Tải bản đầy đủ (.docx) (114 trang)

BỘ ĐỀ MÔN XÂY DỰNG ĐẢNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (614.47 KB, 114 trang )

MƠN XÂY DỰNG ĐẢNG
ĐỀ 1:
Câu 1/ĐỀ 1: Vì sao Đảng Cộng sản mang bản chất giai cấp công nhân?
Mỗi một giai cấp có thể có nhiều chính đảng chính trị, nhưng một chính đảng
bao giờ cũng mang bản chất của một giai cấp nhất định. Đảng cộng sản ra đời xuất
phát từ quá trình xây dựng lý luận đường lối, lập trường giai cấp vô sản của C. Mác
và Ph. Ăngghen. Đảng cộng sản phải là một chính đảng độc lập của giai cấp cơng
nhân về chính trị, tư tưởng và tổ chức, không bị lệ thuộc vào giai cấp tư sản. Đảng
độc lập, nhưng không cô độc, biệt lập với tồn thể giai cấp cơng nhân và quần chúng
lao động; trái lại, đảng phải gắn bó chặt chẽ với giai cấp và quần chúng nhân dân.
Đảng có tính giai cấp và đại diện cho lợi ích của tồn thể giai cấp công nhân:
“Những người cộng sản không phải là một đảng riêng biệt, đối lập với các đảng
công nhân khác. Họ tuyệt nhiên khơng có một lợi ích nào tách khỏi lợi ích của tồn
thể giai cấp vơ sản”
Từ đó Đảng cộng sản ln mang bản chất của giai cấp cơng nhân, lợi ích của
giai cấp cơng nhân và của nhân dân lao động.
Thứ nhất, xuất phát từ quy luật ra đời của Đảng Cộng sản:
Đảng cộng sản phải là một chính đảng độc lập của giai cấp cơng nhân về chính
trị, tư tưởng và tổ chức, khơng bị lệ thuộc vào giai cấp tư sản. Đảng là sản phẩm của
sự kết hợp của lý luận chủ nghĩa xã hội khoa học và phong trào công nhân. Chủ
nghĩa xã hội khoa học là cơ sở lý luận, là tiền đề khoa học đảm bảo cho phong trào
công nhân thắng lợi, là cơ sở để GCCN nắm được sứ mệnh lịch sử của mình đưa
cuộc đấu tranh giai cấp từ tự phát sang tự giác, đấu tranh tự mình sang vì mình.
Phong trào cơng nhân là q trình thực tiễn, là cơ sở để CNXHKH phát triển, sự
phát triển sâu rộng, mạnh mẽ của PTCN là chất liệu thực tiễn để tổng kết, bổ sung
lý luận cho sự phát triển của CNXHKH.
Thứ hai, xuất phát từ đặc tính cách mạng của GCCN: GCCN ra đời cùng
với quá trình phát triển của nền đại công nghiệp, là giai cấp vô sản, giác ngộ nhất và
cũng là giai cấp cách mạng triệt để nhất. Cùng với quá trình phát triển mạnh của
LLSX làm cho tính chất và trình độ xã hội hóa cao của lực lượng sản xuất mâu
thuẫn sâu sắc với quan hệ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất (do giai cấp tư sản đại


biểu). Mâu thuẫn đó phát triển đến mức chỉ có thể xóa bỏ sở hữu tư nhân về tư liệu
sản xuất, thay thế bằng chế độ sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất mới có thể làm
cho sản xuất xã hội tiếp tục phát triển. Việc xóa bỏ chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu
sản xuất dưới chủ nghĩa tư bản để mở đường cho lực lượng sản xuất xã hội phát
triển hơn nữa chỉ có thể được thực hiện bằng con đường cách mạng xã hội. Giai cấp
công nhân muốn thực hiện sứ mệnh lịch sử trở thành giai cấp cầm quyền thì điều
kiện tiên quyết là phải tổ chức ra chính đảng độc lập của mình. Sứ mệnh lịch sử của
GCCN trong cuộc đấu tranh xóa bỏ nền thống trị của giai cấp tư sản tất yếu đòi hỏi
sự ra đời của chính đảng vơ sản với tư cách là lãnh tự chính trị, đội tiên phong của
giai cấp công nhân và nhân dân lao động.
Thứ ba, xuất phát từ bốn yếu tố quy định bản chất GCCN của ĐCS
Lênin cho rằng để đánh giá một đảng có phải là chính đảng mang bản chất GCCN
hay khơng phải căn cứ vào đường lối, chiến lược, sách lược của đảng; tỷ lệ đảng
viên xuất thân từ công nhân; lãnh tụ của đảng là những người thế nào và hệ tư tưởng


mà đảng đó lấy làm cơ sở tư tưởng. Do vậy, Đảng Cộng sản có phải là một chính
đảng cách mạng chân chính, mang bản chất GCCN hay khơng phải căn cứ vào
những yêu tố sau: một là, thành phần xuất thân đảng viên đa phần từ GCCN – đây là
cơ sở xã hội đảm bảo cho Đảng trong sạch về tư tưởng, là giai cấp cách mạng, triệt
để nhất, có ý thức và kỷ luật. Đảng ln ln đứng trên lập trường của giai cấp công
nhân và mọi chủ trương chiến lược, sách lược của đản đều luôn luôn xuất phát từ lợi
ích vì GCCN. Nhưng đảng khơng chỉ đại biểu cho quyền lợi của giai cấp công nhân
mà cịn đại biểu cho quyền lợi của tồn thể nhân dân lao động. Bởi vì GCCN chỉ có
thể tự giải phóng được mình nếu đồng thời giải phóng cho các tầng lớp nhân dân lao
động khác trong xã hội thoát khỏi ách áp bức bóc lột.; hai là Đảng cộng sản do
GCCN lãnh đạo; ba là Đảng cộng sản phải đi theo ngun tắc, tính chất hành động
của đảng đó là làm cách mạng triệt để và đảng cộng sản được xây dựng trên tinh
thần của nguyên tắc tập trung dân chủ; bốn là Đảng Cộng sản lấy hệ tư tưởng chủ
nghĩa Mác-Lênin làm đường lối, sách lược chính trị của Đảng.

Thứ tư, ĐCS là một chính đảng độc lập, mang bản chất GCCN rõ rệt
ĐCS phải là một chính đảng độc lập của GCCN về chính trị, tư tưởng và tổ
chức, không bị lệ thuộc vào giai cấp tư sản. Đảng độc lập nhưng phải gắn bó chặt
chẽ với GCCN và quần chúng nhân dân. Đảng có tính giai cấp và đại diện cho lợi
ích của tồn thể GCCN. Một giai cấp có thể có nhiều đảng chính trị, nhưng một
chính đảng bao giờ cũng mang bản chất của một giai cấp xã hội nhất định, khơng có
chính đảng mang bản chất của nhiều giai cấp.
ĐCS là tổ chức chính trị có mục đích lật đổ sự thống trị của giai cấp tư sản,
giành lấy chính quyền và thiết lập sự thống trị của giai cấp vô sản. Để thực hiện mục
đích chính trị đó, trong mối quan hệ với các đảng vô sản và tổ chức khác của giai
cấp cơng nhân, ĐCS phải tích cực tham gia hoạt động trong các tổ chức của giai cấp
và hướng hoạt động của các tổ chức đó vào quỹ đạo của cách mạng vô sản.
Trên đây là các lý do chứng minh ĐCS mang bản chất giai cấp công nhân.
Mác và Ăngghen đã chỉ ra rằng: để chống lại quyền lực liên hiệp của các giai cấp
hữu sản, giai cấp công nhân chỉ có thể hành động với tính cách giai cấp khi được tổ
chức lại thành một chính đảng độc lập đối với tất cả các đảng phái cũ do các giai cấp
hữu sản lập ra. Do vậy, ĐCS là một chính đảng độc lập, mang bản chất GCCN rõ
rệt. ĐCS được xây dựng trên tinh thần của nguyên tắc tập trung dân chủ, người vào
đảng phải thừa nhận thế giới quan cộng sản chủ nghĩa, hành động phù hợp với mục
tiêu, nhiệm vụ của đảng, tự giác phục tùng nghị quyết và giữ gìn bí mật của đảng.
ĐCS phải có cơ cấu tổ chức phù hợp với điều kiện và thời gian hoạt động của đảng,
với nhiệm vụ của đảng phải giải quyết.
Câu 2/ĐỀ 1: Phân tích cơ sở lý luận và thực tiễn nhằm tăng cường bản chất giai
cấp công nhân của Đảng ta. Liên hệ ở Đảng bộ đồng chí?
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời lãnh đạo cuộc đấu tranh của giai cấp công
nhân và nhân dân lao động Việt Nam chống phong kiến, đế quốc, thực dân, giải
phóng và thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Cũng như các
đảng cộng sản chân chính khác, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn mang bản chất giai
cấp công nhân Việt Nam. Bản chất giai cấp công nhân của Đảng là cách mạng và
khoa học. Bản chất đó thể hiện ở mục tiêu, lý tưởng của Đảng là xây dựng thành

công chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản ở Việt Nam; nền tảng tư tưởng của
Đảng là chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hơ Chí Minh; ngun tắc tổ chức cơ bản


của Đảng là tập trung dân chủ; Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân; lấy tự phê bình
và phê bình làm quy luật phát triển và nguyên tắc tổ chức của Đảng...Cơ sở lý luận
và thực tiễn nhằm tăng cường bản chất giai cấp công nhân của Đảng ta đó là:
Thứ nhất, xuất phát từ quy luật ra đời của Đảng Cộng sản.
Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam tuân theo quy luật chung và đặc thù
của cách mạng Việt Nam. Trong quá trình phát triển dù tên gọi thế nào thì Đảng ta
ln ln mang bản chất giai cấp công nhân. Bản chất giai cấp công nhân của Đảng
thể hiện ở chỗ: mục tiêu, lý tưởng của Đảng là chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng
sản; nền tảng tư tưởng của Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh; nguyên tắc tổ chức cơ bản của Đảng là tập trung dân chủ; Đảng gắn bó mật
thiết với nhân dân; lấy phê bình và tự phê bình làm quy luật phát triển. Đảng khơng
chỉ mang lại lợi ích cho giai cấp cơng nhân, nhân dân mà cho cả dân tộc. Ngồi lợi
ích của dân tộc, Đảng ta khơng có lợi ích nào khác. Trong tình hình hiện nay, khi
nước ta đang hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, các thế lực thù địch tiếp tục đẩy
mạnh chống phá thì việc tăng cường bản chất giai cấp công nhân của Đảng càng trở
nên quan trọng, cấp thiết.
Chủ tịch HCM đã vận dụng sáng tạo CN Mác – Lênin vào thực tiễn tình hình
Việt Nam để thành lập ĐCSVN. Người cho rằng, ĐCSVN ra đời là sự kết hợp giữa
CN Mác-Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước của dân tộc Việt
Nam vì là nước thuộc địa nữa phong kiến, nền công nghiệp chưa phát triển nên số
lượng công nhân của nước ta khiêm tốn nếu chờ đợi cho đủ số lượng thì sẽ mất thời
cơ. Bên cạnh đó, phong trào yêu nước của Việt Nam phát triển mạnh mẽ theo hướng
phát triển tiến bộ, cùng chung số phận với GCCN, bị ách áp bức bóc lột. Bác đã căn
cứ vào sự phát triển của phong trào yêu nước của dân tộc VN có sự tương đồng về
khát vọng giành độc lập dân tộc, là yếu tố bổ sung, tạo lập và cộng hưởng chính trị.
Bác đã kết hợp chặt chẽ yếu tố giai cấp và yếu tố dân tộc trong quá trình thành lập

Đảng và lãnh đạo phong trào cách mạng VN. Đây là một đóng góp sáng tạo xuất sắc
của Hồ Chí Minh.
Thứ hai, xuất phát từ những yếu tố quyết định bản chất giai cấp công nhân
của Đảng ta
Chủ tịch HCM đã khẳng định rằng: ĐCSVN là đảng của GCCN, đội tiên
phong của GCCN, mang bản chất GCCN. Trong thành phần của mình, ngồi cơng
nhân, cịn có những người ưu tú trong giai cấp nơng dân, trí thức và các thành phần
khác. Đảng ta cũng đã khẳng định rằng, để bảo đảm và tăng cường bản chất giai cấp
cơng nhân, Đảng ln ln gắn bó mật thiết với giai cấp cơng nhân, nhân dân lao
động và tồn thể dân tộc trong tất cả các thời kỳ của cách mạng. CT HCM cho rằng
Đảng luôn luôn chú trọng tính thống nhất giữa yếu tố giai cấp và yếu tố dân tộc. Sức
mạnh của Đảng không chỉ bắt nguồn từ giai cấp cơng nhân mà cịn bắt nguồn từ các
tầng lớp nhân dân lao động khác.
Đối với nền tảng tư tưởng, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá
độ lên CNXH (bổ sung phát triển năm 2011) của Đảng đã ghi: ĐCS VN lấy chủ
nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho
mọi hoạt động của mình. Điều này hồn tồn đúng đắn và phù hợp với q trình
phát triển của cách mạng Việt Nam và tiến trình lịch sử thế giới. Lấy chủ nhĩa MácLênin “làm cốt” không có nghĩa là giáo điều, máy móc theo từng câu, từng chữ của
Mác, của Lênin, mà chính là nắm vững tinh thần của chủ nghĩa Mác-Lênin, trong đó


linh hồn sống là phép biện chứng duy vật. Hay theo cách nói của Hồ Chí Minh là
nắm vững lập trường, quan điểm và phương pháp của chủ nghĩa Mác-Lênin. Đồng
thời, phải thâu thái những tinh hoa của văn hoá dân tộc và nhân loại, tham khảo kinh
nghiệm của các đảng anh em, vận dụng sáng tạo vào hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam
để hoạch định đường lối đúng đắn. Bản thân Hồ Chí Minh đã nêu một tấm gương
mẫu mực về vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào hoàn cảnh cụ
thể của Việt Nam.
Đối với phương diện tổ chức, Đảng vận hành theo 05 nguyên tắc hoạt động
trong đó nguyên tắc tập trung dân chủ là nguyên tắc tổ chức và hoạt động cơ bản của

Đảng.
Đối với phương diện lợi ích, ĐCS VN là đội tiên phong của GCCN, đồng thời
là đội tiền phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, như vậy về
phương diện lợi ích của Đảng ta là thống nhất. ĐCS VN là một tổ chức chặt chẽ,
thống nhất ý chí và hành động, đồn kết trên cơ sở Cương lĩnh chính trị và Điều lệ
Đảng; thường xuyên tự phê bình và phê bình để phát triển. Đảng lãnh đạo hệ thống
chính trị, đồng thời là một bộ phận của hệ thống ấy. Đảng gắn bó mật thiết với nhân
dân và Đảng tích cực kết nạp những quần chúng ưu tú của giai cấp công nhân, nhân
dân lao động vào Đảng, kịp thời đưa những người không đủ tư cách ra khỏi Đảng.
ĐCS VN kết hợp chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tê trong sáng
của GCCN, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.
Từ cơ sở lý luận và thực tiễn trên, phương hướng, nhiệm vụ giữ vững và
tăng cường bản chất GCCN của Đảng trong giai đoạn cách mạng hiện nay.
Từ Đại hội VIII (năm 1996), Đảng ta khẳng định giữ vững và tăng cường bản
chất GCCN của Đảng là nhiệm vụ có ý nghĩa quan trọng hàng đầu đối với Đảng ta,
đồng thời Đảng chỉ rõ các biện pháp nhằm giữ vững và tăng cường bản chất GCCN
của Đảng đó là: một là kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; hai
là kiện định và vận dụng sáng tạo, góp phần phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh; ba là giữ vững các nguyên tắc sinh hoạt Đảng, trước hết là
nguyên tắc tập trung dân chủ, trong đó chú trọng việc xây dựng các quy chế, quy
định để thực hiện các nguyên tắc, nhận dạng những biến dạng của nguyên tắc tập
trung dân chủ để chấn chỉnh, khắc phục; bốn là thường xuyên bồi dưỡng lập trường,
quan điểm, ý thức của GCCN, xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên theo quan điểm
của GCCN, trong đó chú trọng giao dục đội ngũ cán bộ đảng viên đứng vững trên
lập trường GCCN, xây dựng đội ngũ cán bộ đủ đức, đủ tầm, có khát vọng cống hiến
đáp ứng yêu cầu mới, có chiến lược sử dụng nhân tài để tạo nguồn nhân lực cho
Đảng như có cơ chế chính sách đãi ngộ để tạo động lực, tạo môi trường dân chủ cho
nhân tài phát triển, tạo ra khơng gian văn hóa và sự tin dùng cho nhân tài phát triển;
năm là Đảng gắn bó mật thiệt với nhân dân, tơn trọng nhân dân, chịu sự giám sát của
nhân dân; sáu là Đảng trung thành với chủ nghĩa quốc tế của GCCN, kết hợp sức

mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.
Kế thừa và phát triển những tư tưởng của Đại hội VIII về giữ vững và tăng
cường bản chất giai cấp công nhân của Đảng, đến Đại hội XII, Đảng ta tiếp tục
khẳng định: "Giữ vững bản chất giai cấp công nhân của Đảng, vai trò tiền phong
gương mẫu của cán bộ, đảng viên" và chỉ rõ phương hướng, nhiệm vụ tăng cường
bản chất giai cấp công nhân của Đảng giai đoạn hiện nay là: Kiên định chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, vận dụng sáng tạo và phát triển phù hợp với


thực tiễn Việt Nam; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên
định đường lối đổi mới. Nâng cao bản lĩnh chính trị, trình độ trí tuệ, tính chiến đấu
của tồn Đảng và của mỗi cán bộ, đảng viên, trước hết là cán bộ lãnh đạo, quản lý
chủ chốt các cấp; không dao động trong bất cứ tình huống nào.... Kiên định những
vấn đề có tính ngun tắc trong cơng tác xây dựng Đảng. Nâng cao năng lực cầm
quyền của Đảng và bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng có hiệu lực, hiệu quả; giữ vững
bản lĩnh chính trị của Đảng, của các tổ chức đảng, của cán bộ, đảng viên. Nâng cao
năng lực hoạch định đường lối, chính sách phù hợp với quy luật khách quan và đặc
điểm của Việt Nam. Hoàn thiện cơ chế, quy chế và tổ chức thực hiện nghiêm túc, có
hiệu quả việc tự phê bình, phê bình chất vấn trong các kỳ hợp của Ban Chấp hành
Trung ương, cấp ủy, ban thường vụ cấp ủy các cấp.
Tóm lai, Bản chất giai cấp cơng nhân là tiêu chí cơ bản để phân biệt Đảng cộng sản
chân chính với các đảng phái khác. Có thể nói, giữ vững và tăng cường bản chất giai cấp
công nhân là vấn đề cơ bản, bao trùm, có tính ngun tắc đối với tất cả các đảng mác-xít
lê-nin-nít chân chính. Điều đó càng đặc biệt đối với Đảng ta - một đảng ra đời và trưởng
thành ở một nước nông nghiệp lạc hậu, giai cấp cơng nhân cịn nhỏ bé, đảng viên xuất thân
từ cơng nhân cịn ít; nay lại đang lãnh đạo đất nước trong điều kiện phát triển nền kinh tế
thị trường định hướng XHCN, hội nhập kinh tế quốc tế; các thế lực thù địch tìm mọi cách
hạ uy tín, phủ nhận đường lối đổi mới, xố bỏ vai trị lãnh đạo của Đảng với tồn xã hội.
Vì vậy, giữ vững và tăng cường bản chất giai cấp công nhân của Đảng là một nhiệm vụ
chính trị quan trọng hàng đầu của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta, nhằm đảm bảo cho

Đảng ta ln ln là Đảng Cộng sản chân chính, hoạt động vì lợi ích của GCCN, nhân dân
lao động và của cả dân tộc.
Liên hệ ở Đảng bộ địa phương
Trong thời gian qua, mặc dù trong điều kiện kinh tế-xã hội ở địa phương cịn
nhiều khó khăn, nhưng Đảng bộ tỉnh Kon Tum luôn chú trọng đến công tác xây
dựng Đảng, củng cố, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các tổ chức
Đảng và đảng viên với mục tiêu tạo động lực thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội ở địa
phương. Cụ thể:
Trong triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội XII của Đảng và Nghị quyết
Đại hội XV Đảng bộ tỉnh, Ban Thường vụ Tỉnh ủy đã ban hành Nghị quyết số 03NQ/TU, ngày 08-8-2016, về “Nâng cao chất lượng hoạt động của tổ chức cơ sở
đảng và tổ chức đảng trực thuộc đảng ủy cơ sở”; chú trọng triển khai kịp thời, đúng
quy định đối với công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, điều động, luân chuyển, bố
trí, sử dụng cán bộ, nhất là cán bộ nữ, trẻ, dân tộc thiểu số; sắp xếp lại tổ chức bộ
máy, tinh giản bộ máy và biên chế cơ quan đảng, nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các
đồn thể chính trị - xã hội và sắp xếp lại mơ hình tổ chức cơ sở đảng; thực hiện tốt
công tác tạo nguồn, kết nạp đảng viên mới...
Bên cạnh đó, Tỉnh ủy, Ban Thường vụ Tỉnh ủy ban hành nhiều nghị quyết
quan trọng gắn công tác xây dựng Đảng với phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn,
như Nghị quyết về “Xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2016 - 2020, có tính đến
năm 2025”; Nghị quyết về “Tiếp tục xây dựng các xã đặc biệt khó khăn trong tình
hình mới”; Nghị quyết về “Tiếp tục nâng cao chất lượng giáo dục đối với học sinh
dân tộc thiểu số giai đoạn 2016 - 2020”, Nghị quyết về “Phát triển nông nghiệp
ứng dụng công nghệ cao gắn với chế biến trên địa bàn tỉnh”, Nghị quyết về “Phát


triển lâm nghiệp theo hướng bền vững trên địa bàn tỉnh”, Nghị quyết về “Giảm
nghèo theo phương pháp tiếp cận đa chiều giai đoạn 2016 - 2020”...
Tỉnh ủy đã tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, trọng tâm là công tác tự
kiểm tra, kiểm tra việc thực hiện nhiệm vụ của đảng viên theo quy định của Điều lệ
Đảng; chú trọng kiểm tra, giám sát đối với những lĩnh vực nhạy cảm, dễ phát sinh

tiêu cực, những vụ, việc nổi cộm mà dư luận quan tâm. Bên cạnh đó, Tỉnh ủy cịn
tăng cường cơng tác dân vận, vận động nhân dân tham gia xây dựng, củng cố hệ
thống chính trị ở cơ sở; kịp thời giải quyết, xử lý những vụ, việc nổi cộm, bức xúc
xảy ra tại cơ sở, khơng để tạo “điểm nóng”.
Cơng tác phát triển Đảng được quan tâm, từ năm 2016 đến nay, toàn Đảng bộ
đã kết nạp được 3.794 đảng viên (đạt 75% chỉ tiêu Nghị quyết), nâng tổng số đảng
viên toàn Đảng bộ lên 27.190 đồng chí. Đảng bộ tỉnh hiện có 15 đảng bộ trực thuộc,
698 tổ chức cơ sở đảng với 1.908 tổ chức đảng trực thuộc đảng ủy cơ sở.
Để nâng cao bản chất GCCN của Đảng, Đảng bộ tỉnh Kon Tum cần thực hiện
những nội dung sau: Gắn chặt xây dựng Đảng với xây dựng GCCN, gắn chặt đổi
mới hệ thống chính trị với đổi mới tổ chức cơng đoàn; Gắn chặt giáo dục lý luận tư
tưởng cách mạng nhất là cho thế hệ công nhân trẻ với giáo dục đạo đức, lối sống,
phong cách, khoa học - kỹ thuật, nâng cao chất lượng nguồn lực công nhân; Quan
tâm xây dựng các tổ chức đảng và đồn thể chính trị - xã hội trong các doanh
nghiệp, nhất là doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài; Đổi
mới mạnh mẽ tổ chức và phương thức hoạt động của các tổ chức cơng đồn, làm sao
cho Cơng đồn thực sự là đại diện cho lợi ích của công nhân, người lao động; khắc
phục những biểu hiện hành chính hóa, hình thức hóa trong hoạt động của Cơng
đồn; Tăng cường nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn về GCCN, phong trào cơng
nhân và Cơng đồn trên thế giới và trong nước. Cần tiếp tục nghiên cứu làm sáng tỏ
những đặc điểm mới của GCCN hiện đại trong điều kiện cách mạng khoa học - công
nghệ, kinh tế tri thức, văn minh tin học, tiếp tục đi sâu vào khái niệm GCCN Việt
Nam, mối quan hệ của GCCN Việt Nam với tầng lớp trí thức, sự biến đổi về cơ cấu,
đặc điểm của GCCN Việt Nam, các xu thế biến đổi (xu thế trí thức hóa, hiện đại
hóa, đa dạng hóa...) của cơng nhân. Cần phê phán những quan điểm sai trái, lệch lạc
về GCCN như cho rằng GCCN ngày nay đã bị tan biến vào xã hội hậu công nghiệp,
bị đánh mất bản chất cách mạng của mình, hoặc xem GCCN chỉ là những người lao
động cơ bắp, nghèo khổ, học vấn thấp, từ đó phủ nhận vai trò lãnh đạo của GCCN
Việt Nam.



ĐỀ 2:
Câu 1/ Phân tích tính tất yếu khách quan về sự ra đời của Đảng cộng sản
Đảng Cộng sản là chính đảng của giai cấp cơng nhân. Nó là đội tiên phong, bộ
tham mưu chiến đấu, lãnh tụ chính trị của giai cấp công nhân, đại biểu trung thành
cho lợi ích của giai cấp cơng nhân, của nhân dân lao động và của cả dân tộc. Đảng
Cộng sản bao gồm những bộ phận tiên tiến của giai cấp công nhân và các tầng lớp
nhân dân lao động. Đảng Cộng sản lấy chủ nghĩa Mác – Lênin làm nền tảng tư
tưởng và kim chỉ nam cho hành động, lấy nguyên tắc tập trung dân chủ làm nguyên
tắc tổ chức cơ bản của mình.
C.Mác và Ph.Ăngghen đã chỉ rõ, đảng cộng sản ra đời là kết quả tất yếu của
sự kết hợp chủ nghĩa xã hội khoa học với phong trào công nhân. Nếu lý luận về khoa
học không kết hợp với phong trào cơng nhân thì về mặt tổ chức, thành tựu cao nhất
của nó là các hội truyền bá chủ nghĩa Mác. Nếu phong trào công nhân không kết
hợp với chủ nghĩa xã hội khoa học, thì về mặt lý luận thành tựu cao nhất của nó là
chủ nghĩa cơng Đồn. Chỉ đến khi chủ nghĩa xã hội thâm nhập vào phong trào công
nhân, làm cho giai cấp công nhân giác ngộ về địa vị lịch sử của mình, có ý thức về
cuộc đấu tranh chính trị nhằm giải phóng giai cấp và do đó nhận thấy tính tất yếu
phải lập ra chính Đảng độc lập của giai cấp mình để lãnh đạo cuộc đấu tranh giành
chun chính vơ sản.
Thứ nhất, Sự vận động, phát triển của phương thức sản xuất tất yếu dẫn
đến đấu tranh giai cấp:
Chủ nghĩa Mác chỉ ra rằng: Xã hội phân chia thành giai cấp tất yếu dẫn đến
mâu thuẫn giai cấp và đấu tranh giai cấp nhằm giải quyết mâu thuẫn về lợi ích giữa
các giai cấp. Dưới chế độ tư bản chủ nghĩa có nhiều giai cấp mâu thuẫn sâu sắc về
lợi ích với giai cấp tư sản. Trong số các giai cấp bị giai cấp tư sản làm cho lụi bại, bị
tiêu diệt và suy tàn, chỉ duy nhất có giai cấp vô sản là ngày càng hùng mạnh: họ là
con đẻ của đại nông nghiệp, bị tước đoạt hết tư liệu sản xuất,buộc phải làm thuê cho
giai cấp tư sản;là giai cấp xã hội đông đảo sống tập trung ở các trung tâm cơng
nghiệp và đơ thị; có tinh thần đoàn kết; kỷ luật và cách mạng cao. Hơn nữa, tính

cách mạng của giai cấp cơng nhân khơng chỉ hình thành bởi những đặc điểm trên,
mà cịn vì giai cấp cơng nhân là lực lượng khơng ngừng cách mạng hóa các lực
lượng sản xuất xã hội,đại biểu cho phương thức sản xuất tiến bộ trong tương lai.
Lực lượng sản xuất không ngừng phát triển (do giai cấp công nhân đại biểu),
làm cho tính chất trình độ xã hội hóa cao của lực lượng sản xuất mâu thuẫn sâu sắc
với quan hệ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất (do giai cấp tư sản đại biểu). Mâu
thuẫn đó phát triển đến mức chỉ có thể xóa bỏ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất,
thay thế bằng chế độ sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất mới có thể làm cho sản
xuất xã hội tiếp tục phát triển. Song giai cấp tư sản không bao giờ tự nguyện từ bỏ
phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa –phương thức dựa trên chế độ sở hữu tư


nhân về tư liệu sản xuất do họ đại biểu. Việc xóa bỏ chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu
sản xuất dưới chủ nghĩa tư bản để mở đường cho lực lượng sản xuất xã hội phát
triển hơn nữa chỉ có thể thực hiện bằng con đường cách mạng xã hội.
Thắng lợi của cách mạng xã hội do giai cấp công nhân lãnh đạo và tiến hành
sẽ mở ra thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa cộng sản và tương ứng với
thời kỳ này, chun chính vơ sản được thiết lập, là hình thức chính trị mà giai cấp
cơng nhân và nhân dân lao động sử dụng vào mục đích kiến tạo những cơ sở kinh tế,
văn hóa, xã hội cho chủ nghĩa cộng sản tương lai.Khái quát những tư tưởng vĩ đại
nêu trong Tuyên ngôn của Đảng cộng sản,Ph.Ăngghen viết “Tư tưởng cơ bản và
chủ đạo của “Tuyên ngôn ” là :Trong mọi thời đại lịch sử, sản xuất kinh tế và cơ cấu
xã hội –cơ cấu này tất yếu phải do sản xuất kinh tế mà ra “cả 2 cái đó cấu thành cơ
sở của lịch sử chính trị và lịch sử tư tưởng của thời đại ấy; do đó (từ khi chế độ công
hữu ruộng đất nguyên thủy tan rã ), toàn bộ lịch sử và lịch sử cuộc đấu tranh giai
cấp, đấu tranh giành những giai cấp bị bóc lột và bị áp bức (tức là giai cấp vô sản )
khơng cịn có thể tự giải phóng khỏi tay giai cấp bóc lột và áp bức mình (tức là giai
cấp tư sản ) được nữa, nếu không đồng thời và vĩnh viễn giải phóng tồn thể xã hội
khỏi ách bóc lột, ách áp bức và khỏi cuộc đấu tranh giai cấp”.
Thứ hai : Đấu tranh giai cấp đạt đến trình độ nhất định sễ dẫn tới sự ra đời

của chính Đảng; đấu tranh giữa giai cấp vơ sản với giai cấp tư sản đòi hỏi sự ra
đời của Đảng cộng sản .
Đấu tranh giai cấp đạt đến trình độ nhất định sẽ xuất hiện các Đảng chính trị;
đấu tranh giữa các Đảng chính trị là biểu hiện đấu tranh giai cấp đạt đến trình độ khá
cao Ph.Ăngghen chỉ rõ quy luật ra đời của các chính Đảng : “Lúc ấy, ở Man-sen-xtơ,
tôi đã nhận thấy rõ ràng rằng những sự kiện kinh tế mà từ trước tới nay những tác
phẩm sử học cho là khơng đóng một vai trị nào, hoặc có chăng nữa thì chỉ đóng 1
vai trị thảm hại, thì ít nhất trong thế giới hiện đại, cũng đã là 1 lực lượng lịch sử
quyết định: rằng chúng là cơ sở cho sự xuất hiện của những đối kháng giai cấp hiện
nay; rằng trong những nước mà đại công nghiệp đã làm cho những đối kháng giai
cấp ấy là cơ sở của sự hình thành ra các chính đảng, của các cuộc đấu tranh giữa các
đảng.”
Đánh đổ chế độ nô lệ thiết lập chế độ phong kiến là một bước tiến tới của lịch
sử nhân loại. Sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất xã hội làm xuất hiện
trong lịng xã hội phong kiến, ngồi hai giai cấp lớn là giai cấp địa chủ phong kiến
và nơng đân, cịn có các giai cấp tư sản giai cấp công nhân, tầng lớp tiểu thương,
tiểu chủ ngày càng lớn mạnh. Lực lượng sản xuất phát triển vượt bậc so với chế độ
nô lệ làm tiềm đề để vật chất có ý nghĩa quyết định để giai cấp địa chủ phong kiến
xây dựng bộ máy nhà nước hùng mạnh bảo vệ quyền lợi của giai cấp mình. Muốn
đánh đổ chế độ phong kiến, lập nên chế độ tư bản chủ nghĩa, giai cấp tư sản phải
làm cách mạng xã hội đập tan bộ máy nhà nước phong kiến, giành chính quyền về
tay giai cấp mình.
Thứ 3, Xuất phát từ sứ mệnh lịch sử của GCCN: Giai cấp vô sản muốn thực
hiện được sứ mệnh lịch sử trở thành giai cấp cầm quyền, đứng trên vũ đài lịch sử,
thiết lập phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa, xóa bỏ cơ sở kinh tế, xã hội của
chế độ người bóc lột người thì điều kiện tiên quyết là phải tổ chức ra chính Đảng
độc lập của mình. Chính Đảng độc lập có vai trị lãnh đạo cuộc đấu tranh giai cấp
của giai cấp công nhân chuyển từ đấu tranh tự phát, lẻ tẻ, rời rạc, vì mục đích chính



trị rộng lớn là phát triển giai cấp công nhân từ một giai cấp “ tự mình ” thành giai
cấp “vì mình”. C.Mác và Ph.Ăngghen đã chỉ rõ :“Trong cuộc đấu tranh của mình
chống quyền lực liên hợp của các giai cấp hữu sản, giai cấp công nhân, chỉ khi được
tổ chức thành 1 chính Đảng độc lập đối lập với tất cả các chính Đảng cũ do giai cấp
hữu sản lập nên, thì mới có thể hành động với tư cách là một giai cấp. Việc tổ chức
như vậy giai cấp cơng nhân thành một chính Đảng là cần thiết để đảm bảo thắng lợi
của cách mạng xã hội và giành được mục đích cuối cùng của nó là thủ tiêu các giai
cấp”
Như vậy, sứ mệnh lịch sử của giai cấp vơ sản trong cuộc đấu tranh xóa bỏ nền
thống trị của giai cấp tư sản tất yếu đòi hỏi sự ra đời của chính Đảng vơ sản với tư
cách là lãnh tụ chính trị, đội tiên phong của giai cấp công nhân và nhân dân lao động
.
Câu 2/ĐỀ 2: Phân tích nội dung bản chất giai cấp cơng nhân của Đảng ta trong
bối cảnh hiện nay. Liên hệ ở Đảng bộ đồng chí
Từ khi thành lập cho đến nay, dù qua nhiều tên gọi khác nhau - Đảng Cộng
sản hay Đảng Lao động - Đảng ta luôn mang bản chất giai cấp công nhân (GCCN).
“Sách lược vắn tắt của Đảng” do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc soạn thảo và được thông
qua tại Hội nghị thành lập Đảng năm 1930, xác định “Đảng là đội tiên phong của
giai cấp vô sản, phải thu phục cho được đại bộ phận giai cấp mình, phải làm cho giai
cấp mình lãnh đạo được dân chúng”. Bản chất GCCN của Đảng thể hiện ở chỗ: mục
tiêu, lý tưởng của Đảng là CNXH và chủ nghĩa cộng sản; nền tảng tư tưởng của
Đảng là chủ nghĩa Mác - Lênin, và tư tưởng Hồ Chí Minh; nguyên tắc tổ chức cơ
bản của Đảng là tập trung dân chủ; Đảng liên hệ mật thiết với quần chúng; lấy phê
bình và tự phê bình làm quy luật phát triển,...Cụ thể:
Về phương diện chính trị tư tưởng: Đảng ta lấy Chủ nghĩa Mac Lê Nin, tư
tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng:
Khẳng định chủ nghĩa Mác - Lênin là nền tảng tư tưởng, là kim chỉ nam cho
mọi hoạt động của Đảng, Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Đảng muốn vững thì phải có chủ
nghĩa làm cốt, trong Đảng ai cũng hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy. Đảng mà
khơng có chủ nghĩa cũng như người khơng có trí khơn, tàu khơng có bàn chỉ nam.

Bây giờ học thuyết nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách
mạng nhất là chủ nghĩa Lênin”. Lấy chủ nghĩa Mác - Lênin “làm cốt”, điều đó
khơng có nghĩa là vận dụng một cách máy móc, rập khn từng câu, từng chữ của C.
Mác, Ph. Ăngghen và V.I. Lênin mà phải nắm lấy cái bản chất khoa học, cách mạng
và sáng tạo của chủ nghĩa Mác. Đồng thời phải biết “phân tích cụ thể tình hình cụ
thể” của thực tiễn cách mạng Việt Nam để hoạch định đường lối, chính sách đúng
đắn. Phải ra sức làm giàu trí tuệ của Đảng bằng cách không ngừng học tập nâng cao
trình độ lý luận, thực tiễn cách mạng, đấu tranh chống chủ nghĩa cơ hội, xét lại…
Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Chỉ có sự lãnh đạo của một đảng biết vận
dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước mình thì mới có
thể đưa cách mạng giải phóng dân tộc đến thắng lợi và cách mạng xã hội chủ nghĩa
đến thành công”.
Về phương diện tổ chức Đảng: lấy nguyên tắc tập trung dân chủ làm nguyên
tắc cơ bản:
Ngay từ khi ra đời, Đảng đã xác định: TTDC là nguyên tắc tổ chức cơ bản, có
vai trị trực tiếp chỉ đạo tồn bộ quá trình xây dựng, tổ chức, sinh hoạt và hoạt động


lãnh đạo của Đảng; quy định cơ cấu, hình thức tổ chức đảng; thiết lập chế độ các cơ
quan lãnh đạo của Đảng; đồng thời, xác lập nguyên tắc giải quyết các mối quan hệ
trong nội bộ Đảng. Bởi vậy, trong mọi điều kiện, hoàn cảnh, nhất là khi Liên Xô và
các nước XHCN ở Đông Âu sụp đổ, Đảng ta vẫn vững mạnh cả về chính trị, tư
tưởng và tổ chức; vẫn phát huy được vai trò tiền phong, gương mẫu, sức sáng tạo
của mọi CB, ĐV và tổ chức đảng; tập trung được trí tuệ của tồn Đảng, tạo sức
mạnh tổng hợp để xây dựng Đảng ta thực sự trong sạch, vững mạnh, hoàn thành tốt
sứ mệnh lịch sử đối với dân tộc. Ðảng ta luôn khẳng định: Ðảng là tổ chức tự
nguyện của những người cùng chung lý tưởng cộng sản; mọi đảng viên đều có
quyền biết, thảo luận và biểu quyết các công việc của Ðảng; được ứng cử, đề cử và
bầu cử cơ quan lãnh đạo các cấp của Ðảng; phê bình, chất vấn về hoạt động của
các tổ chức đảng và đảng viên ở mọi cấp; đề xuất các kiến nghị với cơ quan có

trách nhiệm; v.v... Từ khi trở thành Ðảng cầm quyền, Ðảng ta vẫn ln kiên định và
có bước phát triển mới trong việc phát huy dân chủ nội bộ, thực hành nguyên tắc tập
trung dân chủ cả trong Ðảng và trong tổ chức, hoạt động của Nhà nước. Hội nghị
Trung ương 9, (khoá IX) của Đảng ta đã nhấn mạnh: phải thực hiện đúng đắn
nguyên tắc tập trung dân chủ trên cơ sở thực hành dân chủ rộng rãi trong Đảng.
Hồ Chí Minh khẳng định Đảng phải là khối thống nhất ý chí và hành động,
trong tổ chức, Đảng phải thực hiện đầy đủ nguyên tắc tập trung dân chủ - một
nguyên tắc quyết định sức mạnh của Đảng. Người chỉ rõ rằng dân chủ phải đi đôi
với với tập trung, phải kiên quyết thực hành kỷ luật. Trong lãnh đạo, Hồ Chí Minh
địi hỏi Đảng phải thực hiện đúng đắn nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ
trách. “Tập thể lãnh đạo là dân chủ. Cá nhân phụ trách là tập trung. Tập thể lãnh
đạo, cá nhân phụ trách, tức là dân chủ tập trung”. Thực hiện đúng đắn nguyên tắc
này mới tránh cho Đảng không rơi vào chủ quan, độc đoán, chuyên quyền và mới
biến đường lối của Đảng trở thành thực tiễn sinh động.
Về phương diện lợi ích: Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân, lấy tự phê bình
và phê bình làm quy luật phát triển và nguyên tắc tổ chức của Đảng.
Gắn bó mật thiết với nhân dân là phẩm chất cốt lõi thể hiện bản chất, sức sống
của Đảng cộng sản Việt Nam. Nhân dân là cội nguồn làm nên sức mạnh vô tận và vô
địch của Đảng. Nắm được sức mạnh của lịng dân, có được sự ủng hộ của nhân dân
là vũ khí tối ưu trên mọi trận tuyến chống các thế lực thù địch. Mối quan hệ gắn bó
mật thiết giữa Đảng với nhân dân là mối quan hệ có tác động hai chiều. Nếu khơng
có sự đồng tình ủng hộ, chung sức, chung lịng của nhân dân thì Đảng cộng sản
khơng thể có được sức mạnh, cách mạng khơng thể thành cơng.
Nếu khơng có sự lãnh đạo, tổ chức của Đảng cộng sản thì nhân dân cũng
khơng có được đường hướng chính trị đúng đắn trong cuộc đấu tranh cách mạng của
mình. Lịch sử phong trào cộng sản và công nhân quốc tế và lịch sử Đảng cộng sản
Việt Nam cho thấy, một trong những nguyên nhân dẫn đến sự thành công của Đảng
cộng sản và các cuộc cách mạng vô sản là do xây dựng được mối liên hệ gắn bó giữa
Đảng cộng sản với nhân dân. Sự gắn bó máu thịt, liên hệ mật thiết với nhân dân là
quy luật tồn tại, phát triển và hoạt động của Đảng cộng sản, là cội nguồn sức mạnh

vô địch của Đảng, là nhân tố bảo đảm cho sự thành cơng của tồn bộ sự nghiệp cách
mạng.
Tự phê bình và phê bình chính là nhằm củng cố khối đại đồn kết thống nhất
trong Đảng, giữ vững nguyên tắc tập trung dân chủ, phát huy sáng tạo, trí tuệ của mỗi


cán bộ đảng viên tham gia xây dựng nghị quyết và lãnh đạo tổ chức thực hiện thắng lợi
nghị quyết của Đảng bộ, chi bộ và của đơn vị. Thực chất tự phê bình và phê bình chính
là giải quyết mâu thuẫn trong nội bộ tổ chức Đảng dựa trên nền tảng tư tưởng chủ nghĩa
Mac Lê Nin , tư tưởng Hồ Chí Minh, cương lĩnh đường lối nguyên tắc và điều lệ Đảng.
Tự phê bình và phê bình vừa mang tính khoa học, vừa mang tính nhân văn, thúc đẩy
con người mang đến sự hoàn thiện.
Qua mỗi thời kỳ cách mạng, Đảng ta luôn không ngừng xây dựng bản chất
công nhân của Đảng ngày càng cụ thể, càng sâu sắc cả về mặt lý luận và cả trên thực
tế.
Bản chất giai cấp công nhân theo tinh thần Đại hội VII khẳng định “Bản chất
giai cấp công nhân của Đảng, chúng ta không tách rời Đảng và giai cấp với các tầng
lớp nhân dân lao động khác với toàn thể dân tộc. Ngay từ khi mới thành lập đảng đã
mang trong mình tính thống nhất giữa yếu tố giai cấp và yếu tố dân tộc”.
Mục đích của Đảng là xây dựng nước Việt Nam dân chủ, giàu mạnh theo con
đường xã hội chủ nghĩa và cuối cùng là thực hiện lý tưởng cộng sản chủ nghĩa".
Tư tưởng đó tiếp tục được Đại hội lần thứ VIII, IX khẳng định và phát triển.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng bổ sung "Mục đích của Đảng là xây
dựng một nước Việt Nam độc lập, dân chủ, giàu mạnh, xã hội công bằng, văn minh,
thực hiện thành công chủ nghĩa xã hội và cuối cùng là chủ nghĩa cộng sản".
Văn kiện Đại hội X rồi đến Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) được
thông qua tại Đại hội XI, Đảng ta đã khẳng định: “Đảng Cộng sản Việt Nam là đội
tiên phong của GCCN, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của
dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của GCCN, nhân dân lao động và của
dân tộc”. Thể chế hóa tư tưởng của Cương lĩnh năm 2011, Hiến pháp năm 2013, tại

Điều 4 đã hiến định bản chất và vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam: “Đảng Cộng
sản Việt Nam - Đội tiên phong của GCCN, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân
lao động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của GCCN, nhân dân
lao động và của dân tộc, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm
nền tảng tư tưởng, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội”.
Diễn đạt như trên vừa thể hiện tính phổ biến và tính đặc thù trong bản chất
của Đảng ta. Là Đảng Cộng sản chân chính, Đảng ta mang bản chất GCCN theo chủ
nghĩa Mác-Lênin (tính phổ biến); còn nét đặc thù của Đảng ta theo sự phát triển
sáng tạo của tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng đồng thời là của nhân dân lao động, của
dân tộc, phù hợp với thực tế Việt Nam và đáp ứng được nguyện vọng, tình cảm của
nhân dân. Diễn đạt về bản chất của Đảng ta như trên là biện chứng, khoa học, phù
hợp với thực tế, khắc phục được cả hai cực đoan: phủ nhận, xóa nhịa bản chất
GCCN của Đảng, rơi vào quan điểm “Đảng toàn dân”, và hiểu bản chất GCCN của
Đảng theo nghĩa hẹp hòi, biệt phái, tách rời GCCN khỏi nhân dân lao động và dân
tộc. Điều đó địi hỏi Đảng ta chẳng những phải trung thành với GCCN, nâng cao lập
trường, tư tưởng của GCCN, mà còn phải học tập, kế thừa, phát huy truyền thống
dân tộc, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, phấn đấu vì lợi ích của cả giai cấp và
dân tộc. Điều đó có nghĩa nói bản chất cơng nhân của Đảng hồn tồn khơng có
nghĩa là xem nhẹ vấn đề dân tộc, bởi vì trong thời đại ngày nay, khi mà chủ nghĩa đế
quốc còn tồn tại và dùng danh nghĩa như: "khai hoá văn minh" trước đây và "bảo vệ
nhân quyền" ngày nay để đàn áp các dân tộc, ép buộc dân tộc này hay dân tộc khác
phải nghe theo chúng thì chỉ có thể đứng trên lập trường của giai cấp công nhân hiện


đại với lý luận tiên phong là chủ nghĩa Mác - Lênin với thế giới quan khoa học và
phương pháp luận biện chứng thì mới có thể có đường lối, chính sách đúng đắn, bảo
đảm lợi ích trước mắt và lâu dài của dân tộc mình một cách chắc chắn nhất.
Biểu hiện bản chất giai cấp công nhân của Đảng trước hết rõ nhất cụ thể
nhất là Đảng ta thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, vì
chỉ có giai cấp cơng nhân mới có thể “đưa cách mạng giải phóng dân tộc đến thắng

lợi và cách mạng xã hội chủ nghĩa đến thành công”.
Để giữ vững và tăng cường bản chất giai cấp cơng nhân của Đảng trong tình
hình mới, nhiệm vụ của mỗi đảng viên của Đảng là:
Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội;
Kiên định và vận dụng sáng tạo, góp phần phát triển Chủ nghĩa Mác – Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh. Xuất phát từ thực tiễn lịch sử của nước ta đề ra đường lối,
chủ trương và các chính sách đúng đắn; đồng thời bằng hành động cách mạng biến
đường lối, chủ trương đó thành hiện thực sinh động trên mọi mặt của đời sống xã
hội.
Đấu tranh kiên quyết, kịp thời chống lại mọi biểu hiện cơ hội, hữu khuynh,
giáo điều, bảo thủ; phê phán những luận điệu và thủ đoạn của các thế lực thù địch
phủ nhận, xuyên tạc Chủ nghĩa Mác – Lên nin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Ln ln phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc và tiếp thu tinh hoa văn
hoá, tri thức của thời đại để làm giàu kiến thức, giải quyết thành công những vấn đề
lý luận và thực tiễn của cách mạng nước ta, góp phần vào sự nghiệp phát triển chung
của thế giới.
Giữ vững nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và sinh hoạt đảng, tập
thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách. Thường xuyên tự phê bình và phê bình, giữ gìn sự
đồn kết thống nhất trong Đảng.
Thường xun giáo dục, bồi dưỡng lập trường, quan điểm, ý thức tổ chức của
giai cấp công nhân; xây dựng đội ngũ cán bộ và đảng viên theo quan điểm của giai
cấp công nhân.
Củng cố mối quan hệ gắn bó mật thiết với nhân dân, tăng cường khối đại
đoàn kết toàn dân, chăm lo đời sống và thực sự phát huy quyền làm chủ của nhân
dân.
Kết hợp chặt chẽ chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế trong
sáng của giai cấp công nhân. Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại,
tạo nên sức mạnh tổng hợp của cách mạng.
Liên hệ thực tiễn ở Đảng bộ đồng chí: (tham khảo)
Đảng bộ xã Hịa Thắng có 391 đảng viên với 16 chi bộ trực thuộc, hàng

năm số lượng đảng viên mới kết nạp khoàng từ 25 đến 30 đảng viên. Trong
những năm qua đảng bộ đã vận dụng có hiệu quả nội dung bản chất giai cấp cơng
nhân của Đảng ta trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo hoạt động của địa phương.
Trong quá trình xây dựng, phát triển địa phương, Đảng bộ luôn luôn giữ vững
bản lĩnh chính trị,bản chất cách mạng và khoa học, kiên định chủ nghĩa Mac Lê Nin
và tư tưởng Hồ Chi Minh, vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lê-nin
trong điều kiện cụ thể của địa phương nhờ đó đã tác động đến nhận thức, tư tưởng
của cán bộ, đảng viên và nhân dân.
Việc thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ được triển khai thực hiện có hiệu
quả: Những nhiệm vụ lớn của địa phương đều được lấy ý kiến nhân dân, đưa ra dân


bàn bạc và quyết định: kế hoạch phát triển kinh tế xã hội, dự toán, quyết toán thu chi
ngân sách hàng năm; phương án bồi thường giải phóng mặt bằng, quy hoạch, kế
hoạch sử dụng đất; các loại quỹ theo quy định những quy định về mức thuế, phí, lệ
phí, các nghĩa vụ của công dân, các khoản huy động nhân dân đóng góp, kết quả
bình xét hộ nghèo; xây dựng hương ước, quy ước thôn……;Đối với công tác cán bộ
dều thực hiện đúng theo quy trình, quy định của pháp luật, công tác tuyển dụng đều
được niêm yết công khai về thời gian xét tuyển, hình thức và cơng khai kết quả
trúng tuyển; Mặt trận tổ quốc, các đoàn thể phát huy tốt vai trò giám sát trên tất cả
các mặt của đời sống xã hội, không ngừng đổi mới theo hướng bám sát nhiệm vụ
chính trị của địa phương, cơ sở; thực hiện tốt QCDC trong việc vận động đồn viên,
hội viên xây dựng các cơng trình phúc lợi; tham gia ý kiến vào các cơng trình, dự án
của địa phương; mở rộng và nâng cao chất lượng cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết
xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư”
Cán bộ, đảng viên ln gắn bó mật thiết với nhân dân; ln lắng nghe ý kiến
của nhân dân trong việc thực hiện nhiệm vụ, luôn luôn quan tâm đến đời sống nhân
dân đặc biệt trong chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới: đã
tăng cường công tác tuyên truyền vận động nhân dân thực hiện đạt 19/19 tiêu chí về
xây dựng nông thôn mới, đạt xã nông thôn mới vào năm 2015, làm cho đời sống

nhân dân nhân ngày càng nâng cao, thu nhập bình quân đầu người tăng, cơ sở vật
chất hạ tầng ngày càng phát triển, đường thông hè thoáng, tỷ lệ người dân tham gia
BHYT đạt trên 90%; đặc biệt trong cơng tác xóa đói giam nghèo địa phương rất
quan tâm, đã kịp thời phân công các tổ chức cá nhân giúp đỡ hộ nghèo, triển khai có
hiệu quả chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững, đã tiếp cận các dự
án, hướng dẫn hộ nghèo triển khai thực hiện có hiệu quả để vươn lên thoát nghèo
bền vững, kết quả đến nay tỷ lệ hộ nghèo của xã đạt 2.5%.
Để triển khai thực hiện có hiệu quả các nội dung trên trong thời gian tới
cần thực hiện tốt các giải pháp.
Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Kiên định và vận
dụng sáng tạo, góp phần phát triển Chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.
Đấu tranh kiên quyết, kịp thời chống lại mọi biểu hiện cơ hội, hữu khuynh,
giáo điều, bảo thủ; phê phán những luận điệu và thủ đoạn của các thế lực thù địch
phủ nhận, xuyên tạc Chủ nghĩa Mác – Lên nin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Ln ln phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc và tiếp thu tinh hoa văn
hoá, tri thức của thời đại để làm giàu kiến thức, giải quyết thành công những vấn đề
lý luận và thực tiễn của cách mạng nước ta.
Giữ vững nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và sinh hoạt đảng, tập
thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách. Thường xuyên tự phê bình và phê bình, giữ gìn sự
đồn kết thống nhất trong Đảng.
Thường xuyên giáo dục, bồi dưỡng lập trường, quan điểm, ý thức tổ chức của
giai cấp công nhân; xây dựng đội ngũ cán bộ và đảng viên theo quan điểm của giai
cấp công nhân.
Củng cố mối quan hệ gắn bó mật thiết với nhân dân, tăng cường khối đại đoàn
kết toàn dân, chăm lo đời sống và thực sự phát huy quyền làm chủ của nhân dân.


ĐỀ 3:
Câu 1/ĐỀ 3: Trình bày vai trị, bản chất nguyên tắc tập trung dân
chủ (TTDC) của Đảng cộng sản Việt Nam

Như bất kỳ một tổ chức chính trị nào khác, sự tồn tại và phát triển của
ĐCS cũng phải tuân theo những nguyên tắc cơ bản. Đối với ĐCS, nguyên
tắc sống còn, cơ bản nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ. Nguyên tắc tập
trung dân chủ là sự kết hợp hài hoà giữa hai mặt tập trung và dân chủ. Cả
hai mặt tập trung và dân chủ tạo thành chỉnh thể thống nhất của một
nguyên tắc, trong đó, dân chủ là điều kiện, là tiền đề của tập trung; còn
tập trung là cơ sở, là cái bảo đảm cho dân chủ được thực hiện.
* Vai trò của nguyên tắc TTDC:
- Một là, Tập trung dân chủ là nguyên tắc tổ chức cơ bản của Đảng.
Tinh thần chủ yếu của nguyên tắc này là bảo đảm cho sự thống nhất
về tư tưởng và chính trị của đảng cộng sản được củng cố bằng sự thống
nhất về tổ chức.
Nó làm cho đảng cộng sản được xây dựng thành một đội ngũ có kỷ
luật chặt chẽ, có sức chiến đấu cao, phát huy được cao độ tính chủ động,
năng động và sáng tạo của đơng đảo cán bộ, đảng viên.
Nó bảo đảm cho Đảng luôn luôn là một tổ chức chiến đấu, một tổ
chức lãnh đạo, một tổ chức hành động mà không phải là một câu lạc bộ
chỉ bàn cãi sng.
Nó quy định mối quan hệ của đảng viên với tổ chức đảng, giữa các tổ
chức đảng từ dưới lên trên, giữa một cấp ủy đảng với đại hội đại biểu hay
đại hội đảng viên của cấp đó.


Nguyên tắc TTDC chỉ đạo mọi hoạt động xây dựng tổ chức, sinh
hoạt và lãnh đạo của Đảng, đồng thời cũng chi phối các nguyên tắc tổ
chức, hoạt động khác của Đảng.
- Hai là, Tập trung dân chủ là nguyên tắc phân biệt chính đảng
cách mạng chân chính của giai cấp công nhân với các đảng phái khác.
Nguyên tắc này đã được V.I.Lênin khẳng định để xây dựng đảng kiểu
mới của giai cấp công nhân, phân biệt với các đảng cơ hội trong Quốc tế

II hồi đầu thế kỷ XX. Thừa nhận và tổ chức, hoạt động theo nguyên tắc
tập trung dân chủ là một dấu hiệu, một điều kiện cơ bản bảo đảm cho một
chính đảng đi theo và trung thành với những nguyên tắc của một đảng
mácxít - lêninnít.
* Bản chất nguyên tắc tập trung dân chủ:
Như đã đề cập ở trên, nguyên tắc tập trung dân chủ là sự kết hợp hài
hoà giữa hai mặt tập trung và dân chủ. Cả hai mặt tập trung và dân chủ
tạo thành chỉnh thể thống nhất của một nguyên tắc, trong đó, dân chủ là
điều kiện, là tiền đề của tập trung; còn tập trung là cơ sở, là cái bảo đảm
cho dân chủ được thực hiện.
Tính tập trung trong Đảng địi hỏi Đảng phải có cương lĩnh, đường
lối, mục tiêu cách mạng thống nhất, được mọi tổ chức Đảng và đảng viên
tuân thủ và thực hiện, toàn dân hướng vào phấn đấu. Đảng phải có điều lệ
thống nhất - Điều lệ chính là bộ luật của tồn Đảng mà mọi tổ chức Đảng
và đảng viên phải chấp hành vô điều kiện cả về mặt nhận thức và chấp
hành.
Tập trung trong Đảng cịn địi hỏi Đảng phải có một cơ quan lãnh đạo
thống nhất, đó là đại hội đại biểu toàn quốc, giữa 2 kỳ đại hội là Ban chấp
hành TW do đại hội bầu ra. Về mặt tổ chức, Đảng phải thống nhất về quy
mơ và hình thức tổ chức của Đảng. Đảng phải có kỷ luật thống nhất mà
mọi tổ chức Đảng, đảng viên không phân biệt đều phải chấp hành nghiêm
túc kỷ luật của Đảng, khơng có những đặc quyền đặc lợi.
Tính dân chủ trong Đảng được thể hiện ở nội dung tồn thể Đảng
viên đều bình đẳng về quyền và lợi ích, đều được tham gia trực tiếp hoặc
thông qua đại biểu để thực hiện quyền của mình, thể hiện ý kiến của mình
trong mọi cơng việc của Đảng, khi thảo luận thì phải thực sự dân chủ,


nhưng khi hành động thì thống nhất trăm người như một. Tất cả những
người có trách nhiệm trong Đảng và tất cả các cơ quan lãnh đạo của Đảng

đề do dân chủ bầu cử mà lập nên, đều có trách nhiệm thực hiện và báo
cáo trước tổ chức đã bầu ra mình và họ có thể bị bãi miễn bất kỳ lúc nào
nếu khơng xứng đáng và khơng hồn thành nhiệm vụ tổ chức giao.
Tập trung dân chủ thể hiện sự thống nhất hài hòa và biện chứng giữa
hai mặt tập trung và dân chủ trong một sự việc, một hiện tượng. Đó là
những yếu tố khơng loại trừ lẫn nhau, làm tiền đề cho nhau, lập thành một
chỉnh thể và là một tất yếu khách quan trong tổ chức và hoạt động của
Ðảng. Có dân chủ mới có sự thúc đẩy và phát huy tính chủ động, sáng
tạo, mới ni dưỡng và phát triển được các tài năng. Có tập trung mới tạo
ra được sức mạnh chung, thống nhất ý chí và hành động vì mục tiêu
chung của cách mạng. Tập trung đúng đắn, hợp lý sẽ làm tăng sức mạnh
của dân chủ. Dân chủ lành mạnh phải dựa trên cơ sở tập trung. Tóm lại,
giữa 2 mặt tập trung và dân chủ phải được coi trọng như nhau, khơng
được xem nhẹ mặt nào, khơng nên tuyệt đối hóa một mặt nào đều dẫn đến
sai lầm nguy hiểm, có hại cho sự lãnh đạo của Đảng
Câu 2/ĐỀ 3: Đồng chí hãy phân tích thực trạng và đề xuất giải pháp
nhằm thực hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ trong sinh hoạt và
hoạt động của Đảng hiện nay. Liên hệ ở Đảng bộ đồng chí.
* Thực trạng thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng:
Ưu điểm
-Từ khi tiến hành công cuộc đổi mới, cùng với các chủ trương khác
về đổi mới, chỉnh đốn Ðảng, Ðảng ta đã khẳng định: Trong điều kiện là
Ðảng duy nhất cầm quyền, việc thực hiện nghiêm túc, đúng đắn nguyên
tắc tập trung dân chủ trong Ðảng có ý nghĩa quyết định đối với việc thực
hiện tập trung dân chủ trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước
và tạo lập phương thức lãnh đạo đúng đắn của Ðảng. Thời gian qua,
Đảng ta có nhiều chuyển biến tích cực trong việc thực hiện nguyên tắc tập
trung dân chủ.
+ Chế độ tập trung, kỷ cương, kỷ luật trong Đảng được giữ vững.
Những quyết định lớn của Đảng đã được tổ chức thảo luận rộng rãi, lấy ý

kiến của các tổ chức đảng và đảng viên từ cơ sở trở lên.


+ Sinh hoạt của các cấp ủy và tổ chức đảng được tiến hành dân chủ,
cởi mở hơn, các cấp ủy viên mạnh dạn trình bày ý kiến riêng của mình,
tăng cường các hình thức giao ban, hội thảo tiếp xúc trực tiếp giữa cán bộ
chủ chốt với đảng viên và nhân dân.
+ Dân chủ trong Đảng, trong hệ thống chính trị và dân chủ trong xã
hội có bước khởi sắc. Việc bầu cử trong Đảng, các đoàn thể và cơ quan
dân cử cũng như trong phong cách lãnh đạo của Đảng có tiến bộ theo
hướng dân chủ hơn. Cơng tác tổ chức và cán bộ, nhất là đánh giá tuyển
chọn, bổ nhiệm cán bộ, được tiến hành công khai, dân chủ.
+ Tình trạng cục bộ, mất đồn kết trong cán bộ được chấn chỉnh kịp
thời hơn, những tổ chức cá nhân vi phạm bị xử lý kịp thời. Những tiến bộ
và kết quả thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng tuy mới là
bước đầu, nhưng đã góp phần quan trọng thúc đẩy cơng cuộc đổi mới.
Khuyết điểm
- Thực tiễn thời gian qua cho thấy khơng ít tổ chức đảng, cán bộ,
đảng viên chưa nhận thức đầy đủ nội dung, bản chất của nguyên tắc
TTDC, do đó khi vận dụng nguyên tắc này đã có những biến dạng, làm
ảnh hưởng tiêu cực đến việc xác định, tổ chức thực hiện nhiệm vụ chính
trị, tổ chức sinh hoạt đảng và những sai lệch trong công tác tổ chức cán
bộ.
- Còn hiện tượng chưa thống nhất cao với đường lối, chủ trương,
chính sách lớn của Đảng, dao động, hồi nghi về con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội của nước ta. Cịn tình trạng tùy tiện, thiếu ý thức tổ chức, kỷ
luật, không chấp hành chỉ thị, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật
của Nhà nước, báo cáo không trung thực.
Dân chủ trong Ðảng và trong xã hội còn bị vi phạm. Kỷ cương, kỷ
luật ở nhiều cấp, nhiều lĩnh vực khơng nghiêm. Cịn thiếu những quy chế

cụ thể bảo đảm phát huy dân chủ, thực hiện đúng đắn nguyên tắc tập
trung dân chủ. Một số cấp ủy, tổ chức đảng và cán bộ lãnh đạo thiếu tôn
trọng và phát huy quyền của đảng viên, ít lắng nghe ý kiến cấp dưới; cán
bộ lãnh đạo ở một số nơi gia trưởng, độc đoán, chuyên quyền, mất dân
chủ hoặc dân chủ hình thức.


Cịn thiếu những cơ chế cụ thể có hiệu lực bảo đảm phát huy dân chủ,
thực hiện đúng nguyên tắc TTDC trong Đảng. Chế độ "tập thể lãnh đạo,
cá nhân phụ trách" trên thực tế ở nhiều nơi rơi vào hình thức, do khơng
xác định rõ cơ chế trách nhiệm, mối quan hệ giữa tập thể và cá nhân, khi
sai sót, khuyết điểm khơng ai chịu trách nhiệm. Do vậy, vừa có hiện
tượng dựa dẫm vào tập thể, khơng rõ trách nhiệm cá nhân, vừa khơng
khuyến khích người đứng đầu có nhiệt tình, tâm huyết, dám nghĩ, dám
làm, tạo kẽ hở cho cách làm việc tắc trách, trì trệ, hoặc lạm dụng quyền
lực một cách tinh vi để mưu cầu lợi ích cá nhân.
Ðại hội lần thứ IX của Ðảng đã nghiêm khắc nhận định: "Việc tổ
chức thực hiện nghị quyết, chủ trương, chính sách của Ðảng chưa tốt; kỷ
luật, kỷ cương chưa nghiêm. Tình trạng tùy tiện, thiếu ý thức tổ chức, kỷ
luật và tinh thần trách nhiệm, không chấp hành chỉ thị, nghị quyết của
Ðảng, pháp luật, chính sách của nhà nước, báo cáo không trung thực, vi
phạm nguyên tắc tập trung dân chủ làm cho một số nghị quyết của Ðảng
khó vào cuộc sống..” “Một số tổ chức Đảng ở các cấp chưa được chỉnh
đốn; dân chủ bị vi phạm, kỷ luật, kỷ cương lỏng lẻo, nội bộ khơng đồn
kết; chất lượng sinh hoạt Đảng giảm sút”. Một số vụ án thời gian qua từ
Tamexco, đến Năm Cam rồi Lã Thị Kim Oanh, Cảng Hàng không Miền
Trung, hay vi phạm của các ông Trịnh Xuân Thanh, Nguyễn Xuân Anh Bí thư Thành ủy Đà Nẵng, Tất Thành Cang - Phó bí thư Thường trực
Thành uỷ TP HCM v.v... buộc chúng ta suy nghĩ, nhìn nhận lại cơng tác
thực hiện tập trung dân chủ trong Đảng. Tại sao có những cán bộ sa đọa,
thối hóa, tham nhũng từ nhiều năm mà tổ chức cơ sở đảng và lãnh đạo

cấp trên vẫn không biết, vẫn đề bạt lên các chức vụ quan trọng? Mỗi cán
bộ bổ nhiệm, đề bạt, bầu cử đều qua cả một hệ thống rà soát: Ban tổ chức,
ủy ban kiểm tra, ban bảo vệ chính trị nội bộ, đảng ủy cơ quan, đảng ủy
khối... mà sao vẫn sơ hở vậy? Đánh giá, phân loại đảng bộ đại đa số trong
sạch, vững mạnh, đảng viên hầu như 100% đủ tư cách, tại sao lại xảy ra
tiêu cực, tham nhũng nghiêm trọng như thế?
* Giải pháp chủ yếu để thực hiện tốt nguyên tắc TTDC hiện nay:
Thứ nhất, không ngừng nâng cao nhận thức, trách nhiệm cho các tổ
chức đảng, cán bộ, đảng viên về bản chất, nội dung, yêu cầu của nguyên


tắc TTDC trong tình hình mới; nhận dạng những biến dạng của nguyên
tắc TTDC để chấn chỉnh, khắc phục, đồng thời đấu tranh chống lại
những luận điệu xuyên tạc, phủ nhận nguyên tắc TTDC.
Hiểu sâu sắc nguyên tắc TTDC là quy định của Đảng, đồng thời là
quy luật vận động, phát triển của Đảng. Tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên
có nhận thức đúng mới có cơ sở để vận dụng thực hiện có hiệu quả,
khơng chệch hướng. Tập trung và dân chủ là hai thành tố cấu thành một
chỉnh thể thống nhất của nguyên tắc, nó ràng buộc, chế ước lẫn nhau, tập
trung phải dựa trên cái nền dân chủ và dân chủ phải dưới sự chỉ đạo của
tập trung, dân chủ phải đi đôi với kỷ luật, kỷ cương. Dân chủ càng được
tăng cường thì càng có sự thống nhất tập trung cao. Tuyệt đối hóa, nhấn
mạnh một yếu tố nào đều không đúng, trái với bản chất của nguyên tắc
TTDC.
Cùng với đó phải đánh giá, kiểm điểm nghiêm túc việc thực hiện
ngun tắc đó một cách tồn diện ở tất cả các cấp, các ngành. Xác định rõ
những gì đã làm đúng, chỉ ra những gì làm chưa đúng, những nguyên
nhân chủ quan, khách quan. Đối với những tổ chức, cán bộ, đảng viên sai
phạm nghiêm trọng phải xử lý kỷ luật và có biện pháp chấn chỉnh ngay về
tổ chức. Đồng thời, đấu tranh phòng, chống có hiệu quả những biểu hiện

xa rời nguyên tắc tập trung dân chủ, làm phá sản những luận điệu xuyên
tạc, phủ nhận nguyên tắc này của các thế lực thù địch, cơ hội, phản động.
Thứ hai, Tiếp tục hoàn thiện, cụ thể hóa, quy chế hóa nguyên tắc tập
trung dân chủ trong từng lĩnh vực, từng mặt công tác xây dựng Đảng.
- Phải cụ thể hóa nguyên tắc này thành các quy chế, quy định, kèm
theo các chế tài cần thiết, càng cụ thể càng tốt để dễ thực hiện và kiểm
tra.
+ Phải quy định thành chế độ cán bộ lãnh đạo các cấp đi làm việc trực
tiếp ở cơ sở, tiếp xúc với dân, đối thoại với quần chúng và cấp dưới, giải
quyết kịp thời và dứt khoát những công việc cấp bách.
+ Phải quy định hết sức rạnh ròi, cụ thể trách nhiệm cá nhân trong
việc thực hiện chế độ “tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách”, phải quy
định rõ tất cả những vấn đề thuộc về chủ trương, biện pháp lớn nhất thiết
phải được tập thể cấp ủy hoặc tập thể chi bộ bàn bạc và quyết định;


những vấn đề kế hoạch, biện pháp cụ thể để thực hiện chủ trương đó thì
giao cho cá nhân phụ trách, và có quyền tự giải quyết, nhưng khơng trái
với chủ trương, biện pháp của Đảng, của tập thể đã quyết.
+ Phải bảo đảm các quyền của Đảng viên, nhất là quyền được thảo
luận một cách thẳng thắn các vấn đề về đường lối, chính sách của Đảng,
quyền được phê bình, chất vấn trong phạm vi tổ chức, về hoạt động của
tổ chức Đảng và Đảng viên ở mọi cấp. Đảng viên có quyền được thơng
tin, được quyền bảo lưu ý kiến.
Ba là phải chấp hành nghiêm túc các quy định về chế độ báo cáo, tự
phê bình và phê bình. Phải phát hiện kịp thời và xử lý nghiêm minh các
tổ chức Đảng và cán bộ Đảng viên vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ,
những người có thái độ trấn áp, trù dập người phê bình hoặc lợi dụng phê
bình để đả kích, vu cáo người khác gây chia rẽ mất đoàn kết.
Bốn là phải tăng cường kiểm tra của cấp ủy cấp trên đối với việc thực

hiện dân chủ và nguyên tắc tập trung dân chủ của cấp ủy cấp dưới là một
biện pháp hữu ích về nhiều mặt. Kiểm tra vừa nhằm phát hiện, chấn chỉnh
các sai phạm, vừa giúp cấp ủy cấp trên tổng kết thực tiễn, kịp thời tháo gỡ
các vướng mắc của cấp dưới, bổ sung các quy chế để áp dụng chung. Vì
thế, kiểm tra việc thực hiện dân chủ và nguyên tắc tập trung dân chủ phải
là một nội dung trọng yếu trong công tác kiểm tra kỷ luật đảng.
Năm là trong công tác cán bộ, cần quy định cụ thể tiêu chuẩn cho
từng chức danh cán bộ.
Việc giới thiệu người để bầu vào cấp ủy phải được tiến hành từ cơ sở.
Bổ nhiệm cán bộ phải hỏi ý kiến của cơ sở và lấy phiếu tín nhiệm từ cơ
sở. Việc đánh giá cán bộ nhất thiết phải hỏi ý kiến cấp quản lý cán bô, hỏi
ý kiến quần chúng và cấp dưới, cùng những người có quan hệ, có hiểu
biết về cán bộ đó, trực tiếp với cán bộ đó. Mọi quyết định về bổ nhiệm,
đề bạt cán bộ phải là của tập thể. Phải bảo đảm các điều kiện để dân chủ
thực chất, khắc phục dân chủ hình thức, hợp thức hóa ý định của người
đứng đầu. Mặt khác, trách nhiệm cá nhân trong công tác cán bộ phải rõ.
Để thực hiện được các giải pháp trên, trước hết cán bộ cấp trên, cán
bộ lãnh đạo phải gương mẫu, các cơ quan kiểm tra giám sát phải tích cực
hoạt động. Nhưng vấn đề cực kỳ quan trọng là phải có sự giám sát thường



×