Tải bản đầy đủ (.doc) (111 trang)

TÀI LIỆU THAM KHẢO đề CƯƠNG CHI TIẾT ôn THI CAO học đầu vào môn xây DỰNG ĐẢNG và CHÍNH QUYỀN NHÀ nước CHUẨN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (691.74 KB, 111 trang )

Vấn đề 1: Học thuyết MLN về chính đảng cách mạng của GCCN
ĐVĐ: Học thuyết Mác – Lênin về chính đảng cách mạng của GCCN là một hệ thống quan điểm, tư tưởng của C.Mác, Ph.Ăng ghen
và V.I.Lênin về tổ chức và hoạt động của chính Đảng cách mạng, chính đảng kiểu mới của GCCN. Học thuyết đó chỉ ra tính tất yếu khách
quan của sự ra đời và phát triển của ĐCS, nêu lên những nguyên lý, nguyên tắc XDĐ về chính trị, tư tưởng và tổ chức. Đó là những cơ sở
khoa học bảo đảm cho việc xây dựng các ĐCS thực sự là đội tiên phong, là lãnh tụ chính trị, bộ tham mưu chiến đấu của GCCN và QC
NDLĐ.
I. TƯ TƯỞNG MÁC- ĂNG GHEN VỀ CHÍNH ĐẢNG CÁCH MẠNG CỦA GCCN.
1. Tính tất yếu khách quan phải thành lập ĐCS

- Tư tưởng của Mác – Ăng Ghen, chỉ rõ: ĐCS ra đời là một đòi hỏi tất yếu khách quan
của cuộc đấu tranh giai cấp giữa GCTS với GCTS, là điều kiện tiên quyết để GCCN thực
hiện sứ mệnh lịch sử của mình. Vì:
+ Xuất phát từ vấn đề GC và đấu tranh GC dẫn tới một chính đảng ra đời do PTĐT của
GCCN phát triển đòi hỏi phải có Đảng lãnh đạo.
+ Chính đảng của GCCN ra đời là đòi hỏi khách quan của cuộc đấu tranh giai cấp giữa
VS&TS
- Bằng phương pháp duy vật biện chứng C.Mác và Ph.Ăng ghen đã chứng minh một
cách khoa học về sự diệt vong không thể tránh khỏi của CNTB, về tính tất yếu của sự cự quá
độ từ CNTB sang một HTKT XH cao hơn đó là CNCS.
Hai ông chỉ ra rằng bước quá độ đó không phải diễn ra một cách tự phát mà phải bằng con
đường cách mạng lật đổ sự thống trị của GCTS và xoá bỏ các quan hệ sản xuất TBCN. C.Mác và
Ph.Ăng ghen đã phát hiện ra lực lượng xã hội có khả năng thực hiện bước quá độ đó là GCCN.
Theo C.Mác và Ph.Ăng ghen GCCN là giai cấp tiêu biểu cho LLSX tiến bộ nhất, là giai cấp được
rèn luyện trong nền sản xuất đại công nghiệp, cho nên GCCN là giai cấp tiên tiến nhất, có tinh
thần triệt để cách mạng nhất, có khả năng hành động cách mạng kiên quyết nhất, có tính tổ chức
và kỷ luật cao nhất, là giai cấp duy nhất đóng vai trò lãnh đạo cách mạng.
- Tuy nhiên, theo tư tưởng C.Mác và Ph.Ăng ghen GCCN muốn thực hiện được vai trò
lịch sử thế giới, thì điều kiện tiên quyết là phải tổ chức ra chính đảng độc lập của mình.
Bởi vì chỉ khi nào GCCN tổ chức ra được chính đảng độc lập của mình, thì khi đó cuộc
đấu tranh của GCCN mới chuyển từ đấu tranh kinh tế sang đấu tranh chính trị, từ đấu tranh
tự phát sang đấu tranh tự giác, có tổ chức, có lãnh đạo.


- Chính vai trò lịch sử toàn thế giới và địa vị lãnh đạo của GCCN quyết định tính tất
yếu khách quan và sự cần thiết phải thành lập chính đảng cách mạng của GCVS, đó là điều
kiện tiên quyết để bảo đảm cho cuộc đấu tranh của GCVS đi tới thắng lợi hoàn toàn.
- Thực tiễn sự ra đời của các ĐCS và công nhân trên thế giới và sự ra đời của ĐCSVN đã
chứng minh tư tưởng của C.Mác và Ph. Ăng ghen về tính tất yếu khách quan phải thành lập ĐCS.
2. Quy luật ra đời của Đảng công sản
Mác – Ăng ghen chỉ ra quy luật ra đời của ĐCS: “ ĐCS là sản phẩm của sự kết hợp
giữa CNXH khoa học với PTCN”. Bởi vì:
1


* PTCN là cơ sở vật chất, cơ sở xã hội của ĐCS:
- PTCN là cơ sở xã hội, là tiền đề vật chất cho sự ra đời của ĐCS.
- PTCN ra đời trước CNXH khoa học, nhưng khi chưa có CNXHKH soi sáng dẫn đường thì PTĐT của GCCN vốn chỉ là tự
phát.
* CNXH khoa học là cơ sở tinh thần, tư tưởng của ĐCS:

- CNXH khoa học do C.Mác và Ph.Ăngghen sáng lập là vũ khí tư tưởng, là lý luận của
GCCN, là biểu hiện tập trung lập trường, quan điểm triệt để cách mạng của GCCN. Nhưng
CNXH khoa học khi chưa kết hợp với PTCN, thì về mặt tổ chức, sự phát triển cao nhất của
nó cũng chỉ dẫn đến sự ra đời của các hội truyền bá CNM.
- Chỉ từ khi CNXHKH thâm nhập và soi sáng vào PTCN, GCCN mới thấy rõ sứ mệnh
lịch sử của mình, mới ý thức được sự cần thiết phải tổ chức ra chính đảng độc lập để lãnh
đạo cuộc đấu tranh giai cấp đi tới thắng lợi hoàn toàn. Từ khi có CNXH khoa học soi sáng,
có chính đảng cách mạng lãnh đạo, PTĐT của GCCN mới chuyển từ “tự phát” lên đấu tranh
“tự giác”; GCCN mới bước lên vũ đài chính trị, đi tiên phong trong cuộc đấu tranh giải
phóng nhân loại khỏi ách áp bức và bóc lột
* Sự kết hợp giữa hai yếu tố này bảo đảm cho sự hình thành và phát triển của ĐCS.
- Sự kết hợp giữa CNXH khoa học với PTCN là qui luật phổ biến của sự ra đời của các ĐCS.
- Quá trình kết hợp đó phải được tiến hành một cách khoa học và đấu tranh kiên quyết với các trào lưu tư tưởng tư sản, cơ hội

chủ nghĩa thì Đảng mới ra đời được. Điều đó nói lên bản chất cách mạng và khoa học, thuộc tính căn bản nhất của ĐCS. Đây là một
tư tưởng cơ bản của C.Mác và Ph.Ăng ghen về đảng cách mạng của GCCN.

3. Tư tưởng Mác – Ăng Ghen về những nguyên tắc tổ chức và hoạt động của chính
đảng cách mạng của GCCN.
- ĐCS là một tổ chức độc lập mang bản chất GCCN rõ rệt.
- ĐCS phải thể hiện tính vô sản rõ rệt, Đảng là của GCCN, mang bản chất GCCN.
Đảng phải luôn đứng vững trên lập trường của GCCN để xem xét giải quyết mọi vấn đề.
Cương lĩnh, đường lối, chiến lược, sách lược của Đảng phải luôn xuất phát từ lợi ích của
GCCN và NDLĐ.
- Đảng phải xây dựng trên những nguyên tắc dân chủ triệt để; các cơ quan lãnh đạo của
Đảng được bầu ra đều có thể bị thay thế hoặc bãi miễn; mọi ĐV đều bình đẳng, dân chủ
trong sinh hoạt đảng, người vi phạm ĐLĐ sẽ bị khai trừ hoặc đình chỉ sinh hoạt đảng; kiên
quyết chống những phần tử vô tổ chức, những phần tử cơ hội và xét lại
- Điều kiện tiêu chuẩn người vào Đảng: là những người thừa nhận thế giới quan cộng
sản chủ nghĩa, hành động phù hợp với mục tiêu và nhiệm vụ của Đảng, có nghị lực cách
mạng và tích cực tuyên truyền tư tưởng của CNXH khoa học, tự giác phục tùng các NQ và
giữ gìn bí mật của Đảng, đóng hội phí đầy đủ thì mới được kết nạp vào Đảng.
- Đảng phải thường xuyên được củng cố vững chắc, sự thống nhất tư tưởng và tổ chức của Đảng là không gì có thể phá vỡ
nổi, Đảng phải luôn luôn là một tổ chức giai cấp có tính chiến đấu và năng động…

- Đảng phải có cơ cấu tổ chức phù hợp với điều kiện và thời gian hoạt động của Đảng,
với những nhiệm vụ mà Đảng phải giải quyết.
- Chủ nghĩa quốc tế vô sản là một trong những nguyên tắc xây dựng Đảng
2


II. NHỮNG NGUYÊN TẮC CỦA LÊ NIN VỀ ĐẢNG KIỂU MỚI CỦA GCCN
1. Hoàn cảnh lịch sử
* Điều kiện lịch sử đã có sự phát triển

- Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX CNTB phát triển tương đối ổn định và hoà bình,
PTCN phát triển về bề rộng và có xu hướng thiên về đấu tranh nghị trường. GCTS đã lợi
dụng hoàn cảnh cùng tồn tại “hoà bình” với GCCN, tìm mọi cách lũng đoạn PTCN và làm
cho chủ nghĩa cơ hội ra đời, phát triển nhanh chóng trong PTCN.
- CNTB phát triển chuyển sang một giai đoạn tột cùng của nó, chủ nghĩa đế quốc,
biểu hiện sự phát triển không đều của CNTB với những mâu thuẫn nội tại không thể điều
hoà được. Chiến tranh thế giới lần thứ nhất (1914-1918) nổ ra, kết quả là đẩy cuộc đấu tranh
cách mạng của GCVS thêm nhanh và thuận lợi: phong trào cách mạng vô sản thế giới phát
triển rầm rộ, thời cơ GCVS giành chính quyền từ tay GCTS đã chín muồi.
- Việc GCVS trực tiếp tổ chức vũ trang và cuộc cách mạng vô sản giành chính quyền bằng
bạo lực đã trở thành vấn đề hành động thực tế trước mắt. V.I.Lênin khẳng định: Chủ nghĩa đế quốc
là đêm trước của cách mạng vô sản. Vì vậy, vấn đề nhà nước được đặt ra một cách cấp bách
* Thực tiễn PTCN, phong trào cộng sản quốc tế đòi hỏi
Quốc tế II được thành lập (7.1889), trong giai đoạn đầu khi Ph.Ăng ghen còn sống và
lãnh đạo (1889 - 1895) đã kiên quyết đấu tranh chống xu hướng cải lương, thoả hiệp, cơ
hội… nội bộ Quốc tế II ổn định. Sau khi Ph.Ăng ghen mất (1895), bọn cơ hội xét lại trong
Quốc tế II ngóc đầu dậy chống CNM lũng đoạn PTCN, mưu toan biến các Đảng Dân chủ xã hội Tây Âu thành các đảng cơ hội, cải lương, làm cho phong trào cộng sản và công nhân
quốc tế bị phân hoá thành 3 trào lưu chính trị, tư tưởng khác nhau: Trào lưu cơ hội cánh hữu
do BécStanh đứng đầu công khai đòi xét lại CNM, thực chất là phủ nhận CNM; trào lưu phái
giữa do Cauxky cầm đầu là chủ nghĩa cơ hội dấu mặt, họ khoác áo CNM nhưng chống
CNM; phái tả do V.I.Lênin đứng đầu kiên trì, bảo vệ và phát triển CNM. Lênin cho rằng cả
hai trào lưu cơ hội cánh hữu và phái giữa đều là bọn cơ hội chủ nghĩa, tay sai của GCTS.
* Yêu cầu trực tiếp của cách mạng vô sản Nga
- Tình hình chính trị-xã hội nước Nga những năm cuối thế kỷ XIX
+ Thời điểm này CNTB ở Châu Âu cũng đã tràn vào và phát triển nhanh chóng ở nước
Nga, làm cho GCCN Nga ra đời và phát triển mạnh mẽ. Nước Nga chứa đựng đầy mâu
thuẫn: mâu thuẫn giữa nhân dân Nga với chế độ quân chủ chuyên chế, mâu thuẫn giữa
GCCN với GCTS, giữa dân tộc Nga với sự can thiệp của tư bản nước ngoài.
+ Cuộc đấu tranh của GCCN Nga phát triển mạnh mẽ, từng bước khẳng định vai trò, sứ
mệnh của mình. Tuy nhiên sự nghiệp cách mạng của GCCN Nga đang bị cản trở bởi những

quan điểm lạc hậu, phản động của phái dân tuý tự do.
- Sự hình thành, tồn tại của phái dân tuý ở nước Nga

3


Những năm 1890 đến 1894 , do những biến đổi về kinh tế trong đời sống nông dân
Nga, do tác động của cách mạng công nghiệp, sự phát triển của GCCN và của CNTB trong
nông nghiệp, phái dân tuý phân liệt làm xuất hiện những người dân tuý tự do. Những người
dân tuý tự do là tôi tớ của CNTB, họ sống công khai hợp pháp với chế độ Nga hoàng, công
khai chống CNM, ủng hộ cải cách của Nga hoàng, mục đích muốn biến nước Nga thành
nước “quân chủ tư sản”. Phái dân tuý tự do nhân danh cái gọi là “những người bạn dân”, cho
rằng: Chỉ có họ là bạn dân, những người Mác xít là những người chống lại nhân dân, CNM
không thích hợp với nước Nga, vì CNM sinh ra ở Châu Âu có nền công nghiệp phát triển,
còn ở nước Nga thời điểm đó là một nước nông nghiệp. Theo họ, CNXH chỉ thành công ở
những nơi tư bản phát triển. Họ nhận thức rằng CNTB ở Nga là hiện tượng ngẫu nhiên,
không phát triển được và GCVS Nga cũng không thể phát triển. Vì thế, muốn đi lên CNXH
phải hướng vào nông dân, lực lượng cách mạng chủ yếu là nông dân do trí thức lãnh đạo.
Phái dân tuý chìm ngập trong nông thôn, lôi kéo QC trong nông dân, mơ tưởng tới CNXH từ
vai trò của giai cấp nông dân.
- Cho sự ra đời một đảng tập trung, thống nhất toàn Nga
+ Năm 1895, V.I.Lênin thống nhất các tổ chức Mác xít ở Pêtécbua lập ra “Hội liên hiệp giải
phóng GCCN”. Song tổ chức này bị Chính phủ Nga Hoàng đàn áp, V.I.Lênin và những người lãnh
đạo của Hội bị bắt đưa đi đày ở Xibêri. Ban lãnh đạo mới của Hội được thành lập do Máctưnốp
đứng đầu đã theo đuổi một đường lối chính trị sai lầm, cải lương cơ hội - đó là phái “kinh tế”.
+ Mùa xuân năm 1898, một số nhóm Mác xít đã nhóm họp ở Minxcơ tiến hành Đại hội lần
thứ nhất, tuyên bố thành lập Đảng công nhân dân chủ- xã hội Nga, bầu được Ban chấp hành, nhưng
Đại hội chưa thông qua được cương lĩnh và điều lệ, Đại hội vừa kết thúc thì toàn bộ BCHTW bị bắt.
Do đó, trên thực tế, Đảng vẫn chưa hình thành. Đại hội I của Đảng không thành công đã làm cho
các tổ chức Mác xít và PTCN Nga rơi vào tình trạng dao động về tư tưởng, phân tán về tổ chức. Vấn

đề cấp bách là phải thành lập một Đảng tập trung, thống nhất trong toàn quốc để chấm dứt tình trạng
phân tán về tư tưởng, tan rã về tổ chức.
- Đấu tranh phản bác phái dân tuý
+ Phái dân tuý cho rằng việc đưa CNM vào Nga làm phá sản nước Nga, họ cho rằng,
sự nghiệp cách mạng ở nước Nga phải do giai cấp nông dân Nga lãnh đạo, phái dân tuý phủ
nhận vai trò, sứ mệnh lịch sử của GCCN Nga.
+ Họ lý giải CNM là một học thuyết trừu tượng, là sản phẩm của tư duy, tư biện chưa
được chứng minh trên thực tế. Nếu nói những quan điểm của CNM là một phát hiện có ý
nghĩa thời đại thì điều đó không có căn cứ. Họ đưa ra lập luận : Nếu như CNM là một sáng
tạo, vậy tại sao sau 40 năm vẫn không giải thích được những hiện tượng cụ thể như : Lịch sử
cổ Hy Lạp, La Mã, Giécmăng. Họ không phủ nhận Ăng ghen có giải thích, nhưng lại sử
dụng tài liệu của một nhà dân chủ học Mỹ, hoàn toàn xa lạ với chủ nghĩa duy vật lịch sử của
Mác. Phái dân tuý còn cho rằng, CNM chỉ đưa ra được mô hình và dùng nó úp vào hiện thực
theo kiểu “tam đoạn thức” của Hê Ghen.
4


+ Trước tình hình đó, V.I.Lê nin nhận định, để phê phán những người dân tuý là việc
làm rất khó, bởi lẽ : Một mặt, do Plêkhanốp mắc sai lầm về lý luận. Ông đề cao vai trò tầng
lớp tư sản tự do, không hề đề cập đến vai trò lực lượng cách mạng của nông dân. Mặt khác,
phái dân tuý lúc đó có những lãnh tụ rất nổi tiếng như: MikhailốpXki, Crivencô, I.U,Giacốp,
do đó, muốn phê phán họ phải có quan điểm lý luận sắc bén.
+ Giai đoạn đầu để phê phán phái dân tuý tự do, V.I.Lênin viết dưới dạng bài báo ngắn,
những bức thư và sau đó phát triển thành tác phẩm “Những người bạn dân” nhằm phê phán
một cách toàn diện các quan điểm triết học, kinh tế và chính trị, cương lĩnh và sách lược của
phái dân tuý, giáng một đòn quyết định vào phái dân tuý, mở đường cho CNM vào Nga,
thúc đẩy sự phát triển của GCCN và phong trào cách mạng vô sản ở nước Nga.
- Đấu tranh chống phái Mensêvích:
+ Tháng 7 năm 1903 Đại hội II Đảng công nhân dân chủ - xã hội Nga đã được triệu tập
và có nhiệm vụ : thông qua cương lĩnh, điều lệ, bầu BCHTW, kiện toàn cơ quan ngôn luận

của Đảng (Ban biên tập tờ báo Tia lửa).
+ Đại hội II diễn ra cuộc đấu tranh gay gắt, quyết liệt giữa phái Bônsêvích đứng đầu là
V.I.Lênin và phái Mensêvích đứng đầu là Mác-tốp và ác-xen-xrốt. Cuối cùng Cương lĩnh,
điều lệ được thông qua, BCHTW và Ban biên tập của tờ báo Tia lửa đã được bầu. Đó là một
bước tiến lớn của PTCN Nga và những người dân chủ - xã hội. Tuy nhiên sau Đại hội phái
Mensêvích đã phản kích lại: xuyên tạc kết quả Đại hội, chiếm Ban biên tập báo Tia lửa, vu
khống bịa đặt, nói xấu V.I.Lênin và những người Bônsêvích. Đảng lại lâm vào khủng hoảng,
chia rẽ về mặt tổ chức. Đó là những bước lùi lớn của phong trào. Thực tiễn đặt ra cho
V.I.Lênin và những người Bônsêvích nhiệm vụ phải đánh bại bọn cơ hội, bảo vệ Đảng, bảo
vệ những quan điểm mác xít về mặt tổ chức trong Đảng. V.I.Lênin đã dấu tranh kiên quyết,
thể hiện rõ trong tác phẩm: “Một bước tiến hai bước lùi”
2. Những nguyên tắc cơ bản của Lênin về Đảng kiểu mới của GCCN
a. CNM là nền tảng tư tưởng, là kim chỉ nam cho mọi hoạt động của Đảng
V.I.Lênin khẳng định “Không có lý luận cách mạng thì cũng không thể có phong trào
cách mạng” , “chỉ đảng nào có được một lý luận tiên phong hướng dẫn thì mới có khả năng
làm tròn vai trò chiến sỹ tiên phong”
b. Đảng là đội tiên phong chính trị có tổ chức và là tổ chức chặt chẽ nhất giác ngộ
nhất của GCCN
- Lênin chỉ rõ:
+ Đảng là một bộ phận của GCCN, là đội tiên phong chính trị của GCCN.
+ Vai trò tiên phong của Đảng thể hiện trên ba mặt: Tiên phong về chính trị; Tiên
phong về tư tưởng; Tiên phong về tổ chức
- Chống khuynh hướng hạ thấp, phủ nhận vai trò của Đảng, xoá nhoà ranh giới giữa Đảng với
GCCN. “không được lẫn lộn Đảng tức là đội tiên phong của GCCN với toàn bộ giai cấp”
5


c. Khi có chính quyền Đảng là hạt nhân lãnh đạo HTCT của CNXH và là một bộ
phận của hệ thống đó
Lênin chỉ rõ:

- Đảng là đội tiên phong giác ngộ có tổ chức chặt chẽ nhất của GCCN, có đủ phẩm chất
chính trị và NLLĐ HTCT của CNXH.
- Sự lãnh đạo của Đảng là điều kiện tiên quyết đảm bảo cho công cuộc xây dựng
CNXH thành công.
- Đảng lãnh đạo về chính trị trên mọi mặt hoạt động của NN và các tổ chức QC.
- Chống chuyên quyền, độc đoán, bao biện làm thay, buông lỏng, xem nhẹ vai trò lãnh
đạo của Đảng.
d. TTDC là nguyên tắc tổ chức cơ bản trong xây dựng tổ chức, sinh hoạt và hoạt
động của Đảng
Lênin chỉ rõ:
- Thực hiện dân chủ nhằm phát huy cao nhất trí tuệ, khả năng sáng tạo của những chiến
sĩ tiên phong, là điều kiện để Đảng có trí tuệ cao nhất đảm bảo làm tròn vai trò lãnh đạo.
- TTDC đảm bảo sự thống nhất ý chí và hành động trong Đảng.
- Chống tập trung quan liêu, dân chủ hình thức, tự do vô kỷ luật.
đ. Đảng là một khối thống nhất về chính trị, tư tưởng và tổ chức, TPB & PB là quy
luật phát triển của Đảng
- Phái Mensêvích cùng các phần tử cơ hội khác đã kịch liệt chống lại chế độ tập trung,
nhằm kéo lùi Đảng trở lại thời kỳ phân tán, tiểu tổ. Chúng cho rằng nếu theo nguyên tắc do
V.I.Lênin đề ra là biến Đảng thành cỗ máy, mỗi ĐV chỉ như những ốc vít, những bánh xe,
thiếu tính chủ động, sáng tạo!?.
- V.I.Lênin đã phê phán quan điểm đó và khẳng định: “… Hiện nay chúng ta đã trở thành một
Đảng có tổ chức, điều đó có ý nghĩa là chúng ta đã tạo ra một quyền lực, biến uy tín về tư tưởng thành
uy tín về quyền lực, khiến cấp dưới phải phục tùng cấp trên của Đảng…”
- Đảng phải thường xuyên TPB và PB, có như vậy Đảng mới phát triển, tiến bộ, mới
được QC tin tưởng và tôn trọng. V.I.Lênin đòi hỏi phải tự vạch ra sai lầm khuyết điểm, phân
tích rõ nguyên nhân và tìm ra hướng khắc phục. Người dạy: “Nếu một chính Đảng nào
không dám nói thật bệnh tật của mình ra, không dám chuẩn đoán bệnh một cách thẳng tay,
và tìm phương cứu chữa bệnh đó, thì Đảng đó sẽ không xứng đáng được người ta tôn trọng”.
- Theo V.I.Lênin tự phê bình là rất cần thiết nhưng phải khoa học, nghiêm túc và khéo
léo, kiên trì thuyết phục bằng chân lý không được dùng những thủ đoạn cực đoan. Phê bình

phải được tiến hành một cách có tổ chức, có nguyên tắc đảm bảo được tính trung thực, thẳng
thắn về sự tiến bộ của toàn Đảng và mỗi ĐV. Đảng phải kiên quyết trong TPB & PB để
khẳng định phát huy ưu điểm, phát hiện, khắc phục khuyết điểm, tăng cường đoàn kết thống
nhất, nâng cao NLLĐ và SCĐ của Đảng.
6


e. Đảng gắn bó chặt chẽ với QC, kiên quyết đấu tranh để ngăn ngừa và khắc phục
bệnh quan liêu xa rời QC
- V.I.Lênin cho rằng: “Muốn trở thành một Đảng dân chủ - xã hội thì cần phải được sự
ủng hộ của chính giai cấp”
- Mối liên hệ giữa Đảng với QC không phải do số lượng ĐV nhiều hay ít mà do chất
lượng đội ngũ ĐV quyết định
- Để giữ vững và tăng cường mối liên hệ giữa Đảng với QC, V.I.Lênin chỉ rõ : Đảng
phải tuyên truyền, giác ngộ, tập hợp QC; tổ chức vận động QC, phát huy vai trò của QC
trong sự nghiệp cách mạng
- Đảng phải đề phòng và khắc phục các khuynh hướng quan liêu xa rời QC, vượt quá
xa trình độ của QC, hoặc hạ thấp mình ngang hàng với QC, đồng thời cũng đề phòng
khuynh hướng theo đuôi QC.
f. Đảng phải tích cực kết nạp những đại biểu ưu tú của GCCN và NDLĐ vào Đảng, phải
thường xuyên đưa những người không đủ tiêu chuẩn và những phần tử cơ hội ra khỏi Đảng
- Công thức của V.I.Lênin đưa ra là: “Tất cả những người nào thừa nhận cương lĩnh
của Đảng và ủng hộ Đảng bằng những phương tiện vật chất cũng như bằng cách tự mình
tham gia một trong những tổ chức của Đảng thì được coi là ĐV của Đảng” .
- Công thức của Mác tốp đưa ra là: “Tất cả những người nào thừa nhận cương lĩnh của
Đảng, ủng hộ Đảng bằng những phương tiện vật chất và tự mình giúp đỡ Đảng một cách
đều đặn dưới sự chỉ đạo của một trong những tổ chức của Đảng đều được coi là ĐV của
Đảng công nhân dân chủ - xã hội Nga”
Hai công thức này có nội dung cơ bản giống nhau song điểm căn bản khác nhau:


- Công thức của V.I.Lênin đòi hỏi và bắt buộc người ĐV phải tự mình sinh hoạt và chịu
sự quản lý của một tổ chức Đảng. Công thức đó đề cao danh hiệu ĐV, đòi hỏi trách nhiệm
và ý thức tổ chức, kỷ luật cao của người ĐV, là tiêu chí để phân biệt người có tổ chức với
người không có tổ chức, ĐV với QC ngoài Đảng. V.I.Lênin nhấn mạnh : “… Tôi đòi hỏi,
Đảng đội tiên phong của giai cấp phải hết sức có tổ chức, rằng Đảng chỉ nên thu nhận những
phần tử ít nhất cũng phải chấp nhận một tính tổ chức tối thiểu” .
- Công thức của Mác tốp : Không đòi hỏi ĐV phải tự mình sinh hoạt và chịu sự quản lý
của một tổ chức đảng. Công thức đó mở rộng đội ngũ ĐV vô hạn độ. “Mỗi người tham gia
bãi công là một đảng viên” . V.I.Lênin phê phán công thức của Mác tốp đã khuyến khích :
“Càng mở rộng cho nhiều người được mang danh hiệu là ĐV thì càng tốt”, “Phải coi Đảng và
giai cấp là một” . Thực chất là làm giảm trách nhiệm, địa vị, vai trò và danh hiệu người ĐV, xóa nhòa
ranh giới giữa người ĐV với QC. Đó là một công thức vô dụng, chứa đựng nội dung tư tưởng cơ hội
chủ nghĩa về tổ chức vì nó dẫn Đảng tới chỗ không có tổ chức rõ ràng, chặt chẽ, không có kỷ cương,
kỷ luật, ĐV chỉ có danh nghĩa mà không có tổ chức, không có sức mạnh.
g. Chủ nghĩa quốc tế vô sản của ĐCS
7


- Chủ nghĩa quốc tế của GCCN là bản chất của các ĐCS. Bản chất đó bắt nguồn từ vai trò, sứ mệnh lịch sử toàn thế giới của
GCCN.

- Về ý nghĩa của việc thực hiện nguyên tắc chủ nghĩa quốc tế vô sản, Lênin khẳng định:
“Không có sự cố gắng tự nguyện tiến tới sự liên minh và sự thống nhất của GCVS, rồi sau
nữa, của toàn thể QC cần lao thuộc tất cả các nước và các dân tộc trên toàn thế giới, thì
không thể chiến thắng hoàn toàn CNTB được
* Ý nghĩa đối với XD chỉnh đốn Đảng ta hiện nay
Học thuyết Mác-Lênin về chính Đảng cách mạng của GCCN là một học thuyết cách
mạng và khoa học, bao gồm những nguyên lý, nguyên tắc rất cơ bản, bảo đảm XDĐthành
một đảng Mác-xít. Những nguyên lý, nguyên tắc đó ngày nay vẫn còn nguyên giá trị.
Trung thành với CNM-Lênin và vận dụng sáng tạo vào điều kiện cụ thể của nước ta,

ĐCSVN do Chủ tịch HCM sáng lập và rèn luyện, đã trải qua nhiều thử thách, trở thành một
Đảng Mác-Lênin kiên cường, vững vàng trước những biến cố vô cùng khó khăn của lịch sử
ở trong nước và trên thế giới.
Hiện nay bọn cơ hội xét lại và GCTS đang tìm mọi cách xuyên tạc, phủ nhận các giá trị bền
vững của CNM-Lênin, trong đó có học thuyết về chính đảng cách mạng của GCCN, thì việc
nghiên cứu nắm vững thực chất những nguyên lý của học thuyết càng có ý nghĩa to lớn, giúp cho
đội ngũ cán bộ, ĐV nói chung và đội ngũ cán BCT ở cấp phân đội những cơ sở lý luận để quán
triệt và vận dụng sáng tạo đường lối chính sách, góp phần XDĐngày càng vững mạnh.

Vấn đề 2:
Tư tưởng của Lê nin về đảng kiểu mới trong tác phẩm “Làm gì”
I. BỐI CẢNH LỊCH SỬ RA ĐỜI CỦA TÁC PHẨM
1. Tình hình quốc tế cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX
- Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX CNTB phát triển tương đối ổn định và hoà bình,
PTCN phát triển về bề rộng và có xu hướng thiên về đấu tranh nghị trường. GCTS đã lợi
dụng hoàn cảnh cùng tồn tại “hoà bình” với GCCN, tìm mọi cách lũng đoạn PTCN và làm
cho chủ nghĩa cơ hội ra đời, phát triển nhanh chóng trong PTCN.
8


- Quốc tế II được thành lập (7.1889), trong giai đoạn đầu khi Ph.Ăng ghen còn sống và
lãnh đạo (1889 - 1895) đã kiên quyết đấu tranh chống xu hướng cải lương, thoả hiệp, cơ
hội… nội bộ Quốc tế II ổn định.
- Sau khi Ph.Ăng ghen mất (1895), bọn cơ hội xét lại trong Quốc tế II ngóc đầu dậy
chống CNM lũng đoạn PTCN, mưu toan biến các Đảng Dân chủ - xã hội Tây Âu thành các
đảng cơ hội, cải lương, làm cho phong trào cộng sản và công nhân quốc tế bị phân hoá thành
3 trào lưu chính trị, tư tưởng khác nhau :
+ Trào lưu cơ hội cánh hữu do BécStanh đứng đầu công khai đòi xét lại CNM, thực
chất là phủ nhận CNM;
+ Trào lưu phái giữa do Cauxky cầm đầu là chủ nghĩa cơ hội dấu mặt, họ khoác áo

CNM nhưng chống CNM;
+ Phái tả do V.I.Lênin đứng đầu kiên trì, bảo vệ và phát triển CNM. Lênin cho rằng cả
hai trào lưu cơ hội cánh hữu và phái giữa đều là bọn cơ hội chủ nghĩa, tay sai của GCTS.
2. Tình hình nước Nga cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX
- Vào thời kỳ này, CNTB Nga đang phát triển mạnh. Cùng với sự phát triển CNTB ở
Nga, GCCN Nga cũng phát triển nhanh chóng. Trong 25 năm (1865 - 1890) chỉ tính trong
các Xí nghiệp đại công nghiệp, số lượng công nhân phát triển từ 7 vạn lên gần một triệu rưỡi.
Sang đầu thế kỷ XX, số lượng công nhân tăng gần 3 triệu người.
- GCCN và nông dân Nga bị cả tư bản và phong kiến bóc lột thậm tệ, công nhân và
nông dân không được hưởng một chút quyền tự do chính trị nào.
- Từ những năm 70, 80 của thế kỷ XIX, công nhân Nga bắt đầu thức tỉnh, PTĐT của
GCCN và NDLĐ Nga diễn ra rất mạnh mẽ, song đều bị thất bại, vì các cuộc đấu tranh đó
đều mang tính tự phát.
- Do yêu cầu khách quan của PTCN Nga, các tổ chức chính trị đầu tiên của GCCN Nga
được thành lập :
+ Năm 1875 “Hội liên hiệp công nhân miền Nam Nga” thành lập ở Ôđétxa;
+ Năm 1878 “Hội liên hiệp công nhân miền Bắc Nga” thành lập ở Pêtécbua, nhưng hai
tổ chức đầu tiên này của GCCN Nga đều bị Nga Hoàng thẳng tay đàn áp và làm tan rã.
Tuy bị Nga Hoàng đàn áp dã man, nhưng PTCN vẫn không ngừng phát triển, chỉ trong
5 năm (1881 – 1886) có tới 48 cuộc bãi công, số công nhân tham gia lên 8 vạn người.
- Năm 1883 nhóm “Giải phóng lao động” được thành lập ở Giơnevơ (Thuỵ Sĩ) do PlêKhanốp lãnh đạo. Nhóm này đã tích cực
dịch và truyền bá lý luận Mác vào nước Nga nhưng bị phái “dân tuý” cản trở. Phái “dân tuý” cho rằng, đưa CNM vào Nga là phá sản
nước Nga. Theo họ, sự nghiệp cách mạng ở nước Nga do giai cấp nông dân lãnh đạo. Thực chất phái “dân tuý” mưu toan làm lạc
hướng cuộc đấu tranh của QC lao động chống lại giai cấp áp bức bóc lột, làm cho GCCN Nga không nhận thức được vai trò sứ mệnh
lịch sử của mình, đồng thời kìm hãm việc thành lập một chính đảng độc lập của GCCN.
- Nhóm “Giải phóng lao động” đã tích cực đấu tranh chống phái “dân tuý” song lại phạm những sai lầm không đả động gì đến
vai trò của giai cấp nông dân trong cách mạng, cho rằng, GCTS tự do Nga có thể ủng hộ cách mạng. Mặt khác, tuy đã tích cực truyền
bá CNM vào nước Nga nhưng họ đang sống lưu vong ở nước ngoài, trên thực tế chưa liên hệ được với PTCN, chưa kết hợp CNXH
khoa học với PTCN.


3. Tình hình các tổ chức cách mạng của GCCN Nga
9


- Năm 1895, V.I.Lênin thống nhất các tổ chức Mác xít ở Pêtécbua lập ra “Hội liên hiệp giải
phóng GCCN”. Song tổ chức này bị Chính phủ Nga Hoàng đàn áp, V.I.Lênin và những người lãnh
đạo của Hội bị bắt đưa đi đày ở Xibêri. Ban lãnh đạo mới của Hội được thành lập do Máctưnốp đứng
đầu đã theo đuổi một đường lối chính trị sai lầm, cải lương cơ hội - đó là phái “kinh tế”.
- Mùa xuân năm 1898, một số nhóm Mác xít đã nhóm họp ở Minxcơ tiến hành Đại hội
lần thứ nhất, tuyên bố thành lập Đảng công nhân dân chủ- xã hội Nga, bầu được Ban chấp
hành, nhưng Đại hội chưa thông qua được cương lĩnh và điều lệ, Đại hội vừa kết thúc thì
toàn bộ BCHTW bị bắt. Do đó, trên thực tế, Đảng vẫn chưa hình thành. Đại hội I của Đảng
không thành công đã làm cho các tổ chức Mác xít và PTCN Nga rơi vào tình trạng dao động
về tư tưởng, phân tán về tổ chức. Vấn đề cấp bách là phải thành lập một Đảng tập trung,
thống nhất trong toàn quốc để chấm dứt tình trạng phân tán về tư tưởng, tan rã về tổ chức.
- Xuất phát từ yêu cầu đó, V.I.Lênin đã viết tác phẩm “Làm gì”? (tác phẩm được viết
từ tháng 5 năm 1901 và xuất bản tháng 2 năm 1902).
II. TƯ TƯỞNG CHỦ YẾU VÀ NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA TÁC PHẨM
1. Tư tưởng chủ yếu của tác phẩm
Chống lại và đánh bại khuynh hướng cơ hội chủ nghĩa của phái kinh tế ở Nga, đồng thời cũng để chống chủ nghĩa cơ hội quốc
tế, xác định cơ sở chính trị, tư tưởng, tổ chức của Đảng kiểu mới của GCCN.

2. Nội dung cơ bản của tác phẩm
Chương 1 : Chủ nghĩa giáo điều và tự do phê bình
* V.I.Lênin vạch trần bản chất, nguồn gốc của chủ nghĩa cơ hội; khẳng định vai trò, tầm quan trọng của lý luận cách mạng

- Chủ nghĩa cơ hội xuất hiện sớm trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, khi
CNM chưa ảnh hưởng sâu rộng trong PTCN thì những người cơ hội chủ nghĩa đứng ngoài
hàng ngũ của những người Mác xít để chống lại CNM.
- Nhưng đến cuối thế kỷ XIX, CNM đã trở thành một trào lưu tư tưởng tiên tiến của

loài người và ngày càng mở rộng ảnh hưởng trong PTCN.
* Trước thắng lợi của CNM, kẻ thù buộc phải đội lốt Mác xít để chống lại CNM, phủ
nhận, xuyên tạc CNM, giữ lại hình thức, tước bỏ nội dung, linh hồn của CNM, nhằm phục
vụ cho lợi ích của GCTS.
- Núp dưới chiêu bài “tự do phê bình”, chúng xuyên tạc những quan điểm cơ bản của
CNM, cho rằng : CNM là “giáo điều”, “cũ kỹ” cần phải xét lại. Trong các đảng dân chủ - xã
hội Tây Âu, trào lưu cơ hội chủ nghĩa ngày càng phát triển núp dưới chiêu bài “tự do phê
bình” chúng đòi “xét lại” CNM.
- Sau khi Ăng ghen qua đời, bọn cơ hội chủ nghĩa đứng đầu là BécStanh đã chủ trương
biến Đảng dân chủ cách mạng thành Đảng cải lương, cơ hội.
- Khuynh hướng mới “tự do phê bình” là khuynh hướng phê bình theo lối tư sản tất cả
những tư tưởng cơ bản của CNM.
* Chủ nghĩa cơ hội xét về bản chất là kẻ khoác áo CNM nhưng phản bội CNM và làm
tay sai cho CNTB.
10


- Nguồn gốc của chủ nghĩa cơ hội
+ Nguồn gốc kinh tế, là sự mua chuộc của GCTS đối với tầng lớp trên của GCCN bằng
siêu lợi nhuận.
+ Nguồn gốc lịch sử, là thời kỳ CNTB phát triển tương đối ổn định, hoà bình, các hình thức
đấu tranh nghị trường được sử dụng rộng rãi, nhiều học thuyết, nhiều chủ nghĩa được ra đời.
+ Nguồn gốc xã hội, là sự tham gia của đông đảo các phần tử tiểu tư sản trí thức chưa
được giác ngộ CNM vào Đảng dân chủ - xã hội, CNM đã trở thành một cái “mốt” rất hấp
dẫn đối với tầng lớp thanh niên tiểu tư sản trí thức. Họ muốn chứng tỏ mình rất “sính” CNM.
Nhưng kỳ thực họ không hiểu gì về CNM.
- Đặc điểm của chủ nghĩa cơ hội ở Nga :
+ Về nguyên tắc là sợ công bố, công khai, phê bình;
+ Về tư tưởng là tầm thường hoá CNM;
+ Về chính trị: hạ thấp, thu hẹp mục tiêu đấu tranh của PTCN ở “chủ nghĩa công liên”,

từ bỏ cách mạng vô sản, chuyên chính vô sản;
+ Về sách lược: thiếu kiên định, cải lương về hình thức đấu tranh giai cấp, chỉ đấu tranh
kinh tế, ham mê qui mô tiểu tổ, phường hội, bỏ qui mô tập trung thống nhất;
+ Về tổ chức: là phủ nhận tính tiên phong gương mẫu của Đảng và hạ thấp hình thức tổ
chức của đảng ngang hàng với các tổ chức khác của GCCN.
Chủ nghĩa cơ hội có khả năng tồn tại dai dẳng, dưới nhiều hình thức, màu sắc khác nhau, có
tác hại lớn đối với sự nghiệp cách mạng của GCCN Nga và đảng kiểu mới ở nước Nga.
* Vai trò của lý luận cách mạng đối với PTCN và Đảng dân chủ xã hội Nga
- Trong khi phê phán, vạch trần bản chất của chủ nghĩa cơ hội, đấu tranh bảo vệ CNM,
Lênin khẳng định vai trò của lý luận cách mạng (lý luận Mác).
- Trên cơ sở trình bày những tư tưởng của C.Mác, Ph.Ăng ghen về vai trò của lý
luận .V.I.Lênin chỉ rõ : Tư tưởng của Mác là như thế, ấy vậy mà trong chúng ta đã có những
người đã nhân danh Mác mà tìm cách làm giảm ý nghĩa quan trọng của lý luận.
+ V.I.Lênin khẳng định “Không có lý luận cách mạng thì cũng không thể có phong
trào cách mạng” ,“chỉ đảng nào có được một lý luận tiên phong hướng dẫn thì mới có khả
năng làm tròn vai trò chiến sỹ tiên phong”
+ Đối với Đảng dân chủ - xã hội Nga thì vai trò của lý luận cách mạng càng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng.

+ V.I.Lênin đòi hỏi Đảng phải được vũ trang bằng lý luận Mác, tuyên truyền, phổ biến
hệ tư tưởng vô sản cho GCCN và QC NDLĐ đấu tranh chống hệ tư tưởng tư sản.
+ Đảng phải tích cực đấu tranh tư tưởng lý luận, coi đó là một bộ phận của đấu tranh
giai cấp. Đảng phải ra sức học tập lý luận, phải là nhà tuyên truyền, giáo dục, nhà lý luận và
tổ chức thực tiễn.
+ V.I.Lênin còn chỉ rõ : “Đối với cán bộ, ĐV phải học tập ngày càng nhiều hơn, tất cả
các vấn đề lý luận; phải tự giải thoát, ngày càng nhiều hơn, khỏi ảnh hưởng của những câu
11


cổ truyền của thế giới quan cũ, không bao giờ được quên rằng CNXH, từ khi đã trở thành
một khoa học, đòi phải được coi là mặt khoa học, nghĩa là phải được nghiên cứu”

Chương 2 : Tính tự phát của QC và tính tự giác của Đảng dân chủ - xã hội
- Trong chương này V.I.Lênin phê phán chủ nghĩa cơ hội, làm rõ tính tự phát của QC và tính tự giác của Đảng dân chủ - xã
hội, chỉ rõ mối quan hệ giữa CNXH khoa học với PTCN và vai trò của Đảng là phải giáo dục, giác ngộ đưa yếu tố tự giác vào PTCN.
- Sùng bái chủ nghĩa “công liên”, thực chất là phái “kinh tế” sùng bái tính tự phát của PTCN.
+ V.I.Lênin phê phán phái “kinh tế” khi họ cho rằng, hệ tư tưởng XHCN có thể phát sinh từ phong trào tự phát của GCCN.
+ Người khẳng định, quan điểm của phái “kinh tế”: “PTCN thuần tuý tự nó có khả năng tạo ra và sẽ tạo ra cho nó một hệ tư
tưởng độc lập, chỉ cần là công nhân giành được vận mệnh của mình trong tay những người lãnh đạo” đây là một sai lầm nghiêm
trọng”.
+ Thực chất phái “kinh tế” phủ nhận tính tự giác của PTCN, phủ nhận vai trò của lý luận cách mạng-lý luận Mác xít, với tư
cách là yếu tố tạo nên tính tự giác, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng cách mạng, với tư cách là người đưa yếu tố tự giác vào PTCN,
âm mưu làm lạc hướng con đường đấu tranh chính trị của GCCN.
+ V.I.Lênin vạch rõ : Bản thân PTCN chỉ là một phong trào tự phát, không thể vươn lên tự giác nếu thiếu một lý luận cách
mạng soi sáng, một đảng cách mạng lãnh đạo và giáo dục. CNXH khoa học không phải là sản phẩm từ trong phong trào tự phát của
công nhân. CNXH khoa học là kết quả của sự phát triển những tư tưởng tiên tiến của nhân loại và tri thức của những nhà khoa học
thuộc tầng lớp hữu sản.

- V.I.Lênin khẳng định : PTCN có được trang bị CNXH khoa học thì mới phát triển lên
trình độ tự giác. Đảng cách mạng của GCCN là hiện thân của sự kết hợp đó và là lực lượng
truyền bá hệ tư tưởng XHCN vào PTCN. Tính tự phát đối lập với tư tưởng XHCN,
- Đảng Mác xít là đại biểu cho tính tự giác của công nhân, là người đem yếu tố tự giác
vào PTCN, V.I.Lênin đòi hỏi : “Những người dân chủ - xã hội phải biểu hiện một tính tự
giác cao. Cao trào tự phát của QC càng tăng lên và phong trào càng mở rộng thì sự cần thiết
có một ý thức cao trong công tác lý luận, chính trị và tổ chức của Đảng dân chủ - xã hội càng
phải tăng lên vô cùng nhanh chóng hơn”
Chương 3 : Chính trị công liên chủ nghĩa và chính trị dân chủ-xã hội
- Chương này, V.I.Lênin tập trung làm rõ bản chất cơ hội, cải lương của phái “kinh tế” về quan
điểm, nhiệm vụ chính trị; vạch rõ cương lĩnh, sách lược của Đảng dân chủ - xã hội Nga.
- Sự sùng bái tính tự phát của PTCN đã đẩy phái “kinh tế” tới chỗ không những hạ thấp
vai trò của lý luận cách mạng mà còn hạ thấp mục tiêu nhiệm vụ chính trị, quan điểm, lập
trường của GCCN xuống trình độ công liên chủ nghĩa.

- Phái “kinh tế” hạn chế PTCN trong khuôn khổ cuộc đấu tranh kinh tế đòi bọn chủ và
Chính phủ cải thiện điều kiện lao động trong khuôn khổ, trật tự xã hội tư bản. Họ nêu ra khẩu
hiệu: “Đem lại cho chính cuộc đấu tranh kinh tế một tính chất chính trị”. Thực chất là che
dấu khuynh hướng cơ hội chủ nghĩa của họ, nhằm hạ thấp chính trị XHCN xuống trình độ
chính trị công liên chủ nghĩa. Quan điểm, nhiệm vụ chính trị của phái “kinh tế” không phải là
lật đổ chế độ TBCN mà là thừa nhận chế độ đó và chỉ đấu tranh đòi cải cách dân chủ theo lối
công đoàn, đòi cải thiện điều kiện bán sức lao động của họ cho bọn tư sản mà thôi.
- V.I.Lênin vạch rõ sự khác nhau căn bản về mục tiêu, nhiệm vụ chính trị của Đảng
Dân chủ- xã hội với phái “kinh tế” là ở chỗ : không phải đấu tranh đòi những cải cách dân
sinh, dân chủ trong khuôn khổ của CNTB mà phải lật đổ CNTB, thiết lập chuyên chính
vô sản tiến tới CNXH và chủ nghĩa cộng sản.
12


- Qui mô tính chất của đấu tranh giai cấp là đấu tranh chính trị, không chỉ đơn thuần là đấu tranh
kinh tế. Yêu cầu nhiệm vụ đấu tranh chính trị là xoá bỏ tận gốc ách áp bức, bóc lột của GCTS, xoá bỏ
chế độ tư hữu, thiết lập quyền thống trị của GCCN, xây dựng chế độ công hữu.
- V.I.Lênin chỉ rõ: Muốn nâng cao được tính tích cực cách mạng của công nhân, Đảng Dân
chủ - xã hội không chỉ dừng lại, không thể tự bó mình vào một việc “cổ động chính trị về mặt kinh
tế” như phái “kinh tế” nêu lên mà còn phải tổ chức đấu tranh chính trị trên mọi lĩnh vực.
- Nhiệm vụ của những người dân chủ - xã hội là phải đi sâu mở rộng và tăng cường
những hoạt động chính trị. V.I.Lênin chỉ rõ: Người dân chủ - xã hội không nên lấy người
thư ký hội công liên làm lý tưởng, tức là người chỉ biết tiến hành và giúp đỡ tiến hành cuộc
đấu tranh kinh tế chống bọn chủ và Chính phủ, mà người dân chủ - xã hội, người chiến sĩ
tiên phong của GCCN phải là người đại biểu cho nhân dân chống lại mọi biểu hiện độc đoán,
áp bức, để giải phóng thực sự cho GCCN. Đảng dân chủ - xã hội phải giáo dục chính trị cho
GCCN, tổ chức và lãnh đạo GCCN đấu tranh chính trị, nhằm lật đổ chế độ chuyên chế, thủ
tiêu CNTB.
Chương 4: Lối làm việc thủ công nghiệp của phái “kinh tế” và tổ chức của những
người cách mạng

- Ở chương này, V.I.Lênin tập trung vạch trần bản chất cơ hội, cải lương của phái “kinh
tế” trên lĩnh vực tổ chức và chỉ rõ GCCN Nga cần phải có một Đảng tập trung thống nhất.
- Chủ nghĩa cơ hội của phái “kinh tế” biểu hiện trong nhiệm vụ chính trị ở chỗ hạ thấp
nhiệm vụ chính trị dân chủ - xã hội xuống thành nhiệm vụ chính trị công liên chủ nghĩa, từ
chỗ sùng bái tính tự phát, sùng bái đấu tranh kinh tế, phủ nhận đấu tranh chính trị… thì cũng
bào chữa cho tính chất thủ công phân tán, tản mạn, cục bộ địa phương của các nhóm Mác
xít. Chúng muốn thu hẹp qui mô và trình độ tổ chức của Đảng, như là một câu lạc bộ, như tổ
chức của công đoàn, phản đối thành lập một đảng tập trung thống nhất, phủ nhận tính tiên
phong, vị trí vai trò, lãnh tụ chính trị của Đảng.
- V.I.Lênin chỉ rõ: Phái “kinh tế” bênh vực cho lối làm việc thủ công nghiệp - là cản trở
việc thành lập một tổ chức của những người cách mạng. Nguồn gốc của khuynh hướng cơ
hội chủ nghĩa về mặt tổ chức của phái “kinh tế” cũng bắt nguồn từ chỗ sùng bái tính tự phát
của PTCN, sùng bái đấu tranh kinh tế, phủ nhận đấu tranh chính trị. Do đó, muốn thanh toán
được chủ nghĩa kinh tế nói chung (tức là thanh toán được quan niệm hẹp hòi về lý luận của
CNM, về vai trò của Đảng dân chủ - xã hội với những nhiệm vụ chính trị của Đảng) thì phải
dẹp cả sự hẹp hòi, cách nhìn thiển cận về nhiệm vụ chính trị và công tác tổ chức của Đảng.
- Nguồn gốc chung của sự bất đồng ý kiến giữa phái “kinh tế” và những người dân chủ - xã
hội cách mạng là ở chỗ: “những người kinh tế chủ nghĩa luôn đi chệch ra ngoài dân chủ - xã hội và
hướng về chủ nghĩa công liên trong các nhiệm vụ tổ chức cũng như các nhiệm vụ chính trị” (1)
- Phê phán quan điểm và lối làm việc đó, V.I.Lênin cho rằng: “… Tổ chức của những
người cách mạng phải bao gồm trước hết và chủ yếu những người lấy hoạt động cách mạng
13


làm nghề nghiệp “còn tổ chức của công nhân, trước hết phải có tính chất nghề nghiệp; phải
càng rộng càng tốt; càng ít tính chất bí mật càng tốt”
- Từ phân tích một cách lôgíc và biện chứng giữa độ vững chắc về mặt tổ chức của
Đảng với PTCN V.I.Lênin chỉ rõ: “Hãy cho chúng tôi một tổ chức những người cách
mạng, và chúng tôi sẽ đảo ngược nước Nga lên” .
- Nhiệm vụ của tổ chức đảng là không được hạ thấp mình xuống ngang hàng với QC

mà phải nâng QC lên ngang trình độ của những người cách mạng.
- V.I.Lênin khẳng định : “Cuộc đấu tranh tự phát của GCVS sẽ không trở thành cuộc “đấu
tranh giai cấp” thực sự của GCVS, chừng nào nó chưa được tổ chức mạnh mẽ gồm những người
cách mạng lãnh đạo”. Tổ chức mạnh mẽ đó là tổ chức Đảng - một tổ chức thống nhất và tập trung
của GCVS - bao gồm trước hết và chủ yếu là những người lấy hoạt động cách mạng làm nghề
nghiệp. Chỉ với tổ chức như vậy mới khắc phục được tình trạng phân tán, tản mạn trong Đảng.
Chương 5 : Kế hoạch xây dựng một tờ báo chính trị của toàn nước Nga
- Trong chương này, V.I.Lênin vạch ra kế hoạch xây dựng một Đảng tập trung thống
nhất của toàn nước Nga.
- Trước tình trạng phân tán, tản mạn của các nhóm mác xít lúc đó, để xây dựng một Đảng
cách mạng, tập trung, thống nhất của GCCN, thì vấn đề bắt đầu từ đâu là rất quan trọng.
- V.I.Lênin khẳng định: “Toàn bộ đời sống chính trị là một dây xích vô tận gồm một
loạt mắt xích vô tận. Toàn bộ nghệ thuật của nhà chính trị chính là ở chỗ tìm ra các mắt xích
và bám thật chắc lấy nó, cái mắt xích mà người ta khó mà làm cho rời khỏi tay mình được,
cái mắt xích quan trọng nhất trong một thời gian nhất định và bảo đảm chắc chắn nhất cho
người nắm mắt xích ấy làm chủ được toàn bộ dây xích” (1)
- V.I.Lênin chỉ ra: Khâu quyết định, mắt xích quan trọng nhất để thành lập Đảng là phải ra được một tờ báo chính trị bất hợp
pháp của toàn nước Nga.

- Tờ báo sẽ có vai trò thống nhất các quan điểm chính trị, thống nhất phương thức hoạt động
qui tụ, đoàn kết lực lượng đấu tranh chính trị, biến PTĐT cục bộ, nhỏ lẻ của các nhóm mác xít ở
các địa phương thành phong trào thống nhất cả ý chí và hành động trên toàn nước Nga; đồng thời
phổ biến kinh nghiệm; là diễn đàn đấu tranh phê phán những quan điểm sai lầm, cơ hội, xét lại; tập
trung những phần tử ưu tú trong đấu tranh chính trị làm hạt nhân xây dựng phong trào cách mạng
và tuyên truyền cổ vũ QC đấu tranh chính trị và là diễn đàn của đấu tranh chính trị.
- V.I.Lênin cho rằng, một tờ báo như thế không những là một phương tiện để đoàn kết
Đảng về mặt tư tưởng mà còn là một phương tiện để thống nhất về mặt tổ chức các địa
phương của Đảng.
- Theo V.I.Lênin: “Tờ báo không phải chỉ là người tuyên truyền tập thể và người cổ
động tập thể, mà lại còn là người tổ chức tập thể nữa” .

- Người nhấn mạnh Tờ báo chính trị sẽ là cái khung, cái giàn dáo từng bước tạo ra sự
thống nhất về chính trị, tư tưởng, tổ chức giữa các nhóm Mác xít, xây dựng nên một Đảng
tập trung, thống nhất của toàn nước Nga.
14


III. Ý NGHĨA VỚI VIỆC XÂY DỰNG ĐẢNG TA HIỆN NAY
- Tác phẩm “Làm gì” ? đóng vai trò quan trọng trong việc đấu tranh chống chủ nghĩa
cơ hội, bảo vệ, phát triển CNM, xác lập cơ sở chính trị, tư tưởng, tổ chức của Đảng kiểu mới
của GCCN, tập hợp các tổ chức mác xít ở địa phương để thành lập một Đảng tập trung thống
nhất, một Đảng mác xít chân chính, thực sự là lãnh tụ chính trị, đủ sức lãnh đạo cuộc cách
mạng vô sản của GCCN.
- Tác phẩm ra đời khi CNTB bước vào giai đoạn đế quốc chủ nghĩa và cách mạng vô
sản, khi những khuynh hướng cơ hội chủ nghĩa ra đời và phát triển nhanh chóng trong Quốc
tế II và các đảng dân chủ xã hội Tây Âu. Với tác phẩm “Làm gì” ? bằng lý luận và phương
pháp bút chiến sắc sảo V.I.Lênin đã bảo vệ thành công học thuyết cách mạng của CNM và
bước đầu đánh bại chủ nghĩa cơ hội.
- V.I.Lênin đã phát triển những tư tưởng của Mác và Ăng ghen, hoàn chỉnh học thuyết
về Đảng kiểu mới của GCCN, một học thuyết thống nhất, chặt chẽ giữa lý luận và thực tiễn.
Học thuyết về Đảng kiểu mới - chính Đảng cách mạng của GCCN là một cống hiến lớn lao
của Lênin vào kho tàng lý luận của CNM. Học thuyết đó là nền tảng lý luận, là kim chỉ nam
cho hành động của Đảng kiểu mới của GCCN Nga và các ĐCS các nước trên thế giới, đồng
thời là tiêu chuẩn cơ bản để phân biệt đảng kiểu mới với đảng kiểu cũ, ĐCS chân chính với
các đảng cơ hội cải lương.
- Trung thành với các nguyên lý của học thuyết Mác - Lênin về đảng kiểu mới của GCCN,
Đảng ta do chủ tịch HCM sáng lập, giáo dục, rèn luyện đã trở thành một đảng Mác-Lênin chân
chính, cách mạng, một bộ phận kiên cường của phong trào cộng sản, công nhân quốc tế.
- Ngày nay, trước yêu cầu mới của sự nghiệp cách mạng thời kỳ tiếp tục đẩy mạnh
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, nhằm thực hiện dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh, Đảng ta càng phải kiên trì, vận dụng đúng đắn CNM-Lênin, tư

tưởng HCM, không ngừng xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nâng cao NLLĐ, SCĐ của Đảng,
chống mọi biểu hiện của chủ nghĩa cơ hội, xét lại, phát triển và bảo vệ CNM-LN và tư tưởng
HCM về mọi mặt. Chúng ta phải XDĐvững mạnh cả chính trị, tư tưởng và tổ chức thực sự
ngang tầm nhiệm vụ chính trị của thời kỳ mới.
- Tác phẩm Làm gì? của Lênin mặc dù ra đời cách đây hơn một thế kỷ nhưng những tư
tưởng cơ bản về Đảng và XDĐtrong tác phẩm vẫn còn ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc.
- Đối với đội ngũ cán bộ chính trị - người chủ trì công tác Đảng, công tác chính trị, việc
nghiên cứu nắm vững tư tưởng của Lênin trong tác phẩm Làm gì? sẽ là cơ sở khoa học để
quán triệt sâu sắc hơn nữa những quan điểm của Đảng ta về Đảng và XDĐ cầm quyền, từ
đó vận dụng vào thực tiễn; đồng thời, có cơ sở khoa học để đấu tranh chống chủ nghĩa cơ
hội, xét lại trên lĩnh vực tư tưởng lý luận hiện nay.

15


Vấn đề 3: Tác phẩm “Một bước tiến hai bước lùi” của Lênin
ĐVĐ: Tác phẩm xác định rõ vai trò quan trọng của công tác XDĐ về tổ chức và chỉ ra
mối quan hệ biện chứng giữa XDĐ về tổ chức với XDĐ về chính trị và tư tưởng.
Trong công tác xây dựng Đảngvề mặt tổ chức phải xây dựng một điều lệ thống nhất, một kỷ
luật thống nhất, một cơ quan lãnh đạo tập trung thống nhất có uy tín và quyền lực, Đảng phải xây
dựng và hoạt động theo nguyên tắc TTDC, thường xuyên TPB & PB. ĐV của Đảng phải có ý
thức tổ chức kỷ luật, người ĐV dù ở cương vị nào cũng phải tham gia một trong những tổ chức
của Đảng, chịu sự quản lý, giáo dục, phân công, KT, GS của tổ chức đảng.
Những luận điểm V.I.Lênin đề cập trong tác phẩm vẫn còn nguyên giá trị trong xây dựng
chính Đảng của GCCN.
I. HOÀN CẢNH RA ĐỜI CỦA TÁC PHẨM
(Như tác phẩm “Làm gì”)
II. TƯ TƯỞNG CHỦ YẾU VÀ NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA TÁC PHẨM
1. Tư tưởng chủ yếu của tác phẩm
Nguồn gốc, diễn biến, ý nghĩa của cuộc đấu tranh trong và sau đại hội II của Đảng

Công nhân dân chủ-xã hội Nga vạch trần các quan điểm và thủ đoạn cơ hội về mặt tổ chức
của phái Mensêvích, khẳng định những nguyên tắc mácxít về mặt tổ chức của Đảng kiểu
mới của GCCN.
2. Nội dung cơ bản của tác phẩm
a. Diễn biến Đại hội II của Đảng công nhân dân chủ - xã hội Nga
* Sự phân chia các phái trong Đại hội II của Đảng công nhân dân chủ- xã hội Nga
Thành phần triệu tập tham gia Đại hội II Đảng công nhân dân chủ - xã hội Nga gồm 51
đại biểu của 26 tổ chức đảng, có mặt tham dự đại hội 43 đại biểu, có một số đại biểu dự
khuyết. Do một số tổ chức có đại biểu vắng mặt được quyền biểu quyết thay (biểu quyết hai
tay) nên mọi vấn đề trong Đại hội đều được quyết định thông qua 51 phiếu bầu.
16


Thành phần tham gia Đại hội rất phức tạp, với nhiều khuynh hướng chính trị khác
nhau. Ngay từ đầu Đại hội đã hình thành 3 nhóm :
Một là, nhóm “Tia lửa” gồm 33 đại biểu do V.I.Lênin đứng đầu, đến giai đoạn 2 của
Đại hội, nhóm này lại phân hoá thành hai phái : Phái đa số (Bônsêvích) gồm 24 đại biểu,
đứng đầu là V.I.Lênin và phái thiểu số (Mensêvích) gồm 9 đại biểu, do Mác-tốp đứng đầu.
Hai là, nhóm lừng chừng ngả nghiêng gồm đại biểu của nhóm “công nhân miền Nam”
nhóm này ngoài miệng thì thừa nhận những quan điểm của nhóm “Tia lửa” nhưng lại có kế
hoạch riêng, họ không vững vàng về nguyên tắc. Ngoài ra còn có một số nhóm nhỏ khác phụ
thuộc vào nhóm công nhân miền Nam. Đại biểu nhóm này là Êgô Rốp, MaKhốp, L.vốp.
Ba là, nhóm “chống Tia lửa” gồm đại biểu của phái Bun, họ phản đối chế độ tập trung,
chủ trương thành lập Đảng theo dân tộc theo vùng lãnh thổ. Đại biểu là Libe, Bơruke,
Gônđơblát. Trong nhóm chống “Tia lửa” còn có đại biểu của nhóm “Sự nghiệp công nhân”,
họ chống lại nguyên tắc của nhóm “Tia lửa” cả về cương lĩnh, sách lược và tổ chức, đại biểu
của nhóm này là Máctưnốp, Akimốp…
Sự tồn tại của các nhóm với các khuynh hướng chính trị khác nhau là nguồn gốc của cuộc đấu
tranh giữa hai khuynh hướng : khuynh hướng cách mạng và khuynh hướng cơ hội trong suốt quá
trình đại hội và sau đại hội trên tất cả các vấn đề về cương lĩnh, sách lược và điều lệ.

* Cuộc đấu tranh diễn ra trong Đại hội II:
Giai đoạn 1: Chủ yếu diễn ra giữa nhóm Tia lửa và nhóm chống Tia lửa trên các vấn đề
cơ bản: Thành phần tham gia đại hội, vị trí của phái Bun, cương lĩnh ruộng đất, quyền bình
đẳng về ngôn ngữ và chế độ tập trung trong Đảng.
Quá trình đấu tranh trên các vấn đề cơ bản đã thể hiện rõ khuynh hướng chính trị của
các nhóm đại biểu và sự dao động ngả nghiêng của một số đại biểu trong nhóm “Tia lửa”.
Tuy có những ý kiến khác nhau, song các đại biểu trong nhóm “Tia lửa” đều nhất trí với
nhau trên các vấn đề cơ bản về cương lĩnh và sách lược. Vì vậy những NQ của Đại hội được
thông qua theo quan điểm của nhóm “Tia lửa”.
Giai đoạn 2: Cuộc đấu tranh diễn ra giữa một bên là phái đa số với một bên là phái
thiểu số trong nhóm “Tia lửa” liên kết với các phần tử cơ hội chủ nghĩa trên các vấn đề : tiết
1 bản dự thảo ĐLĐ và các vấn đề cơ bản về nguyên tắc, chế độ tổ chức và sinh hoạt đảng.
Khi thảo luận các vấn đề này sự bất đồng ý kiến trong nhóm “Tia lửa” đã bộc lộ hoàn toàn,
phái thiểu số tách khỏi phái đa số và liên minh chặt chẽ với những phần tử cơ hội chủ nghĩa.
Trong Đại hội đã xảy ra tranh luận gay gắt giữa quan điểm của V.I.Lênin và quan điểm của
Máctốp về tiết 1 của ĐLĐ.
Do phái thiểu số trong nhóm “Tia lửa” liên kết với các phái cơ hội nên những quan
điểm của phái đa số về tiết 1 của ĐLĐ và các vấn đề cơ bản về nguyên tắc tổ chức và sinh
hoạt Đảng không được Đại hội biểu quyết thông qua.
Giai đoạn 3: Bầu BCHTW và Ban biên tập của báo “Tia lửa”. Những quan điểm của
nhóm “Chống Tia lửa” không được Đại hội thừa nhận, do đó đến giai đoạn này các đại biểu
17


của nhóm “Chống Tia lửa” bỏ Đại hội ra về. Vì vậy Đại hội đã bầu các cơ quan lãnh đạo của
Đảng theo đề xuất của phái đa số. Thất bại trong bầu cử các cơ quan lãnh đạo của Đảng càng
làm cho phái thiểu số bất đồng gay gắt với phái đa số.
Mặc dù cuộc đấu tranh trong Đại hội diễn ra hết sức gay gắt giữa phái đa số và phái thiểu
số nhưng cuối cùng cương lĩnh, điều lệ được thông qua, BCHTW và Ban biên tập của báo “Tia
lửa” được bầu. Đó là một bước tiến lớn của PTCN Nga và của đảng dân chủ-xã hội Nga.

* Cuộc đấu tranh sau Đại hội II
Sau Đại hội, phái thiểu số cố tình không hợp tác, chúng ra sức xuyên tạc kết quả Đại
hội và chống V.I.Lênin, chống phái đa số. Phái thiểu số đã lôi kéo, mua chuộc Plêkhanốp và
Ban biên tập của báo “Tia lửa”, biến báo “Tia lửa” thành cơ quan ngôn luận của phái thiểu
số. Phái thiểu số lợi dụng cơ quan ngôn luận của Đảng để tuyên truyền những quan điểm cơ
hội, phủ nhận NQ của Đại hội II, không phục tùng sự lãnh đạo của BCHTW và tìm cách
tách ra khỏi Đảng : “Bọn Mensêvích đã biến báo “Tia lửa” thành công cụ đấu tranh chống
Đảng, thành diễn đàn để tuyên truyền chủ nghĩa cơ hội”Đảng công nhân dân chủ-xã hội Nga
lại lâm vào khủng hoảng, chia rẽ nghiêm trọng. Đó là những bước lùi lớn của phong trào.
Trong tác phẩm “Một bước tiến, hai bước lùi” V.I.Lênin vạch ra nguồn gốc, ý nghĩa của
cuộc đấu tranh trong Đảng vạch trần bản chất của quan điểm cơ hội về tổ chức của phái
Mensêvích.
b. Cuộc đấu tranh về mặt tổ chức trong Đảng:
* Cuộc đấu tranh xung quanh tiết 1 trong bản dự thảo ĐLĐ
Cuộc đấu tranh gay gắt nhất trong Đại hội II Đảng công nhân dân chủ- xã hội Nga là
cuộc đấu tranh xoay quanh tiết 1 trong bản dự thảo ĐLĐ nói về điều kiện để trở thành ĐV
giữa công thức củaV.I.Lênin với công thức của Mác tốp.
- Công thức của V.I.Lênin đưa ra là: “Tất cả những người nào thừa nhận cương lĩnh
của Đảng và ủng hộ Đảng bằng những phương tiện vật chất cũng như bằng cách tự mình
tham gia một trong những tổ chức của Đảng thì được coi là ĐV của Đảng”
- Công thức của Mác tốp đưa ra là: “Tất cả những người nào thừa nhận cương lĩnh
của Đảng, ủng hộ Đảng bằng những phương tiện vật chất và tự mình giúp đỡ Đảng một
cách đều đặn dưới sự chỉ đạo của một trong những tổ chức của Đảng đều được coi là ĐV
của Đảng công nhân dân chủ - xã hội Nga”.
- Hai công thức đó giống nhau:
+ Thừa nhận cương lĩnh, ĐLĐ.
+ Thường xuyên ủng hộ đảng về mặt vật chất.
- Hai công thức đó khác nhau:
+ Công thức của V.I.Lênin đòi hỏi và bắt buộc người ĐV phải tự mình sinh hoạt và
chịu sự quản lý của một tổ chức Đảng. Công thức đó đề cao danh hiệu ĐV, đòi hỏi trách

nhiệm và ý thức tổ chức, kỷ luật cao của người ĐV, là tiêu chí để phân biệt người có tổ chức
với người không có tổ chức, ĐV với QC ngoài Đảng.
18


+ Công thức của Mác tốp : Không đòi hỏi ĐV phải tự mình sinh hoạt và chịu sự quản
lý của một tổ chức đảng. Công thức đó mở rộng đội ngũ ĐV vô hạn độ. “Mỗi người tham
gia bãi công là một đảng viên”. V.I.Lênin phê phán công thức của Mác tốp đã khuyến khích
: “Càng mở rộng cho nhiều người được mang danh hiệu là ĐV thì càng tốt”, “Phải coi
Đảng và giai cấp là một”. Thực chất là làm giảm trách nhiệm, địa vị, vai trò và danh hiệu
người ĐV, xóa nhòa ranh giới giữa người ĐV với QC. Đó là một công thức vô dụng, chứa
đựng nội dung tư tưởng cơ hội chủ nghĩa về tổ chức vì nó dẫn Đảng tới chỗ không có tổ
chức rõ ràng, chặt chẽ, không có kỷ cương, kỷ luật, ĐV chỉ có danh nghĩa mà không có tổ
chức, không có sức mạnh.
- Kết luận chung về hai công thức:
+ Sự khác nhau giữa hai công thức về thực chất không phải là sự khác nhau về một
điều khoản riêng biệt của ĐLĐ mà là phản ánh hai quan niệm khác nhau về vai trò, tính chất
và nguyên tắc tổ chức của Đảng; phản ánh hai quan điểm: Quan điểm cách mạng và quan
điểm cơ hội chủ nghĩa về mặt tổ chức.
+ Cuộc đấu tranh về tiết 1 dự thảo ĐLĐ công nhân dân chủ - xã hội Nga chính là cuộc
đấu tranh giữa CNM và chủ nghĩa cơ hội về vấn đề tổ chức của Đảng, là cuộc đấu tranh giữa
tính có tổ chức và kỷ luật của GCVS với tính vô chính phủ của những phần tử cơ hội.
+ Cuộc đấu tranh xoay quanh tiết 1 của bản dự thảo điều lệ đã làm lộ rõ sắc thái cơ hội
chủ nghĩa của phái Mensêvích trong vấn đề tổ chức. Những quan điểm đó càng bộ lộ đầy đủ
trên báo “Tia lửa” mới, phái Mensêvích cho rằng “Nội dung quan trọng hơn hình thức; rằng
cương lĩnh và sách lược quan trọng hơn tổ chức, rằng “Một tổ chức có sức sống nhiều hay ít
là tuỳ theo quy mô và ý nghĩa của nội dung mà tổ chức đó sẽ mang lại cho phong trào” , rằng
chế độ tập trung không phải là một “Cái gì độc lập tự tại” rằng đó không phải là một thứ
“Bùa vạn ứng”.
Tóm lại, phái Mensêvích, phủ nhận tính tổ chức, sự thống nhất và kỷ luật của Đảng,

phủ nhận nguyên tắc TTDC của Đảng, chủ trương thành lập một Đảng lỏng lẻo, không có
hình thù, tổ chức rõ ràng, không có nguyên tắc tổ chức, thiếu kiên định vững chắc và thiếu
ổn định như những câu lạc bộ.
V.I.Lênin kết luận: Trên thực tế công thức của Mác tốp nhằm phục vụ cho lợi ích của
những người trí thức tư sản sợ kỷ luật và tổ chức của những người vô sản.
* Cuộc đấu tranh về chế độ tập trung và chấp hành NQ
- V.I.Lênin phê phán chủ nghĩa cơ hội khi họ cho rằng: Đảng không nên là một khối tổ chức chặt chẽ
trong Đảng có thể tồn tại những cá nhân, những tổ chức không thuộc một tổ chức nào của Đảng. Theo
V.I.Lênin: đó là thứ tổ chức hoàn toàn xa lạ đối với Đảng, thứ tổ chức lỏng lẻo, rời rạc, tiểu tổ, bè phái.
- V.I.Lênin phê phán Máctốp phủ nhận chế độ tập trung, cho rằng đó là thiết lập chế độ
nông nô trong Đảng, là chủ nghĩa quan liêu. Theo V.I.Lênin, đó là tư tưởng kéo lùi Đảng trở
lại tình trạng tiểu tổ, phân tán, tạo điều kiện cho những phần tử cơ hội chui vào Đảng.
c. Những nguyên tắc tổ chức của V.I.Lênin về Đảng kiểu mới của GCCN
19


* Đảng là đội tiên phong của GCCN:
- Đảng là một bộ phận ưu tú, giác ngộ cách mạng nhất, là lãnh tụ chính trị, bộ tham
mưu chiến đấu của GCCN.
- Toàn bộ GCCN phải hoạt động dưới sự lãnh đạo của Đảng, “không được lẫn lộn
Đảng tức là đội tiên phong của GCCN với toàn bộ giai cấp” và các tổ chức khác của GCCN.
- Để giữ vững tính tiên phong của Đảng, V.I.Lênin chỉ rõ: Đảng phải tiên phong cả về
lý luận và thực tiễn, cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức.
- Để đảng thực sự tiên phong thì tự cho mình là tiên phong là chưa đủ mà phải làm cho
đảng thực sự tiên phong.
- Đảng phải tập hợp, lãnh đạo QC nâng cao trình độ giác ngộ cho QC lên ngang tầm
trình độ của những người cách mạng, không theo đuôi QC, không được hạ thấp trình độ tổ
chức của Đảng ngang với trình độ của QC.
* Đảng là bộ phận có tổ chức của GCCN
- Đảng là đội tiên phong của giai cấp thì phải có tổ chức chặt chẽ, vững chắc, có kỷ luật

nghiêm minh và thống nhất, đó là sức mạnh của Đảng.
- Đảng là một chỉnh thể có cố kết vững chắc, có kỷ luật nghiêm minh chặt chẽ, qui định
rõ những mối quan hệ giữa cá nhân, với tổ chức, giữa bộ phận này với bộ phận khác, giữa bộ
phận với toàn bộ v.v…
- Đảng phải có đường lối, cương lĩnh, điều lệ thống nhất, có cơ quan lãnh đạo thống
nhất, phải được tổ chức, sinh hoạt và hoạt động theo nguyên tắc TTDC; cán bộ, ĐV phải có
ý thức tổ chức kỷ luật cao, tự giác.
* Đảng là hình thức tổ chức cao nhất, chặt chẽ nhất của GCCN.
- Đảng chẳng những là đội tiên phong có tổ chức mà còn là tổ chức cao nhất của GCCN.
- Sự khác nhau giữa Đảng với các tổ chức khác của GCCN là ở chỗ: Đảng là lãnh tụ
chính trị của giai cấp, là lực lượng lãnh đạo mọi tổ chức và toàn thể giai cấp. Đảng gồm
những đại biểu ưu tú tiên tiến, giác ngộ tích cực nhất của giai cấp và được tổ chức chặt chẽ.
Trình độ tổ chức của Đảng là cao nhất, chặt chẽ nhất. Không được nhầm lẫn giữa trình độ tổ
chức cao của Đảng với địa vị của Đảng trong xã hội.
- Đảng có trách nhiệm và khả năng lãnh đạo tất cả các tổ chức khác của GCCN, tập
hợp, hướng dẫn các tổ chức khác của giai cấp hướng vào thực hiện mục tiêu chung là lật đổ
CNTB, xây dựng thành công CNXH và chủ nghĩa cộng sản.
+ Để bảo đảm cho Đảng thực sự là tổ chức cao nhất của GCCN, Đảng chỉ kết nạp
những phần tử ưu tú, tiên tiến, giác ngộ lý luận có ý thức tổ chức kỷ luật cao, có khả năng
tuyên truyền, vận động giáo dục và thu phục được QC. Đảng là một tổ chức chặt chẽ nhất, là
một khối thống nhất ý chí và hành động, có kỷ luật tự giác, nghiêm minh.
* TTDC là nguyên tắc tổ chức cơ bản của Đảng

20


- Để xứng đáng với vị trí, vai trò đội tiên phong có tổ chức và là tổ chức cao nhất của
GCCN, xứng đáng với vai trò lãnh tụ chính trị của giai cấp thì Đảng phải được tổ chức, sinh
hoạt và hoạt động theo nguyên tắc TTDC.
- Đảng phải có cương lĩnh điều lệ thống nhất, do Đại hội vạch ra. Toàn Đảng phải nghiêm

chỉnh chấp hành cương lĩnh, Điều lệ, NQ của Đảng. Đảng phải có một cơ quan lãnh đạo thống nhất,
toàn Đảng phục tùng sự lãnh đạo của BCHTW, ĐV phải tự giác phục tùng tổ chức, kỷ luật của
Đảng, cấp dưới phục tùng cấp trên, thiểu số phục tùng đa số, cá nhân phục tùng tổ chức.
- V.I.Lênin nhấn mạnh tập trung không có nghĩa là xem nhẹ dân chủ, tập trung phải đi đôi với
dân chủ, tập trung và dân chủ là hai mặt không tách rời trong chế độ tổ chức của Đảng vô sản.
* Đảng liên hệ mật thiết với QC, là hiện thân của mối liên hệ giữa đội tiên phong với
GCCN và NDLĐ
- Đảng liên hệ chặt chẽ với QC là tất yếu khách quan,
V.I.Lênin cho rằng: “Muốn trở thành một Đảng dân chủ - xã hội thì cần phải được sự
ủng hộ của chính giai cấp”
- Mối liên hệ giữa Đảng với QC không phải do số lượng ĐV nhiều hay ít mà do chất
lượng đội ngũ ĐV quyết định.
- Để giữ vững và tăng cường mối liên hệ giữa Đảng với QC: Đảng phải tuyên truyền, giác ngộ,
tập hợp QC; tổ chức vận động QC, phát huy vai trò của QC trong sự nghiệp cách mạng.
- Đảng phải đề phòng và khắc phục các khuynh hướng quan liêu xa rời QC, vượt quá xa trình độ
của QC, hoặc hạ thấp mình ngang hàng với QC, đồng thời cũng đề phòng khuynh hướng theo đuôi QC.
* TPB & PB là quy luật phát triển của Đảng
- Theo V.I.Lênin: Đảng phải thường xuyên TPB & PB, có như vậy Đảng mới phát
triển, tiến bộ, mới được QC tin tưởng và tôn trọng. Đây là một trong những căn cứ quan
trọng để xem xét một Đảng có thật sự Mác xít chân chính hay không.
- Theo V.I.Lênin tự phê bình là rất cần thiết nhưng phải khoa học, nghiêm túc và khéo
léo, kiên trì thuyết phục bằng chân lý không được dùng những thủ đoạn cực đoan. Phê bình
phải được tiến hành một cách có tổ chức, có nguyên tắc đảm bảo được tính trung thực, thẳng
thắn về sự tiến bộ của toàn Đảng và mỗi ĐV.
- Đảng phải kiên quyết trong TPB & PB để khẳng định phát huy ưu điểm, phát hiện,
khắc phục khuyết điểm, tăng cường đoàn kết thống nhất, nâng cao NLLĐ và SCĐ của Đảng.
III. Ý NGHĨA CỦA TÁC PHẨM VỚI VIỆC XÂY DỰNG ĐẢNG
- Tác phẩm “Một bước tiến, hai bước lùi” ra đời đã góp phần vạch trần đặc điểm, bản
chất của chủ nghĩa cơ hội về mặt tổ chức, bảo vệ tính Đảng của GCCN, đã phát triển và cụ
thể hoá học thuyết của Mác - Ăng ghen về ĐCS, vạch ra một cách đầy đủ và hoàn chỉnh

những nguyên tắc tổ chức cơ bản của chính Đảng cách mạng của GCVS.
- Tác phẩm xác định rõ vai trò quan trọng của công tác XDĐvề tổ chức và chỉ ra mối
quan hệ biện chứng giữa XDĐvề tổ chức với XDĐvề chính trị và tư tưởng.
21


- Trong công tác xâydựng Đảngvề mặt tổ chức phải xâydựng một điều lệ thống nhất, một kỷ luật thống nhất,
một cơ quanlãnhđạo tập trung thốngnhất có uy tín và quyền lực, Đảng phải xâydựng và hoạt độngtheo nguyên tắc
TTDC, thường xuyên TPB & PB. ĐV của Đảng phải có ý thức tổ chức kỷ luật, người ĐV dù ở cương vị nào cũng
phải tham gia một trong những tổ chức của Đảng, chịu sự quản lý, giáo dục, phân công, KT, GS của tổ chức đảng.
- Những luận điểm V.I.Lênin đề cập trong tác phẩm vẫn còn nguyên giá trị trong xây
dựng chính Đảng của GCCN.
- Đối với ĐCSVN, tác phẩm “Một bước tiến, hai bước lùi” đã và vẫn là những chỉ dẫn
có tính nguyên tắc trong quá trình xây dựng và chỉnh đốn Đảng hiện nay.
- Nghiên cứu nắm vững những quan điểm tư tưởng trong tác phẩm, nắm vững học thuyết MácLênin về xây dựng Đảng, trung thành và vận dụng sáng tạo những nguyên lý là vấn đề cơ bản lâu dài và
cũng là vấn đề cấp thiết trong công tác XDĐ và là trách nhiệm của mọi cán bộ, ĐV.

Vấn đề 4: Tư tưởng HCM về xây dựng ĐCSVN
ĐVĐ: Chủ tịch HCM là người sáng lập và rèn luyện ĐCSVN thành một Đảng cách
mạng, chân chính, bộ tham mưu chiến đấu sáng suốt và kiên cường của dân tộc Việt Nam,
để lãnh đạo nhân dân tiến hành thắng lợi cách mạng giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước
đưa cả nước đi lên CNXH. Những luận điểm trong tư tưởng XDĐcủa người ngày nay vẫn
còn nguyên giá trị, đó là tài sản vô giá của Đảng, nhân dân ta, là cơ sở để mỗi cán bộ, ĐV
của Đảng phấn đấu hoàn thiện bản thân mình hơn.
I. NHỮNG NỘI DUNG CHỦ YẾU TRONG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ
XÂY DỰNG ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
1. Cách mạng trước hết phải có Đảng cách mệnh.
- Hoài bão, mục đích hoạt động cách mạng của HCM là giành độc lập tự do cho dân
tộc, mang lại ấm no hạnh phúc cho nhân dân.
“Tôi chỉ có một sự ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta là hoàn toàn độc lập,

dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, … học hành”
- HCM khẳng định để đạt được mục đích đó phải dựa vào sức mạnh của nhân dân.
“Trong bầu trời không có gì quý bằng nhân dân, trong thế giới không có gì mạnh bằng lực
lượng đoàn kết toàn dân”; “Cách mệnh là việc chung của cả dân chúng chứ không phải là việc riêng
của một hai người”; “Dân khí mạnh thì quân lính nào, súng ống nào cũng không chống lại nổi”
- QC nhân dân phải được giác ngộ, được tổ chức, được lãnh đạo mới trở thành lực
lượng to lớn, như nhiều chiếc đũa bó thành một bó, chứ không phải “mỗi chiếc một nơi”.
- HCM đặt vấn đề: “Cách mạng trước hết phải có cái gì? Trước hết phải có Đảng cách mệnh
để trong thì vận động QC, ngoài thì liên hệ với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng có
vững cách mạng mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thì thuyền mới chạy”.
-> Như vậy:
+ Có Đảng thì mới có đường lối cách mạng đúng đắn, bảo đảm tính CM triệt để.
22


+ Có Đảng mới tổ chức tập hợp đoàn kết và phát huy vai trò to lớn của nhân dân.
+ Có Đảng mới kết hợp được sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.
2. ĐCSVN là sản phẩm của sự kết hợp giữa CNM –Lênin với PTCN và phong
trào yêu nước.
- Đây là quy luật ra đời của ĐCSVN, một trong những cống hiến xuất sắc của chủ tịch HCM.
- Quy luật phổ biến mà CNM-Lênin khẳng định: ĐCS là sản phẩm kết hợp giữa
CNXH khoa học với PTCN.
- Chủ tịch HCM trung thành với quan điểm đó đồng thời đi sâu phân tích điều kiện
kinh tế, xã hội Việt Nam Người chỉ ra rằng:
+ Việt Nam là một nước thuộc địa nửa phong kiến, kinh tế lạc hậu, GCCN còn nhỏ bé,
PTĐT của GCCN chưa đại diện cho PTĐT của cả dân tộc. Tuy nhiên GCCN Việt Nam mặc
dù còn trẻ nhưng dưới ánh sáng của cách mạng Tháng Mười Nga đã biểu hiện tinh thần cách
mạng triệt để và đại diện cho xu thế phát triển của xã hội Việt Nam.
+ Trong khi đó phong trào yêu nước phát triển mạnh mẽ, có sức lôi cuốn tập hợp đông
đảo các tầng lớp nông dân, trí thức, nhân sĩ có tinh thần dân tộc.

+ Cách mạng Việt Nam phải đi từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân tiến lên cách
mạng XHCN: giải phóng dân tộc là mục tiêu chung của cả PTCN và phong trào yêu nước.
Do đó, ở Việt Nam muốn có sự ra đời của ĐCS thì phải truyền bá CNM-Lênin vào cả PTCN
và phong trào yêu nước.
- Như vậy, HCM đã có sự phát triển sáng tạo cả lý luận và thực tiễn:
+ Về lý luận: Làm phong phú thêm kho tàng lý luận Mác-Lênin về Đảng.
+ Thực tiễn: Dẫn đến sự ra đời của ĐCSVN mở ra một thời kỳ mới cho cách mạng Việt Nam.
- Ý nghĩa luận điểm trong xây dựng đảng:
+ Cơ sở xã hội giai cấp của Đảng không chỉ có GCCN mà còn có các tầng lớp, G/C
khác trong xã hội cùng đấu tranh vì ĐLDT&CNXH.
+ Đặt nền móng cho sự thống nhất giữa G/C &DT, cơ sở nhìn nhận đáng giá xây dựng
bản chất GCCN cho Đảng.
+ Phải phát triển Đảng từ GCCN nhất là công nhân đại công nghiệp, đồng thời phát
triển cả các tầng lớp khác của xã hội.
+ Đảng phải tích cực giáo dục, bồi dưỡng, rèn luyện bản chất GCCN tính tiền phong
cho cán bộ ĐV, tăng cường bản chất GCCN cho đảng
+ Là cơ sở tập trung lực lượng tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc.
3. ĐCSVN là Đảng của GCCN, của NDLĐ và của cả dân tộc.
- CNM-Lênin khẳng định: ĐCS là đảng kiểu mới mang bản chất GCCN, trung thành
với quan điểm đó HCM khẳng định: đảng là đội tiên phong của vô sản giai cấp phải thu phục
được đại bộ phận của giai cấp mình.
- HCM khẳng định: Đảng lao động Việt Nam phải là người lãnh đạo sáng suốt, kiên
quyết trung thành của GCCN, NDLĐ và của dân tộc Việt Nam.
23


- CSVN va mang trong mỡnh bn cht GCCN, va cú tớnh nhõn dõn, tớnh dõn tc
sõu sc. Biu hin:
+ Mc tiờu lý tng ca ng l CNXH v ch ngha cng sn; Mc tiờu lý tng ca
ng l mc tiờu, lý tng ca GCCN ú l xúa b t hu, thit lp chuyờn chớnh vụ sn xõy

dng CNXH v ch ngha cng sn.
+ Nn tng t tng ca ng; Ch nghĩa Mác-Lênin và t tởng Hồ Chí Minh l kim
ch nam cho mi hot ng ca ng.
+ Lp trng ca ng: l lp trng GCCN, ng luụn ng vng trờn lp trng
GCCN xem xột v gii quyt cỏc vn ny sinh trong xó hi.
+ Nguyờn tc t chc v sinh hot ca ng l nguyờn tc TTDC; tp th lónh o, cỏ
nhõn ph trỏch; TPB & PB l quy lut tn ti v phỏt trin ca ng. Nguyờn tc TTDC l
nguyờn tc t chc c bn ca ng, tp th lónh o, cỏ nhõn ph trỏch l nguyờn tc lónh
o cao nht ca ng, TPB & PB l quy lut tn ti v phỏt trin ca ng; nguyờn tc ny
phự hp vi c im t chc v hot ng ca GCCN.
+ Phm cht nng lc ca i ng cỏn b V ca ng; va l ngi lónh o va l
ngi y t trung thnh ca nhõn dõn.
+ Quan h gia ng vi nhõn dõn: ng gn bú mỏu tht vi nhõn dõn, phỏt huy
quyn lm ch ca ND trờn tt c cỏc lnh vc ca i sng xó hi. Sc mnh ca ng l s
gn bú mt thit vi nhõn dõn, mi biu hin quan liờu, tham nhng, mnh lnh, xa ri nhõn
dõn s i n tn tht khụng lng c i vi vn mnh ca t nc.
+ S kt hp v gii quyt cỏc vn dõn tc vi vn quc t.
4. CSVN ly CNM-Lờnin lm nn tng t tng kim ch nam cho hnh ng.
- ng phi cú ch ngha lm ct, bi vỡ ng l lónh t chớnh tr, b tham mu chin
u ca GCCN, NDL v ton dõn tc, cho nờn ng phi tiờu biu v trớ tu, ng phi cú
hc thuyt cỏch mng v khoa hc dn ng.
Theo HCM: Bõy gi hc thuyt nhiu, ch ngha nhiu, nhng ch ngha chõn chớnh
nht, chc chn nht, cỏch mnh nht l CNM-Lờnin.
ng mun vng phi cú ch ngha lm ct ng m khụng cú ch ngha cng
nh ngi khụng cú trớ khụn, tu khụng cú bn ch nam.
CNM-Lờnin i vi chỳng ta, nhng ngi cỏch mng v nhõn dõn Vit Nam, khụng nhng
l cỏi cm nang thn k, khụng nhng l cỏi kim ch nam, m cũn l mt tri soi sỏng cho con
ng chỳng ta i ti thng li cui cựng, i ti CNXH v ch ngha cng sn
- Ngi ch rừ CNM-Lờnin l nn tng t tng kim ch nam cho hnh ng ca
ng ũi hi:

+ ng phi nm vng bn cht cỏch mng v khoa hc, vn dng sỏng to CNMLờnin vo iu kin c th, khụng dp khuụn mỏy múc.
+ ng phi bit cht lc, tip thu vn hoỏ dõn tc v nhõn loi, hc tp k tha nhng
kinh nghim ca nhng CS trờn th gii.
24


+ Đảng phải chú ý tổng kết thực tiễn cách mạng trong nước, bổ sung phát triển làm
phong phú kho tàng lý luận Mác-Lênin.
+ Kiên quyết đấu tranh với những luận điểm cơ hội nhằm bảo vệ sự trong sáng của CNM-Lênin.
5. ĐCSVN là một khối đoàn kết thống nhất, tổ chức và sinh hoạt theo nguyên tắc
TTDC, lấy TPB & PB làm quy luật phát triển.
* ĐCSVN là một khối thống nhất ý chí và hành động
- Đoàn kết là một thuộc tính cơ bản của ĐCS. Đảng có đoàn kết, thống nhất mới có thể
làm hạt nhân quy tụ, đoàn kết nhân dân đứng lên làm cách mạng lật đổ chế độ cũ, xây dựng
xã hội mới công bằng, bình đẳng vì con người.
- Trong di chúc người viết: “Đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và
của dân ta, các đồng chí từ trung ương tới các chi bộ cần phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí
của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình”.
- Cơ sở của sự đoàn kết thống nhất: Trên quan điểm CNM-Lênin và điều lệ, chính sách
của Đảng và trên cơ sở kỷ luật Đảng.
* Đảng tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc TTDC:
- TTDC Bác cho rằng dân chủ là cái quý nhất là cái gốc, là mục tiêu, là động lực.
- Nội dung của nguyên tắc theo HCM đó là: Thiểu số phục tùng đa số; bộ phận phục
tùng đoàn thể, cấp dưới phục tùng cấp trên, toàn Đảng phục tùng TW. Bác lưu ý: chống dân
chủ hình thức, dân chủ quá trớn, vô chính phủ, tập trung quan liêu.
- Theo HCM tập trung không mâu thuẫn với dân chủ mà chúng thống nhất, tác động
qua lại lẫn nhau.
- HCM lưu ý: Từ TTDC phải quán triệt nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách.
+ Theo Bác: tập thể lãnh đạo vì nhiều người thì nhiều kinh nghiệm, người thấy rõ mặt
này, người thì thấy rõ mặt khác đóng góp kinh nghiệm vào xem xét thì vấn đề được giải

quyết chu đáo khỏi sai lầm.
+ Cá nhân phụ trách: Việc gì đã được bàn bạc cụ thể kế hoạch rõ ràng rồi thì phải giao
cho một người hoặc một nhóm người phụ trách theo kế hoạch đó mà thi hành như thế mới có
chuyên trách, công việc mới chạy.
+ Cần chống tư tưởng ỷ lại tập thể có thành tích thì vơ vào, có khuyết điểm thì đổ lỗi
cho tổ chức. Đồng thời cũng chống độc đoán chuyên quyền.
* Đảng lấy TPB & PB làm quy luật phát triển
- TPB & PB là phương tiện để xây dựng củng cố sự đoàn kết và là quy luật phát triển của Đảng.
"Trong công tác, trong tranh đấu, trong huấn luyện, các ĐV, các cán bộ cần phải luôn
luôn tự hỏi mình, tự kiểm điểm mình và đồng chí của mình. Luôn luôn dùng và khéo dùng
cách phê bình và tự phê bình, thì khuyết điểm nhất định hết dần, ưu điểm nhất định thêm lên
và Đảng ta nhất định thắng lợi"
- HCM quan niệm :

25


×