sáng tạo là sự nghiệp của
bản thân quần chúng nhân dân. Khi Đảng Bơnsevich Nga đã có chính qùn, Lênin thường nhấn mạnh rằng,
sức mạnh của Đảng bắt nguồn từ mối liên hệ mật thiết với quần chúng, từ sự đồng tình và ủng hộ của quần
chúng đối với Đảng. Thiếu điều kiện đó khơng những khơng thể xây dựng thành cơng chủ nghĩa xã hội, mà cịn
có thể dẫn đến mất chính quyền.
7. Đảng phải tích cực kết nạp những đại biểu ưu tú của giai cấp công nhân và nhân dân lao động
vào Đảng, phải thường xuyên đưa những người không đủ tiêu chuẩn và những phần tử cơ hội ra khỏi
Đảng
Đảng là đội tiên phong của giai cấp. Đảng chỉ có thể làm trịn vai trị ấy nếu trong Đảng chỉ bao gồm
những chiến sỹ tiên phong. Tích cực kết nạp những đại biểu ưu tú của giai cấp công nhân và nhân dân lao động
vào Đảng là biện pháp quan trọng để cải thiện thành phần, chất lượng của Đảng là điều kiện vô cùng trọng yếu

để nâng cao uy tín và giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng. Ở mỗi thời kỳ của cách mạng, do nhiều ngun nhân
khác nhau, đều khơng tránh khỏi có một số người khơng cịn giữ được vai trị tiên phong. Có người do trình độ
nhận thức, năng lực hoạt động thực tiễn, có người do khơng kiên định về chính trị, thiếu ý thức tổ chức kỷ luật,
thối hóa, biến chất trở thành những kẻ quan liêu, tham nhũng, ức hiếp quần chúng... Đặc biệt là trong điều kiện
Đảng có chính qùn khơng tránh khỏi có những phần tử cơ hội tìm mọi cách luồn lọt chui vào Đảng với mưu
đồ đặc quyền, đặc lợi, phá hoại sự thống nhất đội ngũ Đảng, làm niềm tin của quần chúng đối với Đảng bị giảm
sút. Từ thực tiễn của Đảng Cộng sản (B) Nga sau những năm có chính quyền, trước khi qua đời, Lênin đã nhấn
mạnh rằng: “Phải đuổi ra khỏi Đảng những kẻ gian giảo, những Đảng viên cộng sản đã quan liêu hóa, khơng
trung thực, nhu nhược...” . Để đội ngũ của Đảng luôn luôn trong sạch, chỉ bao gồm những chiến sỹ tiên phong
được quần chúng tin u thì Đảng phải thường xun đưa những người khơng đủ tiêu chuẩn và những phần tử
cơ hội ra khỏi Đảng. Đó là một biện pháp đặc biệt quan trọng nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến
đấu của Đảng. Đảng Cộng sản Việt Nam đã ý thức rõ điều đó nên từ ngày thành lập đến nay, nhất là từ khi có
chính quyền, Đảng đã thực hiện nhiều hình thức khác nhau nhằm chỉnh đốn đội ngũ Đảng.
8. Tính quốc tế của Đảng
Chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân là bản chất của Đảng cộng sản. Bản chất đó bắt nguồn từ vai
trị, sứ mệnh lịch sử tồn thế giới của giai cấp cơng nhân. Tính chất quốc tế của Đảng thể hiện trước hết ở chỗ
Đảng được tổ chức và hoạt động theo những nguyên lý của học thuyết Mác-Lênin về Đảng, ở đường lối chiến
lược, sách lược đối nội và đối ngoại của Đảng, ở chỗ Đảng luôn luôn quan tâm giáo dục đội ngũ Đảng viên và
nhân dân lao động chủ nghĩa quốc tế vô sản. Trong thời đại ngày nay, chủ nghĩa yêu nước chân chính phải gắn
liền với chủ nghĩa quốc tế vô sản trong sáng. Đảng kiên quyết chống mọi khuynh hướng vô vanh nước lớn hoặc
chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi.
2. Liên hệ vào thực tiễn xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay
5


Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện, đã trải qua nhiều thử thách,
trở thành một Đảng Mác-Lênin kiên cường, trưởng thành về chính trị, vững vàng trước những biến cố vô cùng
khó khăn của lịch sử ở trong nước và trên thế giới. Đảng ta lấy chủ nghĩa Mác - Lê-nin là nền tảng tư tưởng,
kim chỉ nam cho mọi hành động. Trong hơn 80 năm ra đời và lãnh đạo cách mạng, Đảng ta đã không ngừng lớn
mạnh. Học thuyết về chính đảng kiểu mới của V.I. Lê-nin với 8 nguyên lý cơ bản nêu trên đến nay vẫn luôn

mang ý nghĩa lý luận sâu sắc,soi sáng cho công cuộc xây dựng, chỉnh đốn Đảng ở nước ta hiện nay. Những
nguyên lý về đảng kiểu mới của V.I. Lê-nin chính là những nguyên tắc xây dựng Đảng Cộng sản trên tất cả các
lĩnh vực chính trị, tư tưởng, tổ chức. Những ngun tắc đó ln ln vận động trong mối quan hệ biện chứng
với nhau.
2.1. Vận dụng các nguyên lý về đảng kiểu mới V.I. Lê-nin trong công công tác xây dựng Đảng Cộng
sản Việt Nam
Trong suốt quá trình xây dựng và trưởng thành của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhất là trong những năm
gần đây, khi đề ra phương hướng biện pháp xây dựng chỉnh đốn Đảng, Đảng luôn nghiên cứu, quán triệt và vận
dụng đầy đủ những nguyên lý xây dựng Đảng kiểu mới của giai cấp công nhân trong học thuyết về Đảng Cộng
sản của chủ nghĩa Mác-Lênin. Vì vậy, chúng ta khẳng định rằng, sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố
quyết định đến mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Vấn đề quan tâm hàng đầu của Đảng Cộng sản Việt
Nam là phải tăng cường công tác xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, nâng cao bản lĩnh chính trị và trình độ
trí tuệ của Đảng, giữ vững và tăng cường bản chất giai cấp công nhân của Đảng. Đảng phải kiên định chủ nghĩa
Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền chủ nghĩa xã hội.Nâng cao chất lượng,
hiệu quả công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, làm sáng tỏ một số vấn đề về đảng cầm quyền và chủ
nghĩa xã hội.
Trong thời gian qua, công tác xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức đã có nhiều
chuyển biến tích cực, nhận thức được nâng cao hơn, tư duy được đổi mới hơn, tư tưởng được thống nhất hơn,
thể hiện ở việc đã tạo được sự nhất trí trong Đảng, sự đồng thuận trong xã hội đối với những vấn đề lớn, cơ bản
trong quá trình tiến hành công cuộc đổi mới, công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Mục tiêu “xây dựng Đảng
trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức” thực chất là để “nâng cao năng lực lãnh đạo
và sức chiến đấu của Đảng”. Trong đó:
- Nền tảng quan trọng để xây dựng Đảng về chính trị trước hết là: kiên định chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, vận dụng sáng tạo và phát triển phù hợp với thực tiễn Việt Nam; kiên định mục tiêu độc
lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định đường lối đổi mới; kiên định những vấn đề có tính ngun tắc trong
cơng tác xây dựng Đảng; không ngừng nâng cao năng lực cầm quyền của Đảng, năng lực hoạch định đường lối,
chính sách phù hợp với quy luật khách quan, đặc điểm của Việt Nam, nâng cao bản lĩnh chính trị và trình độ trí
tuệ của toàn Đảng và của mỗi cán bộ, đảng viên, trước hết của cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp; khơng dao
động trong bất kỳ tình huống nào, dù khó khăn đến đâu cũng chủ động vượt qua, luôn giữ vững bản chất cách
mạng của Đảng, không để ảnh hưởng, tác động xấu đến sự phát triển của đất nước và cuộc sống của nhân dân.

Và nhiệm vụ quan trọng cần tập trung là nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác tư tưởng, lý luận. Tăng
cường nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, làm sáng tỏ một số vấn đề về đảng cầm quyền, về con đường đi
lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
- Xây dựng Đảng về tư tưởng với nền tảng là chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh để nâng
cao nhận thức về chủ nghĩa xã hội, về xây dựng Đảng cầm quyền. Qua đó, làm cho tư tưởng của cán bộ, đảng
viên phù hợp với tư tưởng của Đảng, thống nhất cao và tin tưởng vào đường lối, chủ trương của Đảng. Xuất
phát từ phương châm lý luận kết hợp với thực tiễn, tổng kết thực tiễn, công tác tư tưởng phải bảo đảm tính
thuyết phục trên cơ sở lý luận, thực tiễn chính xác, khoa học, thiết thực. Xây dựng Đảng về tư tưởng không chỉ

6


có tác động tích cực đối với việc xây dựng, phát triển đường lối, nhiệm vụ chính trị, mà có ý nghĩa quan trọng
đối với toàn bộ các mặt xây dựng Đảng.
Xây dựng Đảng về tổ chức là xây dựng hệ thống tổ chức, bộ máy của hệ thống chính trị (Đảng, Nhà
nước, Mặt trận, các đoàn thể chính trị - xã hội) từ Trung ương đến cơ sở thật sự khoa học, tinh gọn, hiệu quả;
xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên có đủ phẩm chất, bản lĩnh và năng lực để ln có nhận thức đúng, nhanh
nhạy, sáng tạo... ; xây dựng tổ chức cơ sở Đảng, đảng viên từ các chi bộ thật sự trong sạch, vững mạnh, đủ sức
chiến đấu và lãnh đạo, tổ chức thực hiện thắng lợi mọi đường lối, chủ trương và các nghị quyết của Đảng; thực
hiện bảo vệ chính trị nội bộ...Xây dựng Đảng về tổ chức có vai trị đặc biệt quan trọng, trong đó, các tổ chức cơ
sở của Đảng dù quy mô như thế nào, thuộc loại hình nào đều là khâu quan trọng, là nền tảng, hạt nhân chính trị,
bởi đây là cấp cơ sở trực tiếp tiến hành các hoạt động xây dựng nội bộ đảng. Chính vì vậy, phải nâng cao trình
độ khoa học tổ chức Đảng từ Trung ương đến cơ sở, phải thực hiện đúng các nguyên tắc tổ chức và hoạt động
của Đảng. Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương khóa X đã khẳng định: “Thực hiện đúng các nguyên
tắc tổ chức và hoạt động của Đảng; xây dựng, kiện toàn hệ thống tổ chức, làm rõ chức năng, nhiệm vụ, mối
quan hệ, thẩm quyền, trách nhiệm của mỗi tổ chức, bảo đảm bộ máy tinh gọn, có hiệu lực, hiệu quả. Đặc biệt
chú trọng nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng, gắn xây dựng tổ chức cơ sở
đảng với xây dựng hệ thống chính trị ở cơ sở”. Điều lệ Đảng do Đại hội Đảng lần thứ XI thông qua cũng khẳng
định: Đảng là một tổ chức chặt chẽ, thống nhất ý chí và hành động, lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ
chức cơ bản, thực hiện tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, thương yêu đồng chí, kỷ luật nghiêm minh, đồng

thời thực hiện các ngun tắc: tự phê bình và phê bình, đồn kết trên cơ sở Cương lĩnh chính trị và Điều lệ
Đảng, gắn bó mật thiết với nhân dân, Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.
- Xây dựng Đảng về đạo đức thực tế luôn gắn liền, nằm trong xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, tổ
chức nhưng nay được gọi tên, được đặt ngang hàng đã thể hiện ý chí của Đảng là đề cao, coi trọng đạo đức.
Trước đây, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã khẳng định: “Người cách mạng phải có đạo đức, khơng có đạo đức
thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân”. Đạo đức không chỉ thể hiện các giá trị, chuẩn mực
đạo đức, mà còn thể hiện trình độ, xu hướng nhận thức và chi phối hành vi của mỗi người. Xây dựng Đảng về
đạo đức là xây dựng đạo đức cách mạng, là suốt đời phấn đấu vì sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc; hết
lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, đặt lợi ích của quốc gia, dân tộc, của nhân dân lên trước lợi
ích của cá nhân. Đối với các tổ chức đảng và từng cán bộ, đảng viên, tăng cường xây dựng Đảng về đạo đức là
không quan liêu, lãng phí, tham ô, là “cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ tư”; có lối sống khiêm tốn, giản dị,
trung thực, nêu cao tinh thần trách nhiệm; tích cực học tập lý luận, rèn luyện chuyên mơn, nâng cao trình độ về
mọi mặt…, đó cũng chính là giải pháp cơ bản nhất hiện nay để củng cố và tăng cường đoàn kết thống nhất
trong Đảng, tiếp tục tạo dựng niềm tin trong nhân dân. Trong Di chúc, Bác đã nhấn mạnh, xây dựng Đảng về
đạo đức đặt ra yêu cầu cơ bản đối với mỗi cán bộ, đảng viên, đó là “phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách
mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư… phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật
trung thành của nhân dân”. Trong thời điểm hiện nay, mỗi cán bộ, đảng viên càng cần phát huy gương mẫu, nêu
gương đi đầu trong tu dưỡng rèn luyện đạo đức, giữ gìn lối sống để quần chúng làm theo.
- Xây dựng Đảng về đạo đức là một tư duy mới trong xây dựng Đảng nói chung, việc đặt thẳng vấn đề
đạo đức trong xây dựng Đảng thể hiện ý chí của Đảng ta quyết tâm đấu tranh với một hiện tượng đã trở nên khá
phổ biến, được coi “sẽ là thách thức đối với vai trò lãnh đạo của Đảng và sự tồn vong của chế độ”. Do đó, việc
Đại hội XII điều chỉnh “tăng cường xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh” và bổ sung xây dựng Đảng về đạo
đức vào mục tiêu xây dựng Đảng là hồn tồn đúng đắn, khơng chỉ đáp ứng yêu cầu xây dựng Đảng, còn xuất
phát từ thực tiễn tình hình, từ quyết tâm giải quyết triệt để một vấn đề cấp bách, đáp ứng nguyện vọng của cán
bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân.

7


2. Để đạt được mục tiêu “Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và

đạo đức” cần tập trung vào những nội dung chủ yếu sau:
- Một là, tăng cường xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng. Thứ nhất, nâng cao bản lĩnh chính trị, lấy
nền tảng là chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Mỗi cán bộ, đảng viên kiên định chủ nghĩa Mác Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, khơng giáo điều, máy móc; kiên định con đường xã hội chủ nghĩa và mục tiêu
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, phê phán những ý kiến phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lê-nin. Nâng cao năng
lực hoạch định đường lối, xây dựng chính sách đúng đắn, phù hợp với từng giai đoạn phát triển, phù hợp với
quy luật khách quan và đặc điểm của Việt Nam. Thứ hai, đổi mới mạnh mẽ nội dung, hình thức, phương pháp
công tác tư tưởng theo hướng gắn với thực tiễn, với cơ sở; nâng cao chất lượng sinh hoạt ở từng chi bộ; tăng
cường số lượng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ làm công tác tư tưởng; nâng cao cảnh giác và tính sắc
bén trong cuộc đấu tranh tư tưởng, đẩy mạnh đấu tranh chống diễn biến hịa bình, các luận điệu cơ hội, phá hoại
Đảng; đẩy mạnh cơng tác phịng, chống suy thối về tư tưởng, chính trị trong cán bộ, đảng viên.
- Hai là, tiếp tục đổi mới, kiện tồn tổ chức, cơng tác cán bộ. Kiện toàn tổ chức, bộ máy của Đảng và hệ
thống chính trị trên cơ sở: xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, mơ hình tổ chức, tạo chuyển biến về chất lượng
hoạt động; đánh giá đúng thực trạng, những điểm cịn hạn chế, tồn tại từ mơ hình tổ chức đến phương thức hoạt
động; nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các tổ chức cơ sở đảng, nâng cao chất lượng hoạt động
của loại hình cơ sở đảng, bảo đảm sự lãnh đạo tồn diện của Đảng ở cơ sở; giữ vững các nguyên tắc tổ chức,
hoạt động cơ bản của Đảng, như tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, tự phê bình và phê bình,
đồn kết thống nhất…; đổi mới mạnh mẽ công tác cán bộ từ khâu phát hiện, tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng, sử
dụng cán bộ, xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên có đức, có tài. Nâng cao chất lượng đảng viên, mỗi cán bộ,
đảng viên phải thường xuyên gần gũi quần chúng nhân dân, lắng nghe ý kiến của nhân dân, xây dựng mối quan
hệ chặt chẽ giữa Đảng với nhân dân; phát huy dân chủ, quyền làm chủ của nhân dân trên mọi lĩnh vực, bảo đảm
mọi quyền lực thuộc về nhân dân.
- Ba là, chú trọng tăng cường xây dựng Đảng về đạo đức, kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, xử lý
nghiêm minh những cán bộ, đảng viên sai phạm, làm trong sạch bộ máy Đảng và Nhà nước, làm lành mạnh các
quan hệ xã hội. Cụ thể cần tập trung vào một số vấn đề sau:
+ Thứ nhất, các cấp ủy, tổ chức Đảng phải đẩy mạnh, thường xun, liên tục, tránh các biểu hiện hình
thức trong cơng tác giáo dục đạo đức, lối sống cho cán bộ, đảng viên. Nghiên cứu, đổi mới hình thức giáo dục
cho phù hợp. Nội dung giáo dục phải lấy chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm gốc.
+ Thứ hai, gắn xây dựng Đảng về đạo đức với xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng và tổ chức. Xây
dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên có phẩm chất đạo đức, lối sống trong sáng, cao đẹp, mỗi cán bộ, đảng viên, đặc
biệt là người đứng đầu gương mẫu, “cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ tư”, có lối sống lành mạnh, đạo đức

trong sáng, nói đi đơi với làm, cũng chính là nền tảng để xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên có bản lĩnh chính
trị vững vàng, khơng dao động trước khó khăn, thử thách, âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù
địch.
+ Thứ ba, trong tình hình cụ thể hiện nay, đội ngũ cán bộ chủ chốt phải nêu gương thực hành đạo đức,
thúc đẩy toàn Đảng, toàn dân học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách của Chủ tịch Hồ Chí Minh,
gắn việc thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW của Bộ Chính trị khóa XII với việc thực hiện Nghị quyết Hội nghị
Trung ương 4 khóa XI về “Một số vấn đề cấp bách trong xây dựng Đảng hiện nay”. Đồng thời, kiên quyết đấu
tranh với các biểu hiện suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự
chuyển hóa” trong nội bộ./.
Câu 2: Tính tất yếu, nội dung, giải pháp để thực hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng hiện
nay.
8


Tập trung dân chủ là nguyên tắc cơ bản chỉ đạo xây dựng, tổ chức, sinh hoạt và hoạt động của Đảng, là
nguyên tắc tổ chức cơ bản của Đảng. Đó cũng là nguyên tắc quan trọng nhất chỉ đạo mọi hoạt động tổ chức,
sinh hoạt nội bộ và phong cách làm việc của Đảng. Nó đảm bảo cho sự thống nhất ý chí và hành động, tạo nên
sức mạnh vô địch của một Đảng cách mạng. Đây là nguyên tắc phân biệt chính Đảng của giai cấp công nhân,
Đảng cách mạng chân chính với các Đảng phái khác. Đây cũng là điểm mà mọi thế lực chống đối thường cơng
kích nhằm phủ nhận vai trị lãnh đạo của Đảng.
Qn triệt quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nguyên tắc tập trung dân chủ,
từ bài học gần đây của các đảng anh em và qua hoạt động thực tiễn, Đảng ta đã khẳng định: Đảng cộng sản Việt
Nam tổ chức theo nguyên tắc tập trung dân chủ. Nội dung cơ bản của nguyên tắc này được quy định tại Điều 9
chương II Điều lê Đảng cộng sản Việt Nam.
Là một đảng cách mạng lấy chủ nghĩa Mác-Lênin làm nền tảng tư tưởng, từ ngày thành lập đến nay,
Đảng Cộng sản Việt Nam luôn lấy nguyên tắc tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản của Đảng. Việc
áp dụng nguyên tắc này vào tổ chức và hoạt động của Đảng là tất yếu khách quan, vừa bảo đảm cho Đảng
thống nhất ý chí và hành động, vừa phát huy dân chủ, tạo nên sức mạnh vô địch của Đảng, đưa cách mạng nước
ta giành thắng lợi này đến thắng lợi khác.
1. Tính tất yếu của việc thực hiện nguyên tắc TTDC trong Đảng

Hầu hết các đảng cộng sản trên thế giới đều khẳng định ngay từ đầu tinh thần dân chủ trong đảng và lấy
tập trung dân chủ làm nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và sinh hoạt của đảng. Nguyên tắc tập trung dân chủ có
vĩ trí và tầm quan trọng hang đầu trong tổng thể các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt ĐCS,và nó có vai trị quan
trọng việc đảm bảo vững mạnh về chính trị , tưi tưởng và tổ chức củ ĐCS.
Hồ Chí Minh - người sáng lập, giáo dục, rèn luyện Đảng ta - đã vận dụng sáng tạo học thuyết của Chủ
nghĩa Mác-Lênin về xây dựng Đảng của giai cấp công nhân vào điều kiện cụ thể của Việt Nam. Người quán
triệt đầy đủ nguyên tắc xây dựng Đảng kiểu mới của LêNin và vận dụng vào việc tổ chức xây dựng Đảng
Cộng Sản Việt Nam. Người khẳng định Đảng phải là khối thống nhất ý chí và hành động, trong tổ chức, Đảng
phải thực hiện đầy đủ nguyên tắc tập trung dân chủ - một nguyên tắc quyết định sức mạnh của Đảng.. Người
chỉ rõ rằng dân chủ phải đi đôi với với tập trung, phải kiên quyết thực hành kỷ luật. Trong lãnh đạo, Hồ Chí
Minh đòi hỏi Đảng phải thực hiện đúng đắn nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách. Thực hiện đúng
đắn nguyên tắc này mới tránh cho Đảng khơng rơi vào chủ quan, độc đốn, chun quyền và mới biến đường
lối của Đảng trở thành thực tiễn sinh động. Trong sinh hoạt Đảng, Hồ Chí Minh đặt vấn đề phải thực hiện tốt
nguyên tắc tự phê bình và phê bình - một vũ khí và là quy luật làm cho Đảng trở nên trong sạch, vững mạnh.
Đồng thời, Đảng phải thực hiện tốt nguyên tắc kỷ luật nghiêm minh và tự giác, cũng như nguyên tắc đoàn kết
thống nhất trong Đảng, cán bộ đảng viên phải tự giác chấp hành kỷ luật của Đảng, phải giữ gìn sự thống nhất
của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình.
Từ khi trở thành Ðảng cầm quyền, Ðảng Cộng sản Việt Nam kiên định và có bước phát triển mới trong
việc phát huy dân chủ nội bộ, thực hành nguyên tắc tập trung dân chủ cả trong Ðảng và trong tổ chức, hoạt
động của Nhà nước. Tại Đại hội dại biểu toàn quốc lần thứ XI thong qua ngày 19 tháng 1 năm 2011 Đảng ta đã
nhấn mạnh: phải thực hiện đúng đắn nguyên tắc tập trung dân chủ trên cơ sở thực hành dân chủ rộng rãi trong
Đảng.
Như vậy, việc thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ là tất yếu khách quan, xuất phát từ cơ sở lí luận và
thực tiễn sau đây.
Thứ nhất, xuất phát từ bản chất của Đảng:
Đảng là đội tiền phong chiến đấu của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc. Do đó,
đảng phải được tổ chức chặt chẽ, tập trung, thống nhất, chứ không thể là một tổ chức lỏng lẻo, vô chính phủ.
9



Đảng là liên minh tự nguyện của những người cùng chung chí hướng cộng sản, đấu tranh để xây dựng
CNXH – một xã hội dân chủ. Do đó, đảng phải có tổ chức dân chủ mới phù hợp với bản chất và mục đích ấy.
Như vậy, việc thực hiện nguyên tắc nguyên tắc tập trung dân ch là tất yếu, bởi nếu xa rời nguyên tắc này
là xa rời bản chất của đảng cộng sản.
Thứ hai, xuất phát từ yêu cầu lịch sử của đảng:
Nhiệm vụ lịch sử của Đảng Cộng sản VN là lãnh đạo cuộc đấu tranh xoá bỏ áp bức, bóc lột, bất cơng,
xây dựng thành cơng nước Việt Nam XHCN và tiến tới CNCS. Nhiệm vụ đó rất to lớn nhưng mới mẻ, khó
khăn, địi hỏi đảng phải tổ chức dân chủ để phát huy mọi tiềm năng trí tuệ, lực lượng của đảng viên và các tổ
chức trong toàn đảng.
Mặt khác, nhiệm vụ lịch sử của Đảng rất gay go, phức tạp, quyết liệt, lâu dài đối đầu với các thế lực thù
địch ln tìm cách chống phá, nên đảng phải được tổ chức một cách tập trung với sự thống nhất về tổ chức và
hoạt động, kỷ luật nghiêm minh mới đủ sức hoàn thành nhiệm vụ lịch sử đó.
Thứ ba, xuất phát từ kinh nghiệm lịch sử của phong trào cộng sản, công nhân quốc tế:
Trong lịch sử, đảng cộng sản nào thực hiện tốt nguyên tắc TTDC thì sẽ xây dựng được mình thành đội
tiền phong chiến đấu có tổ chức chặt chẽ, vượt mọikhó khăn, thử thách khốc liệt, lãnh đạo cách mạng thành
công, giành những thắng lợi to lớn; ngược lại cũng có những ĐCS cầm quyền xa rời, lơi lỏng nguyên tắc này
nên bị suy yếu, thậm chí tan vỡ. Kinh nghiệm và thực tiễn của ĐCS Liên Xô, các nước Đơng Âu cho thấy điều
đó; trong khi VN, TQ… kiên định thì đang gặt hái được những thành tựu to lớn.
Thứ tư, xuất phát từ kinh nghiệm hoạt động thực tiễn của ĐCS VN:
Nhờ được tổ chức theo nguyên tắc TTDC nên đảng ta đã có đủ sức mạnh lãnh đạo CM VN thành công và
ngày càng phát triển. Trong các thời kì CM, tổ chức đảng nào khơng thực hiện nghiêm ngun tắc này, bóp
méo ngun tăc này đều dẫn đến mất đoàn kết, suy giảm năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu.
Như vậy, thực hiện nguyên tắc TTDC là yêu cầu tất yếu khách quan của ĐCS VN. Đảng ta luôn khẳng
định nguyên tắc TTDC là nguyên tắc tổ chức cơ bản của đảng, mọi mưu toan xa rời, phủ nhận nguyên tắc này
đều bị phê phán, ngăn chặn.
2. Nội dung của nguyên tắc TTDC
* Là nguyên tắc tổ chức cơ bản của đảng, tinh thần chủ yếu của nguyên tắc này là bảo đảm cho sự thống
nhất về tư tưởng và chính trị của ĐCS được củng cố về mặt tổ chức. Nó đảm bảo cho đảng luôn là một tổ chức
chiến đấu, một tổ chức lãnh đạo, một tổ chức hành động chứ không phải là một câu lạc bộ chỉ bàn cãi suông.
Đây cũng là nguyên tắc dùng để phân biệt chính đảng cách mạng chân chính của GCCN với các đảng phái

khác.
* Nội dung của nguyên tắc này được quy định tại Điều 9 Điều lệ Đảng:
- Cơ quan lãnh đạo các cấp của đảng do bầu cử lập ra, thực hiện tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách;
- Cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng là Đại hội đại biểu toàn quốc. Cơ quan lãnh đạo ở mỗi cấp là đại
hội đại biểu hoặc đại hội đảng viên. Giữa hai kì đại hội, cơ quan lãnh đạo của Đảng là BCH trung ương, ở mỗi
cấp là BCH đảng bộ, chi bộ (gọi tắt là cấp uỷ);
- Cấp uỷ các cấp báo cáo và chịu trách nhiệm về hoat động của mình trước đại hội cùng cấp, trước cấp uỷ
cấp trên trực tiếp và cấp dưới; định kì thơng báo tình hình hoạt động của mình đến các tổ chức đảng trực thuộc,
thực hiện tự phê bình và phê bình;

10


- Tổ chức đảng và đảng viên phải chấp hành nghị quyết của Đảng. Thiểu số phục tùng đa số, cấp dưới
phục tùng cấp trên, cá nhân phục tùng tổ chức, các tổ chức trong toàn đảng phục tùng Đại hội đại biểu toàn
quốc và BCH trung ương;
- Nghị quyết của các cơ quan lãnh đạo của Đảng chỉ có giá trị thi hành khi có hơn một nửa số thành viên
trong cơ quan đó tán thành. Khi biểu quyết, mỗi thành viên được phát biểu ý kiến của mình. ĐV có ý kiến thuộc
về thiểu số được quyền bảo lưu và báo cáo lên cấp trên cho đến Đại hội đại biểu toàn quốc, song phải chấp
hành nghiêm chỉnh nghị quyết, không được truyền bá ý kiến trái với NQ của Đảng. Cấp uỷ có thẩm quyền
nghiên cứu, xem xét ý kiến đó; khơng phân biệt đối xử với ĐV có ý kiến thuộc về thiểu số;
- Tổ chức đảng quyết định các vấn đề thuộc phạm vi quyền hạn của mình, song khơng được trái với
ngun tắc, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước và nghị quyết của cấp trên.
Như vậy, một mặt, tập trung dân chủ có nghĩa là tất cả các cơ quan Đảng đều phải do bầu cử mà ra và
hoạt động theo nguyên tắc lãnh đạo tập thể, cá nhân phụ trách, thực hiện chế độ báo cáo định kỳ thơng báo tình
hình của mình đến các tổ chức Đảng trực thuộc, thực hiện nghiêm túc chế độ tự phê bình và phê bình. Đảng
viên có ý kiến thuộc về thiểu số được quyền bảo lưu, song phải chấp hành nghiêm chỉnh nghị quyết của Đảng.
Mặt khác tập trung dân chủ có nghĩa là kỷ luật nghiêm ngặt và thống nhất đối với toàn thể Đảng viên, là phục
tùng ý chí và nghị quyết của đa số, là các cơ quan cấp dưới có nghĩa vụ phải chấp hành quyết định của các cơ
quan có thẩm quyền cấp trên. Điều đó sẽ bảo đảm cho cơng tác và sự lãnh đạo của Đảng được tập trung, đoàn

kết, tổ chức chặt chẽ, thống nhất ý chí và hành động của toàn Đảng.
Những nội dung cơ bản của nguyên tắc tập trung dân chủ trên là dựa trên cơ sở chủ nghĩa Mác-Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, qua kinh nghiệm của các Đảng anh em và qua hoạt động thực tiễn của Đảng. Thế nhưng
vừa qua, ở một số nước, cũng như ở nước ta vẫn cịn có người muốn đặt lại vấn đề nguyên tắc tập trung dân chủ
trong Đảng với ý đồ đi tới xóa bỏ nó. Những địi hỏi xóa bỏ nguyên tắc tập trung dân chủ của họ thường vin
vào những sai lầm quan liêu, độc đoán, mất dân chủ của một số người lãnh đạo ở một số nước, lợi dụng sự tan
vỡ của một số Đảng Cộng sản. Họ khơng thấy ngun nhân của tình trạng đó chính là do đã hiểu sai và thực
hiện sai nguyên tắc tập trung dân chủ của lý luận xây dựng Đảng của chủ nghĩa Mác-Lênin.
3. Tính thống nhất của tập trung dân chủ
Về bản chất của nguyên tắc tập trung dân chủ thể hiện rõ sự thống nhất giữa tập trung và dân chủ. Sự
thống nhất đó khơng phải là ngẫu nhiên, mà nó được quy định bởi những nhân tố khách quan của cuộc đấu
tranh cách mạng của giai cấp công nhân và bởi nhiệm vụ của Đảng Cộng sản phải lãnh đạo cuộc đấu tranh đó
đến thắng lợi cuối cùng. Chúng ta có thể thấy:
- Tập trung có nghĩa là Đảng Cộng sản phải có một Cương lĩnh cách mạng chung, trong đó nêu lên mục
tiêu của cách mạng và được toàn thể đảng viên quán triệt thực hiện. Tập trung còn thể hiện ở việc lãnh đạo các
tổ chức đảng, các công tác của đảng do một trung tâm thực hiện là đại hội đại biểu toàn quốc, và trong thời kỳ
giữa hai nhiệm kỳ đại hội là Ban Chấp hành TW Đảng. Các Nghị quyết của đại hội và Ban Chấp hành TW
Đảng với tính cách là biểu hiện ý chí của toàn Đảng, bắt buộc tất cả và toàn thể đảng viên phải thi hành. Tập
trung địi hỏi phải có kỷ luật thống nhất phải tuân thủ những tiêu chuẩn sinh hoạt đảng, có ý thức phục tùng
Nghị quyết của Đảng. Do đó, tập trung trong Đảng không những là uy quyền của tư tưởng, mà còn là uy quyền
của tổ chức, do các cơ quan đó thể hiện.
- Bên cạnh đó, Đảng Cộng sản tồn tại sẽ khơng có ý nghĩa nếu khơng có dân chủ trong Đảng. Đây là
một tổ chức chính trị tự nguyện, độc lập, sức mạnh của Đảng là do tính tích cực tự giác của toàn thể đảng viên.
Chỉ khi nào đảng viên tự thảo luận và giải quyết tất cả mọi vấn đề kể cả việc thành lập các cơ quan lãnh đạo của
đảng thì tính tích cực của đảng viên mới được nâng cao. Có thực hiện dân chủ trong Đảng mới có điều kiện rèn
luyện, giáo dục đảng viên, mới phát huy tốt nhất nghị lực của họ vào việc đề ra và thực hiện đường lối chính
11


sách của Đảng. Như vậy, dân chủ trong Đảng thực chất là phát huy quyền làm chủ của toàn thể đảng viên, là sự

tham gia tích cực của toàn thể đảng viên vào công việc của Đảng một cách trực tiếp, hay thông qua những đại
biểu của họ vào việc vạch ra những đường lối, chính sách, vào việc thành lập các cơ quan lãnh đạo của Đảng.
Nhưng chỉ trong điều kiện có tính tổ chức cao, tính kỷ luật chặt chẽ, thừa nhận sự lãnh đạo thống nhất của Đảng
thì đảng viên mới có thể thực hiện được nghĩa vụ và quyền hạn của mình.
Nguyên tắc tập trung dân chủ là sự kết hợp hài hoà giữa hai mặt tập trung và dân chủ, tạo thành chỉnh
thể thống nhất của một nguyên tắc. Đó là bản chất của nguyên tắc này. Tuy nhiên, chúng ta cần hiểu trong
Đảng dân chủ gắn với tập trung. Bởi vì tập trung và dân chủ là hai mặt, hai yếu tố cấu thành của nguyên tắc tập
trung dân chủ. Dân chủ trong Đảng phải có tính đảng, có lãnh đạo, gắn liền với kỷ luật Đảng. Dân chủ là điều
kiện, là tiền đề của tập trung, cũng như tập trung là cơ sở, là cái bảo đảm cho dân chủ được thực hiện. Lênin đã
nhấn mạnh sự thống nhất giữa tập trung dân chủ trong hoạt động của đảng; đồng thời cũng kiên quyết chống lại
chủ nghĩa xét lại đem đối lập hai khái niệm đó với nhau. Người viết: Trên báo chí của chúng tôi, chúng tôi luôn
luôn bảo vệ dân chủ trong nội bộ đảng. Nhưng chúng tôi không bao giời phản đối chế độ tập trung của Đảng.
Chúng tôi chủ trương chế độ tập trung dân chủ. Do đó, đối với một đảng mác xít lêninnít, trừ những hồn cảnh
riêng biệt của các giai đoạn cách mạng, dân chủ và tập trung phải được coi trọng như nhau, tuyệt đối hố một
mặt nào đều có thể dẫn đến những sai lầm nguy hiểm, có hại cho sự lãnh đạo và sức mạnh của Đảng.
Lý luận về xây dựng Đảng mà Đảng ta tổng kết được qua thực tiễn hoạt động lâu dài của mình đã nêu
lên nhiều nguyên tắc quan trọng như: tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo cá nhân phụ trách, tự phê bình và phê
bình, kỷ luật nghiêm và tự giác, đoàn kết thống nhất trong Đảng. Tập trung dân chủ là nguyên tắc tổ chức của
Đảng, theo đó, mọi việc trong Đảng đều phải được bàn bạc dân chủ, ai cũng có quyền được nêu ý kiến của
mình, nhưng khiquyết định thì thiểu số phải phục tùng đa số, cấp dưới phải phục tùng cấp trên, toàn Đảng phải
phục tùng TW và cao nhất là đại hội Đảng. Tập trung dân chủ được coi là nguyên tắc rường cột để xây dựng
Đảng thành một tổ chức chiến đấu chặt chẽ, vừa phát huy sức mạnh của mỗi người, vừa tạo nên sức mạnh tổng
hợp của tổ chức. Dân chủ và tập trung là hai mặt của một vấn đề. Dân chủ không đối lập với tập trung mà chỉ
đối lập với tình trạng độc đốn, chuyên quyền. Tập trung không đối lập với dân chủ mà chỉ đối lập với tình
trạng tản mát, tự do, tuỳ tiện, vô tổ chức. Dân chủ là cơ sở của tập trung và tập trung chỉ có thể thực hiện được
hiệu quả trên cơ sở phát huy thật sự dân chủ trong Đảng.
4. Các giải pháp để thực hiện tốt nguyên tắc TTDC trong Đảng hiện nay
* Sau gần 30 năm thực hiện đường lối đổi mới, Đảng ta đã giữ vững và có nhiều tiến bộ trong thực hiện
ngun tắc TTDC. Tuy nhiên, vẫn cịn có những khuyết điểm nhất định trong việc thực hiện nguyên tắc này,
như vẫn còn hiện tượng chưa thống nhất cao với đường lối, chủ trương, chính sách lớn; dân chủ trong đảng và

trong xã hội còn bị vi phạm; còn thiếu những cơ chế cụ thể để có hiệu lực phát huy dân chủ, thực hiện đúng
nguyên tắc này trong đảng.
Nguyên nhân của những hạn chế trên, trước hết là trách nhiệm của người đứng đầu chưa cao; tiếp đến là
việc phân công, phân nhiệm thiếu rõ ràng, thậm chí chồng chéo; cán bộ chính quyền các cấp tham gia cấp uỷ
chưa phát huy hết vai trò trách nhiệm và sự lãnh đạo của cấp uỷ; cán bộ, đảng viên còn bị đè nặng bởi tư duy,
tác phong, lối sống sản xuất nhỏ, tâm lý cục bộ, địa phương, bản vị... Vẫn cịn thói quen thời tập trung quan liêu
bao cấp, tổ chức đảng bao biện làm thay chính quyền, cấp trên “lo” hết cho cấp dưới, người lãnh đạo “nghĩ” hết
cho người thừa hành v.v...
Cùng với đòi hỏi khách quan của sự phát triển kinh tế, chính trị, xã hội cũng như nhu cầu chống lại việc
các thế lực thù địch tun trùn xun tạc, bóp méo ngun tắc địi hỏi đảng ta phải đề ra các giải pháp nhằm
thực hiện tốt hơn nguyên tắc này trong giai đoạn hiện nay.
* Các giải pháp cụ thể:
12


- Nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên về nguyên tắc TTDC; làm rõ nội dung, yêu càu của nguyên
tắc TTDC trong tình hình mới; đấu tranh chống những luận điệu xuyên tạc, phủ nhận nguyên tắc TTDC;
- Tiếp tục hoạn thiện, cụ thể hoá, quy chế hoá nguyên tắc TTDC trong từng lĩnh vực, từng mặt công tác
XD đảng;
- Mở rộng dân chủ đi đôi với củng cố, tăng cường kỷ cương, kỷ luật trong Đảng. XD các thiết chế, cơ chế
cho phép phát huy thật sự mạnh mẽ dân chủ, trước hết là bảo đảm thực hiện các quyền của ĐV, nhất là quyền
được thảo luận, chất vấn, phê bình, thơng tin, bảo lưu ý kiến. Đồng thời với mở rộng dân chủ, phải củng cố tăng
cường kỷ cương, kỷ luật trong Đảng. Mọi tổ chức đảng và đảng viên phải thực hiện nhiệm vụ chấp hành chỉ thị,
nghị quyết của Đảng, nói và làm theo NQ của Đảng;
- Thực hiện nghiêm túc chế độ tập thể lãnh đạo đi đôi với cá nhân phụ trách. Thể chế hoá thành các quy
chế, quy định cụ thể về tổ chức, lề lối làm việc, trách nhiệm của tập thể, cá nhân để vừa giữ vững chế độ lãnh
đạo tập thể, vừa tăng cường mạnh mẽ trách nhiệm cá nhân. Tập trung làm rõ tráchnhiệm các nhân, quy định rõ
quyền và trách nhiệm của người đứng đâu cấp uỷ, tổ chức đảng và cơ quan, đơn vị;
- Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ. Xử lý nghiêm minh,
kịp thời những đảng viên, tổ chức đảng vi phạm nguyên tắc TTDC./.

4. Liên hệ thực tế:
Liên hệ việc thực hiện 6 nội dung của nguyên tắc trong Điều lệ Đảng ở Chi bộ (Đảng bộ) đơn vị mình?
1. Cơ quan lãnh đạo các cấp của Đảng do bầu cử lập ra, thực hiện tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách:
- Đại hội chi bộ bầu cấp ủy gồm:
+ Bí thư chi bộ
+ phó bí thư chi bộ
+ Chi ủy viên (vì chi bộ có dưới 30 ĐV nên chỉ có 01 chi ủy viên)
- Thực hiện tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách:
+ Cấp ủy lãnh đạo chi bộ.
+ Cá nhân phụ trách Bí thư chi bộ
+ Cá nhân phụ trách phó bí thư chi bộ
+ Cá nhân phụ trách Chi ủy viên
+ Đảng viên được phân công như: giúp đỡ quần chúng phát triển đảng, giúp đỡ hộ nghèo trên địa bàn,
chi bộ, vượt nghèo vvv.
2. Cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng là Đại hội Chi bộ cơ quan quan lãnh đạo là cấp ủy.
2. Họp chi bộ, nhận xét đảng viên
3. Học nghị quyết Trung ương đảng
- Biểu quyết nghị quyết của chi bộ Thiểu số phục tùng đa số
- Chấp hành sự điều động của Chi bộ
4. Nghị quyết của Chi bộ chỉ có giá trị thi hành khi có hơn một nửa số thành viên trong chi bộ tán thành.
Trước khi biểu quyết, mỗi thành viên được phát biểu ý kiến của mình. Đảng viên có ý kiến thuộc về thiểu số
được quyền bảo lưu và báo cáo lên cấp uỷ cấp trên cho đến Đại hội đại biểu toàn quốc, song phải chấp hành
13


nghiêm chỉnh nghị quyết, không được truyền bá ý kiến trái với nghị quyết của Đảng. Cấp uỷ có thẩm qùn
nghiên cứu xem xét ý kiến đó; khơng phân biệt đối xử với đảng viên có ý kiến thuộc về thiểu số.
5. Chi bộ quyết định các vấn đề thuộc phạm vi qùn hạn của mình, song khơng được trái với nguyên tắc,
đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước và nghị quyết của cấp trên.
6. Nêu Ưu điểm, khuyết điểm của chi bộ

VD: Tại cơ quan Sở Nội vụ Nghệ An, nơi học viên công tác Đảng bộ cơ quan đã liên tục giữ vũng danh hiệu
trong sạch vững mạnh tiêu biểu và đạt nhiều kết quả trong thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ. Chế độ tập
trung dân chủ, kỷ luật, kỷ cương trong Đảng được tổ chức thảo luận rộng rãi. Những vấn đề quan trọng, những
vấn đề lớn liên quan đến công tác Đảng và công tác chuyên môn được tổ chức thảo luận rộng rãi, lấy ý kiến của
các Đảng viên và các chi bộ trực thuộc Đảng bộ. Sinh hoạt trong Ban chấp hành Đảng bộ và sinh hoạt chi bộ
định kỳ hàng tháng theo quy định được tiến hành dân chủ hơn, các cấp ủy viên mạnh dạn trình bày ý kiến của
riêng mình. Các đảng viên tại chi bộ cũng đã cởi mở, thẳng thắn trao đổi chính kiến của mình về các vấn đề chi
bbooj đưa ra xin ý kiến. Bí thư Đảng ủy kiêm Giám đốc Sở đã có nhiều hoạt động mang tính dân chủ như chủ
động tiếp xúc, gặp gỡ, đối thoại với đảng viên, công chức trong cơ quan cũng như công chức trong hệ thống
ngành dọc để lắng nghe, trao đổi, thảo luận những vấn đề lớn của ngành, của cơ quan, đơn vị. Đồng thời trong
công tác tổ chức và công tác cán bộ, nhất là công tác quy hoạch, đánh giá, tuyển chọn, bổ nhiệm cán bộ được
tiến hành công khai, dân chủ, xin ý kiến rộng rãi. Khơng có hiện tượng mất đoàn kết. Các trường hợp cán bộ,
đảng viên, công chức, viên chức, người lao động trong cơ quan vi phạm đều bị xử lý nghiêm minh, không có
hiện tượng bao che, dung túng.
Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn còn một số tồn tại hạn chế như trong tập thể Đảng ủy hoặc trong Đảng bộ
vẫn có đồng chí cịn tùy tiện, thiếu ý thức kỷ luật, nói và làm không theo nguyên tắc, phát ngôn vô kỷ luật,
khơng đúng thẩm qùn, thâm chí có đồng chí chưa nghiêm túc ĐƯờng lối, CHỉ thị, nghị quyết của Đảng,
chính sách pháp luật của nhà nước. Tính thật thà của nhiều đảng viên đang có vấn đề.
Kỷ luật, kỷ cương có thời điểm thực hiện chưa nghiêm. Có thời điểm chưa ban hành quy định và thực
hiện chua đầy đủ nguyên tắc tập trung dân chủ. Một số chi ủy chi bộ trực thuộc ít lắng nghe ý kiến cấp dưới, có
khi ân chủ hình thức.
Nội dung “tập thể lãnh dạo, cá nhân phụ trách” có lúc thực hiện khơng tốt, có một số việc lớn, người
đứng đầu cấp ủy chưa dám nghĩ, dám làm, còn phụ thuộc nhiều vào tập thể, chưa thực sự quyết liệt dễn đến trì
trệ và bị một số cán bộ, đảng viên lợi dụng quyền lực để mưu cầu lợi ích cá nhân.
Từ những kết quả đạt được cũng như những nguyên nhân hạn chế đã chỉ ra, thiết nghĩ Đảng bộ Sở Nội vụ
cần thực hiện tốt các giải pháp để nâng cao hiệu quả, hiệu lực thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong
đảng bộ đó là: Tiếp tục nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức về nguyên tắc tập
trung dân chủ. Tuyên truyền nội dung ý nghĩa của nguyên tắc này trong đảng bộ.
Trong chương trình cơng tác năm của Dảng ủy, phải dành một mục cụ thể để quy chế hóa,cụ thể hóa các
nhiệm vụ thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ.

Mở rộng dân chủ trong đảng bộ cơ quan nhưng phải gắn liền với cũng cố, tăng cường kỷ cương, kỷ luật
trong đảng.
Tập thể BCH Đảng bộ phải thực hiện nghiêm túc chế độ tập thể lãnh đạo đi đôi với cá nhân phụ trách.
Xây dựng quy chế làm việc cụ thể của tập thể và cá nhân người đứng đầu, tập trung xác định rõ trách nhiệm cá
nhân, quy định rõ trách nhiệm quyền hạn của đồng chí bí thư Đảng ủy, thủ trưởng cơ quan.

14


Tăng cường công tác kiểm tra giám sát việc thực hiện quy chế tập trung dân chủ trong Đảng bộ. Báo cáo
Đảng bộ cấp trên kịp thời xác minh, xử lý nghiêm những chi bộ trực thuộc và các đảng viên vi phạm nguyên tắc
tập trung dân chủ./.
Câu 3: Sự cần thiết phải nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở Đảng. Nhiệm vụ,
giải pháp để nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng hiện nay.
Đảng Cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, là một đội ngũ thống nhất về
chính trị, tư tưởng trên cơ sở chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, một đội ngũ có tổ chức chặt chẽ,
khoa học. Tính tổ chức của Đảng thể hiện trước tiên ở chỗ Đảng là một hệ thổng các cấp tổ chức từ Trung ương
đến cơ sở, được xây dựng theo nguyên tắc tập trung dân chủ. Trong hệ thống đó, các tổ chức cơ sở - chi bộ cơ
sở và Đảng bộ cơ sở - lập thành nền tảng của Đảng. Nguyên lý này chỉ rõ vị trí, vai trò của tổ chức cơ sở Đảng
trong hệ thống tổ chức Đảng và trong hoạt động của Đảng
1. Sự cần thiết phải nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở Đảng
1.1. Vị trí, vai trị của tổ chức cơ sở Đảng trong hệ thống và hoạt động của Đảng
- Tổ chức cơ sở Đảng: là tổ chức cơ sở của Đảng được lập ở đơn vị cơ sở, nơi có từ 3 đảng viên chính
thức trở lên. Tổ chức cơ sở đảng bao gồm có chi bộ cơ sở và đảng bộ cơ sở.
- Học thuyết về chính Đảng cách mạng của giai cấp công nhân đã khẳng định: các tổ chức cơ sở Đảng
trong các giai đoạn phát triển là một trong những khâu quan trọng trong hệ thống tổ chức và trong thực hiện sự
lãnh đạo của Đảng. Chính vai trị đó nói lên vị trí nền tảng của các Đảng bộ cơ sở, mà trên đó Đảng được xây
dựng và trưởng thành. Ngay từ những ngày đầu của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, C.Mác và
Ph.Ăngghen đã nhấn mạnh: “biến mỗi chi bộ thành trung tâm và hạt nhân của các hiệp hội cơng nhân”. Xuất
phát từ vai trị đó, các tổ chức cơ sở Đảng đã tăng lên về số lượng và phong phú về nội dung, phương thức hoạt

động. Lênin viết: “Những chi bộ ấy liên hệ chặt chẽ với nhau và với Trung ương Đảng, phải trao đổi kinh
nghiệm cho nhau, phải làm công tác cổ động, tuyên truyền, công tác tổ chức, phải thích nghi với mọi lĩnh vực
của đời sống xã hội, với tất cả mọi loại và mọi tầng lớp quần chúng lao động, những chi bộ ấy phải thơng qua
cơng tác mn hình mn vẻ đó mà rèn luyện minh, rèn luyện Đảng, giai cấp, quần chúng một cách có hệ
thống” .
- Ngay từ khi ra đời, Đảng ta đặc biệt quan tâm xây dựng các tổ chức cơ sở của mình. Trong điều kiện
hoạt động bí mật, Đảng đã chú trọng tổ chức và phát triển các chi bộ cộng sản ở các khu công nghiệp tập trung
đông công nhân, những vùng nông thôn và trong học sinh, sinh viên, trí thức nhằm tuyên truyền, cổ động, tổ
chức quần chúng đứng lên đấu tranh giành chính quyền. Sau này, trong kháng chiến chống kẻ thù xâm lược,
giành độc lập, lãnh đạo công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, Đảng ta luôn coi các tổ chức
cơ sở Đảng là cấp tổ chức nền tảng, là những đơn vị chiến đấu cơ bản, những tế bào của Đảng. Chất lượng các
Đảng bộ cơ sở là yếu tố tạo nên chất lượng lãnh đạo của Đảng đối với quá trình cách mạng, đến uy tín của
Đảng trước quần chúng nhân dân. Từ bài học thành công và chưa thành công trong việc xây dựng tổ chức cơ sở
Đảng, Đại hội Đại biểu Toàn quốc lần thứ VI của Đảng khẳng định: “Những thành tựu đã đạt được, những tiềm
năng được khai thác, những kinh nghiệm có giá trị đều bắt nguồn từ sự nổ lực phấn đấu của quần chúng ở cơ sở
mà hạt nhân là tổ chức Đảng. Nhưng mặt khác, sự yếu kém của nhiều tổ chức cơ sở Đảng đã hạn chế những
thành tựu của cách mạng”.Sự khẳng định đó càng làm sâu sắc thêm nhận định của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Chi
bộ là nền móng của Đảng, chi bộ tốt thì mọi việc sẽ tốt”.
1.2. Sự cần thiết phải nâng cao năng lực và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở Đảng
- Tổ chức cơ sở đảng là nền tảng của Đảng, là hạt nhân chính trị ở cơ sở. Đây là nơi tổ chức đảng và đảng
viên gắn bó chặt chẽ với nhân dân, nơi quán triệt, chấp hành chủ trương, đường lối, nhiệm vụ chính trị của cấp
trên; cụ thể hóa, đề ra nhiệm vụ của cấp mình và trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện nhiệm vụ đó biến
15


chủ trương, đường lối, nhiệm vụ của đảng thành hiện thực trong cuộc sống. Tổ chức cơ sở đảng là nơi quan tâm
đến đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân, lắng nghe ý kiến, tâm tư nguyện vọng của quần chúng nhân dân;
là nơi tổng kết thực tiễn, góp phần bổ sung hồn thiện chủ trương, đường lối của đảng, đáp ứng nhu cầu,
nguyện vọng của nhân dân.
- Với vai trò quan trong như vậy trong thời gian qua các tổ chức cơ sở đảng đã phát huy huy vai trị hạt

nhân chính trị của mình lãnh đạo tồn diện các mặt cơng tác ở cơ sở, nhất là trong lãnh đạo phát triển kinh tế xã
hội, xóa đói, giảm nghèo, xây dựng kết cấu hạ tầng, phát triển y tế, giáo dục...Tiếp tục khẳng định vai trò lãnh
đạo của mình, được nhân dân tin tưởng, giao phó.
- Tuy nhiên quá trình lãnh đạo chỉ đạo của các tổ chức cơ sở đảng trong tình hình mới, thực tiễn mới đã
bộc lộ những yếu kém, khuyết điểm, một số mặt có nguy cơ trầm trọng dẫn đến đánh mất vai trò lãnh đạo của
đảng, đến sự tồn vong của Đảng. Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng ở một số nơi vẫn
còn yếu, một số ít tổ chức cơ sở đảng chưa đủ sức giải quyết những vấn đề phức tạp nẩy sinh từ cơ sở. Tổ chức
cơ sở đảng trong các khu vực cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp, doanh nghiệp có nơi hoạt động cịn lúng
túng, vai trò mờ nhạt. Phương thức lãnh đạo của nhiều chi bộ, đảng bộ cơ sở còn lúng túng, chậm đổi mới, tình
trạng lấn sân, bao biện làm thay hoặc bng lỏng vai trò lãnh đạo vẫn còn sẩy ra. Một số tổ chức cơ sở đảng
chậm được chỉnh đốn, yếu kém kéo dài; tình trạng mất đồn kết nội bộ, vi phạm dân chủ; một số cán bộ quan
liêu, tham nhũng, dẫn đến khiếu kiện tập thể, gây mất ổn định tình hình cơ sở...Cơng tác quản lý, kiểm tra, giám
sát, giáo dục, rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên ở cơ sở bị buông lỏng. Cấp ủy và chi bộ khơng nắm chắc tình
hình tư tưởng và phẩm chất của cán bộ, đảng viên; chưa có biện pháp hữu hiệu ngăn ngừa, phát hiện, đấu tranh
và xử lý kịp thời những đảng viên vi phạm.
- Sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa là lâu dài, khó
khăn. Các thế lực thù địch vẫn tiếp tục chống phá chế độ, chống phá Đảng, gây mâu thuẫn chia rẽ, kích động, tự
diễn biến từ bên trong và bên ngoài, phá vỡ khối đại đoàn kết dân tộc, mối liên hệ mật thiết giữa Đảng và nhân
dân.
Từ đó, Đảng đã chỉ đạo toàn đảng phải tập trung lãnh đạo, chỉ đạo để nâng cao năng lực lãnh đạo, sức
chiến đấu của của tổ chức cơ sở đảng; bảo đảm sự lãnh đạo của đảng trên tất cả các lĩnh vực hoạt động của đời
sống xã hội ở cơ sở, lấy hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị ở cơ sở làm thước đo kết quả tổng hợp của
công tác xây dựng đảng.
2. Những nhiệm vụ cơ bản của tổ chức cơ sở Đảng
Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam được Đại hội Đại biểu Toàn quốc lần thứ VII thông qua đã quy định
nhiệm vụ của tổ chức cơ sở Đảng:
2.1. Quán triệt đường lối, chính sách của Đảng và căn cứ vào tình hình của đơn vị đề ra chủ trương,
nhiệm vụ của Đảng bộ, kiểm tra việc thực hiện, bảo đảm cho nghị quyết của Đảng, pháp luật của Nhà nước
được chấp hành nghiêm chỉnh.
2.2. Lãnh đạo quần chúng hoàn thành nhiệm vụ của đơn vị, chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của

quần chúng, xây dựng mối liên hệ mật thiết với quần chúng, xây dựng chính quyền, bộ máy quản lý, lực lượng
dân quân tự vệ, an ninh nhân dân và các đoàn thể nhân dân.
2.3. Xây dựng Đảng bộ và đội ngũ cán bộ ở đơn vị, chăm lo công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, rèn
luyện phẩm chất đạo đức cách mạng, nâng cao trình độ kiến thức và năng lực công tác của Đảng viên; Tuyên
truyền phát triển ảnh hưởng của Đảng trong quần chúng và kết nạp Đảng viên mới; Nâng cao chất lượng sinh
hoạt Đảng, thực hiện tự phê bình và phê bình, kiểm tra Đảng viên chấp hành Điều lệ Đảng, giữ gìn kỷ luật và
tăng cường đoàn kết thống nhất của Đảng; Xây dựng và quản lý đội ngũ cán bộ, Đảng viên; Thu nộp Đảng phí.
16


2.4. Tham gia và lãnh đạo quần chúng tham gia xây dựng đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của
Nhà nước, nắm vững ý kiến, nguyện vọng của quần chúng để kịp thời giải quyết, báo cáo trung thực tình hình
và hoạt động của Đảng bộ lên cấp trên. Những nhiệm vụ trên có mối liên hệ chặt chẽ và tác động lẫn nhau. Do
vậy, trong hoạt động thực tiễn không được xem nhẹ nhiệm vụ nào.. Song, do những đặc điểm riêng của từng
loại đơn vị cơ sở, các Đảng bộ cần quán triệt và vận dụng sáng tạo, xác định những vấn đề trọng tâm, tập trung
chỉ đạo có kết quả để thúc đẩy phát triển tồn diện.
3. Giải pháp để nâng cao năng lực và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở Đảng hiện nay
Trên cơ sở quán triệt sự chỉ đạo của Đảng, cần thực hiện tốt và đồng bộ các giải pháp chủ yếu sau:
3.1. Nắm vững và thực hiện đúng chức năng nhiệm vụ của tổ chức cơ sở đảng; xây dựng và thực hiện tốt
quy chế làm việc, chương trình cơng tác.
Các tổ chức cơ sở đảng phải nắm vững chức năng nhiệm vụ chung của tổ chức cơ sở đảng và chức năng,
nhiệm vụ cụ thể của loại hình tổ chức cơ sở đảng theo quy định của trung ương Đảng. Xác định đúng nhiệm vụ
chính trị của tổ chức cơ sở đảng. Nhiệm vụ chính trị là nhiệm vụ trung tâm, chủ yếu, cụ thể của tổ chức cơ sở
đảng trong từng thời kỳ có vai trị chi phối toàn bộ hoạt động của tổ chức cơ sở đảng. Để xác định đúng nhiệm
vụ chính trị, tổ chức cơ sở đảng cần: Nắm vững đường lối, chủ trương,chính sách của Đảng, chương trình, kế
hoạch của cấp trên; nắm chắc đặc điểm, tình hình của đơn vị, địa phương, nhất là những vấn đề bức xúc,
nguyện vọng của đông đảo quần chúng nhân dân; Đổi mới việc ra nghị quyết theo quy trình khoa học.
Tiếp tục xây dựng hồn thiện quy chế làm việc; xây dựng và thực hiện nghiêm túc chương trình cơng tác
của tổ chức cơ sở đảng. Quy chế làm việc, chương trình cơng tác là những quy định cụ thể mang tính pháp quy,
giúp tổ chức cơ sở đảng thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ. Do đó quy chế cần xây dựng theo đúng hướng

dẫn; hàng năm, mỗi nhiệm kỳ phải rà soát, điều chỉnh cho hợp lý; xây dựng đồng bộ quy chế hoạt động của cấp
ủy đảng, chính qùn, đồn thể. Chương trình cơng tác bao gồm: chương trình cơng tác tồn khóa, hằng năm
của tổ chức cơ sở đảng; chương trình cơng tác của ban chấp hành, ban thường vụ; các chương trình cơng tác
chun đề về xây dựng đảng, tun giáo, tổ chức, dân vận...
3.2. Nâng cao chất lượng đảng ủy, chi ủy, đội ngũ cán bộ cơ sở theo hướng: tiêu chuẩn hóa, trẻ hóa, thể
chế hóa và từng bước nhất thể hóa hai chức danh cán bộ ở cơ sở.
Theo đó cần đẩy mạnh cơng tác quy hoạch, đào tạo, bồi đưỡng cán bộ cơ sở. Kịp thời kiện toàn cấp ủy và
tăng cường cán bộ ở những nơi có nhiều khó khăn, nội bộ mất đồn kết. Coi trọng việc lựa chọn, bố trí cán bộ
lãnh đạo, quản lý chủ chốt, nhất là bí thư cấp ủy. Thực hiện tốt công tác quản lý và chế độ, chính sách đối với
cán bộ cơ sở. Thực hiện tốt nghị quyết Trung ương 6 khóa X về nâng cao chất lượng tổ chức cơ sở đảng và đội
ngũ cán bộ, đảng viên. Làm tốt việc trẻ hóa, tiêu chuẩn hóa, thể chế hóa và từng bước nhất thể hóa hai chức
danh cán bộ chủ chốt ở cơ sở.
3.3. Nâng cao chất lượng sinh hoạt cấp ủy, sinh hoạt chi bộ.
Sinh hoạt cấp ủy, sinh hoạt chi bộ phải theo đúng hướng dẫn của Đảng. Để nâng cao chất lượng sinh hoạt
chi bộ cần: Thực hiện đúng lịch sinh hoạt chi bộ; Việc sinh hoạt cần quán triệt đảm bảo 3 tính chất (tính lãnh
đạo, giáo dục, tính chiến đấu); Nội dung sinh hoạt cần thiết thực, đi thẳng vào những vấn đề bức xúc, chú trọng
các nội dung về xây dựng đảng, nhất là mặt công tác tư tưởng; Đổi mới hình thức sinh hoạt trên cơ sở kết hợp
ba hình thức sinh hoạt: chính trị, học tập, chuyên đề; kiện toàn các chi bộ và tăng cường cơ sở vật chất phục vụ
sinh hoạt; Bồi dưỡng, nâng cao năng lực tổ chức, điều hành sinh hoạt cho bí thư cấp ủy.
3.4. Đánh giá đúng chất lượng tổ chức cơ sở đảng theo hướng coi trọng chất lượng, chống bệnh thành
tích, đẩy mạnh cuộc vận động xây dựng tổ chức cơ sở đảng trong sạch, vững mạnh.

17


Cụ thể hóa các tiêu chuẩn đánh gía chất lượng tổ chức cơ sở đảng thành các tiêu chí cụ thể.Xây dựng và
thực hiện quy chế lấy ý kiến đóng góp của các đồn thể chính trị-xã hội và q̀n chúng nhân dân ở cơ sở với tổ
chức cơ sở đảng và đảng viên. Gắn bình xét tổ chức cơ sở đảng với đánh giá chất lượng của chính quyền, đơn
vị, đoàn thể. Đề cao trách nhiệm của người đứng đầu tổ chức cơ sở đảng và cấp trên cơ sở về chất lượng của
việc bình xét. Làm tốt cơng tác biểu dương, khen thưởng những tổ chức cơ sở đảng trong sạch, vững mạnh,

hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.
3.5. Kết hợp xây dựng, củng cố tổ chức cơ sở đảng với nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của chính
quyền, Mặt trận tổ quốc và các đoàn thể nhân dân; phát huy vai trò giám sát của quần chúng nhân dân đối với tổ
chức cơ sở đảng.
Tổ chức cơ sở đảng chú trọng lãnh đạo xây dựng chính quyền, Mặt trận tổ quốc và các đoàn thể chính trixã hội ở cơ sở vững mạnh, hoạt động tốt và hoàn thành nhiệm vụ chính trị. Đây là một trong những căn cứ đánh
giá chính xác hiệu quả lãnh đạo của đảng. Vì vậy, xây dựng chính quyền, Mặt trận tổ quốc và các đoàn thể
chính trị vững mạnh vừa là mục tiêu, vừa là tiêu chí đánh giá kết quả hoạt động lãnh đạo của tổ chức cơ sở
đảng.
Phát huy vai trò giám sát và phản biện của quần chúng nhân dân đối với tổ chức đảng nhằm góp phần đổi
mới nội dung, phương thức lãnh đạo; phát hiện những sai lầm, thiếu sót trong thực thi nhiệm vụ của tổ chức và
các đảng viên để sửa chữa, khắc phục. Muốn vậy, các tổ chức đảng phải tổ chức cho quần chúng tham gia đóng
góp ý kiến bằng nhiều hình thức, phải tơn trọng và biết lắng nghe ý kiến của nhân dân.
3.6. Đổi mới, tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của câp ủy cấp trên cơ sở.
Cấp ủy cấp trên cơ sở cần đổi mới, tăng cường chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra hoạt động của các tổ chức cơ
sở đảng, hướng mạnh về cơ sở, khắc phục bệnh quan liêu giấy tờ; cấp ủy cấp trên phải có chương trình làm việc
cụ thể với cơ sở, phân công cấp ủy viên trực tiếp theo dõi, bám sát, hướng dẫn, giúp đỡ cơ sở. Đồng thời, cấp
ủy cấp trên cần chăm lo đào tạo, bồi dưỡng, quản lý đội ngũ cán bộ cơ sở; tập trung chỉ đạo củng cố các đảng
bộ, chi bộ yếu kém, tổng kết, phổ biến kinh nghiệm của tổ chức cơ sở đảng trong sạch, vững mạnh.
3.7. Tiếp tục tăng cường công tác giáo dục chính trị tư tưởng, xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên có bản
lĩnh chính trị vững vàng, có trí tuệ, có phẩm chất đạo đức cách mạng, có ý thức tổ chức kỷ luật, thực sự tiền
phong gương mẫu, có năng lực hồn thành nhiệm vụ được giao.
Thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ, nâng cao chất lượng sinh hoạt đảng, thực hiện tự phê bình
và phê bình, giữ gìn kỷ luật, tăng cường đoàn kết, thống nhất trong Đảng. Các cấp ủy phải chủ động hơn trong
công tác chính trị tư tưởng, trang bị kịp thời những thông tin định hướng cho cán bộ, đảng viên; đổi mới mạnh
mẽ nội dung, hình thức, biện pháp giáo dục chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh; tuyên truyền sâu
rộng đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Xây dựng sự đoàn kết thống nhất trong cấp ủy, đảng bộ, chi bộ trên cơ sở Cương lĩnh chính trị, Điều lệ
Đảng, đường lối, chính sách của Đảng và tình thương yêu đồng chí; kiên quyết đấu tranh với những quan điểm,
việc làm trái với chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Cấp ủy phải nắm chắc
tình hình tư tưởng, phát hiện kịp thời những cán bộ, đảng viên có biểu hiện tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, vi

phạm về đạo đức, lối sống; có biện pháp cụ thể để phịng ngừa, giáo dục, giúp đỡ và xử lý nghiêm minh đối với
những cán bộ, đảng viên sai phạm.
4. Liên hệ thực tế
Nghệ An là tỉnh có diện tích lớn nhất cả nước, dân số đứng thứ 4 cả nước, số lượng đảng viên nhiều.
Trong những năm qua đã đạt được một số kết quả trong xây dựng tổ chức cơ sở đảng như:
Tổ chức cơ sở đảng được thành lập hầu hết các đon vị cơ sỏ và thường xuyên dc kiện toàn.
18


Trình độ, năng lực cấp ủy cơ sở được nâng cao.
Các tổ chức cơ sở đảng có bước chuyển biến tiến bộ trong việc phát huy vai trò hạt nhân chính trị lãnh
đạo các mặt công tác ở cơ sở, nhất là trong PT KTXH, XĐG nghèo, PT yte giáo dục...
Sinh hoạt đảng ở các tổ chức cơ sở dược chỉnh đốn, các tổ chức cơ sở đảng đều có quy chế làm việc, các
TCCS Đảng đã quan tâm naag cao chất lượng đảng viên, nâng cao chất lượng hoạt động của hệ thống chính trị
thực hiện tốt qc DC cơ sỏ, cũng cố mqp giữa Đảng, nhà nước và nhân dân.
Tuy nhiên thực tế vẫn còn xảy ra một số hạn chế như: Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ
sở đảng ở một số nơi vẫn còn yếu. Tổ chức cơ sở đảng trong các khu vực cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp,
doanh nghiệp có nơi hoạt động cịn lúng túng, vai trò mờ nhạt. Phương thức lãnh đạo của nhiều chi bộ, đảng bộ
cơ sở còn lúng túng, chậm đổi mới, tình trạng lấn sân, bao biện làm thay hoặc bng lỏng vai trị lãnh đạo vẫn
cịn sẩy ra. Tình trạng mất đoàn kết nội bộ, vi phạm dân chủ; một số cán bộ quan liêu, tham nhũng, dẫn đến
khiếu kiện tập thể, gây mất ổn định tình hình cơ sở...Cơng tác quản lý, kiểm tra, giám sát, giáo dục, rèn luyện
đội ngũ cán bộ, đảng viên ở cơ sở bị buông lỏng. ...
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời 3/2/1930 đó là kết quả của sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào
công nhân và phong trào yêu nước của nhân dân ta. Hơn 75 năm qua phát huy sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin
và tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng đã lãnh đạo nhân dân Việt Nam vượt qua mn ngàn khó khăn, thử thách
giành được nhiều thắng lợi vĩ đại đưa đất nước vững bước tiến lên trên con đường XHCN. Trong suốt quá trình
cách mạng để khơng ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng đáp ứng được yêu cầu từng
giai đoạn cách mạng, Đảng ta luôn coi trọng công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Chủ tịch Hồ Chí Minh trong
di chúc Người đã căn dặn: "việc phải làm trước tiên sau khi cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước thắng lợi là
phải chỉnh đốn Đảng, làm cho mỗi đảng viên, mỗi chi bộ đều ra sức làm trịn trách nhiệm, nhiệm vụ Đảng giao

phó cho mình, toàn tâm toàn ý phục vụ nhân dân". Thấm nhuần lời dạy của Người, Đảng ta luôn đựat nhiệm vụ
xây dựng và chỉnh đốn Đảng là nhiệm vụ cấp bách, hàng đầu đặc biệt là trong giai đoạn đổi mới đất nước hiện
nay. Đại hội VIII Đảng ta đã xác định "cùng với nhiệm vụ trung tâm là phát triển kinh tế phải tăng cường vai
trò lãnh đạo của Đảng, coi xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt".
Câu 4: Các quan điểm chỉ đạo và giải pháp xây dựng đội ngũ cán bộ trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước.
Từ khi ra đời cho đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn khẳng định vai trị to lớn, vơ cùng quan trọng
của đội ngũ cán bộ. Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng, khoá VIII về “Chiến
lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” đã khẳng định: “Cán bộ là nhân tố quyết
định sự thành bại của cách mạng, gắn liền với vận mệnh của Đảng, của đất nước và chế độ, là khâu then chốt
trong công tác xây dựng Đảng”. Quan điểm này bắt nguồn từ việc nhận thức rõ vai trị của cán bộ và cơng tác
cán bộ trong cơng tác xây dựng đảng nói riêng và sự nghiệp cách mạng nói chung, đặc biệt là trong thời kỳ đẩy
mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
1. Quan điểm chỉ đạo công tác xây dựng đội ngũ cán bộ
1.1. Khái niệm cán bộ
- Khái niệm cán bộ thường được dùng ở các nước XHCN, du nhập vào Việt Nam. Từ "cán bộ" được
dùng nhiều trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, trong từ điển tiếng Việt năm 1993 từ cán bộ có hai nghĩa:
+ Cán bộ là người làm cơng tác có nghiệp vụ chun mơn trong cơ quan nhà nước.
+ Cán bộ là người làm công tác có chức vụ trong một cơ quan, một tổ chức, phân biệt với người thường
khơng có chức vụ.
19


- Theo quan điểm của công tác xây dựng Đảng thì cán bộ cũng có hai nghĩa:
+ Cán bộ là người làm cơng tác, có nghiệp vụ chun mơn trong một cơ quan, một tổ chức của hệ thống
chính trị, có trình độ đào tạo từ cao đẳng, đại học trở lên.
+ Cán bộ là người làm cơng tác có chức vụ, phân biệt với người bình thường khơng có chức vụ trong
các cơ quan, tổ chức của hệ thống chính trị.
- Trong tác phẩm "Sửa đổi lối làm việc" Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: "Cán bộ là những người đem chính
sách của Đảng, của Chính phủ giải thích cho dân chúng hiểu rõ và thi hành. Đồng thời đem tình hình của dân

chúng báo cáo cho Đảng, cho Chính phủ rõ, để đặt chính sách cho đúng".Trong cán bộ có nhiều loại như cán bộ
lãnh đạo, cán bộ quản lý, cán bộ chủ chốt, cán bộ chủ trì...
- Khái quát lại, cán bộ hiểu theo nghĩa rộng bao gồm tất cả cán bộ, công chức, viên chức làm việc trong
các tổ chức của hệ thống chính trị, các lực lượng vũ trang, các doanh nghiệp nàh nước và các đơn vị sự nghiệp
công lập; bao gồm cả những người được bầu cử, phê chuẩn và bổ nhiệm giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý và
những người làm công tác chuyên môn, nhiệm vụ.
- Xây dựng đội ngũ cán bộ là khâu mấu chốt, quan trọng nhất trong công tác xây dựng Đảng, nội dung của
công tác xây dựng đội ngũ cán bộ rất phong phú.
1.2. Yêu cầu cấp thiết phải xây dựng đội ngũ cán bộ và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ
a. Xuất phát từ vị trí, vai trị của cán bộ
- Theo quan điểm của C.Mác - V.I.Lênin thì mỗi giai cấp cần có như: lãnh tụ chính trị, những đại biểu
tiền phong có đủ bản năng tổ chức và lãnh đạo phong trào.
- Thời phong kiến Việt Nam coi "hiền tài là nguyên khsi quốc gia". Hiền tài là những người có tài năng,
có đạo đức được xã hội coi trọng quý trọng như là nguyên khí, tài sản vô giá của quốc gia. Hiền, tài cũng là tiêu
chuẩn để các bậc sĩ phu học tập, tu dưỡng, rèn luyện hướng tới.
- Theo quan điểm của Hồ Chí Minh và củaĐảng Cộng sản Việt Nam.
Hồ Chí Minh viết: "Cán bộ là cái giá của mọi công việc"; "muôn việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt
hay kém".Nghị quyết Hội nghị lần thứ 3 Ban Chấp hành Trung ương khoá VIII về chiến lược cán bộ thời kỳ
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước xác định: "Cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của
cách mạng, gắn liền với vận mệnh của Đảng, của đất nước và của chế độ, là khâu then chốt trong công tác xây
dựng Đảng".
- Có được vị trí, vai trị đó là nhờ có những chuẩn mực của người cán bộ - đó là: cần, kiệm, liêm, chính,
chí cơng vơ tư, là đức và tài.
b. Xuất phát từ thực trạng, yêu cầu của thời kỳ đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước
- Thực trạng cơng tác cán bộ
Tính chiến đấu của cán bộ, đảng viên còn yếu (cơng tác phê và tự phê cịn yếu).
Cán bộ, đảng viên đông về số lượng nhưng yếu về chất lượng, thừa nhưng thiếu - thiếu cán bộ giỏi.
Trình độ, năng lực của cán bộ không tương xứng với bằng cấp.
Tinh thần, thái độ học tập không nghiêm túc.

Tỷ lệ cán bộ nữ còn thấp.

20



×