Tải bản đầy đủ (.pdf) (120 trang)

Luận văn nâng cao hiệu quả công tác quản lý lễ hội văn hóa dân gian việt bắc tại xã eatam, huyện krông năng, tỉnh đắk lắk

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (959.15 KB, 120 trang )

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ......................................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài........................................................................................................ 1
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ........................................................................... 2
3. Tổng quan tình hình nghiên cứu .............................................................................. 3
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ............................................................................ 7
5. Câu hỏi nghiên cứu và giả thuyết nghiên cứu ......................................................... 7
6. Phương pháp nghiên cứu .......................................................................................... 8
7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn .................................................................................. 9
8. Bố cục luận văn ........................................................................................................ 10
Chương 1 ...................................................................................................................... 12
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI ................................................. 12
1.1. Cơ sở lý luận ..................................................................................................... 12
1.1.1. Các khái niệm liên quan .................................................................................. 12
1.1.2. Quan điểm của Đảng, Nhà nước về văn hóa và quản lý lễ hội ...................... 19
1.1.3. Nội dung quản lý nhà nước về lễ hội ............................................................. 29
1.2. Cơ sở thực tiễn .................................................................................................. 36
1.2.1. Tổng quan về xã Eatam, huyện Krông Năng, tỉnh Đắk Lắk ........................... 36
1.2.2. Tổng quan về Lễ hội VHDG Việt Bắc tại xã Eatam, huyện Krông Năng, tỉnh
Đắk Lắk ..................................................................................................................... 38
1.2.3. Các giá trị của Lễ hội VHDG Việt Bắc tại xã Eatam, huyện Krông Năng, tỉnh
Đắk Lắk ..................................................................................................................... 42
Tiểu kết ......................................................................................................................... 46
Chương 2 ...................................................................................................................... 47
CÔNG TÁC QUẢN LÝ LỄ HỘI VĂN HÓA DÂN GIAN VIỆT BẮC .................. 47
TẠI XÃ EATAM, HUYỆN KRÔNG NĂNG, TỈNH ĐẮK LẮK ............................ 47
2.1. Thực trạng công tác quản lý Lễ hội VHDG Việt Bắc ................................... 47
2.1.1. Xây dựng tổ chức bộ máy quản lý lễ hội ......................................................... 47
2.1.2. Ban hành và chỉ đạo thực hiện các văn bản quản lý nhà nước về lễ hội........ 52
2.1.3. Chỉ đạo tổ chức lễ hội ..................................................................................... 54



2.1.4. Công tác tuyên truyền, quảng bá cho lễ hội ................................................... 56
2.1.5. Quản lý các nguồn lực phục vụ cho lễ hội ...................................................... 58
2.1.6. Công tác đảm bảo an ninh trật tự, vệ sinh mơi trường, an tồn thực phẩm... 64
2.1.7. Công tác kiểm tra, giám sát hoạt động lễ hội ................................................. 67
2.2. Đánh giá chung ................................................................................................. 69
2.2.1. Những mặt làm được và nguyên nhân ............................................................ 69
2.2.2. Những mặt chưa làm được và nguyên nhân ................................................... 72
Tiểu kết ......................................................................................................................... 78
Chương 3 ...................................................................................................................... 79
GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC QUẢN LÝ ............................ 79
LỄ HỘI VĂN HÓA DÂN GIAN VIỆT BẮC ............................................................ 79
TẠI XÃ EATAM, HUYỆN KRÔNG NĂNG, TỈNH ĐẮK LẮK ............................ 79
3.1. Những xu hướng biến đổi trong công tác quản lý Lễ hội VHDG Việt Bắc
trong thời gian tới.................................................................................................... 79
3.2. Các giải pháp .................................................................................................... 81
3.2.1. Kiện toàn bộ máy tổ chức, quản lý lễ hội........................................................ 81
3.2.2. Giải pháp về cơ chế, chính sách ..................................................................... 83
3.2.3. Nâng cao hoạt động tổ chức lễ hội ................................................................. 84
3.2.4. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, quảng bá lễ hội.......................................... 86
3.2.5. Nâng cao vai trò các nguồn lực và cơ sở vật chất phục vụ cho tổ chức, quản
lý lễ hội ...................................................................................................................... 90
3.2.6. Nâng cao chất lượng các hoạt động dịch vụ, đảm bảo an ninh trật tự, vệ sinh
môi trường và an toàn thực phẩm trong lễ hội ......................................................... 96
3.2.7. Tăng cường thanh tra, giám sát các hoạt động lễ hội .................................... 99
3.2.8. Nâng cao vai trò của cộng đồng trong tổ chức, quản lý lễ hội..................... 101
Tiểu kết ....................................................................................................................... 104
KẾT LUẬN ................................................................................................................ 106
TÀI LIỆU THAM KHẢO......................................................................................... 110
PHỤ LỤC ................................................................................................................... 117



DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BTC

Ban tổ chức



Nghị định

NXB

Nhà xuất bản



Quyết định

TTVHTT&DL

Trung tâm Văn hóa, Thể thao và Du lịch

UBND

Ủy ban nhân dân

VHTT

Văn hóa – Thơng tin


VHDG

Văn hóa dân gian

QLNN

Quản lý Nhà nước


1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Lễ hội là hiện tượng sinh hoạt văn hóa cổ truyền tiêu biểu của nhiều tộc người
ở nước ta cũng như nhiều nước khác trên thế giới. Lễ hội phản chiếu chân thực đời
sống văn hóa tinh thần của mỗi tộc người. Lễ hội ra đời, tồn tại gắn với quá trình
phát triển của nhiều tộc người nói chung và văn hóa xã hội của người Việt nói riêng.
Lễ hội cũng chính là dịp để con người giao lưu, gặp gỡ, là nơi kết nối cộng đồng,
nơi con người thể hiện truyền thống uống nước nhớ nguồn. Lễ hội là một bộ phận
quan trọng của di sản văn hóa phi vật thể của dân tộc Việt Nam và là một loại hình
có tính chất tổng hợp chứa đựng trong đó cả tín ngưỡng, tơn giáo, phong tục tập
quán, diễn xướng dân gian và văn nghệ dân gian. Nghiên cứu lễ hội truyền thống
trên phương diện lý luận lẫn thực tiễn góp phần xây dựng và phát triển nền văn hóa
Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Là một tỉnh nằm ở trung tâm vùng văn hóa Tây Nguyên, Đắk Lắk hiện nay là
vùng đất cộng cư của nhiều tộc người cùng sinh sống như: Ê đê, Ba na, M’nông,
Gia rai, Tày, Nùng… Do đó, vùng đất này hiện có rất nhiều lễ hội văn hóa với nhiều
sắc thái riêng vơ cùng đặc sắc như: Lễ hội cồng chiêng, Lễ hội đâm trâu, Lễ hội đua
voi…và gần đây nhất có thêm lễ hội VHDG Việt Bắc của các dân tộc vùng núi phía

Bắc đang sinh sống trên địa bàn xã Eatam, huyện Krông Năng, tỉnh Đắk Lắk mới
được tổ chức từ năm 2009 đến nay. Là một huyện miền núi thuộc khu vực Tây
Ngun, xã Eatam có số người dân tộc phía Bắc sinh sống khá đơng (chiếm 98% số
dân, trong đó dân tộc Tày – Nùng chiếm 84,4%), đồng bào dân tộc vùng núi phía
Bắc đến đây sinh sống đã mang theo văn hóa, nếp sống, phong tục, tập qn của
mình làm đa dạng thêm đời sống văn hóa địa phương. Nhằm làm phong phú hơn
đời sống tinh thần của người dân, giúp họ sớm hịa nhập vào vùng đất mới nhưng
ln hướng về cội nguồn, mong muốn giữ gìn, phát huy bẳn sắc văn hóa dân tộc
thiết nghĩ rất cần và rất nên thường xuyên tổ chức các lễ hội văn hóa, các hoạt động
giao lưu cộng đồng cho người dân. Hiểu được tâm tư, nguyện vọng và yêu cầu cấp
thiết đó lãnh đạo chính quyền xã Eatam đã mạnh dạn đứng ra tổ chức Lễ hội VHDG


2

Việt Bắc với nhiều hoạt động văn hóa phong phú, thu hút được sự quan tâm của
đông đảo bà con. Thông qua các nghi lễ và hoạt động vui chơi trong lễ hội người
dân địa phương có dịp được giao lưu, học tập, trao đổi kinh tế và thể hiện những nét
đẹp văn hóa của dân tộc mình với các dân tộc anh em khác.
Trải qua 10 năm tổ chức, Lễ hội VHDG Việt Bắc tại xã Eatam, huyện Kông
Năng, tỉnh Đắk Lắk đã mang lại ý nghĩa quan trọng trong đời sống vật chất, tinh
thần của người dân đang sinh sống trên địa bàn xã, khu vực lân cận và nhân dân địa
phương khác. Ban đầu lễ hội được tổ chức là dựa trên nhu cầu vui xuân, giao lưu,
học tập trao đổi kinh nghiệm sản xuất, nhu cầu sáng tạo và hưởng thụ những giá trị
văn hóa vật chất, tinh thần của người dân địa phương; tuyên truyền, giáo dục để
người dân biết gìn giữ, kế thừa và phát huy những giá trị đạo đức truyền thống quý
báu của dân tộc mình. Tuy nhiên, hiện nay với điều kiện kinh tế địa phương ngày
càng phát triển, đời sống sinh hoạt của nhân dân ngày càng được nâng cao dẫn tới
nhu cầu sinh hoạt và sự giao lưu văn hóa của người dân địa phương diễn ra mạnh
mẽ. Do đó, để đáp ứng kịp thời nhu cầu, ước muốn của người dân nên công tác tổ

chức, quản lý Lễ hội VHDG Việt Bắc hiện nay đã có nhiều thay đổi và ngày càng
hoàn thiện hơn. Bên cạnh các mặt đã làm được cũng còn nhiều hạn chế cần được
khắc phục để nâng cao hơn nữa ý nghĩa và vai trò của lễ hội trong đời sống.
Với mong muốn giúp cho công tác tổ chức, quản lý Lễ hội VHDG Việt Bắc
ngày càng tốt và hoàn thiện hơn, thực hiện theo đúng chủ trương, chính sách của
Đảng và Nhà nước; lễ hội được tổ chức hàng năm luôn làm hài lịng du khách thập
phương, vừa bảo tồn, giữ gìn và phát huy giá trị bản sắc văn hóa mà lễ hội mang lại.
Với những lý do nêu trên, tác giả chọn đề tài: Nâng cao hiệu quả công tác quản lý
Lễ hội văn hóa dân gian Việt Bắc tại xã Eatam, huyện Krông Năng, tỉnh Đắk
Lắk làm luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ chuyên ngành Quản lý văn hóa.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Dựa trên các cơ sở lý luận và đánh giá thực trạng, mục đích chính của luận
văn là đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác quản lý Lễ hội


3

VHDG Việt Bắc. Để đạt được mục đích nghiên cứu của luận văn, tác giả phải thực
hiện một số nhiệm vụ cụ thể:
- Hệ thống hóa những vấn đề lý luận chung về quản lý lễ hội, lễ hội dân gian,
các văn bản về quản lý lễ hội làm cơ sở khoa học trong công tác quản lý Lễ hội
VHDG Việt Bắc tại xã Eatam.
- Điền dã, nghiên cứu tìm hiểu về quy trình tổ chức, diễn biến của Lễ hội
VHDG Việt Bắc tại xã Eatam.
- Khảo sát thực tế, tìm hiểu thực trạng cơng tác quản lý Lễ hội VHDG Việt
Bắc tại xã Eatam.
- Đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả công tác quản lý Lễ hội VHDG Việt
Bắc tại xã Eatam trong thời gian tới.
3. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện, tác giả luận văn đã tiếp cận với một số công trình,

bài viết trên các báo - tạp chí có đề cập đến lễ hội dân gian nói chung và dân tộc
Tày – Nùng nói riêng. Trong đó đáng chú ý là các cơng trình, bài viết tiêu biểu như
sau:
Năm 1994, tại Hội thảo khoa học Lễ hội truyền thống trong xã hội hiện đại do
Trung tâm Khoa học xã hội và Nhân văn Quốc gia tổ chức đã quy tụ nhiều bài
nghiên cứu của nhiều tác giả về ý nghĩa, giá trị của lễ hội truyền thống trong xã hội
hiện đại. Trong bài viết của mình, tác giả Đinh Gia Khánh đã nhận xét về các mặt
tích cực và tiêu cực của sự bùng phát trở lại của các lễ hội truyền thống. Đồng thời,
tác giả nêu ra một số quan điểm phổ biến khi đánh giá về sự trở lại của lễ hội[35].
Nhà nghiên cứu Vũ Ngọc Khánh trong cơng trình Lễ hội trong cộng đồng các
dân tộc Việt Nam (Nxb.Văn hóa –Thơng tin, Hà Nội, 2004) cho rằng lễ hội khơng
phải là một hiện tượng văn hóa bất biến mà nó có sự thay đổi qua thời gian. Sự biến
đổi và tiếp tục của các lễ hội chính là sự hài hịa của nó đối với khơng gian và thời
gian nhất định. Thừa nhận sự trường tồn của lễ hội cổ truyền, các nhà nghiên cứu
không quan niệm lễ hội là sự luyến tiếc quá khứ, để lưu giữ, huyền thoại và cô lập
con người. Lễ hội cũng khơng phải tồn tại để con người quay ra tìm sự huyền bí với


4

những cảm giác bồng bềnh, ngây ngất nhằm mục đích thốt ly cuộc sống. Trong lễ
hội có sự tưởng tượng về sự hiện diện các thần linh, các bí tích, nhưng không phải
là để tấn công khoa học, đi ngược chiều với xã hội mới như xã hội hậu công
nghiệp[39].
Tác giả Lê Hồng Lý với cuốn sách “Sự tác động của kinh tế thị trường vào lễ
hội tín ngưỡng”. Tác giả đã xem xét lễ hội truyền thống từ mối quan hệ với nền
kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường. Đây là một cách nhìn mới ở Việt Nam, có
thể vận dụng vào trường hợp nghiên cứu “Lễ hội VHDG Việt Bắc”, xem xét về sự
biến đổi của lễ hội này trong xã hội phát triển kinh tế, đời sống kinh tế của người
dân được nâng cao sẽ có những đóng góp cho tổ chức, quản lý lễ hội [43].

Tác giả Nguyễn Chí Bền với cuốn sách “Lễ hội cổ truyền của người Việt, cấu
trúc và thành tố”. Cuốn sách có nội dung 08 chương: Chương 1. Lịch sử sưu tầm,
nghiên cứu lễ hội cổ truyền; chương 2. Chủ thể của lễ hội cổ truyền của người Việt;
chương 3. Cấu trúc lễ hội cổ truyền của người Việt; chương 4. Nhân vật phụng thờ
trong lễ hội cổ truyền của người Việt; chương 5. Các thành tố hiện hữu trong lễ hội
cổ truyền của người Việt; chương 6. Các thành tố tàng ẩn nhưng hiện hữu trong
không gian thiêng; chương 7. Quan hệ giữa các thành tố trong cấu trúc lễ hội cổ
truyền của người Việt; chương 8. Từ nghiên cứu cấu trúc đến bảo tồn, phát huy giá
trị lễ hội cổ truyền trong xã hội đương đại[19]. Trong khi giới thiệu về “lễ hội
VHDG Việt Bắc” tác giả cũng sẽ vận dụng một phần phương pháp cấu trúc và
thành tố theo quan điểm của tác giả Nguyễn Chí Bền đã nêu trong cuốn sách “Lễ
hội cổ truyền của người Việt, cấu trúc và thành tố” để vận dụng thực hiện đề tài của
mình.
Năm 2004, các tác giả Nguyễn Thu Linh và Phan Văn Tú thực hiện đề tài
khoa học cấp Bộ Quản lý lễ hội cổ truyền: thực trạng và giải pháp. Đề tài đã đánh
giá tương đối đầy đủ về thực trạng lễ hội truyền thống Việt Nam và đưa ra một số
giải pháp để phát triển và nâng cao giá trị của lễ hội. Giáo dục các thế hệ biết và
hiểu về lịch sử - văn hóa dân tộc địa phương mình qua các trải nghiệm hội hè, trị
chơi, trị diễn dân gian có giá trị tìm lại mơi trường phục sinh và tơn tạo...được củng


5

cố và phát triển tạo ra những cơ hội việc làm và thu nhập cho khơng ít lao động, góp
phần bảo vệ di sản - văn hóa dân gian đang có cơ hội trở thành hàng hóa có giá trị
trong xã hội hiện đại. Các tác giả nhấn mạnh rằng lễ hội đang trở thành một sản
phẩm du lịch, thúc đẩy kinh tế ở nhiều địa phương[42].
Cùng quan tâm về quản lý lễ hội, tác giả Bùi Hồi Sơn cơng bố cơng trình
Quản lý lễ hội truyền thống của người Việt, tác giả đã khái quát hệ thống văn bản
của Nhà nước ta về quản lý lễ hội, đánh giá ưu, nhược điểm về công tác quản lý lễ

hội, đưa ra một số giải pháp tăng cường quản lý lễ hội từ góc độ quản lý di sản văn
hóa phi vật thể [53].
Tác giả Nguyễn Ngọc Thanh trong bài viết trên Tạp Trí Dân Tộc Số 4- 2005
có bài tổng hợp và nhận xét như sau: Lễ hội của các dân tộc Tày – Nùng có nhiều
điểm tương đồng so với lễ hội của các dân tộc khác cư trú trên đất nước Việt Nam.
Đó cũng là mơi trường góp phần quan trọng tạo nên điểm cộng mệnh và cộng cảm
của sức mạnh cộng đồng. Bởi lẽ, Lễ hội truyền thống của hai dân tộc Tày - Nùng
nảy sinh trên nền tảng nông nghiệp lúa nước. Tuy nhiên, cũng như các hiện tượng
văn hóa tinh thần khác, lễ hội của một dân tộc thường chịu sự tác động trực tiếp của
những điều kiện, lịch sử xã hội, kinh tế, địa lý. Do vậy, bên cạnh nét chung lễ hội
của các dân tộc này cịn có nhiều nét riêng mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc
mình[56].
Tác giả Minh Hịa bài viết trên trang điện tử Cao Bằng Online , ngày
14/10/2018 có bài viết : Người Tày - Nùng có nhiều tết quanh năm và lễ hội mang
đặc trưng của nền sản xuất nông nghiệp lúa nước như: Tết Nguyên đán, Tết đắp nọi
(có nghĩa là Nguyên đán nhỏ, dành cho những ai vì bận việc nước, việc quân chưa
về hưởng Tết Nguyên đán; cũng có ý là tiễn tháng Giêng qua, bước vào vụ mới);
Tết Thanh minh (ngày mùng 3 tháng ba âm lịch hằng năm); Tết Đoan ngọ (ngày
mùng 5 tháng năm âm lịch); Tết Khoăn vài (vía trâu, tổ chức ngày mùng 6 tháng
Sáu âm lịch là Tết thu vía, trả cơng cho trâu, bị và trẻ em mục đồng chăn thả coi
sóc trâu, bị sau vụ mùa cày cấy vất vả mọi bề đã hoàn thành); Tết Rằm tháng bảy
(Tết Trung nguyên), Tết Trung thu; Tết mừng cơm mới (Tết Trùng cửu, tổ chức vào


6

ngày 9 tháng Chín âm lịch); Tết Trùng thập (ngày 10 tháng mười âm lịch, tổ chức
sau khi hoàn tất mùa gặt, người ta làm bánh dày để ăn, có ý nghĩa rửa và trả cơng
cái nhíp cắt lúa); Tết Đơng chí, đúng vào ngày Đơng chí hằng năm, người Tày làm
bánh trơi, cịn gọi là phù nng (cng phù). Về Lễ hội, người Tày - Nùng có

những lễ hội: Lễ mừng thọ, lễ hội Lồng Tồng (còn gọi là lễ hội xuống đồng) để cầu
cúng thần Nông - vị thần cai quản ruộng đồng, vườn tược, gia súc, làng bản cho
được cây cối xanh tươi, mùa màng bội thu, gia súc sinh sôi, mọi người no ấm, bản
làng yên lành; Lễ hội Nàng Hai của dân tộc Tày - Nùng được bắt đầu vào tháng
Giêng và kéo dài đến trung tuần tháng Ba[83].
Tác giả Bích Hạnh bài viết trên trên trang dulich9.com, ngày 16/07/2019 có
bài viết: Những lễ hội đặc sắc của Tây Nguyên – Thời gian và địa điểm giới thiệu
khái quát các lễ hội lớn của đồng bào các dân tộc nơi đây như Lễ hội cồng chiêng ở
các tỉnh Đắk Lắk, Gia Lai, Lâm Đồng….; Lễ hội đua voi ở Buôn Đôn; Lễ mừng
cơm mới; Lễ tạ ơn cha mẹ.
Điểm qua một số các cơng trình nghiên cứu và sách nêu trên tác giả nhận định
hiện nay lễ hội là vấn đề đã được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm trên bình diện
chung về lý luận, mơ tả q trình chuẩn bị, diễn biến của từng lễ hội, tìm hiểu và
làm rõ các giá trị đa dạng của loại hình này trong nhiều cơng trình đã được công bố.
Những vấn đề về quản lý lễ hội cũng đã được một số tác giả quan tâm để chỉ ra thực
trạng chung trong công tác quản lý qua đó đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao
hiệu quả quản lý nhà nước, góp phần bảo tồn giá trị của lễ hội trong bối cảnh hiện
nay. Qua thực tế tiếp cận, nghiên cứu về Lễ hội VHDG Việt Bắc tại xã Eatam tác
giả luận văn nhận thấy hiện nay về công tác quản lý lễ hội chưa được đề cập một
cách cụ thể. Vì thế, qua đề tài nghiên cứu Lễ hội VHDG Việt Bắc tác giả mong
muốn hệ thống lại một cách khoa học, đúng yêu cầu về công tác quản lý lễ hội trong
thời đại mới.
Bên cạnh đó, các cơng trình đã nghiên cứu và cơng bố như đã nêu trên chỉ tập
trung nghiên cứu về lễ hội truyền thống người Việt và lễ hội các dân tộc Tày - Nùng
nói chung hiện nay trên cả nước, chưa có cơng trình nào nghiên cứu về cơng tác


7

quản lý “Lễ hội VHDG Việt Bắc” tại xã Eatam, huyện Krông Năng, tỉnh Đắk Lắk.

Do vậy, đề tài Nâng cao hiệu quả công tác quản lý Lễ hội văn hóa dân gian Việt
Bắc tại xã Eatam, huyện Krơng Năng, tỉnh Đắk Lắk của tác giả nghiên cứu không
trùng lắp với các cơng trình nghiên cứu và cơng bố trước đó.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là công tác quản lý Lễ hội VHDG Việt
Bắc tại xã EaTam, huyện Krông Năng, tỉnh Đắk Lắk hiện nay.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về không gian: Nghiên cứu Lễ hội VHDG Việt Bắc được tổ chức tại xã
Eatam, huyện Krông Năng, tỉnh Đắk Lắk.
- Về thời gian: Nghiên cứu công tác quản lý lễ hội từ năm 2009 đến nay và
chủ yếu là công tác quản lý lễ hội năm 2018, 2019 để tập trung tìm hiểu, phân tích
và so sánh làm rõ hơn nội dung nghiên cứu của đề tài.
5. Câu hỏi nghiên cứu và giả thuyết nghiên cứu
5.1. Câu hỏi nghiên cứu
- Lễ hội VHDG Việt Bắc tại Xã Eatam, Huyện Krông Năng, tỉnh Đắk Lắk
hiện nay đang được diễn ra như thế nào?
- Công tác quản lý Lễ hội VHDG Việt Bắc tại Xã Eatam, Huyện Krông Năng,
tỉnh Đắk Lắk hiện nay đang được thực hiện ra sao?
- Cần có những giải pháp nào để nâng cao cơng tác quản lý Lễ hội VHDG Việt
Bắc tại xã Eatam, huyện Krông Năng, tỉnh Đắk Lắk?
5.2. Giả thuyết nghiên cứu
Lễ hội VHDG Việt Bắc hiện nay đang được tổ chức với quy mô cấp xã được
đông đảo người dân địa phương hưởng ứng, tham gia. Với mục đích ban đầu của lễ
hội nhằm xây dựng một không gian sinh hoạt, giao lưu chung cho người dân địa
phương trong dịp lễ tết. Tuy nhiên, hiện nay lễ hội đã có nhiều nét biến đổi.
Trải qua 10 năm tổ chức, Lễ hội VHDG Việt Bắc luôn nhận được sự quan tâm
của các cấp chính quyền địa phương, đồng bào các dân tộc trên địa bàn xã ngày



8

càng tích cực tham gia các hoạt động của lễ hội, thông qua công tác tuyên truyền và
quảng bá trên nhiều phương tiện thơng tin trong và ngồi địa phương thu hút du
khách đến tham quan lễ hội mỗi năm ngày càng đông. Do vậy, công tác quản lý Lễ
hội VHDG Việt Bắc dần phát sinh nhiều vấn đề như: Khơng gian tổ chức cịn q
nhỏ so với quy mơ mở rộng các hoạt động lễ hội; Số lượng du khách tham gia tăng
thêm hàng năm dẫn đến tình trạng quá tải; Hiệu quả quản lý Nhà nước về công tác
văn hóa và quản lý lễ hội thơng qua pháp luật của địa phương còn thấp, chưa tạo
được hành lang pháp lý cho việc tổ chức lễ hội đạt hiệu quả cao; Cán bộ quản lý văn
hóa (nhất là ở cấp cơ sở) còn thiếu vế số lượng và yếu về chuyên môn nghiệp vụ,
chưa đáp ứng được những yêu cầu đặt ra trong công tác quản lý lễ hội của địa
phương dẫn tới chưa nắm bắt được hết nhu cầu của người dân khi tham gia lễ hội.
Để khắc phục những tồn tại và nâng cao hiệu quả công tác quản lý Lễ hội
VHDG Việt Bắc trong thời gian tới tác giả đưa ra các giải pháp phù hợp với định
hướng của Đảng, Nhà nước và tỉnh Đắk Lắk, cụ thể: Kiện toàn bộ máy và nâng cao
chất lượng cán bộ quản lý văn hóa, lễ hội; Đẩy mạnh các hoạt động tuyên truyền,
quảng bá giá trị lễ hội; Mở rộng xã hội hóa về cơng tác tổ chức; Tăng cường đầu tư
cơ sở vật chất, dịch vụ trong lễ hội; Nâng cao hoạt động thanh tra, kiểm tra xử lý
các vi phạm , có chính sách khen thưởng và chế tài hợp lý…Để giải quyết được các
giải pháp trên tác giả cho rằng yếu tố con người là quyết định nhất đối với công tác
quản lý lễ hội trong giai đoạn hiện nay.
6. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện được những mục tiêu nghiên cứu đề ra, tác giả sử dụng các
phương pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp tra cứu, sưu tầm tài liệu: đánh giá và chọn lọc các cơng trình

nghiên cứu về lễ hội, quản lý lễ hội, các báo cáo khoa học về lễ hội dân gian… vận
dụng vào thực hiện đề tài.
- Phương pháp khảo sát thực địa (từ tháng 02/2019 đến tháng 12/2019): Tác


giả điền dã đến địa bàn nghiên cứu để khảo sát, thu thập thông tin, tư liệu về thực
trạng và công tác quản lý Lễ hội VHDG Việt Bắc từ năm 2009 đến nay. Từ đó, đưa


9

ra nhận định khách quan về công tác quản lý Lễ hội VHDG Việt Bắc tại thời điểm
tác giả nghiên cứu đề tài. Tác giả cũng tiến hành 03 cuộc phỏng vấn sâu đối với
những người làm công tác quản lý nhà nước và người dân tham gia lễ hội (phịng
VH-TT huyện Krơng Năng, lãnh đạo UBND xã Eatam và Ban quản lý lễ hội ở địa
phương, người dân tham gia lễ hội) để có thêm nhiều thơng tin thực tế giúp so sánh
và phân tích sâu hơn về vấn đề nghiên cứu trong đề tài thực hiện.
- Phương pháp tổng hợp, phân tích đánh giá: Trên cơ sở tài liệu thứ cấp thu

thập được tác giả tổng hợp, phân tích và rút ra những kết luận trong việc đánh giá
thực trạng cơng tác quản lý lễ hội, từ đó đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả công
tác quản lý nhà nước đối với Lễ hội VHDG Việt Bắc trong thời gian tới.
- Phương pháp so sánh, đối chiếu: Trong q trình nghiên cứu về cơng tác

quản lý Lễ hội VHDG Việt Bắc từ khi được tổ chức cho đến nay tác giả sẽ so sánh
thực trạng công tác quản lý lễ hội qua các năm được thực hiện như thế nào, hiệu quả
ra sao, cần khắc phục để hồn thiện tốt hơn. Từ đó cho thấy rằng cơng tác quản lý
Lễ hội VHDG Việt Bắc tại xã Eatam, huyện Krông Năng, tỉnh Đắk Lắk là rất cấp
thiết và quan trọng.
Ngồi các phương pháp trên, trong luận văn cịn sử dụng phương pháp tiếp
cận liên ngành (quản lý văn hóa, sử học, du lịch học,...) để thực hiện các nhiệm vụ
do đề tài luận văn đặt ra.
7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
7.1. Ý nghĩa khoa học

Luận văn cung cấp một cái nhìn tồn diện về thực trạng công tác quản lý Lễ
hội VHDG Việt Bắc tại xã Eatam, huyện Krông Năng, tỉnh Đắk Lắk từ năm 2009
đến nay. Chỉ ra những mặt đã làm được và chưa làm được, những nguyên nhân và
hạn chế về công tác quản lý lễ hội. Từ đó, luận văn đề xuất một số giải pháp nhằm
nâng cao hiệu quả công tác quản lý Lễ hội VHDG Việt Bắc trong thời gian tới ngày
càng tốt hơn.
Luận văn là cơng trình nghiên cứu có hệ thống về lễ hội dân gian, góp thêm
nguồn tư liệu về công tác quản lý Lễ hội VHDG Việt Bắc tại xã Eatam.


10

Kết quả nghiên cứu của luận văn là tài liệu tham khảo cho Ban quản lý lễ hội,
Ban lãnh đạo Xã và Phịng VHTT huyện Krơng Năng. Đây cịn là cơ sở tư liệu
tham khảo cho các tác giả sau này nghiên cứu về Lễ hội VHDG Việt Bắc tại xã
Eatam.
7.2. Ý nghĩa thực tiễn
Từ những kết quả nghiên cứu giúp chúng ta nhận diện được rõ hơn thực trạng
quản lý nhà nước trong hoạt động lễ hội, là tư liệu tham khảo giúp các nhà quản lý
hoạch định chính sách, cơ chế, biện pháp thực hiện tốt công tác quản lý nhà nước
trong hoạt động lễ hội nhằm bảo tồn và phát huy giá trị của lễ hội, góp phần phát
triển kinh tế - xã hội của địa phương.
8. Bố cục luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, luận văn gồm
có 03 chương, cụ thể như sau:
Chương 1. Cơ sở lý luận và thực tiễn của đề tài
Nội dung Chương 1, tác giả trình bày cụ thể các khái niệm có liên quan đến đề
tài nghiên cứu; nêu quan điểm của Đảng, Nhà nước Việt Nam về văn hóa và quản lý
lễ hội; Trình bày nội dung và cơ quan quản lý nhà nước về lễ hội; Tổng quan về địa
bàn nghiên cứu và Lễ hội VHDG Việt Bắc, đánh giá các giá trị mà lễ hội mang đến

cho đời sống người dân địa phương.
Chương 2. Công tác quản lý Lễ hội văn hóa dân gian Việt Bắc tại xã
Eatam, huyện Krơng Năng, tỉnh Đắk Lắk
Trong Chương 2, tác giả trình bày chi tiết về thực trạng công tác quản lý Lễ
hội VHDG Việt Bắc hiện nay đang diễn ra như thế nào và được thực hiện ra sao qua
các nội dung nghiên cứu: Xây dựng tổ chức bộ máy quản lý lễ hội( xác định được
chủ thể quản lý lễ hội); Ban hành và chỉ đạo thực hiện các văn bản quản lý nhà nước
về lễ hội; Chỉ đạo tổ chức lễ hội; Công tác tuyên truyền, quảng bá cho lễ hội; Quản
lý các nguồn lực phục vụ lễ hội; Công tác đảm bảo an ninh trật tự, vệ sinh môi
trường, an tồn thực phẩm; Cơng tác kiểm tra, giám sát các hoạt động lễ hội. Qua
phân tích, đánh giá thực trạng công tác quản lý và tổ chức Lễ hội VHDG Việt Bắc


11

tại xã Eatam, nêu lên những mặt làm được, những mặt chưa làm được trong công
tác quản lý lễ hội hiện nay; Nguyên nhân. Từ đó, đưa ra những khuyến nghị và giải
pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác quản lý lễ hội trong thời gian tới.
Chương 3. Giải pháp nâng cao hiệu quả công tác quản lý Lễ hội văn hóa
dân gian Việt Bắc tại xã Eatam, huyện Krông Năng, tỉnh Đắk Lắk

Từ thực trạng và những tồn tại, bất cập được trình bày ở chương 2 tác
giả đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác quản lý Lễ hội
VHDG Việt Bắc tại xã Eatam ngày càng tốt và hoàn thiện hơn.


12

Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI

1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1. Các khái niệm liên quan
* Lễ hội
Lễ hội ra đời từ sinh hoạt văn hóa mang dấu ấn cộng đồng đậm nét, là một bộ
phận quan trọng trong kho tàng di sản văn hóa Việt Nam, là nét đẹp được hình
thành từ bao đời nay nhằm thỏa mãn nhu cầu hướng về cội nguồn, sự kiện lịch sử,
các nhân vật lịch sử đã có cơng dựng nước và giữ nước.
Cụm từ “Lễ hội” vốn được ghép bởi hai từ Hán - Việt đó là Lễ và Hội, do vậy
lễ hội thường có hai phần, phần lễ và phần hội. Lễ và Hội là một thể thống nhất
khơng thể tách rời. Lễ là phần tín ngưỡng (tế, rước), là phần đầu tiên khi tiến hành
lễ hội. Lễ là cốt lõi, là phần quan trọng nhất mang tính thiêng liêng tơn kính, là nghi
lễ thờ cúng thần, thánh được coi là linh hồn của lễ hội. Hội là các hiện tượng sinh
hoạt văn hóa cộng đồng, nảy sinh, tích hợp và bảo lưu trong mơi trường tín ngưỡng
tơn giáo, nếu mơi trường tín ngưỡng tơn giáo bị loại bỏ thì bản thân các sinh hoạt
văn hóa cũng không thể tồn tại[1].
Trong cuốn Kho tàng lễ hội cồ truyền Việt Nam do nhóm tác giả Nguyễn Chí
Bền, Trần Lâm Biền, Bùi Khởi Giang viết năm 2000 đã quan niệm về lễ hội như
sau: Lễ hội là một hoạt động sinh hoạt cộng đồng, một nét đặc trưng của đời sống
tâm linh, phản ánh phong tục tập quán của người dân Việt Nam. Lễ và Hội là một
tổng thể thống nhất khơng thể chia tách. Lễ là phần tín ngưỡng, là phần thế giới tâm
linh sâu lắng nhất của con người, là phần đạo. Hội là phần tập hợp vui chơi, giải trí,
là đời sống văn hóa thường nhật, phần đời của mỗi người, của cộng đồng. Hội gắn
liền với lễ và chịu sự quy định nhất định của lễ, có lễ mới có hội [20, tr.32].
Tác giả Đồn Văn Chúc lý giải lễ hội như sau: Lễ (cuộc lễ) là sự bày tỏ kính ý
đối với một sự kiện xã hội hay tự nhiên, tưởng tượng hay có thật, đã qua hay hiện
tại, được thực hành theo nghi điểm rộng lớn và theo phương thức thẩm mỹ, tùy


13


thuộc cấp nhóm xã hội có nhiệm vụ cử hành, nhằm biểu hiện giá trị của đối tượng
được cử lễ. Hội là cuộc vui chơi với vô số hoạt động giải trí cơng cộng, diễn ra tại
một địa điểm nhất định vào dịp lễ kỷ niệm một sự kiện tự nhiên, xã hội nhằm diễn
đạt sự phấn khích, hoan hỉ của công chúng dự lễ [23, tr.132].
Theo tác giả Ngô Đức Thịnh, “Lễ hội là một trong những hiện tượng sinh hoạt
văn hóa cổ truyền tiêu biểu của nhiều tộc người ở nước ta cũng như trên thế giới.
Nó là tấm gương phản chiếu khá trung thực đời sống văn hóa của mỗi dân tộc”[61,
tr.7 ].
Tác giả Vũ Ngọc Khánh cho rằng: “Lễ hội cũng gọi là hội lễ, là hình thức sinh
hoạt văn hóa xã hội của một tập thể, một tổ chức thuộc giới, nghề, ngành hoặc tôn
giáo trong phạm vi một địa phương hoặc trong cả nước”[39, tr.79].
Như vậy về cơ bản, các nhà nhà nghiên cứu đã đưa ra rất nhiều cách diễn đạt
khác nhau về lễ hội nhưng tất cả đều khẳng định lễ hội là sự kiện văn hóa được tổ
chức mang tính cộng đồng, bao gồm phần lễ và phần hội. Phần lễ là hệ thống những
hành vi, nghi thức, tác động nhằm biểu hiện sự tơn kính với thần linh, phản ánh ước
mơ chính đáng của một cộng đồng. Phần hội là hoạt động tập thể liên quan đến tín
ngưỡng chung của cộng đồng; Hội là sinh hoạt văn hóa, tơn giáo, nghệ thuật của
cộng đồng xuất phát từ nhu cầu cuộc sống.
Từ các khái niệm đã nêu của một số nhà nghiên cứu đi trước, tác giả có kế
thừa và đưa ra quan niệm về lễ hội như sau: Lễ hội là dịp tập hợp một nhóm cộng
đồng cư dân nhất định, ở một không gian cụ thể, trước là để thực hành các nghi
thức, nghi lễ, sau là cùng nhau vui chơi trong các hoạt động hội mang đặc trưng
vùng miền.
* Lễ hội dân gian
Lễ hội dân gian, một trong những loại hình sinh hoạt văn hóa dân gian đặc
trưng mang tính tổng hợp cao về phong tục tập quán, tơn giáo tính ngưỡng, văn học
nghệ thuật, các chi thức khoa học kỹ thuật, thế giới quan, nhân sinh quan, cho tới lối
sống, cách sống….thể hiện tập trung qua các dạng thức sinh hoạt Lễ và Hội do nhân
dân tiến hành tại một địa phương, đơn vị ở vào một thời điểm nhất định nào đó. Lễ



14

hội dân gian là loại hình sinh hoạt cộng đồng có nguồn gốc từ trước và trong xã hội
nơng nghiệp cổ truyền nhưng cho đến nay lễ hội dân gian vẫn được xem là sự tập
hợp, nâng cao các hoạt động văn hóa dân gian mang tính tập trung, nổi bật nhất
trong đời sống văn hóa của các tộc người mà qua đó mọi khía cạnh giao tiếp văn
hóa dân tộc có thể được thể hiện rõ rệt. Lễ hội dân gian là hình thức sinh hoạt văn
hóa rất phổ biến, nổi bật của con người được diễn ra dưới nhiều hình thức hoạt động
nhằm phục vụ lợi ích của con người, thỏa mãn nhu cầu về văn hóa tinh thần của một
nhóm người hay của một cộng đồng dân cư nhất định với nhiều mục đích khác
nhau[58, tr 5].
Tác giả Đinh Gia Khánh cho rằng: Lễ hội dân gian là điểm nhấn quan trọng, là
mảng màu đặc sắc thể hiện tập trung và đa dạng những nét tinh hoa văn hóa của
cộng đồng. Lễ hội dân gian đã trải qua nhiều thăng trầm cùng với lịch sử dân tộc, có
thời kỳ bị mờ nhạt, bị thay đổi hình thức, nội dung, thậm chí khơng ít lễ hội đã
khơng cịn được tổ chức nữa, song trong khoảng hơn hai thập kỷ qua, chúng ta đã
chứng kiến sự trở lại sôi nổi của những lễ hội dân gian và lễ hội dân gian trở thành
nét văn hóa nổi bật trong đời sống văn hóa Việt Nam đương đại. Lễ hội dân gian
với những đặc điểm như sự phong phú, đa dạng, sự chồng xếp nhiều màu sắc văn
hóa, nhiều hệ thống biểu tượng, sự hòa hợp, thăng hoa, sự hội tụ tính thiêng với tính
nghệ thuật, tính nghi thức với những giá trị như cố kết cộng đồng, hướng về nguồn
cội, cân bằng đời sống tâm linh, sáng tạo và hưởng thụ văn hóa, thẩm mỹ, bảo tồn
và phát huy bản sắc dân tộc…đã trở thành điều không thể thiếu trong cuộc sống
cộng đồng[37].
Cũng theo tác giả Nguyễn Thị Phương Châm: Lễ hội dân gian vốn là thuật
ngữ được dùng để chỉ những lễ hội của dân chúng, trong đó phổ biến nhất là những
lễ hội ở các làng quê do những người dân quê tổ chức nhằm đáp ứng nhu cầu hưởng
thụ văn hố và tín ngưỡng của họ. Chính vì vậy, lễ hội dân gian cịn được xem là
hội làng và có nhiều tên gọi khác nữa như: lễ hội làng, lễ hội truyền thống, lễ hội cổ

truyền…những khái niệm này khơng hẳn là giống nhau hồn tồn về nội hàm. Có
thể hiểu lễ hội dân gian là sản phẩm văn hóa quần chúng của một cộng đồng (phổ


15

biến là cộng đồng làng hay nhiều làng) cùng thờ một vị thần nào đó vào một thời
gian nhất định trong năm, ở một địa điểm cụ thể người ta tiến hành những nghi thức
thờ phụng tập thể như tế, lễ, rước, sau đó là các hoạt động vui chơi, ăn uống nhằm
cố kết cộng đồng, giải tỏa căng thẳng, củng cố niềm tin và sức mạnh cho mỗi thành
viên. Lễ hội dân gian ở mỗi vùng miền, mỗi tộc người có những sự khác nhau tạo
nên một bức tranh lễ hội đa màu sắc của xã hội Việt Nam đương đại[21, tr 53].
Thông tư số 15/2015/TT-BVHTTDL của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã
khái niệm: “Lễ hội dân gian là lễ hội được tổ chức nhằm tôn vinh người có cơng với
nước với cộng đồng; thờ cúng thần thánh, biểu tượng có tính truyền thống và các
hoạt động tín ngưỡng dân gian khác tiêu biểu cho những giá trị đẹp về truyền thống
lịch sử, văn hóa, đạo đức xã hội”[17].
Nhìn chung, có rất nhiều quan niệm khác nhau về lễ hội văn hóa dân gian tùy
vào cách tiếp cận theo khía cạnh nào, phương thức nào của người nghiên cứu. Tuy
nhiên, có thể hiểu: lễ hội dân gian là lễ hội được sáng tạo và lưu truyền theo phương
thức dân gian, có từ lâu đời, tồn tại cho đến ngày nay hoặc được phục dựng lại,
được truyền lại trong các cộng đồng dân cư với tư cách là phong tục, tập quán.
* Quản lý
Trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, con người muốn tồn tại và phát triển
đều phải tuân thủ và chịu một sự quản lý nào đó. Hoạt động quản lý bắt nguồn từ sự
phân công, hợp tác lao động, nảy sinh khi cần có nỗ lực tập thể để thực hiện mục
tiêu chung. Quản lý diễn ra ở mọi tổ chức từ phạm vi nhỏ đến lớn, từ đơn giản đến
phức tạp. Trình độ xã hội hóa càng cao thì u cầu quản lý càng cao và vai trò của
quản lý càng tăng lên.
Thuật ngữ quản lý có nhiều cách hiểu khác nhau. Theo nghĩa rộng, quản lý là

hoạt động có mục đích của con người. Theo nghĩa hẹp, quản lý là sự sắp đặt, trông
nom công việc. Theo nghĩa thông thường, phổ biến nhất: “Quản lý là hoạt động tác
động một cách có tổ chức và định hướng của chủ thể quản lý vào một đối tượng để
điều chỉnh các quá trình phát triển xã hội và hành vi của con người, nhằm duy trì
tính ổn định và phát triển đối tượng theo những mục tiêu đề ra”[43, tr.5].


16

Trong quá trình quản lý, chủ thể tiến hành các hoạt động cơ bản như: xác định
mục tiêu, chủ trương, chính sách, kế hoạch, tổ chức thực hiện, điều chỉnh các hoạt
động để thực hiện các mục tiêu đề ra. Trong đó, mục tiêu quan trọng nhất là nhằm
tạo ra môi trường, điều kiện cho sự phát triển của đối tượng quản lý.
Về khái niệm quản lý, tác giả Cao Đức Hải quan niệm: “Quản lý là hoạt động
hay tác động có định hướng, có chủ định của chủ thể quản lý đến khách thể quản lý
trong một tổ chức nhằm làm cho tổ chức vận hành và đạt được mục đích của tổ
chức” [30].
Sách Hán Việt từ điển hiện đại cho rằng: “Quản lý là sự trông nom, coi sóc,
quản thúc, bó buộc ai đó theo một khn mẫu, quy định, nguyên tắc, luật pháp đã
đề ra”[41, tr.489].
Thuật ngữ quản lý ở nước ta cũng thường được hiểu là sự lãnh đạo, điều hành,
giám sát của con người hoặc tổ chức cấp trên đối với người hoặc tổ chức cấp dưới.
Mọi hoạt động quản lý đều do năm yếu tố cơ bản sau cấu thành:
- Chủ thể quản lý

: do ai quản lý ?

- Khách thể quản lý

: quản lý cái gì ?


- Mục đích quản lý

: quản lý vì cái gì ?

- Mơi trường và điều kiện tổ chức: quản lý trong hoàn cảnh nào ?
- Biện pháp quản lý

: quản lý bằng cách nào ?[29, tr.23].

Tóm lại, có thể hiểu quản lý là một hoạt động có chủ đích, là sự tác động liên
tục của chủ thể quản lý đến khách thể quản lý về nhiều mặt bằng một hệ thống luật
lệ, chính sách, nguyên tắc và phương pháp cụ thể nhằm thực hiện các mục tiêu xác
định. Trong quá trình quản lý, chủ thể tiến hành các hoạt động cơ bản như: xác định
mục tiêu, chủ trương, chính sách, kế hoạch, tổ chức thực hiện, điều chỉnh hoạt động
để thực hiện các mục tiêu đề ra. Trong đó, mục tiêu quan trọng nhất là nhằm tạo ra
môi trường, điều kiện cho sự phát triển của đối tượng quản lý.
* Quản lý Nhà nước
Quản lý nhà nước là quản lý xã hội mang tính quyền lực nhà nước, sử dụng
quyền lực nhà nước, các văn bản luật để điều chỉnh các quan hệ xã hội chủ yếu và


17

quan trọng của con người. Điểm khác nhau cơ bản giữa quản lý nhà nước và quản
lý khác (ví dụ: quản lý các doanh nghiệp nhà nước,…) là tính quyền lực nhà nước
gắn liền với cưỡng chế nhà nước khi cần. Quản lý nhà nước được thực hiện bởi toàn
bộ hoạt động của cơ quan trong bộ máy nhà nước.
Về khái niệm quản lý nhà nước, tác giả sách Luật hành chính viết: Quản lý
nhà nước là sự tác động có tổ chức và điểu chỉnh bằng quyền lực nhà nước đối với

quá trình xã hội và hành vi hoạt động của công dân do các cơ quan nhà nước hành
pháp từ Trung ương đến cơ sở tiến hành để thực hiện những chức năng và nhiệm vụ
của nhà nước, phát triển các mối quan hệ xã hội, duy trì trật tự an ninh, thỏa mãn
những nhu cầu hằng ngày của nhân dân[34, tr.19].
Giáo trình trung cấp lý luận chính trị - hành chính (2017), những vấn đề cơ
bản về Quản lý hành chính nhà nước, Nxb Lý luận chính trị, nêu khái niệm về quản
lý nhà nước như sau: Quản lý nhà nước là hoạt động thực thi quyền lực nhà nước do
các cơ quan nhà nước tiến hành đối với tất cả mọi cá nhân và tổ chức trong xã hội,
tất cả mọi mặt của đời sống xã hội bằng cách sử dụng quyền lực nhà nước có tính
cưỡng chế đơn phương nhằm mục tiêu phục vụ lợi ích chung của cả cộng đồng, duy
trì ổn định, an ninh trật tự và thúc đẩy phát triển xã hội theo định hướng thống nhất
của nhà nước[29].
* Quản lý Nhà nước về văn hóa và lễ hội
Theo tác giả Bùi Hồi Sơn thì: Quản lý di sản nói chung, lễ hội nói riêng là
cơng việc của Nhà nước được thực hiện thông qua việc ban hành, tổ chức thực hiện,
kiểm tra và giám sát việc thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về lễ hội truyền
thống nhằm mục đích bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa của lễ hội được
cộng đồng coi trọng, đồng thời nhằm góp phần phát triển kinh tế, xã hội của từng
địa phương nói riêng, cả nước nói chung [53, tr.15].
Quản lý văn hóa cịn được hiểu là sự tác động chủ quan bằng nhiều hình thức,
phương pháp của chủ thể quản lý đối với khách thể nhằm đạt được mục tiêu mong
muốn. Quản lý văn hóa bao gồm những nội dung chính:
- Xác lập quan điểm chủ đạo (hệ tư tưởng chính trị, kinh tế, xã hội, đạo đức…)


18

những nguyên tác cơ bản xây dựng và phát triển văn hóa là cơ sở xác lập nội dung
và phương thức quản lý văn hóa …
- Bộ máy tổ chức, cán bộ thực hiện chức năng quản lý văn hóa từ Trung ương

đến địa phương và theo lĩnh vực.
- Cơ chế phối hợp liên ngành.
- Hệ thống pháp luật.
- Hệ thống chính sách trên từng lĩnh vực và theo địa bàn lãnh thổ.
- Công tác giám sát, kiểm tra, khen thưởng và xử lý vi phạm[29, tr.26].
Quản lý nhà nước về văn hóa là sự tác động liên tục, có tổ chức, có chủ đích
của nhà nước bằng hệ thống pháp luật và bộ máy của mình, nhằm phát triển văn
hóa, điều chỉnh hoạt động của mọi cơ quan, tổ chức, cá nhân trong lĩnh vực văn hóa
và liên quan, với mục đích giữ gìn và phát huy những giá trị văn hóa truyền thống
Việt Nam, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, góp phần nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho
nhân dân. Quản lý nhà nước về văn hóa là sự lãnh đạo, điều hành, kiểm soát của các
cơ quan văn hóa đối với các lĩnh vực được quy định, trong đó có quản lý lễ hội.
Quản lý nhà nước về lễ hội được hiểu là quá trình sử dụng các cơng cụ quản lý
như: chính sách, pháp luật, tổ chức bộ máy vận hành, các nguồn lực…để kiểm soát,
can thiệp vào các hoạt động của lễ hội bằng các phương thức tổ chức thực hiện như:
thanh tra, kiểm tra, giám sát nhằm duy trì việc thực hiện hệ thống chính sách, hệ
thống các văn bản pháp quy, chế tài của nhà nước đã ban hành nhằm mục đích duy
trì, bảo tồn và phát triển lễ hội theo đúng định hướng của Đảng và Nhà nước.
Quản lý nhà nước đối với lễ hội là quản lý di sản văn hóa phi vật thể của dân
tộc. Quản lý lễ hội là một lĩnh vực cụ thể của quản lý văn hóa.
Quản lý nhà nước về lễ hội theo tác giả Đinh Thị Minh Tuyết: “ Là làm cho lễ
hội được vận hành theo đúng quy luật của văn hóa, nội dung của tế lễ phải phù hợp
với truyền thống tốt đẹp của dân tộc, nội dung của phần hội phải phù hợp và mang
lại lợi ích sinh hoạt cho cộng đồng hiện tại”[62].
Quản lý lễ hội là quản lý nhà nước đối với hoạt động của lễ hội nhằm nghiên


19


cứu, xây dựng, củng cố, hồn thiện hệ thống chính sách, luật pháp có liên quan và
can thiệp bằng các cơng cụ này để phù hợp với đường lối, chính sách của Đảng,
Nhà nước và hệ thống pháp luật hiện hành, làm cho lễ hội vận hành theo đúng quy
luật của văn hóa, mang lại lợi ích cho cộng đồng.
Quản lý lễ hội là tạo điều kiện cho lễ hội phát triển theo đúng định hướng phát
triển của đất nước và phù hợp với quy luật của thời đại. Quản lý lễ hội là nhu cầu
khách quan để lễ hội phát triển.
Quản lý nhà nước đối với lễ hội giúp cho chính quyền các cấp thực hiện được
các khâu cơng việc thuộc về tổ chức như: thiết lập, hoàn thiện hệ thống tổ chức bộ
máy từ Trung ương đến địa phương, bố trí, đào tạo, bồi dưỡng nhân sự, đầu tư
phương tiện làm việc phục vụ và thúc đẩy công tác bảo tồn, phát huy giá trị của lễ
hội.
Quản lý nhà nước đối với lễ hội là điều kiện quan trọng nhất trong việc tổ
chức sử dụng, phát huy các nguồn lực, nhất là nguồn lực về tài chính và các nguồn
lực vật chất, tinh thần từ lễ hội mang lại cho xã hội.
Quản lý nhà nước đối với lễ hội là chỉ đạo, xây dựng phương án tối ưu để thực
hiện sự phối hợp giữa các đơn vị chức năng, các đơn vị liên quan nhằm thực hiện
tốt công tác quản lý, thực hiện kiểm tra, đánh giá, báo cáo, tổng kết đối với lễ hội.
1.1.2. Quan điểm của Đảng, Nhà nước về văn hóa và quản lý lễ hội
Lễ hội là hoạt động văn hóa xã hội mang tính tổng thể của một cộng đồng
người, là hình thức thể hiện bản sắc văn hóa dân tộc, là nơi bảo lưu và phát triển
bản sắc văn hóa từ thế hệ này sang thế hệ khác. Hơn nữa, lễ hội cũng là nơi thể hiện
tính cố kết cộng đồng rất cao, tăng cường mối quan hệ xã hội; Đồng thời lễ hội cũng
là mơi trường văn hóa, nơi vui chơi, giải trí, thể hiện lịng thành kính của nhân dân
với thần linh qua đó con người thu nạp những năng lượng mới để tái tạo lại sức lao
động và sản xuất sau những ngày lao động vất vả.
Xuất phát từ thực tiễn đó mà Đảng và Nhà nước ta ln quan tâm tới cơng tác
tổ chức, quản lý văn hóa nói chung và lễ hội nói riêng, lễ hội đã mang lại những giá
trị văn hóa tích cực cho cộng đồng, góp phần vào cơng cuộc xây dựng nền “văn hóa



20

Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”. Do vậy, việc gìn giữ, bảo tồn, phát huy
các giá trị của di sản văn hóa dân tộc ln ln là nhiệm vụ, mục tiêu quan trọng
hàng đầu của Đảng và Nhà nước. Các cấp, các ngành từ Trung ương đến cơ sở cần
có sự quan tâm trong sự nghiệp phát triển văn hóa nước nhà. Bởi văn hóa là nền
tảng tư tưởng, tinh thần, là động lực góp phần không nhỏ và việc thúc đẩy sự phát
triển của các lĩnh vực khác trong đời sống xã hội.
Việc xây dựng các cơ sở pháp lý làm căn cứ cho công tác quản lý văn hóa và
di sản văn hóa là nhiệm vụ quan trọng được Đảng và Nhà nước ta quan tâm đặt lên
hàng đầu. Kế thừa và tiếp thu tư tưởng lớn về văn hóa của Chủ tịch Hồ Chí Minh,
qua từng thời kỳ trong lịch sử của dân tộc, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều
chính sách, thông tư, quy định và các văn bản pháp lý trong lĩnh vực này.
 Quan điểm của Đảng và Nhà nước về phát triển văn hóa Việt Nam
Trong Đề cương văn hóa Việt Nam năm 1943 của tác giả Trường Chinh được
coi là văn bản mang tính pháp lý đầu tiên liên quan và có ảnh hưởng sâu sắc đến
cơng tác quản lý văn hóa nói chung, lễ hội nói riêng ở nước ta. Đề cương văn hóa
với ba nguyên tắc cơ bản (dân tộc hóa, khoa học hóa, đại chúng hóa) đã làm kim chỉ
nam cho cơng tác xây dựng, phát triển và quản lý văn hóa của Đảng và Nhà nước
trong nhiều năm. Quan điểm của Đảng tại thời điểm này thể hiện, việc tổ chức lễ
hội truyền thống phải đảm bảo mục đích củng cố sự đoàn kết dân tộc, nêu cao tinh
thần đấu tranh, anh hùng của tổ tiên để nuôi dưỡng tinh thần yêu nước của nhân
dân.
Nhiệm vụ văn hóa ln được Đảng và Nhà nước ta coi trọng và quan tâm qua
nhiều kỳ họp, hội nghị như Hội nghị Văn hóa tồn quốc lần thứ nhất vào tháng
11/1946 ở Hà Nội. Tại Hội nghị này, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu rõ nhiệm vụ của
nền văn hóa mới là: “Phải lấy hạnh phúc của đồng bào, lấy sự nghiệp đấu tranh của
dân tộc làm nội dung phản ánh, đồng thời phải biết tiếp thu những kinh nghiệm quý
báu của nền văn hóa Việt Nam mới với ba tính chất dân tộc, khoa học và đại

chúng”.
Cơng tác quản lý văn hóa đối với lễ hội truyền thống trong những năm 50 của


21

thế kỷ XX tiếp tục được Đảng ta quan tâm thông qua các thông tư hướng dẫn như:
Thông tư số 1845 VH/TT ngày 20/10/1956 về việc tổchức những ngày hội hè của
nhân dân; Thông tư 785 VT/TT ngày 08/07/1957 về việc lãnh đạo ngày hội của
nhân dân nhấn mạnh đến việc phục hồi lễ hội.
Thông qua các kỳ Đại hội, Đảng ta ln khẳng định vai trị của văn hóa đối
với đời sống xã hội. Vì vậy, tại Đại hội Đảng lần thứ III (tháng 9 năm 1960) và Đại
hội Đảng lần IV (tháng 12 năm 1976) của Đảng đã tiếp tục khẳng định: Tiến hành
đồng thời ba cuộc cách mạng, trong đó tập trung “Xây dựng nền văn hóa mới, con
người mới xã hội chủ nghĩa”.
Đến thời kỳ Đổi mới của đất nước, với tư duy đổi mới toàn diện, Đảng đã chủ
trương đổi mới tư duy trên lĩnh vực văn hóa. Tháng 11 năm 1987, Bộ Chính trị đã
ban hành Nghị quyết số 05 về văn hóa – văn nghệ trong cơ chế thị trường và những
chỉ thị quan trọng về đổi mới và nâng cao chất lượng phê bình văn học – nghệ thuật,
cơng tác quản lý văn học - nghệ thuật và một số nhiệm vụ văn hóa – văn nghệ.
Cũng tại Hội nghị Trung ương 5 (Khóa VIII) diễn ra vào tháng 7 năm 1998,
Đảng ra nghị quyết về Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm
đà bản sắc dân tộc, khẳng định vai trị của văn hóa trong tiến trình lịch sử dân tộc và
tương lai đất nước “Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa
là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội”.
Được Quốc hội khóa X, kỳ họp thứ IX thông qua ngày 14/06/2001, Luật Di
sản văn hóa có hiệu lực từ ngày 01/01/2002 là cơ sở pháp lý cao nhất nhằm bảo tồn,
phát huy giá trị di sản văn hóa nói chung, lễ hội nói riêng. Năm 2009, Quốc hội đã
thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Di sản văn hóa. Tại Điều 25
của Luật này quy định Nhà nước tạo điều kiện duy trì và phát huy giá trị văn hóa

của lễ hội truyền thống thơng qua các biện pháp sau đây: Tạo điều kiện thuận lợi
cho việc tổ chức lễ hội; Khuyến khích việc tổ chức hoạt động văn hóa, văn nghệ dân
gian truyền thống gắn với lễ hội; Phục dựng có chọn lọc nghi thức lễ hội truyền
thống; Khuyến khích việc hướng dẫn, phổ biến rộng rãi ở trong nước và nước ngoài
về nguồn gốc, nội dung giá trị truyền thống tiêu biểu, độc đáo của lễ hội.


22

Cùng với việc đổi mới tư duy về văn hóa và hưởng ứng chủ trương của
UNESSCO, Ðảng và Nhà nước ta đã có các chủ trương để xây dựng và phát triển
nền văn hóa. Trong q trình xây dựng và phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc, bảo tồn nhiều lễ hội dân gian truyền thống. Nghị quyết Hội nghị
Trung ương 9 khóa XI về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp
ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước đã đề ra quan điểm, nhiệm vụ, giải pháp
cơ bản cho việc xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu
cầu phát triển bền vững đất nước:
- Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu, động lực phát triển
bền vững đất nước. Văn hóa phải được đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị, xã
hội.
- Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, thống
nhất trong đa dạng của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, với các đặc trưng dân tộc,
nhân văn, dân chủ và khoa học.
- Phát triển văn hóa vì sự hoàn thiện nhân cách con người và xây dựng con
người để phát triển văn hóa. Trong xây dựng văn hóa, trọng tâm là chăm lo xây
dựng con người có nhân cách, lối sống tốt đẹp, với các đặc tính cơ bản: u nước,
nhân ái, nghĩa tình, trung thực, đồn kết, cần cù, sáng tạo.
- Xây dựng đồng bộ môi trường văn hóa, trong đó chú trọng vai trị của gia
đình, cộng đồng. Phát triển hài hòa giữa kinh tế và văn hóa; cần chú ý đầy đủ đến
yếu tố văn hóa và con người trong phát triển.

- Xây dựng và phát triển văn hóa là sự nghiệp của tồn dân do Đảng lãnh đạo,
Nhà nước quản lý, nhân dân là chủ thể sáng tạo, đội ngũ trí thức giữ vai trị quan
trọng[80].
Chiến lược phát triển văn hóa đến năm 2020 ban hành kèm theo Quyết định số
581/QĐ-TTg ngày 6-5-2009 của Thủ tướng Chính phủ đã xác định mục tiêu và
nhiệm vụ phát triển văn hóa đến năm 2020 như sau:
Một là, hướng mọi hoạt động văn hóa vào xây dựng con người Việt Nam phát
triển tồn diện về chính trị, tư tưởng, trí tuệ, đạo đức, thể chất, năng lực sáng tạo,


×