Tải bản đầy đủ (.doc) (122 trang)

Luận văn thạc sĩ xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức quản lý nhà nước về kinh tế của thành phố bắc kạn, tỉnh bắc kạn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (593.58 KB, 122 trang )

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU..................................................................................................................1
CHƯƠNG I: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN XÂY DỰNG
ĐỘI NGŨ CÁN BỘ, CÔNG CHỨC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ KINH TẾ
CẤP HUYỆN, THÀNH PHỐ TRỰC THUỘC TỈNH.........................................5
1.1. Khái quát về đội ngũ cán bộ, công chức quản lý nhà nước về kinh tế cấp
huyện, thành phố trực thuộc tỉnh............................................................................5
1.1.1. Khái niệm và phân loại công chức quản lý nhà nước về kinh tế cấp huyện,
thành phố trực thuộc tỉnh........................................................................................5
1.1.2. Đặc điểm và vai trò của đội ngũ cán bộ, công chức quản lý nhà nước về kinh
tế cấp huyện, thành phố trực thuộc tỉnh...................................................................14
1.2. Yêu cầu và nội dung xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức quản lý nhà nước về
kinh tế cấp huyện, thành phố trực thuộc tỉnh..........................................................18
1.2.1. Yêu cầu đối với đội ngũ cán bộ, công chức hiện nay.....................................18
1.2.2. Nội dung xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức quản lý nhà nước về kinh tế
cấp huyện, thành phố trực thuộc tỉnh......................................................................21
1.2.3. Những nhân tố cơ bản ảnh hưởng tới quá trình xây dựng đội ngũ cơng chức
quản lý nhà nước về kinh tế.....................................................................................37
1.3. Kinh nghiệm về xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức quản lý nhà nước về kinh
tế và bài học cho thành phố Bắc Kan, tỉnh Bắc Kan...............................................39
1.3.1. Kinh nghiệm xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức QLNN về kinh tế cấp huyện
của tỉnh Lai Châu....................................................................................................39
1.3.2. Kinh nghiệm xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức quản lý nhà nước về kinh
tế các huyện miền núi tỉnh Thanh Hố....................................................................42
1.3.3. Bài học kinh nghiệm có thể vận dụng cho thành phố Bắc Kan, tỉnh Bắc
Kan.......................................................................................................................... 45
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ,
CÔNG CHỨC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ KINH TẾ CỦA THÀNH PHỐ BẮC
KAN, TỈNH BẮC KAN...........................................................................................47
2.1. Khái quát chung về thành phố bắc kan, tỉnh Bắc Kan...........................................47
2.1.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế, văn hóa xã hội của thành phố Bắc Kạn, tỉnh Bắc


Kạn.......................................................................................................................... 47


2.1.2. Những thuận lợi và khó khăn trong xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức quản
lý nhà nước về kinh tế cấp thành phố Bắc Kạn, tỉnh Bắc Kạn.................................49
2.1.2. Khảo sát đội ngũ cán bộ, công chức quản lý nhà nước về kinh tế cấp thành
phố ở thành phố Bắc Kan, tỉnh Bắc Kan, giai đoạn 2010-2014...............................51
2.2. Thực trạng xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức quản lý nhà nước về kinh tế
của thành phố Bắc Kan, tỉnh Bắc Kan....................................................................62
2.2.1. Xây dựng chiến lược, quy hoạch cán bộ, công chức quản lý nhà nước về kinh
tế của thành phố.......................................................................................................62
2.2.2. Xây dựng tiêu chuẩn cán bộ, công chức quản lý Nhà nước về kinh tế cấp huyện,
thành phố.................................................................................................................. 65
2.2.4. Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, cơng chức...........................................................73
2.2.5. Bố trí, sử dụng, đề bạt, luân chuyển cán bộ, công chức quản lý nhà nước về
kinh tế của thành phố Bắc Kạn, tỉnh Bắc Kạn........................................................77
2.2.6. Kiểm tra, đánh giá cán bộ, công chức QLNN về kinh tế của thành phố Bắc
Kạn, tỉnh Bắc Kạn...................................................................................................80
2.2.7. Thực hiện chế độ, chính sách đối với đội ngũ cán bộ, công chức QLNN về
kinh tế của thành phố Bắc Kạn, tỉnh Bắc Kạn.........................................................82
2.2.8. Tổ chức bộ máy quản lý cán bộ, công chức quản lý nhà nước về kinh tế ở
thành phố Bắc Kạn, tỉnh Bắc Kạn...........................................................................84
2.3. Đánh giá về xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức quản lý nhà nước về kinh tế
thành phố Bắc Kan, tỉnh Bắc Kan...........................................................................86
2.3.1. Nhưng kết quả đạt được trong xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức quản lý
nhà nước về kinh tế cấp huyện, thị..........................................................................86
2.3.2. Những hạn chế trong xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức quản lý nhà nước
về kinh tế tại thành phố Bắc Kạn, tỉnh Bắc Kạn.....................................................88
2.3.3. Nguyên nhân của thực trạng công tác xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức
quản lý nhà nước về kinh tế ở thành phố Bắc Kạn, tỉnh Bắc Kạn...........................89

CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ, CÔNG CHỨC
QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ KINH TẾ CỦA THÀNH PHỐ BẮC KAN, TỈNH
BẮC KAN............................................................................................................... 92
3.1. Phương hướng xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức quản lý nhà nước về kinh
tế thành phố Bắc Kan đến năm 2020.......................................................................92
3.1.1. Định hướng phát triển kinh tế của thành phố Bắc Kạn, tỉnh Bắc Kạn đến năm
2020......................................................................................................................... 92


3.1.2. Phương hướng xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức quản lý nhà nước về kinh tế
của thành phố Bắc Kan, tỉnh Bắc Kan đến 2020.........................................................95
3.2. Giải pháp xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức quản lý nhà nước về kinh tế thành
phố Bắc Kan, tỉnh Bắc Kan.......................................................................................99
3.2.1. Hồn thiện quy hoạch, cơ chế chính sách đối với cơng chức quản lý nhà nước
về kinh tế................................................................................................................. 99
3.2.2. Nhóm giải pháp đổi mới quy trình tuyển dụng, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,
công chức quản lý nhà nước về kinh tế thành phố Bắc Kạn, tỉnh Bắc Kạn...........103
3.2.3. Nhóm giải pháp sử dụng đội ngũ cán bộ, công chức quản lý nhà nước về kinh
tế............................................................................................................................ 109
3.2.4. Giải pháp về kiểm tra, đánh giá việc xây dựng và đội ngũ công chức quản lý
nhà nước về kinh tế cấp huyện..............................................................................112
KẾT LUẬN..........................................................................................................116


DANH MỤC BẢNG BIỂU, SƠ ĐỒ
Bảng 2.1: Số liệu cán bộ, công chức theo khối giai đoạn 2010-2014......................52
Bảng 2.2: Số liệu cán bộ, công chức QLNN về kinh tế cấp thành phố theo các
phịng chức năng.....................................................................................................55
Bảng 2.3: Trình độ đào tạo đội ngũ cán bộ, công chức QLNN thành phố Bắc Kan 57
Bảng 2.4: Cơ cấu đội ngũ cán bộ, công chức QLNN về kinh tế cấp thành phố.......61

Bảng 2.5: So sánh chất lượng cán bộ quy hoạch khối QLNN.................................70


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cán bộ, cơng chức là một trong các nguồn lực đầu vào, là người lãnh đạo,
quản lý, dẫn dắt, có vai trị quyết định sự thành công hay thất bại của việc xây dựng
và thực thi chính sách.
Kể từ khi tiến hành cơng cuộc đổi mới đất nước, nền kinh tế Việt Nam đã có
những chuyển biến quan trọng, từ một nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung chuyển
sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Vì thế chức năng, nhiệm
vụ của Nhà nước cũng có những thay đổi đáng kể. Bối cảnh mới đặt ra nhiệm vụ
quan trọng hàng đầu là phải xây dựng được đội ngũ cán bộ, cơng chức nói chung và
cán bộ, cơng chức quản lý nhà nước về kinh tế nói riêng có đủ phẩm chất, trình độ
và năng lực trong quản lý nền kinh tế thị trường hiện đại.
Trong những năm gần đây, đội ngũ cán bộ, công chức quản lý nhà nước về
kinh tế ở nước ta đã góp phần quan trọng vào việc thực hiện các mục tiêu kinh tế, xã
hội của đất nước. Tuy nhiên so với yêu cầu, nhiệm vụ mới đang đặt ra, chất lượng
của đội ngũ cán bộ, công chức quản lý nhà nước về kinh tế hiện nay chưa đáp ứng
được đòi hỏi của thực tiễn cả về số lượng và chất lượng. Năng lực xây dựng chính
sách, tổ chức điều hành, thực thi cơng vụ còn hạn chế, thiếu cán bộ khoa học,
chuyên gia giỏi,... Một bộ phận không nhỏ cán bộ, công chức hạn chế về năng lực,
suy thối hóa về đạo đức... chưa thật sự đáp ứng được yêu cầu, nhất là trong thời
kỳ đổi mới, hội nhập kinh tế hiện nay.
Theo định hướng phát triển của Tỉnh Bắc Kạn, Thành phố Bắc Kạn tập
trung cụ thể hoá một cách cách thiết thực, khoa học nhằm thực hiện có hiệu quả 3
khâu đột phá là: cải cách hành chính; đào tạo nguồn nhân lực; nâng cấp hạ tầng
đô thị. Tập trung xây dựng, triển khai các đề án, chương trình hành động phục vụ

nhiệm vụ phấn đấu xây dựng Thành phố Bắc Kạn thực sự đóng vai trị là trung
tâm chính trị, kinh tế, hành chính của tỉnh và đồng thời là động lực phát triển. Vì
vậy, cơng cuộc xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội, củng cố hệ thống chính trị


2
trong sạch, vững mạnh là nhiệm vụ quan trọng và cấp bách hàng đầu. Đặc biệt là
phải tập trung nhanh chóng xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công
chức, nhất là đội ngũ cán bộ, công chức quản lý nhà nước về kinh tế để đáp ứng
yêu cầu nhiệm vụ thời kỳ mới. Xuất phát từ thực tế trên, tôi chọn đề tài: “ Xây
dựng đội ngũ cán bộ, công chức quản lý nhà nước về kinh tế của Thành phố
Bắc Kạn, tỉnh Bắc Kạn” làm đề tài luận văn thạc sĩ, chuyên ngành Quản lý kinh
tế.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
- Ban Tổ chức Cán bộ Chính phủ (nay là Bộ Nội vụ, năm 1997), đề tài
cấp Bộ: Xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ, công chức;
- Vy Văn Vũ (2005) Luận án Tiến sỹ Kinh tế, Học viện Chính trị - Hành
chính Quốc gia Hồ Chí Minh: Quy hoạch, đào tạo và sử dụng đội ngũ cán bộ,
công chức quản lý nhà nước về kinh tế tỉnh Đồng Nai;
- Trần Văn Tuấn, Bộ trưởng Bộ Nội vụ “Tiếp tục đổi mới tổ chức bộ máy
nhà nước và xây dựng đội ngũ cán bộ, cơng chức trong tình hình hiện nay”. Tạp
chí Cộng sản, Số 22 (142)năm 2007; “Để nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ,
công chức”. Tạp chí Cộng sản, Số 22 (166) năm 2008;
- Đỗ Đình Sơn (2009), Luận văn Thạc sĩ Kinh doanh và quản lý, Học viện
Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh: Xây dựng đội ngũ cán bộ, cơng
chức quản lý nhà nước về kinh tế thành phố Bắc Kan, tỉnh Bắc Kan.
- Trần Đình Thảo (2010), Luận văn Thạc sĩ Kinh tế, Học viện Chính trị Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh: Xây dựng đội ngũ cơng chức quản lý nhà
nước về kinh tế ở huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam.
Các cơng trình trên đã đề cập đến nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn trong

việc xây dựng đội ngũ cán bộ, cơng chức nói chung, về đội ngũ cán bộ, công
chức quản lý nhà nước về kinh tế nói riêng. Tuy nhiên, cho đến nay chưa có
cơng trình nào nghiên cứu về đội ngũ cán bộ, công chức QLNN về kinh tế ở
thành phố Bắc Kạn, tỉnh Bắc Kạn.


3
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
Mục đích nghiên cứu của luận văn là trên cơ sở làm rõ một số vấn đề lý luận
và đánh giá đúng thực trạng đội ngũ cán bộ, công chức quản lý nhà nước về kinh tế
thành phố Băc Kan, luận văn đề xuất với lãnh đạo tỉnh và thành phố Băc Kan một
số giải pháp bổ sung, sửa đổi, điều chỉnh những mặt còn hạn chế, khiếm khuyết, bất
cập trong công tác xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức quản lý nhà nước về kinh tế
thành phố Bắc Kạn, tỉnh Bắc Kạn.
Để đạt mục đích trên, Luận văn có nhiệm vụ:
- Hệ thống hóa có bổ sung những vấn đề lý luận cơ bản về xây dựng đội ngũ
công chức quản lý nhà nước về kinh tế cấp huyện, thị, thành phố trực thuộc tỉnh ở
Việt Nam.
- Phân tích thực trạng đội ngũ cơng chức quản lý nhà nước về kinh tế thành
phố Bắc Kạn, tỉnh Bắc Kạn; đánh giá những ưu điểm, tồn tại hạn chế và xác định
nguyên nhân.
- Đề xuất các giải pháp chủ yếu nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức
quản lý nhà nước về kinh tế thành phố Bắc Kạn, tỉnh Bắc Kạn.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn này là việc xây dựng đội ngũ cán bộ,
công chức quản lý nhà nước về kinh tế cấp huyện, thành phố trực thuộc tỉnh Bắc
Kạn chỉ bao gồm các cán bộ, công chức làm việc trong HĐND, UBND và các phòng,
ban, ngành thuộc UBND thành phố thực hiện chức năng quản lý nhà nước về kinh tế;

xét trên hai nội dung chủ yếu:
- Tổ chức xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức QLNN về kinh tế ở các khâu
tuyển dụng, đánh giá, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, đề bạt, bổ nhiệm, luân chuyển
và bộ máy quản lý cán bộ cơng chức.
- Cơ chế chính sách đối với đội ngũ cán bộ, công chức quản lý nhà nước về
kinh tế.


4
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn chỉ tập trung nghiên cứu tại thành phố Bắc Kan , tỉnh Bắc Kạn.
Thời gian nghiên cứu, khảo sát thực trạng trong giai đoạn từ năm 2011 - 2015 và đề
xuất giải pháp đến năm 2020.

5. Phương pháp nghiên cứu của luận văn
Luận văn sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử
của chủ nghĩa Mác-Lênin, vận dụng vào điều kiện thực tế tại địa phương. Ngoài ra,
trong Luận văn còn sử dụng một số phương pháp khác như: phân tích, tổng hợp, hệ
thống, so sánh, thống kê... trên cơ sở những tài liệu, tư liệu, báo cáo, kết luận,… của
địa phương và cả nước, kế thừa có chọn lọc kết quả các cơng trình nghiên cứu có
liên quan.

6. Dự kiến đóng góp về mặt khoa học của luận văn
- Luận giải sự cần thiết phải xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức quản lý
nhà nước về kinh tế thành phố Bắc Kạn, tỉnh Bắc Kạn trong giai đoạn hiện nay.
- Đánh giá đúng thực trạng đội ngũ cán bộ, công chức quản lý nhà nước về
kinh tế thành phố Bắc Kạn, tỉnh Bắc Kạn.
- Đề xuất các giải pháp xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức quản lý nhà
nước về kinh tế thành phố Bắc Kạn, tỉnh Bắc Kạn.


7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn được kết cấu thành 3 chương.


5

CHƯƠNG I
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN XÂY DỰNG
ĐỘI NGŨ CÁN BỘ, CÔNG CHỨC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ
KINH TẾ CẤP HUYỆN, THÀNH PHỐ TRỰC THUỘC TỈNH
1.1. Khái quát về đội ngũ cán bộ, công chức quản lý
nhà nước về kinh tế cấp huyện, thành phố trực thuộc tỉnh
1.1.1. Khái niệm và phân loại công chức quản lý nhà nước về kinh tế cấp
huyện, thành phố trực thuộc tỉnh
1.1.1.1. Khái niệm cán bộ, công chức quản lý nhà nước về kinh tế cấp
huyện, thành phố trực thuộc tỉnh
Khái niệm về cán bộ
Thuật ngữ “cán bộ” được sử dụng khá lâu tại các nước xã hội chủ nghĩa và bao
hàm một diện rất rộng các loại nhân sự thuộc khu vực nhà nước và các tổ chức
chính trị, tổ chức chính trị xã hội. Thuật ngữ khi đó thường dùng là “cán bộ, công
nhân viên chức”, bao quát tất cả những người làm công hưởng lương từ nhà nước,
kể từ những người đứng đầu một cơ quan tới các nhân viên phục vụ như lái xe, bảo
vệ hay lao công tạp vụ.
Do những điều kiện lịch sử nhất định, suốt một thời gian dài trong đời sống
chính trị - pháp lý ở Việt Nam tồn tại một tập hợp khái niệm “cán bộ, cơng nhân,
viên chức” khơng có sự phân biệt rạch ròi từng khái niệm cũng như quy chế pháp lý
đối với từng nhóm. Pháp lệnh cán bộ công chức năm 1998 (sửa đổi bổ sung năm
2003) đề cập tới ba đối tượng cán bộ, công chức, viên chức nhưng không thể hiện rõ
ai là cán bộ, ai là công chức, ai là viên chức mà quy định chung các đối tượng “cán

bộ, công chức” là công dân Việt Nam, trong biên chế. Có thể nói, thuật ngữ cán bộ
được sử dụng như là một ước lệ, chưa thể hiện tính chất hành chính, chưa rõ nội
hàm của khái niệm. Đây cũng là một hạn chế của Pháp lệnh cán bộ, công chức.


6
Cụ thể hóa Pháp lệnh cán bộ, cơng chức, Chính phủ đã ban hành các Nghị định
số 114/2003/NĐ-CP về cán bộ, công chức xã, phường, thị trấn; Nghị định số
115/2003/NĐ-CP về chế độ công chức dự bị; Nghị định số 116/2003/NĐ-CP về
tuyển dụng, sử dụng và quản lý cán bộ, công chức trong đơn vị sự nghiệp của Nhà
nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội; Nghị định số 117/2003/NĐ-CP về
tuyển dụng, sử dụng và quản lý cán bộ, công chức trong các cơ quan nhà nước. Trên
cơ sở nghiên cứu quy định của pháp lệnh và các nghị định, chúng ta có thể hiểu cán
bộ là “những người do bầu cử để đảm nhiệm chức vụ theo nhiệm kỳ trong các cơ
quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương, ở cấp tỉnh và
cấp huyện”.
Cùng với xu hướng tồn cầu hóa về kinh tế, những thành tựu của sự phát triển
kinh tế - xã hội chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, tăng cường mở rộng giao lưu
hợp tác nhiều mặt với các nước, tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hóa nhân loại,
đồng thời, cơng cuộc cải cách hành chính ngày nay đặt ra nhu cầu chuyên biệt hóa
trong sự điều chỉnh pháp luật ngày càng rõ nét, địi hỏi phải có sự thống nhất về
nhận thức trong sự phân định các khái niệm có liên quan. Luật cán bộ, cơng chức
được Quốc hội ban hành tháng 11/2008, có hiệu lực từ ngày 01/01/2010 đã quy
định cụ thể:
Cán bộ là công dân Việt Nam, được bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ chức
vụ, chức danh theo nhiệm kỳ trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà
nước, tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương, ở tỉnh, thành phố trực thuộc trung
ương (sau đây gọi chung là cấp tỉnh), ở huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh
(sau đây gọi chung là cấp huyện), trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà
nước. [44]

Quan niệm về công chức
Công chức là thuật ngữ được sử dụng phổ biến ở nhiều quốc gia trên thế giới
để chỉ những người được tuyển dụng, bổ nhiệm vào làm việc thường xuyên trong
các cơ quan nhà nước và hưởng lương từ ngân sách nhà nước. Tuy nhiên, do tính
đặc thù của từng quốc gia nên quan niệm về cơng chức ở các nước khơng hồn toàn


7
thống nhất. Sự khác nhau này thể hiện trong các quan điểm dưới đây:
- Quan điểm thứ nhất thường xuất phát ở các nước xã hội chủ nghĩa. Do đồng
nhất hoạt động công vụ với hoạt động quản lý của Đảng, đồn thể dẫn đến quan
niệm về khái niệm cơng chức không chỉ bao gồm các đối tượng làm việc trong cơ
quan nhà nước (cả lập pháp, hành pháp và tư pháp) mà cả trong các tổ chức Đảng,
đoàn thể, thậm chí trong cả các đơn vị sản xuất.
- Quan điểm thứ hai cho rằng, công chức bao gồm những người làm việc trong
bộ máy nhà nước nói chung, tương ứng với quan niệm cơng vụ là hoạt động của
tồn bộ bộ máy nhà nước (bao gồm hoạt động của công chức trong cơ quan quyền
lực, xét xử, kiểm sát và cơ bản nhất là trong các cơ quan quản lý nhà nước).
- Quan điểm thứ ba cho rằng, công chức bao gồm những người hoạt động
trong các cơ quan hành chính, sự nghiệp của Nhà nước và bộ máy phục vụ của các
cơ quan nhà nước khác, giữ một công vụ thường xuyên, ổn định.
- Quan điểm thứ tư thuần túy cho rằng, công chức chỉ bao gồm những đối
tượng phục vụ trong bộ máy hành chính, giữ một chức vụ thường xuyên và ổn định,
quan niệm này xuất phát từ chỗ coi công vụ nhà nước chỉ là hoạt động của các cơ
quan hành chính.
Từ những quan niệm trên về công chức, mà ở những nước khác nhau cũng có
những quy định khác nhau về đối tượng này.
ở Pháp, khái niệm công chức rất rộng, người công chức được phân thành hai
loại. Loại thứ nhất là những nhân viên công chức làm việc thường xuyên trong bộ
máy nhà nước, bị chi phối bởi Luật công chức; loại thứ hai là những nhân viên công

chức bị chi phối bởi Luật lao động, bởi bản hợp đồng và luật tư. Họ được nhà nước
hoặc cộng đồng lãnh thổ bổ nhiệm vào một công việc thường xuyên trong các công
sở hay công sở tự quản, kể cả các bệnh viện [42].
ở Trung Quốc, một nước theo thể chế Cộng hòa dân chủ nhân dân, chế độ một
Đảng lãnh đạo, khái niệm công chức nhà nước dùng để chỉ những người công tác
trong các cơ quan hành chính nhà nước các cấp, từ nhân viên phục vụ. Gồm hai
loại: Công chức lãnh đạo là những người thừa hành quyền lực hành chính nhà nước,


8
được bổ nhiệm theo các trình tự luật định, chịu sự điều chỉnh của Hiến pháp, Điều
lệ công chức và Luật tổ chức chính quyền các cấp; và cơng chức nghiệp vụ là những
người thi hành chế độ thường nhiệm, do cơ quan hành chính các cấp bổ nhiệm và
quản lý căn cứ vào Điều lệ công chức, họ chiếm tuyệt đại đa số công chức nhà
nước, chịu trách nhiệm quán triệt, chấp hành chính sách và pháp luật [42].
ở Mỹ, công chức bao gồm tất cả những nhân viên trong ngành hành chính của
Chính phủ, kể cả những người được bổ nhiệm về Chính trị như Bộ trưởng, Thứ
trưởng, trợ lý Bộ trưởng, người đứng đầu các cơ quan Chính phủ. Tuy nhiên, khái
niệm cơng chức trong diện điều chỉnh của Luật Công chức lại không bao gồm
những công chức được bổ nhiệm về chính trị, họ được gọi là công chức chức
nghiệp. Đặc điểm của công chức Mỹ là khơng mang tính thường xun liên tục mà
tồn tại hệ thống thải loại; việc tuyển chọn, bổ nhiệm công chức chủ yếu theo công
trạng thực tế, công chức chỉ được tuyển dụng vào một công việc cụ thể mà khơng
có con đường chức nghiệp [42].
ở Cộng hịa Liên bang Đức, công chức Đức bao gồm những nhân viên làm
việc trong các cơ quan, tổ chức văn hóa, nghệ thuật giáo dục và nghiên cứu khoa
học quốc gia, nhân viên cơng tác trong các doanh nghiệp cơng ích do nhà nước
quản lý, các nhân viên, quan chức làm việc trong các cơ quan chính phủ, giáo sư đại
học, giáo viên trung học, tiểu học, bác sỹ, hộ lý bệnh viện, nhân viên lái xe lửa…
[42].

ở Việt Nam, khái niệm công chức được hình thành gắn liền với sự phát triển
của nền hành chính nhà nước. Văn bản có tính pháp lý đầu tiên quy định về công
chức là Sắc lệnh số 76/SL do Chủ tịch Hồ Chí Minh ký ngày 20/5/1950, tại Điều 1
quy định “công chức là những công dân Việt Nam được chính quyền nhân dân
tuyển để giữ một chức vụ thường xuyên trong các cơ quan chính phủ, ở trong hay
ngoài nước, trừ trường hợp riêng biệt do Chính phủ quy định”. Sau đó, do nhu cầu
bổ sung nhân lực trong bộ máy nhà nước ngày càng tăng, thực tiễn khi đó khơng có
đủ nguồn nhân lực phù hợp với những tiêu chuẩn quy định đối với công chức theo
Quy chế nên suốt một thời gian dài sau đó, chế độ cơng chức dần được thay thế


9
bằng chế độ “cán bộ, công nhân viên chức” bao gồm tất cả những người làm việc
trong các cơ quan nhà nước, cơ quan Đảng, tổ chức xã hội, các đơn vị kinh tế nhà
nước. Tất cả đều thuộc biên chế nhà nước, được gọi là “cán bộ, công nhân viên chức
nhà nước” chung chung, không phân biệt ai là cán bộ, cơng nhân, viên chức theo cách
quan niệm có tính truyền thống đã hình thành trước đó. Do vậy, pháp luật khơng tiếp
tục đi theo hướng điều chỉnh có tính chuyên biệt đối với từng đối tượng lao động
phục vụ trong các cơ quan, tổ chức sự nghiệp của nhà nước.
Thuật ngữ công chức được sử dụng trở lại tại Nghị định số 169/HĐBT ngày
25/5/1991 của Hội đồng Bộ trưởng về công chức báo hiệu xu hướng mới trong sự
điều chỉnh của pháp luật đối với hoạt động công vụ và về công chức. Theo quy định
tại Nghị định số 95/1998/NĐ-CP ngày 17/11/1998 và Nghị định số 117/2003/NĐCP ngày 10/10/2003 “về tuyển dụng, sử dụng và quản lý cán bộ, công chức trong
các cơ quan nhà nước” nhằm cụ thể hóa Pháp lệnh cán bộ cơng chức 1993 và sửa
đổi bổ sung năm 2003, cơng chức nói tại nghị định này và các văn bản hướng dẫn
thi hành đã đề cập một cách rõ ràng hơn về khái niệm cán bộ, cơng chức nhưng vẫn
chưa có sự phân biệt giữa cơng chức hành chính với cơng chức sự nghiệp.
Trước yêu cầu khách quan của tiến trình cải cách nền hành chính nhà nước và
địi hỏi chuẩn hóa đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước, Luật Cán bộ, công chức của
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã được Quốc hội thơng qua ngày

13/11/2008, có hiệu lực từ ngày 01/01/2010 đã quy định rõ: Công chức là công dân
Việt Nam, được tuyển dụng, bổ nhiệm vào ngạch, chức vụ, chức danh trong cơ
quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở trung
ương, cấp tỉnh, cấp huyện; trong cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân mà
không phải là sĩ quan, qn nhân chun nghiệp, cơng nhân quốc phịng; trong cơ
quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân mà không phải là sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên
nghiệp và trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập của Đảng
Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội, trong biên chế và hưởng
lương từ ngân sách nhà nước; đối với công chức trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của
đơn vị sự nghiệp cơng lập thì lương được bảo đảm từ quỹ lương của đơn vị sự


10
nghiệp công lập theo quy định của pháp luật [44].
Từ quy định trên, ta thấy khái niệm công chức theo pháp luật Việt Nam có
điểm khác biệt lớn so với các nước, công chức không chỉ bao gồm những người làm
việc trong hệ thống hành chính nhà nước mà cịn bao gồm cả những người làm việc
cho các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị – xã hội như các Ban Xây dựng Đảng;
các tổ chức đoàn thể (ủy ban Mặt trận Tổ quốc, Hội Liên hiệp phụ nữ, Hội Nơng
dân, Hội Cựu chiến binh, Đồn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Cơng đồn Việt
Nam); các cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân, Công an nhân dân. Đây là đặc
trưng cơ bản nhất của công chức nước ta, xuất phát từ đặc thù của thể chế chính trị
và tổ chức bộ máy nhà nước, Đảng, đồn thể của nước ta. Theo đó, cơng chức được
phân loại dựa trên các tiêu chí sau:
* Theo trình độ đào tạo: Công chức được chia làm ba loại:
- Công chức loại A: là người được bổ nhiệm vào ngạch yêu cầu trình độ đào
tạo chun mơn giáo dục đại học và sau đại học
- Công chức loại B: là người được bổ nhiệm vào ngạch yêu cầu trình độ đào
tạo chuyên môn giáo dục nghề nghiệp.
- Công chức loại C: là người được bổ nhiệm vào ngạch yêu cầu trình độ đào

tạo chuyên môn dưới giáo dục nghề nghiệp.
Cách phân loại này có ý nghĩa nhất định về lý luận và thực tiễn trong việc tiêu
chuẩn hóa trình độ chun mơn của cơng chức, khuyến khích họ phấn đấu học tập,
nâng cao trình độ, thăng tiến theo chức nghiệp.
* Theo ngạch công chức: gồm bốn loại:
- Công chức loại A: gồm những người được bổ nhiệm vào ngạch chuyên viên
cao cấp hoặc tương đương;
- Công chức loại B: gồm những người được bổ nhiệm vào ngạch chuyên viên
chính hoặc tương đương;
- Công chức loại C: gồm những người được bổ nhiệm vào ngạch chuyên viên
hoặc tương đương;
- Công chức loại D: gồm những người được bổ nhiệm vào ngạch cán sự hoặc


11
tương đương và ngạch nhân viên.
* Theo vị trí cơng tác: Công chức được phân ra làm hai loại:
- Công chức lãnh đạo, chỉ huy;
- Công chức chuyên môn, nghiệp vụ.
Việc phân loại công chức như trên là việc làm có ý nghĩa thiết thực về mặt
lý luận và thực tiễn đối với việc cơ cấu, quy hoạch, quản lý công chức trong hoạt
động công vụ. Trên cơ sở cách phân loại này để có những tiêu chí khác nhau trong
việc đánh giá, sử dụng, đề bạt, xử lý công chức vi phạm một cách thích hợp, đáp
ứng yêu cầu của công cuộc đổi mới xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.
* Cán bộ, cơng chức quản lý nhà nước về kinh tế cấp huyện
Để có thể đưa ra khái niệm công chức QLNN về kinh tế cấp huyện, ta có thể
xem xét từ khái niệm cơng chức nói chung.
Ở Việt Nam, Hiến pháp năm 1946 ra đời là cơ sở pháp lý cho việc xây dựng
chế độ cơng chức mới. Ngày 20/5/1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ban hành Sắc

lệnh số 76/SL về thực hiện quy chế công chức. Sắc lệnh đã chỉ rõ: “Công chức là
những cơng dân Việt Nam được chính quyền nhân dân tuyển để giữ một chức vụ
thường xuyên trong cơ quan Chính phủ ở trong hay ở ngồi nước, đều là công chức
theo quy chế này, trừ trường hợp riêng biệt do Chính phủ quy định”.
Nghị định số 169/HĐBT, ngày 25/5/1991 của Hội đồng Bộ trưởng quy định
về công chức Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam như sau: “Công chức
là công dân Việt Nam được tuyển dụng và bổ nhiệm một công vụ thường xuyên
trong một công sở nhà nước ở trung ương, địa phương, ở trong nước hay ngoài
nước đã được xếp vào một ngạch, bậc, hưởng lương do ngân sách nhà nước cấp”
[56, tr.8].
Theo Luật Cán bộ, Công chức số 22/2008/QH12, được Quốc hội nước Cộng
hồ xã hội chủ nghĩa Việt Nam khố XII, kỳ họp thứ 4 thông qua ngày 13 tháng 11
năm 2008, có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2010,
Công chức là công dân Việt Nam, được tuyển dụng, bổ nhiệm vào ngạch,


12
chức vụ, chức danh trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức
chính trị - xã hội ở trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện; trong cơ quan, đơn vị thuộc
Quân đội nhân dân mà không phải là sĩ quan, qn nhân chun nghiệp, cơng nhân
quốc phịng; trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân mà không phải là sĩ
quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp và trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự
nghiệp công lập của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội
(sau đây gọi chung là đơn vị sự nghiệp công lập), trong biên chế và hưởng lương từ
ngân sách nhà nước; đối với công chức trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị
sự nghiệp cơng lập thì lương được bảo đảm từ quỹ lương của đơn vị sự nghiệp công
lập theo quy định của pháp luật [30, tr.8-9].
Như vậy, có thể thấy rằng, công chức Nhà nước ở Việt Nam là những người
có đủ các điều kiện sau:
i) Là cơng dân Việt Nam; ii) Được tuyển dụng, bổ nhiệm vào ngạch, chức

vụ, chức danh trong các cơ quan Đảng, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội, đơn vị
Quân đội, Công an…; iii) Hưởng lương từ ngân sách Nhà nước hoặc được bảo đảm
từ quỹ lương của đơn vị sự nghiệp công lập.
Theo Điều 4, Luật Cán bộ, Công chức (2008), cán bộ cũng là công chức
nhưng được bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm, giữ chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ.
Những người làm việc trong các đơn vị sự nghiệp công lập mà không phải là cán bộ
hoặc cơng chức thì được coi là viên chức.
Cụ thể là, viên chức (theo Dự thảo Luật Viên chức), là những người được
tuyển dụng theo hợp đồng làm việc, được bổ nhiệm vào một chức danh nghề
nghiệp, chức vụ quản lý (trừ các chức vụ quy định là công chức). Viên chức là
người thực hiện các công việc hoặc nhiệm vụ có u cầu về năng lực, kỹ năng
chun mơn, nghiệp vụ trong các đơn vị sự nghiệp công lập thuộc các lĩnh vực giáo
dục, đào tạo, y tế, khoa học, công nghệ… như bác sĩ, giáo viên, giảng viên đại học.
Ở đây, có thể thấy, cơng chức và viên chức khác nhau ở bốn điểm: i) Công
chức vận hành quyền lực Nhà nước, làm nhiệm vụ quản lý. Viên chức thực hiện
chức năng xã hội, trực tiếp thực hiện nghiệp vụ; ii) Công chức được tuyển dụng


13
thơng qua thi tuyển, bổ nhiệm, có quyết định của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền
thuộc biên chế. Viên chức được tuyển dụng bằng hình thức xét tuyển, ký hợp đồng
làm việc; iii) Công chức hưởng lương từ ngân sách Nhà nước theo ngạch, bậc, còn
viên chức hưởng lương một phần từ ngân sách, phần còn lại là nguồn thu sự nghiệp;
iv) Công chức làm việc trong các cơ quan Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội, còn
viên chức làm việc trong các đơn vị sự nghiệp và đơn vị sự nghiệp của các tổ chức
xã hội.
Công chức quản lý nhà nước về kinh tế là công chức Nhà nước, được tuyển
dụng, bổ nhiệm vào ngạch, chức vụ, chức danh trong các cơ quan quản lý nhà nước
về kinh tế, từ trung ương đến cơ sở.
Ở Trung ương, các cơ quan quản lý nhà nước về kinh tế bao gồm các cơ

quan lập pháp, hành pháp và tư pháp. Đó là Quốc hội, Chính phủ, các bộ có chức
năng quản lý nhà nước về kinh tế (Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhà nước, Bộ Cơng
Thương, Bộ Lao động TB&XH, Bộ Kế hoạch - Đầu tư…) và các vụ, cục, phòng
ban thuộc các bộ thực hiện chức năng quản lý chun ngành…; Bộ Cơng an, Tồ
án, Viện Kiểm sát nhân dân Tối cao, Thanh tra Chính phủ… thực hiện chức năng
thanh tra, kiểm tra, kiểm soát các hoạt động kinh tế.
Ở địa phương, cơ quan quản lý nhà nước về kinh tế có ở cấp tỉnh, cấp huyện.
Đó là các cơ quan theo ngành dọc, ở địa phương (tỉnh, huyện).
Cơ quan quản lý nhà nước về kinh tế ở cấp huyện bao gồm HĐND, UBND,
các phòng, ban thực hiện chức năng tham mưu cho HĐND, UBND về quản lý nhà
nước về kinh tế. Đó là các cơ quan như Văn phịng HĐND và UBND, Văn phịng
UBND (nơi thí điểm khơng tổ chức HĐND), phịng Tài chính - Kế hoạch, phịng
Tài ngun và Mơi trường, phịng Lao động Thương binh và Xã hội, phịng Cơng
thương, phịng Nơng nghiệp và Phát triển nơng thơn, phịng Văn hố Thơng tin Thể thao, phịng Kinh tế, phịng Quản lý đơ thị, Thanh tra Nhà nước…
Từ những phân tích trên, chúng ta có thể xác định khái niệm công chức
QLNN về kinh tế cấp huyện như sau:
“Công chức QLNN về kinh tế cấp huyện là những công chức Nhà nước,


14
được tuyển dụng, bổ nhiệm vào ngạch, chức vụ, chức danh trong các cơ quan
QLNN về kinh tế cấp huyện”.
Công chức QLNN về kinh tế cấp huyện, trước hết, họ là công chức Nhà
nước, họ phải hội đủ những tiêu chí đã quy định trong Luật Cán bộ, Cơng chức
(2008) như đã phân tích ở trên. Tuy nhiên, những cơng chức Nhà nước này được
tuyển dụng, bổ nhiệm vào ngạch, chức vụ, chức danh và làm việc trong các cơ quan
QLNN về kinh tế cấp huyện (như đã nói ở trên). Những công chức này không bao
gồm công chức là lãnh đạo, quản lý làm việc trong các đơn vị sự nghiệp công lập.
Công chức QLNN về kinh tế cấp huyện được xem xét trong luận văn
này là những công chức làm việc trong cơ quan QLNN về kinh tế ở tất cả các huyện

(thị xã, thành phố) trong một tỉnh.

1.1.2. Đặc điểm và vai trò của đội ngũ cán bộ, công chức quản lý nhà nước
về kinh tế cấp huyện, thành phố trực thuộc tỉnh
1.1.2.1. Đặc điểm của đội ngũ cán bộ, công chức quản lý nhà nước về kinh tế
cấp huyện, thị trực thuộc tỉnh
Là một bộ phận của công chức QLNN về kinh tế, công chức QLNN về kinh
tế cấp huyện cũng có những đặc điểm chung của cơng chức QLNN về kinh tế. Đó
là:
- Phần lớn cán bộ, công chức đã được rèn luyện, thử thách qua q trình đấu
tranh giải phóng dân tộc, và xây dựng đất nước, có bản lĩnh chính trị vững vàng,
trung thành với sự nghiệp cách mạng.
- Kiến thức, trình độ và năng lực hoạt động thực tiễn của đội ngũ cán bộ,
công chức từng bước trưởng thành về mọi mặt.
- Phần lớn cán bộ, công chức đã được trang bị kiến thức về lý luận chính trị,
quản lý nhà nước, pháp luật, ngoại ngữ, tin học và các kiến thức xã hội khác.
- Năng động, thích ứng nhanh với cơ chế mới.
Bên cạnh những đặc điểm chung đó, đội ngũ cơng chức QLNN về kinh tế
cấp huyện cịn mang những nét riêng, đó là:
Thứ nhất, đội ngũ cơng chức QLNN về kinh tế cấp huyện phần lớn là người


15
địa phương.
Họ có quan hệ dịng tộc và tình cảm gắn bó với địa phương về nhiều mặt. Có
nhiều yếu tố đan xen, chi phối trong bản thân mỗi người công chức: họ vừa là người
địa phương, cùng sinh ra và lớn lên với những người dân trong vùng, vừa là người
đại diện Nhà nước thực thi công vụ. Các yếu tố này vừa thống nhất, vừa mâu thuẫn
với nhau, chi phối các hoạt động của họ theo chiều hướng cả tích cực và tiêu cực.
Thể hiện ở chỗ, vì là người địa phương nên họ gắn bó với quê hương và có tâm

huyết để cống hiến và xây dựng q hương. Bên cạnh đó, cũng vì là người địa
phương nên họ dễ bị chi phối bởi tình cảm cá nhân trong q trình thực hiện nhiệm
vụ, có thể dẫn tới làm sai lệch các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước.
Thứ hai, đội ngũ công chức quản lý nhà nước về kinh tế cấp huyện hoạt
động trên một địa bàn rộng.
Địa bàn cấp huyện thường là rộng và gắn với sản xuất nông nghiệp, mật độ
dân cư khơng đơng, nhiều nơi có kết cấu hạ tầng cơ sở chưa đồng bộ, việc đi lại từ
trung tâm huyện lỵ tới các khu vực dân cư có nơi cịn gặp nhiều khó khăn, nhất là ở
các huyện miền núi, vùng sâu, vùng xa. Vì vậy, cơng chức QLNN về kinh tế cấp
huyện gặp nhiều khó khăn trong việc tổ chức, triển khai thực hiện chính sách.
Thứ ba, kết quả hoạt động của công chức QLNN về kinh tế ảnh hưởng trực
tiếp đến đời sống người dân địa phương.
Xuất phát từ vai trò trực tiếp chuyển tải và triển khai thực hiện đường lối đổi
mới kinh tế của Đảng và Nhà nước tới nhân dân, đội ngũ cơng chức có năng lực
cơng tác, có chun mơn, nghiệp vụ thì việc triển khai thực hiện sẽ có hiệu quả.
Ngược lại, nếu đội ngũ công chức quản lý nhà nước về kinh tế yếu về năng lực và
chun mơn, nghiệp vụ thì việc chuyển tải và cụ thể hoá các đường lối chính sách
trong thực tiễn sẽ khơng đạt hiệu quả, thậm chí cịn làm sai các quy định của Nhà
nước về quản lý kinh tế.
Thứ tư, công chức QLNN về kinh tế cấp huyện phải giải quyết một khối
lượng công việc hàng ngày rất lớn.
Quản lý nhà nước về kinh tế ở cấp huyện là cấp gần cơ sở nhất với rất nhiều


16
nội dung, nhiều lĩnh vực. Hoạt động của đội ngũ công chức quản lý nhà nước về
kinh tế gắn trực tiếp với người dân địa phương cũng như các tổ chức kinh tế trên
nhiều mặt. Vì vậy, áp lực về khối lượng công việc cần giải quyết cũng như áp lực
yêu cầu về thời gian cần hoàn thành là rất lớn, nhất là các lĩnh vực nhạy cảm dễ nảy
sinh tiêu cực và khiếu kiện như lĩnh vực đất đai, đền bù thu hồi đất để giải phóng

mặt bằng phục vụ phát triển công nghiệp và các mục tiêu phát triển kinh tế - xã
hội…

1.1.2.2. Vai trò đội ngũ cán bộ, công chức quản lý nhà nước về kinh tế
Huyện được xem như là địa bàn phát triển nông nghiệp, lâm nghiệp hoặc ngư
nghiệp là chủ yếu gắn bó với công nghiệp tạo thành một bộ phận quan trọng trong
cơ cấu kinh tế lãnh thổ của tỉnh. Chính quyền cấp huyện là cấp trung gian giữa cấp
tỉnh và cấp cơ sở. Chính quyền huyện phát huy vai trị quản lý hành chính nhà nước
để hướng dẫn, khuyến khích phát triển các cơ sở tiểu thủ công nghiệp, các tổ chức
dịch vụ; đẩy mạnh hoạt động sản xuất, kinh doanh kể cả xuất nhập khẩu để tạo
nguồn thu cho sự phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn huyện [44, tr.338-339].
Mặt khác, Việt Nam đang bước vào thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện
đại hố, hội nhập kinh tế quốc tế, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa, vai trò quản lý kinh tế của Nhà nước ngày càng tăng. Trong điều kiện
đó, đội ngũ công chức QLNN về kinh tế cấp huyện có vai trị hết sức quan trọng.
Thứ nhất, cơng chức quản lý nhà nước về kinh tế cấp huyện giúp cấp uỷ,
chính quyền địa phương sử dụng, khai thác và nắm bắt có hiệu quả các nguồn lực
và tiềm năng của địa phương.
Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, thực trạng về các nguồn lực, các điều
kiện kinh tế - xã hội, tiềm năng của địa phương như dân số, lao động, việc làm, du
lịch, dịch vụ, tiểu thủ công nghiệp, tài nguyên thiên nhiên… được họ nắm bắt để
tham mưu cho cấp uỷ, chính quyền địa phương đưa ra các phương án hoạt động tối
ưu nhằm sử dụng có hiệu quả nhất các nguồn lực đó.
Bên cạnh đó, trong quá trình thực hiện chức năng QLNN về kinh tế ở địa
phương, các công chức QLNN về kinh tế cấp huyện cũng chính là những người



×