MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
1.Tính cấp thiết của đề tài ................................................................................. 1
2. Mục đích nghiên cứu ..................................................................................... 2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu................................................................. 2
4. Câu hỏi và giả thuyết nghiên cứu.................................................................. 2
5. Phương pháp nghiên cứu............................................................................... 3
6. Tổng quan tình hình nghiên cứu ................................................................... 4
7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn....................................................................... 9
8. Bố cục luận văn ............................................................................................. 9
Chương 1 ......................................................................................................... 11
CƠ SỞ LÝ LUẬN ........................................................................................... 11
1.1. Cơ sở lý luận ............................................................................................ 11
1.1.1. Một số khái niệm liên quan................................................................ 11
1.1.2. Lý thuyết tiếp cận của luận văn ......................................................... 16
1.2. Tổng quan về vùng đất Cà Mau ............................................................... 18
1.2.1. Vị trí địa lý, mơi trường và đặc điểm cư trú ...................................... 18
1.2.2. Các hoạt động kinh tế, văn hoá – xã hội ............................................ 21
Tiểu kết chương 1............................................................................................ 28
Chương 2 ......................................................................................................... 29
BÁC BA PHI VÀ HỆ THỐNG TRUYỆN KỂ BÁC BA PHI ....................... 29
2.1. Nhân vật bác Ba Phi ................................................................................. 29
2.2. Diện mạo Truyện kể bác Ba Phi .............................................................. 32
2.2.1. Bối cảnh trong Truyện kể bác Ba Phi ................................................ 32
2.2.2. Hệ thống Truyện kể bác Ba Phi ......................................................... 54
Tiểu kết chương 2............................................................................................ 65
Chương 3 ......................................................................................................... 66
GIÁ TRỊ VÀ SỨC SỐNG CỦA TRUYỆN KỂ BÁC BA PHI ...................... 66
3.1. Giá trị của Truyện kể bác Ba Phi ............................................................. 66
3.1.1. Giá trị lịch sử...................................................................................... 66
3.1.2. Giá trị văn hóa .................................................................................... 70
3.1.3. Giá trị xã hội ...................................................................................... 75
3.2. Sức sống của Truyện kể bác Ba Phi ......................................................... 78
3.2.1. Trong văn học dân gian Nam bộ ........................................................ 78
3.2.2. Trong đời sống người dân Cà Mau .................................................... 79
3.3. Vấn đề bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể ................. 80
3.3.1. Cơ sở pháp lý của Đảng và Nhà nước ............................................... 80
3.3.2. Nỗ lực của địa phương ....................................................................... 82
Tiểu kết chương 3............................................................................................ 85
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 86
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................... 88
PHỤ LỤC ........................................................................................................ 92
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Di sản văn hóa chính là bằng chứng xác thực và hùng hồn nhất về đặc
trưng văn hóa của từng dân tộc, từng quốc gia trong từng giai đoạn lịch sử
nhất định. Di sản văn hóa là tài sản vơ giá, thể hiện những giá trị, nét văn
hóa đặc trưng của mỗi dân tộc, mỗi cộng đồng. “Truyện trạng” là sản phẩm
vô giá, loại hình văn hóa dân gian, giữ một vai trị quan trọng trong đời
sống văn hóa tinh thần của cộng đồng người Việt. Trong suốt quá trình
khai hoang, người dân vùng đất cuối trời Tổ quốc - vùng đất Cà Mau đã
đương đầu với những thử thách đầy gian khổ, nhằm ổn định cuộc sống ở vùng
đất mới. Bên cạnh sự phát triển về kinh tế, người dân nơi đây đã sáng tạo ra
những giá trị văn hóa dân gian đầy màu sắc mới lạ, góp phần vào đặc trưng
văn hóa dân gian vùng Tây Nam bộ. Trong đó, “Truyện kể bác Ba Phi” là một
sáng tạo của cư dân vùng đất cực Tây và trở thành một hiện tượng trong hệ
thống truyện trạng cả nước, đậm nét màu sắc địa phương.
Trong kho tàng văn hóa dân gian Việt Nam, truyện trạng được tập
trung nghiên cứu, sưu tầm chủ yếu ở miền Bắc và miền Trung. Truyện trạng
dân gian ở Tây Nam bộ nói chung và tỉnh Cà Mau nói riêng vẫn chưa được
chú trọng và khai thác. Là người con sinh ra và trưởng thành tại vùng đất Cà
Mau, tôi đã cảm nhận được những giá trị thực sự hữu ích của truyện trạng nói
chung và truyện kể bác Ba Phi nói riêng tại vùng đất này, nên thiết tha muốn
được góp phần vào việc sưu tầm và nghiên cứu truyện trạng ở Tây Nam Bộ
để làm giàu thêm kho tàng truyện trạng Việt Nam. Việc nghiên cứu Truyện kể
bác Ba Phi dưới góc độ văn hóa học khơng chỉ có ý nghĩa về mặt tư liệu cho
kho tàng văn hóa dân gian Việt Nam, mà cịn góp phần khẳng định giá trị văn
hóa trong truyện kể bác Ba Phi tại tỉnh Cà Mau. Đây chính là lý do tác giả
2
chọn đề tài “Truyện kể bác Ba Phi – Di sản văn hóa phi vật thể của tỉnh Cà
Mau” làm đề tài cho Luận văn Cao học chuyên ngành Văn hóa học.
2. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu đề tài nhằm lý giải các giá trị văn hóa ẩn chứa
bên trong từng cốt truyện của hệ thống Truyện kể bác Ba Phi, nhận diện được
nét đặc sắc của truyện kể từ nhân vật, hệ thống truyện, vai trò của những mẫu
truyện kể trong đời sống của người dân. Bên cạnh đó, Luận văn nêu lên
những nét riêng của Truyện kể bác Ba Phi trong diện mạo truyện trạng dân
gian Nam Bộ.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Hệ thống truyện kể, nhân thân bác Ba Phi.
- Phạm vi nghiên cứu: Vùng đất Cà Mau - khu rừng U Minh là nguồn
cảm hứng sáng tác các tác phẩm Truyện kể bác Ba Phi.
- Thời gian nghiên cứu: Từ năm 1909 đến nay.
4. Câu hỏi và giả thuyết nghiên cứu
Câu hỏi nghiên cứu:
- Dấu ấn môi trường tự nhiên và con người được thể hiện trong diện
mạo Truyện bác Ba Phi như thế nào?
- Những giá trị được kết tinh trong hệ thống Truyện kể bác Ba Phi?
- Ảnh hưởng của Truyện kể bác Ba Phi đối với đời sống cư dân Tây
Nam bộ nói chung và người dân Cà Mau nói riêng như thế nào?
Giả thuyết nghiên cứu:
Truyện kể bác Ba Phi tạo nên dấu ấn mạnh mẽ vào đời sống của người
dân vùng đất Cà Mau từ trước đến nay. Chính vì thế mà thiên nhiên hiện thực
rừng U Minh và con người vùng đất cuối trời tổ quốc, đã tạo nên nét riêng
biệt độc đáo trong Truyện kể bác Ba Phi.
3
Từng câu chuyện đã khắc họa cho người đọc, người nghe về hình ảnh
những người dân lao động trong buổi đầu khai hoang. Có cái nhìn thân thiện
cao q với thiên nhiên đã cưu mang chính mình. Sau mỗi câu chuyện là
những tiếng cười vui vẻ, hòa quyện với đất trời thiên nhiên, tạo nên những
phút giây thư giãn của người dân lao động. Tiếng cười của sự tự do, phóng
khống, u đời đã tiếp sức cho người lao động nơi đây có được “sức mạnh”
tinh thần vơ giá để sinh tồn và phát triển quê hương đất nước.
Loại hình văn hóa dân gian vừa phát huy những giá trị vốn có, vừa có
những thích nghi và biến đổi phù hợp với hiện thực xã hội, tạo nên những giá
trị phi vật thể điển hình của địa phương. Qua đó, ta thấy rằng những giá trị về
mặt lịch sử, văn hóa và giải trí đã được kết tinh thơng qua Truyện kể bác Ba
Phi. Đem lại những giá trị văn hóa - xã hội vơ cùng q giá cho người dân
vùng đất Cà Mau nói riêng và người dân Tây Nam bộ nói chung, tạo nền tảng
vững chắc cho sự phát triển toàn diện của địa phương sau này.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn đã sử dụng những phương pháp nghiên cứu chính sau đây:
5.1. Phương pháp thu thập và phân tích tài liệu:
Thu thập những tài liệu liên quan đến đề tài đã được công bố, tài liệu ở
Trung ương và địa phương, tài liệu của Truyện kể bác Ba Phi tại huyện Trần
Văn Thời, tỉnh Cà Mau.
Kế thừa các công trình của các tác giả đi trước để phân tích, nhận định, so
sánh và đánh giá.
5.2. Phương pháp quan sát tham dự:
Vừa quan sát, vừa tham dự các hoạt động hội thi, công bố sách viết về các
tác phẩm và con người bác Ba Phi.
4
Tìm hiểu về các giá trị văn hóa của Truyện kể bác Ba Phi thông qua: các
tác phẩm Truyện kể bác Ba Phi, những người thân trong gia đình bác, nhưng
người dân địa phường còn nhớ những câu truyện về bác Ba Phi.
5.3. Phương pháp phỏng vấn sâu:
Phỏng vấn những người thân là con cháu bác Ba Phi con sinh sống tại
huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau.
Phỏng vấn những người dân lớn tuổi tại vùng đất Cà Mau còn nhớ về
bác Ba Phi và những câu truyện kể của bác.
Phỏng vấn những thế hệ trẻ tại vùng đất Cà Mau về bác Ba Phi và
những câu chuyện của bác trong đời sống hiện đại.
- Phỏng vấn những người quản lý, các đối tượng khác nhau để thấy
được những suy nghĩ, trăn trở của họ trong giữ gìn Truyện kế bác Ba Phi
trong thời đại hội nhập.
6. Tổng quan tình hình nghiên cứu
6.1. Nghiên cứu chung về thể loại Truyện trạng ở Việt Nam
Tác giả Nguyễn Chí Bền đã nhận định trong cuốn sách Thử xác định
đặc điểm thể loại truyện trạng trong văn học dân gian Việt Nam đã viết về
cách phân loại của truyện Ba Phi về không gian rất khác biệt với các tác phẩm
truyện trạng. “Không gian của truyện trạng có hai loại: khơng gian xã hội
(như truyện Trạng Quỳnh) và không gian tự nhiên (như truyện Ba Phi)”. Vậy
khơng gian tự nhiên tác giả nói đến là không gian như thế nào? Mà tạo nên
điểm khác biệt đậm nét vùng đất Nam Bộ như vậy? Từ đó, tơi có những suy
nghĩ đi tìm câu trả lời cho câu hỏi lớn đó. Ai cũng cơng nhận rằng nếu truyện
bác Ba Phi không được sáng tác tại vùng đất mới Cà Mau thì sẽ khơng tồn tại
ở vùng đất nào được, vì tính chất địa phương đã tạo nên những nét chấm phá
rất riêng biệt cho các tác phẩm chuyện kể của bác. Trong truyện bác Ba Phi,
hình ảnh người nơng dân khẩn hoang vùng đất mới, không hề lùi bước trước
5
mọi gian nguy hiểm hoạ nơi “rừng thiêng nước độc”. Chất trẻ trung, tươi mới
tự tin chiếm lĩnh thiên nhiên đã đem đến cho hệ thống truyện kể một sức sống
mới. Truyện bác Ba Phi cịn có sức sống rất mãnh liệt trong đời sống tinh thần
của nhân dân, cán bộ và chiến sĩ ở miền Tây Nam bộ. Trong suốt hai cuộc
kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, chẵng ai ở Tây Nam bộ lại không thể
kể được truyện bác Ba Phi, có người được nghe trực tiếp, cũng có người được
truyền miệng kể lại. Cứ như thế, theo thời gian truyện bác Ba Phi vẫn tồn tại
và càng ngày càng phong phú và thấm đậm những nét văn hố dân gian Nam
Bộ.
Tiếp theo khơng thể khơng nhắc đến những cơng trình nghiên cứu về
bác Ba Phi đầy đam mê của tác giả Bùi Mạnh Nhị. Tác phẩm đã được in trên
báo Văn nghệ thành phố Hồ Chí Minh và tạp chí Văn hóa dân gian số 2 –
1985. Đến năm 1989, tác giả đã có những nghiên cứu trong tác phẩm Truyện
cười dân gian Nam Bộ do nhà xuất bản thành phố Hồ Chí Minh. Trong tác
phẩm này tác giả đã có những miêu tả khái quát về truyện kể bác Ba Phi,
những so sánh giữa truyện trạng ở Bắc Bộ và truyện trạng ở Nam Bộ rất sinh
động. Nếu truyện trạng ở những nơi khác là những người đỗ đạt, tài giỏi xuất
chúng, thì ở Nam Bộ "không phải là những ông Trạng tài ba thông thái đã
từng thi thố đỗ đạt, mà chỉ là những người bình dân chân đất có đầu óc thơng
minh, sáng suốt lạ thường", nhận xét này rất sâu sắc của ông đã khắc họa lên
một phần tính chất của truyện cười Nam Bộ.
Cuốn sách Tìm hiểu về truyện trạng Việt Nam, tác giả Tô Ngọc Thanh
chủ biên, NXB sân khấu, xuất bản năm 2016. Ở đây các tác giả đã chỉ ra điểm
khác biệt giữa truyện Ba Phi đối với các tác phẩm truyện trạng khác. Vì giữa
chúng khơng đồng nhất về kiểu dạng văn bản và thể loại, nên được tách ra để
xét riêng [tr 69]. Sự khác biệt ấy sáng lên tình yêu thương thiên nhiên, sự tự
hào về các sản vật địa phương. Khơng phải chỉ trích hay hạ bệ một đối tượng
6
nhân vật nào cả, chỉ là những tình cảm quê hương mà bác đã khéo kéo với thủ
pháp phóng đại tài tình đã làm cho những khung cảnh thiên nhiên trở nên có
hồn, có sắc, tạo nên một làn sóng tình cảm. Do đó mà tác giả đã kết luận
“Truyện Ba Phi khơng cùng nhóm (hay loại) với truyện Trạng Quỳnh, truyện
Xiển Bột, truyện Thủ Thiệm, truyện Ơng Ĩ,... tức khơng thuộc truyện trạng,
mà cùng nhóm với truyện các làng cười về nói trạng, nói khốc, nói phét
(thuộc bộ phận truyện các làng cười, của thể loại truyện cười)”.
Tác giả Vũ Ngọc Khánh đã có những xác định và phân tích truyện
trạng một cách tổng quát trong tác phẩm Từ những ơng trạng đến kho tàng
truyện trạng Việt Nam trích trong Truyện trạng Việt Nam, Nxb. Thanh Hóa,
1988. “Truyện trạng, khởi đầu phải là truyện về các ông trạng nguyên, những
người có tài năng uyên bác, siêu việt. Đó là những truyện “người thật việc
thật”: truyện tiểu sử đặc sắc, truyện học hành cơng phu, truyện ứng xuwe tài
tình, linh hoạt trong ngoại giao, trong chính sự” [tr5]. Hay những phân biệt
về cách nói trạng và kể truyện trạng “Nói trạng là nói vui, nói tếu, nói trên
trời dưới đất, nói cợt nói trêu. Khi ta bảo người này hay người kia là tay
trạng, là anh chàng chỉ nói trạng… chính là ta đang cơng nhận cụ thể biến
hóa này, một sự pha trộn, nhào nặn, thể nhập nhiều yếu tố để tạo nên nội hàm
truyện trạng. Cái tiên tri và cái nói khốc, cái un bác và cái thiên hồ địa hĩ,
cái tài tình hóm hỉnh và cái nghịch ngợm tục tằn… truyện trạng có đủ cả”
[tr6].
Trong tài liệu Truyện cười giai thoại: truyện Trạng Quỳnh, truyện
Trạng Lợn, truyện Ơng Ĩ,… của tác giả Lê Chí Quế trích trong Văn học dân
gian Việt Nam, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2001. Tác giả đã phân tích về
truyện cười giai thoại nhưng với những bộ phận được tìm hiểu riêng. “Gọi
truyện Trạng Quỳnh là loại truyện giai thoại vì rất có thể những truyện này
được xây dựng trên cơ sở chất liệu thực tế của Nguyễn Quỳnh làng Bột
7
Thượng (và về sau ra sống ở Thăng Long). Nhưng về cơ bản nó được quần
chúng nhân dân các thế hệ hư cấu. Trạng ở đây rất gần gũi với nhân vật thiện
và thơng minh trong truyện cổ tích nhwung chỉ khác là kết cục Trạng không
lên ngôi vua” [tr146].
6.2. Nghiên cứu về Truyện kể bác Ba Phi
Tác giả Hà Châu đã công bố Giới thiệu một nguồn văn học dân gian
vào năm 1976 trên báo Nhân Dân số ra ngày 30/6/1976. Đây được xem như
bước đầu mở ra thời kì nghiên cứu về đề tài các tác phẩm và con người bác
Ba Phi. Đến năm 1977, tác giả cũng đã cơng bố một phần nghiên cứu của
mình tại hội nghị khoa học của Viện Dân tộc học Chuyện kể Bác Ba Phi một
sản phẩm văn hóa đặc sắc. Tác giả đã khái quát về con người bác Ba Phi và
vùng đất nơi ơng sinh sống. Bên cạnh đó, tác giả phân tích mối quan hệ giữa
phương thức sinh hoạt sản xuất với nguồn truyện và người nghệ sĩ sáng tác.
Tác giả cịn giới thiệu và phân tích rất chi tiết về con người bác Ba Phi làm
bật lên tính cách người nơng dân đơn hậu mà đậm nghĩa tình.
Tác giả Nguyễn Thị Nhung đã có những nghiên cứu tổng hợp về truyện
bác Ba Phi trong Tìm hiểu truyện Ba Phi vùng Tây Nam Cà Mau từ góc nhìn
văn hóa Nam Bộ. Đây được xem như một cơng trình nghiên cứu tổng hợp
truyện bác Ba Phi về đặc điểm nội dung và đặt điểm nghệ thuật của truyện.
Tác giả đã có cái nhìn đối chiếu giữa hệ thống truyện bác Ba Phi với những
truyện trạng khác. Như khi đối chiếu với truyện Đồng Sài, Văn Lang và
truyện trạng Vĩnh Hoàng tác giả đã có những nhận định sau: “Đều ca ngợi tài
nguyên sản vật của quê hương, ngợi ca sự thơng minh sáng tạo của con người
trong q trình lao động sản xuất và bộc lộ những ước mơ của mình trong
cơng cuộc cải tạo tự nhiên với một tinh thần lạc quan, yêu đời. Tuy nhiên xét
về mặt bản chất của nội dung phản ánh ta thấy: hiện thực phản ánh trong
truyện Ba Phi là hiện thực vốn dĩ gần gũi với hiện thực có thật ngồi cuộc
8
sống được tác giả cường điệu thêm, còn hiện thực được miêu tả trong truyện
Đồng Sài, truyện trạng Vĩnh Hoàng và truyện Văn Lang là hiện thực ước
mơ.” [tr92]. Từ những so sánh cụ thể hóa như vậy, tác giả đã làm nổi bật nghệ
thuật được sử dụng trong truyện, tạo nên nét đặc sắc riêng, đậm chất địa
phương.
Tại Cà Mau, quê hương của bác Ba Phi đã có những quan tâm cũng
như kêu gọi các nhà khoa học vào cuộc để bảo vệ và phát huy di sản văn hóa
đặc sắc của địa phương. Năm 2002, hội thảo khoa học về truyện bác Ba Phi
và văn hóa dân gian Nam Bộ được tổ chức tại Cà Mau. Các nhà nghiên cứu
khoa học trong nước đã có những tranh luận, ý kiến cá nhân vào việc nhận
định cũng như cái nhìn về đề tài mới mẽ này. Các nhà nghiên cứu khoa học đã
có những bài luận rất ý nghĩa và nêu lên vị trí truyện kể bác Ba Phi trong cái
nhìn tổng quát về truyện trạng cả nước. Cùng năm 2002, tác giả Huỳnh
Khánh đã có luận văn thạc sỹ chuyên ngành Quản lý Văn hóa tại trường Đại
học Văn hóa Hà Nội về Truyện Ba Phi, một di sản văn hóa phi vật thể của Cà
Mau. Đã làm phòng phú thêm tự liệu về giá trị phi vật thể trong truyện bác Ba
Phi tại quê hương Cà Mau.
Đó cũng là tiền đề cho buổi lễ ra mắt cuốn sách Bác Ba Phi con người
và tác phẩm vào ngày 18 tháng 6 năm 2018, đây cũng được xem như một
trong những tài liệu tổng hợp về các bài nghiên cứu, sưu tầm của truyện kể
bác Ba Phi. Cuốn sách với sự phối hợp của Hội Văn học - Nghệ thuật tỉnh Cà
Mau, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Cà Mau, cùng với Ủy ban nhân
dân huyện Trần Văn Thời. Một ấn phẩm với 303 trang nhưng gói gọn những
giá trị nghệ thuật của cả cuộc đời bác Ba Phi. Với 4 phần cụ thể, các tác giả
đã cho ta thấy nhiều góc nhìn khách quan hơn về giá trị mà truyện kể bác Ba
Phi đem lại trong cuộc sống và trong văn học. Ấn phẩm là tập hợp những bài
viết, bài luận về các góc nhìn khác nhau về bác Ba Phi và truyện kể của bác,
9
cũng có thể là những ký ức tuổi thơ về những câu truyện của bác, hay những
cuộc mưu sinh mà các tác phẩm của bác là “người giúp đỡ”. Dù ở góc nhìn
nào thì các tác phẩm vẫn ẩn chứa những giá trị q giá mà khơng ai có thể
phủ nhận được. Như bài tham luận Cảnh vật và con người trong truyện tranh
Ba Phi của tác giả Võ Quang Trọng đã mở ra một bức tranh đầy màu sắc về
truyện kể bác Ba Phi. Tác giả đã có những phân tích về những di sản trong
rừng U Minh xuất hiện trong truyện kế của bác. Những người dân vùng đất
khắc nghiệt này cũng được “mài giũa” và dần thích ứng, hịa hợp với thiên
nhiên.
Ngồi ra cịn có rất nhiều nghiên cứu về truyện kể bác Ba Phi, cũng
như cuộc đời của bác. Nhưng lại khơng có cơng trình nào nghiên cứu cụ thể
về thiên nhiên và con người trong diện mạo Truyện kể bác Ba Phi, cũng như
mối quan hệ giữa thiên nhiên và con người vùng đất Cà Mau, để từ đó thấy
được những giá trị quý giá cần được bảo tồn và phát huy tại địa phương.
7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
Ý nghĩa khoa học: Góp phần làm sáng hơn những giá trị đặc sắc trong
hệ thống Truyện kể bác Ba Phi. Từ đó tạo nên những kiến thức cho bản thân
và những người cần tiếp xúc vấn đề này.
Ý nghĩa thực tiễn: Góp phần làm giàu thêm tư liệu liên quan đến hệ
thống Truyện kể bác Ba Phi trong công tác giảng dạy học sinh, sinh viên.
8. Bố cục luận văn
Ngoài phần dẫn nhập và kết luận, luận văn có 3 chương, cụ thể:
Chương 1: Cơ sở lý luận. Chương này nêu những cơ sở lý luận và tổng
quan về địa bàn nghiên cứu làm nền tảng nghiên cứu ở những chương tiếp
theo.
Chương 2: Bác Ba Phi và hệ thống Truyện kể bác Ba Phi. Chương này
giới thiệu về nhân vật bác Ba Phi đồng thời phân tích, đánh giá về đặc điểm tự
10
nhiên rừng U Minh và tính cách con người vùng đất Cà Mau trong diện mạo
Truyện kể bác Ba Phi.
Chương 3: Giá trị và sức sống của Truyện kế bác Ba Phi. Chương này
hệ thống những giá trị vốn có trong Truyện kể bác Ba Phi. Đồng thời cho thấy
thực trạng của di sản nhằm đề xuất kịp thời vấn đề bảo tồn và phát huy giá trị
di sản .
11
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1. Một số khái niệm liên quan
1.1.1.1.Văn hoá
Xã hội ngày càng phát triển, dòng chảy của nhịp sống hiện đại càng
làm con người rời xa những giá trị truyền thống, chạy đua theo thời đại công
nghệ số. Mà các giá trị văn hoá được cho là một trong những động lực tinh
thần cơ bản quan trọng để thúc đẩy sự tiến bộ xã hội. Đây như một nhịp cầu
nối giữa quá khứ và hiện tại, tạo nên những nền tảng không thể thay thế được.
Nhưng trong thời buổi công nghệ số như hiện nay, việc duy trì một giá trị văn
hố đã là vấn đền khó, tạo nên một sợ dây kết nối giữa dân tộc đang là hồi
chuông lớn. Không những thế các nhận định về văn hóa cũng dần thay đổi
theo nhận thức nhân loại, cũng như dòng chảy thời gian. Tạo nên những điểm
mới trong nhận định về văn hóa khơng chỉ của các nhà nghiên cứu trong
nước, mà còn của các nhà nghiên cứu thế giới.
Từ những năm 1881 thì cả thế giới đã đón nhận các khái niệm, định
nghĩa về văn hoá từ rất sớm. Như E.B.Taylor đã có cho riêng mình khái niệm
về văn hố như sau “Văn hoá, hay văn minh, theo nghĩa rộng về tộc người
học, nói chung gồm tri thức, tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức, luật pháp, tập
quán và một số năng lực và thói quen khác nhau được con người chiếm lĩnh
với tư cách một thành viên của xã hội” [41]. Dù đã có rất nhiều ý kiến xoay
quanh khái niệm này, các nhà nghiên cứu khoa học đã nhận định rằng ơng
Tylor đã đồng nhất văn hố và văn minh, do đó khơng vạch rõ ranh giới nhận
dạng hai thuật ngữ này. Dù có nhiều ý kiến phản bác về khái niệm, nhưng ẩn
chứa bên trong đó là những phát hiện mang tính liệt kê khơng nói chung
chung và mơ hồ. Nếu chỉ xét ở góc độ nội dung khái niệm thì ông đã rất rõ
12
ràng trong việc giới hạn những vấn đề nào thuộc vào văn hoá (đồng nghĩa văn
hoá và văn minh), dù là những người không am hiểu về vấn đề khoa học trong
lĩnh vực văn hố thì vẫn có thể hiểu hoặc có sự hình dung nhất định về văn
hố thơng qua khái niệm trên. Khái niệm văn hoá cũng giống như tất cả các
môn khoa học khác, phải trải qua quá trình dài nghiên cứu khoa học và quá
trình “bổ sung hiểu biết” để dần hoàn thiện những khái niệm liên quan. Và ở
các góc độ khác nhau, thì các nhà nghiên cứu khoa học lại hiểu văn hóa ở
từng góc độ khác nhau, hay ở từng quốc gia thì văn hóa lại được “biến hố”
để thích hợp với từng quốc gia lãnh thổ. Cũng như khoa học ngày nay, mọi
người đều hiểu văn hoá theo hướng là tất cả những gì con người tạo ra, khác
với những gì tồn tại trong tự nhiên xung quanh con người. Hay nói một cách
khác là tất cả những hoạt động sáng tạo của con người trong thế giới nhân
sinh này. Mà nói đến hoạt động sáng tạo của con người, thì lại mang nét đặc
trưng riêng của từng lãnh thổ, từng quốc gia. Do đó mà tạo nên tính đa dạng
văn hố mn màu, góp phần làm cho thế giới ln mang những điều bí ẩn
mà con người muốn khám phá và thăm quan. Từ những hiểu biết rất sâu về
văn hoá mà các nhà nghiên cứu khoa học cũng đã giúp chúng ta dần tìm ra
điều khác biệt giữa văn hố và văn minh, khi văn minh là một trong những
thời kỳ của lịch sử văn hoá.
Từ giữa đầu thế kỉ XX, ở Việt Nam đã công nhận nghiên cứu văn hóa
là một mơn khoa học. Mở đầu cơng cuộc tìm hiểu về văn hóa đầu tiên có thể
nói đến nhà nghiên cứu Đào Duy Anh với tác phẩm rất nổi tiếng Việt Nam
văn hoá sử cương ra đời năm 1938, đã mở lối đi mới cho ngành nghiên cứu
khoa học này. Nhưng đến năm 1945 trong cuốn sách Văn hóa là gì ơng đã có
nhận định về mối quan hệ giữa văn hóa và sinh hoạt. Từ đó, ơng đã đi đến
định nghĩa: “Văn hóa là những giá trị biểu hiện cuộc sinh hoạt mạnh mẽ của
loài người trong cả phương diện vật chất, tinh thần và xã hội”.
13
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khái niệm về văn hóa “Vì lẽ sinh tồn cũng
như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn
ngữ, chữ viết, pháp luật, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học,
nghệ thuật, những công cụ sinh hoạt hàng ngày về mặt ăn, ở và các phương
thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa”
[26;431]. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng tất cả những gì do con người sáng
tạo ra đều là văn hóa và chính văn hóa đã phục vụ lại đời sống con người.
Trong nghiên cứu của mình, Trần Quốc Vượng cũng đã nêu nhận định
về văn hóa theo giá trị chuẩn mực xã hội “Văn hóa là tồn bộ sự hiểu biết của
con người tích lũy được trong quá trình hoạt động thực tiễn - lịch sử được
đúc kết thành các giá trị và chuẩn mực xã hội, gọi chung là hệ giá trị xã hội
biểu hiện thơng qua vốn di sản văn hóa và hệ ứng xử của cộng đồng” [47;16].
Những nhận định về văn hóa ở Việt Nam cũng ln được đổi mới theo
thời gian và tiếp thu nhận thức nhân loại. “Biển học vốn bao la. Tri thức về
văn hóa Việt Nam là một vùng biển nhỏ trong cái biển bao la đó. Các cơng
trình nghiên cứu dù cơng phu đến mấy cũng chỉ mô tả được một phần nào
vùng biển ấy thôi, Và ngay trong lúc nhà nghiên cứu đang gắng công mơ tả
nó mau chóng bị thực tiễn bỏ lại sau lưng” [15;1]. Vì thế mà những nhận
định về văn hóa ln đổi mới để thích nghi với thời đại cơng nghệ và hội
nhập thế giới. Những chuyển biến mạnh mẽ của xã hội từ sau thế kỷ XX, đã
làm cho thế giới phổ biến một cách hiểu về văn hóa cụ thể hơn, khơng chỉ
xem văn hóa là những hoạt động, sản phẩm nhân tạo, mà còn gắn liền văn hóa
với dân tộc, tộc người. “Văn hóa ln hàm chứa bản sắc tộc người, nên các
dân tộc, các tộc người đều cần bảo tồn nó để tránh khỏi lai căng, mất gốc
trong khi hội nhập, đặc biệt là trong bối cảnh tồn cầu hóa kinh tế và tin học
hóa về giáo dục, truyền thông” [15;87].
14
Từ các khái niệm trên cho thấy, văn hóa là toàn bộ những giá trị do con
người sáng tạo ra thông qua sinh hoạt, mà hoạt động sinh hoạt nêu trên chính
là hình thức lao động của con người trên lĩnh vực vật chất và tinh thần, mang
bản sắc dân tộc. Người lao động không chỉ hoạt động sinh hoạt để tạo ra vật
chất ni sống mình, mà cịn tạo ra những giá trị tinh thần quý giá mang bản
sắc dân tộc để trao truyền cho các thế hệ mai sau. Những hình ảnh ấy được tái
hiện đặc sắc trong hệ thống truyện bác Ba Phi. Từ những sinh hoạt thường
ngày của người dân lao động, bác Ba Phi đã khéo léo vận dụng nghệ thuật
ngôn từ tài tình để tạo ra những giá trị vật chất, tinh thần cho xã hội.
1.1.1.2. Văn hóa phi vật thể
Trong mục 1, điều 4 Luật Di sản văn hóa (2013) có nêu khái niệm về
văn hóa phi vật thể “Văn hóa phi vật thể là sản phẩm tinh thần gắn với cộng
đồng hoặc cá nhân, vật thể và khơng gian văn hóa liên quan, có giá trị lịch
sử, văn hóa, khoa học, thể hiện bản sắc của cộng đồng, không ngừng được tái
tạo và được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác bằng truyền miệng,
truyền nghề, trình diễn và các hình thức khác”[18]. Trong khn khổ của đề
tài tơi nghiên cứu về những nét văn hóa cùng sự lưu truyền và kế thừa của
những mẫu chuyện kể.
1.1.1.3. Di sản văn hóa phi vật thể
Là sản phẩm tinh thần gắn với cộng đồng hoặc cá nhân, vật thể và
không gian văn hóa liên quan, có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, thể hiện
bản sắc của cộng đồng, không ngừng được tái tạo và được lưu truyền từ thế
hệ này sang thế hệ khác bằng truyền miệng, truyền nghề, trình diễn và các
hình thức khác.
Tại Điều 2 Nghị định 98/2010/NĐ-CP hướng dẫn Luật di sản văn hóa
và Luật di sản văn hóa sửa đổi có quy định di sản văn hóa phi vật thể bao
gồm:
15
+ Tiếng nói, chữ viết;
+ Ngữ văn dân gian;
+ Nghệ thuật trình diễn dân gian;
+ Tập quán xã hội và tín ngưỡng;
+ Lễ hội truyền thống;
+ Nghề thủ cơng truyền thống;
+ Tri thức dân gian.
1.1.1.4. Giá trị văn hóa
Theo Từ điển Tiếng Việt giá trị văn hóa được xem như là “cái làm cho
mọi vật có ích, có lợi, có ý nghĩa, là cái đáng quý về mặt nào đó” [11;371].
Bất cứ những gì mà con người làm ra đều có giá trị và nó phục vụ đời sống
của con người. Một cách nhìn nhận khác về giá trị đó là “Giá trị là một phạm
trù triết học, xã hội học chỉ có tính có ích, có ý nghĩa của sự vật hiện tượng tự
nhiên hay xã hội, có khả năng phục vụ nhu cầu lợi ích của con người”
[12;97]. Trong các giá trị ấy đều chứa đựng những nhận thức, yếu tố tình cảm,
hành động hay chuẩn mực, những biểu tượng văn hóa của cộng đồng, của dân
tộc. Vì thế giá trị văn hóa của dân tộc rất đa dạng và phong phú, nó phản ánh
sự đa dạng của lịch sử, môi trường, sự phát triển kinh tế, văn hóa xã hội của
dân tộc, địa phương.
Theo Ngơ Đức Thịnh, “Giá trị văn hóa (Cultural Value) do con người
trong mỗi xã hội sáng tạo ra trong quá trình lịch sử, nhưng một khi hệ giá trị
đã hình thành thì nó lại có vai trị định hướng cho các mục tiêu, phương thức
và hành động của con người trong các xã hội ấy” [43;33].
Tại điều 1 Luật Di sản (2013) đã nhấn mạnh “Di sản văn hóa bao gồm
di sản văn hóa vật thể và di sản văn hóa phi vật thể là sản phẩm tinh thần và
vật chất, có giá trị về lịch sử, văn hóa, khoa học, được lưu truyền từ thế hệ
này sang thế hệ khác ở nước Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”. Theo đó
16
tất cả những gì do con người làm ra đều có giá trị và được lưu truyền lại cho
các thế hệ sau. Mỗi dân tộc bất kỳ ở đâu đều có hồn cảnh lịch sử, những nét
văn hóa đặc trưng.
1.1.2. Lý thuyết tiếp cận của luận văn
Chúng ta đều thấy xã hội con người phát triển, luôn tồn tại hai mối
quan hệ giữa môi trường sinh thái với hoạt động con người. Khơng có sự tồn
tại nào mà khơng có mặt của mơi trường thích ứng. Các nhà nghiên cứu trên
thế giới từ xa xưa cũng đã có những nhận định về những mơi trường tự nhiên
khác nhau thì con người có những thích ứng, cũng như những hoạt động sinh
tồn khác nhau. Hay nói cách khác ở những mơi trường khác nhau chúng ta có
những cộng đồng người rất “khác nhau”. Từ đó ta thấy rằng mơi trường tự
nhiên có những mối quan hệ rất mật thiết đến con người. Là yếu tố rất quan
trọng ảnh hưởng trực tiếp đến xã hội và văn hố cộng đồng người, có tầm ảnh
hưởng đến các giới hạn của văn hoá, nhưng khơng phải là yếu tố duy nhất
quyết định văn hố. Và để lý giải cho mối quan hệ quan trọng này các nhà
nghiên cứu khoa học trên thế giới đã có những cách nhìn, cách lý giải riêng và
nổi bật trong số đó là “Thuyết sinh thái học văn hóa” được phát triển vào năm
1950 đã có những lý giải rõ nét hơn về mối quan hệ giữa môi trường và con
người. Từ đó ta có những liên hệ đến môi trường trong hệ thống truyện bác
Ba Phi, mối quan hệ rất mật thiết giữa môi trường và người nông dân nơi đây
lúc bấy giờ. Thể hiện nên đặc trưng của vùng đất Cà Mau có mơi trường đa
dạng, kết tạo nên giá trị văn hố thơng qua hạt nhân mơi trường sinh thái.
Trong “Sinh thái học văn hóa” của Julian H. Steward, ơng đã phân tích
mối quan hệ của một nền văn hố với mơi trường sinh thái của chúng, xem
môi trường sinh thái như là hạt nhân cấu tạo nên giá trị văn hoá. Vào giữa thế
kỷ XX thuyết sinh thái học văn hoá phát triển rất mạnh mẽ tại Mỹ, ông lý giải
cách sắp xếp của con người dựa trên sự thích nghi với mơi trường sinh thái.
17
Có thể nói Julian H. Steward là một nhà nghiên cứu văn hố người Mỹ, ơng là
người đã đặt nền móng đầu tiên vào thuyết sinh thái học văn hố cũng như
thuyết về sự biến đổi văn hố. Ơng xuất thân từ việc học về địa chất và động
vật học nên việc ông quan tâm đến môi trường và nghiên cứu về nó là điều rất
dễ hiểu, ơng đã có rất nhiều những cơng trình nổi tiếng và góp phần vào việc
giải thích và làm rõ hơn mối quan hệ giữa văn hố và mơi trường.
“Thuyết sinh thái học văn hố đã cung cấp cái nhìn cụ thể về sự tương
tác giữa con người và môi trường thông qua sự thích nghi văn hố, đã góp
phần vào việc lý giải cho sự thích nghi của con người với vùng sinh thái cụ
thể từ góc nhìn yếu tố nội sinh” [21]. Đây là một trong những lý thuyết nằm
trong trào lưu tiến hoá đa tuyết như một hướng đi mới để thoát khỏi quan
điểm đặc thù luận lịch sử. Nhà nghiên cứu khoa học Julian H.Steward (19021972), là học trò của A.L.Kroeber dù ông được đào tạo theo hướng phản bác
tiến hố luận, nhưng ơng lại tìm ra hướng đi mới trong quan điểm tiến hố
luận. Ơng cịn chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa duy vật của Karl Mark khi lý
giải sự thay đổi văn hố từ góc độ kỹ thuật – môi trường, mà đến 1960 các sự
lý giải liên quan đến môi trường rất được quan tâm.
Theo như Steward, sinh thái trong mối quan hệ với con người là công
cụ trải nghiệm để hiểu về sự tác động của mơi trường đến văn hố. Qua
những chứng minh rất rõ ràng của mình, ơng đã có những phân biệt để khơng
bị nhầm lẫn với mục đích và phương pháp của những hướng tiếp cận liên
quan đến sinh thái sinh học, sinh thái nhân văn, sinh thái xã hội, nên ông đã
dùng sinh thái văn hoá, và thuật ngữ này cũng đã thể hiện nên những đặc
trưng của khái niệm. Đối với ơng sinh thái văn hố đơn giản là sự thích nghi
với mơi trường. Qua đó ta thấy rằng ơng đang tập trung vào việc giải thích
con người thích nghi đối với mơi trường. Ơng cũng đã nêu lên đặc điểm nổi
bật của lý thuyết này khi giải thích nguồn gốc các đặc điểm và dạng thức văn
18
hoá cụ thể đặc trưng của các vùng khác nhau, thay vì tìm kiếm các nguyên tắc
chung áp dụng cho tất cả các tình huống mơi trường văn hố. Từ đây, ta có
cách nhìn về sự thích ứng mơi trường tự nhiên trong Truyện bác Ba Phi, khi
mà hạt nhân mơi trường tự nhiên có sự tác động đến đời sống của người dân
nơi đây. Nếu từ xa xưa người Việt chỉ tìm những nơi đồng bằng thuận tiện để
sinh sống, tâm thức về rừng rất mờ nhạt và có phần đáng sợ, thì người dân
vùng đất nay lại rất khác biệt. Chính mơi trường tự nhiên rừng U Minh đã có
tác động rất lớn đến tư duy và tập quán sinh sống của người dân vùng đất này.
Tâm thế ứng xử với thiên nhiên rừng rậm cũng dần được hình thành. Mơi
trường tự nhiên nơi đây bắt buộc người lao động phải có kỹ năng sinh tồn
cao, chỉ cần những sơ hở nhỏ có thể cướp đi mạng sống của mình bất cứ lúc
nào. Để thích ứng, người dân lao động cũng phải thích ứng với động vật sống
nơi này, những loài vật ấy sẽ là nguồn thức ăn và đôi lúc sẽ là “người bạn” hỗ
trợ rất đắt lực. Việc xem rừng như “ngôi nhà” thứ hai của mình, giúp người
dân lao động có cách ứng xử rất cơng bằng, hịa hợp với thiên nhiên. Từ đó, ta
thấy rõ sự hiện diện đậm nét của môi trường quyết định vai trị, cũng như sự
thích ứng của người lao động vùng đất Cà Mau.
1.2. Tổng quan về vùng đất Cà Mau
1.2.1. Vị trí địa lý, mơi trường và đặc điểm cư trú
1.2.1.1. Vị trí địa lý
Cà Mau là tỉnh cực Nam của Tổ quốc, cách thủ đô Hà Nội 2.085km với
diện tích đất liền là 5.211km2 (theo số liệu thống kê đất đai năm 2005 tỉnh Cà
Mau có diện tích phần đất liền là 5.329km2; bằng 13,13% diện tích vùng đồng
bằng sơng Cửu Long và bằng 1,58% diện tích cà nước), và đứng thứ 7 trong
khu vực đồng bằng sông Cửu Long. Được tái lập ngày 1/1/1997, tách từ tỉnh
Minh Hải, bao gồm hai phần là phần đất liền và phần biển.
19
Với vị trí phía Bắc giáp tỉnh Kiên Giang, phía Đơng Bắc giáp tỉnh Bạc
Liêu, phía Đơng giáp biển Đơng và phía Tây giáp vịnh Thái Lan, với chiều
dài bờ biển là 252km và một ngư trường rộng hơn 100.000km2 thuộc đặc
quyền khai thác của Việt Nam, trong đó có nhiều đảo: Hòn Đá Bạc (huyện
Trần Văn Thời), Hòn Chuối, Hịn Bng (huyện Phú Tân) thuộc biển Tây,
Hịn Khoai (huyện Ngọc Hiển) thuộc biển Đông. Cà Mau là một bán đảo nối
liền với đất liền, có hình dáng như mũi tàu đang rẽ sóng ra khơi. Với ba mặt
giáp biển, biển trở thành một phần rất quan trọng đối với các hoạt động sinh
tồn của người dân nơi đây, quốc phòng, an ninh, kinh tế và xã hội. Đây là
vùng đất mới bồi tụ, được cho là nổi tiếng nhất của vùng Đơng Nam Á. Được
hình thành bởi 2 dịng hải lưu ở biển Đơng và vịnh Thái Lan, đón nhận phù sa
của những con sông lớn bồi đắp dần theo năm tháng tạo nên. Nằm ở vĩ độ
thấp nhất của cả nước nên tính cận xích đạo trong tự nhiên khá đặc trưng, nó
quy định đặc điểm của tồn bộ tổng thể tự nhiên, đồng thời nó cũng xác định
tính chất của nền kinh tế, cơ cấu vật ni, cây trồng trong nông nghiệp. Với
phần lớn đất đai là đồng ruộng lầy trũng và có nhiều rừng thiên nhiên ngập
nước rộng lớn như rừng tràm U Minh hạ, rừng đước Năm Căn,… rừng sác Cà
Mau (rừng ngập mặn) còn được xếp đứng thứ hai trên Thế Giới về tầm quan
trọng và diện tích.
Huyện Trần Văn Thời là một trong 8 huyện của tỉnh Cà Mau, cách
trung tâm thành phố Cà Mau 30km về hướng Tây-Bắc. Với địa thế giáp với
thành phố Cà Mau, 4 huyện và 1 vịnh Thái Lan. Với diện tích 702,72 km2 ,
với dân số 188.568 người (năm 2014), chiếm 15,47% dân số Cà Mau. Lợi thế
kinh tế của huyện là nằm sát cửa biển sông Ông Đốc, nên người dân ở huyện
khai thác đánh bắt thuỷ sản trên biển và dịch vụ hậu cần nghề khai thác biển.
1.2.1.2. Môi trường và đặc điểm cư trú
Vị trí của vùng đất Cà Mau được xác định tính chất cận xích đạo, gió
mùa rất đặc trưng trong khí hậu của tỉnh. Đặc điểm chung của khí hậu ở đây
là nền nhiệt cao và ổn định, có lượng mưa lớn theo mùa và thất thường. Đây
20
là một vùng đất trẻ nhất của vùng đồng bằng sông Cửu Long và lãnh thổ vẫn
đang tiếp tục mở rộng.
Lãnh thổ Cà Mau trải dài từ 80o30’ vĩ Bắc tới 9o33’vĩ Bắc, nằm trong
khu vực cận xích đạo gió mùa, quanh năm có nền nhiệt cao và ổn định. Cà
Mau chịu ảnh hưởng của nhiều khối khí hoạt động theo mùa, có hai mùa mưa
nắng rất rõ, mùa mưa thường kéo dài từ tháng 5 đến tháng 10, còn mùa nắng
thì từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau. Khí hậu ơn hịa, nhiệt độ trung bình năm
26oC. Giờ nắng trung bình cả năm 2.018 – 2322 giờ/năm, lượng mưa trung
bình hằng năm 1.931 – 2.630 mm, chế độ thủy triều vùng gần biển lên xuống
nhanh, những vùng xa biển lên xuống chậm nhưng không gây lũ, độ ẩm trung
bình hằng năm 80 – 83%, gió chướng Tây Nam nói chung thuận lợi cho việc
trồng trọt và chăn ni. Các dãy hội tụ hoạt động thường gắn liền với sự xuất
hiện bão trên biển Đông, dù không thường xuyên xâm nhập vào vùng đất Cà
Mau nhưng cũng đã gây những ảnh hưởng xấu đến kinh tế hoạt động của
vùng. Cà Mau đã hứng chịu hai cơn bão năm 1904 và năm 1997, với cơn bão
số 5 (Linda) vào ngày 2/11/1997 đã gây rất nhiều thật hại lớn đến người và
của.
Là tỉnh duy nhất trong đồng bằng sông Cửu Long có hai mặt giáp biển,
với bờ biển dài 252km, biển có ảnh hưởng rất lớn đối với thiên nhiên tồn
tỉnh. Với việc tiếp giáp với vịnh Thái Lan là biển nông, bãi biển thoải và rất
giàu tài nguyên sinh vật trù phú. Bên cạnh đó cịn được dịng sơng lớn mang
lượng phù sa bồi đắp lần ra biển nên tạo lên một vùng đất vươn mình ra biển
lớn, do đó mà dấu ấn “rừng vàng biển bạc”. Với những đặc điểm nổi bật mà
nhà nghiên cứu Hà Châu gọi vùng đất này là “vùng đất trẻ Tây Nam” [3]. Địa
hình thấp, bờ biển dài, có nhiều cửa sơng đổ ra biển, biên triều lớn, áp triều
ảnh hưởng rất sâu vào đất liền. Hệ thống sơng ngịi, kênh gạch của Cà Mau
đan xen chằng chịt chiếm khá nhiều diện tích tự nhiên, trong đó có nhiều con
21
sông lớn, nước sâu dẫn phù sa bồi đắp mọi vùng và tạo nên mạng lưới giao
thông đường thuỷ như các sông Tam Giang, Gành Hào, Bảy Háp, Sông Đốc,
Cái Tàu, Trèm Trẹm,… Với tổng chiều dài hệ thống sông rạch trong tỉnh trên
7000km, mật độ trung bình 1,34km/km2. Hầu hết các hệ thống dòng chảy đều
bị nhiểm mặn khá cao, sơng ở Cà Mau phần lớn chỉ có nước ngọt vào mùa
mưa, nhưng do người dân nơi đây biết ngăn mặn, giữ ngọt nên trồng lúa nước
và nuôi cá đồng cùng các loại động vật hoang dã trong hệ sinh thái nước ngọt
rất phong phú.
Do đây là vùng đất trẻ nên dân cư tại nơi đây không quá đông, với số
dân thuộc vào loại trung bình so với cả nước. Tổng dân số 1.218.821 người
(của cục thống kê tỉnh Cà Mau 2013-2015).
Vùng đất với nhiều dân tộc anh em cùng sinh sống, đông nhất là người
Kinh, kế đến là người Khmer, người Hoa… Phần đông người Khmer tập
trung xung quanh những ngơi chùa tạo thành các sóc người Khmer riêng biệt.
Với tính cách thân thiện và ln hồ đồng các dân tộc, nên các dân tộc anh
em trên vùng đất Cà Mau rất yêu thương và gắn kết với nhau. Người Khmer
và người Hoa sống hoà nhập vào người cộng đồng dân cư người Việt trên các
cùng đất Cà Mau. Dù người Hoa sinh sống muộn hơn người Khmer nhưng ý
thức tiến ra đô thị rất sớm, họ tập trung thành các chợ, khu xóm để kinh
doanh và sinh sống.
1.2.2. Các hoạt động kinh tế, văn hoá – xã hội
1.2.2.1. Các hoạt động kinh tế
Do vị trí địa lý đắc địa vừa có rừng và có biển nên tạo ra lợi thế kinh tế
rất đa dạng cho vùng. Tiềm năng kinh tế của vùng rất lớn nhưng lại không có
khả năng phá huy hết “sức mạnh”. Cùng với những chuyển dịch cơ cấu kinh
tế, sự phân bố các vùng kinh tế trong công cuộc đổi mới cùng với cả nước,
nền kinh tế của tỉnh đã có những thay đổi đáng kể.
22
Kinh tế nông nghiệp của tỉnh bao gồm các ngành: trồng trọt, chăn ni
ngư nghiệp và lâm nghiệp. Hồ vào nhu cầu của cả nước cũng như nhiệm vụ
cung cấp lương thực, đồng thời cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp chế
biến nơng sản xuất khẩu. Trong cả tỉnh thì nơng nghiệp là ngành kinh tế giữ
vững vị trí rất quan trọng. Được sự ưu đãi nên vùng đất Cà Mau thuộc vùng
đất phù sa trẻ, giàu hàm lượng mùn, độ phì nhiêu cao, với khí hậu cận xích
đạo gió mùa nóng và ấm, khơng có mùa đơng, đặc biệt ít bão lũ, biển bao bọc
hai mặt, hệ thống kênh gạch chằng chịt… là cơ sở cho tỉnh phát triển nên
nông nghiệp đa dạng, bền vững và quy mô lớn. Tuy nhiên để phát triển nông
nghiệp thì người dân trong tỉnh cũng phải bỏ rất nhiều công sức trong việc cải
tạo đất nhiễm mặn, phèn. Việc trồng cây lúa và các cây hoa màu đã cung cấp
nguồn thực phẩm cho cả tỉnh và tạo nên giá trị kinh tế cho cả vùng. Với lợi
thế biển bao bọc nên việc nuôi trồng ngư nghiệp rất phát triển trong vùng. Trữ
lượng hãi sản trong vùng biển của tỉnh ước tính khoảng 320.000 tấn cá nổi,
530.000 tấn cá đáy. Vùng bãi biển thấp, ngập nước tương đối thường xuyên
nên khả năng nuôi thả thuỷ sản mặn, rộng hàng trăm ngàn ha. Ngoài tiềm
năng tự nhiên, Cà Mau cịn có nguồn lao động cho hoạt động cho hoạt động
thuỷ sản dồi dào, có kinh nghiệm trong ni trồng cũng như đánh bắt. Bên
cạnh đó ngư dân tại đây còn trang bị hàng ngàn phương tiện khai thác, có thể
đánh bắt gần bờ và xa bờ, cịn được hỗ trợ cả hệ thơng các ngành dịch vụ của
hệ thống công nghiệp chế biến. Đây cũng là ngành mang về cho tỉnh nguồn
thu nhập cao nhất, và cung cấp thực phẩm trong tỉnh và cả nước. Song song
với sự trù phú của biển thì tỉnh Cà Mau còn được được sự “ban thưởng” của
rừng. Với 3 loại rừng chính là rừng ngặp mặn, rừng ngập úng phèn (rừng
tràm) và rừng nhiệt đới lá rộng thường xanh trên các đảo. Rừng Cà Mau có
năng suất sinh học cao, có giá trị phịng hộ, giá trị mơi trường và giá trị kinh
tế lớn. Có thể nói Cà Mau là tỉnh có nguồn tài nguyên rừng phong phú nhất và
23
có diện tích rừng rộng lớn nhất trong các tỉnh Đồng Bằng Sơng Cửu Long. Vị
trí và ý nghĩa của rừng ngặp mặn Cà mau có thể so sánh với nhiều khu rừng
ngập mặn nổi tiếng trên thế giới.
Các ngành kinh tế công nghiệp cũng không ngừng phát triển và đã thúc
đẩy các ngành kinh tế trọng điểm của tỉnh phát triển. Đồng thời, công nghiệp
đã tạo nên khối lượng hàng hố xuất khẩu quan trọng của tỉnh. Cùng đó là sự
phủ sóng lưới điện trên cả vùng, phục vụ nhu cầu sử dụng điện hộ gia đình và
sản xuất.
Từ lợi thế kinh tế phát triển mạnh như vậy mà vấn đề giải quyết việc
làm cho người dân trong vùng ln được ưu tiên. Xã hội trong tỉnh ln có
nguồn lao động dồi dào và còn giải quyết việc làm cho các tỉnh lân cận. Ngoài
lợi thế kinh tế, trong tỉnh còn đang quan tâm phát triển các lĩnh vực dịch vụ
du lịch, với thế mạnh địa lý là điểm cực Nam của tổ quốc, với chuỗi các đảo
với bề dày lịch sữ. bên cạnh đó tỉnh Cà Mau cịn là khu dự trữ sinh quyển Thế
giới, Mũi Cà Mau được UNESCO cơng nhận vào ngày 26/5/2009, với diện
tích tự nhiên là 371.506 ha, bao gồm vườn quốc gia Mũi Cà Mau, rừng phòng
hộ và bãi bồi ven biển Tây, vườn quốc gia U Minh Hạ. Với địa thế thên nhiên
hùng vĩ như thế thì bên cạnh đó là hệ thống động vật thuỷ sinh dưới rừng
ngập mặn rất đa dạng và phong phú.
Dù có lợi thế về “rừng vàng biển bạc”, nhưng tỉnh ln có sự đầu tư rất
lớn về việc nâng cao chất lượng giáo dục – đào tạo nguồn nhân lực. Với việc
xây dựng mạng lưới trường học phủ dày cả tỉnh và luôn nâng cao chất lượng
trường học đạt chuẩn quốc gia theo hướng hiện đại, phấn đấu đến năm 2020
có trên 70% trường học trong tỉnh đạt chuẩn quốc gia. Cũng cố phát triển các
trường đào tạo chuyên nghiệp. Đẩy mạnh xã hội hoá giáo dục và đào tạo, huy
động mọi nguồn lực trong xã hội tham gia để phát triển giáo dục, phát triển
thêm các trường phổ thơng ngồi cơng lập. Ngồi ra cịn nâng cao chất lượng