Tải bản đầy đủ (.docx) (31 trang)

Tiểu luận hệ thống chính trị và xây dựng hệ thống chính trị ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (232.34 KB, 31 trang )

Tiểu luận HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ VÀ XÂY DỰNG HỆ THỐNG
CHÍNH TRỊ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY


MỤC LỤC

Trang
MỞ ĐẦU

2

NỘI DUNG

3

I

NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ Ở VIỆT NAM

3

1

Đảng Cộng sản Việt Nam

3

2

Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam


3

4

Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị – xã hội
thành viên
Cơ chế và các nguyên tắc vận hành của hệ thống chính trị

5

Mơ hình hệ thống chính trị ở Việt Nam

3

4
5
5

5.1 Đặc điểm của mơ hình hệ thống chính trị Việt Nam

5

5.2 Sự vận hành trên thực tế của mơ hình hệ thống chính trị Việt Nam

6

Những hạn chế, bất cập, nguyên nhân và vấn đề đặt ra của hệ thống
chính trị hiện nay
6.1 Hạn chế, bất cập
6


9
9

6.2 Nguyên nhân hạn chế, bất cập

11

6.3 Những vấn đề đặt ra hiện nay

12

II

XÂY DỰNG HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

14

1

Các phương án xây dựng hệ thống chính trị

14

2

Giải pháp xây dựng hệ thống chính trị trong sạch vững mạnh

18


LƯỢNG LƯỢNG VŨ TRANG TỈNH CÀ MAU THAM GIA XÂY
DỰNG HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ VỮNG MẠNH

22

III

KẾT LUẬN

29

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

30


MỞ ĐẦU
Hệ thống chính trị ở Việt Nam hiện nay bao gồm bộ máy tổ chức của
Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đồn thể chính trị - xã hội và các mối
quan hệ giữa các thành tố trong hệ thống. Trước năm 1986 và trong những năm
đầu của quá trình đổi mới, trong các văn kiện của Đảng sử dụng khái niệm
"chun chính vơ sản", "hệ thống chun chính vơ sản". Từ Hội nghị Trung
ương 6 khố VI (tháng 3-1989), Đảng ta chính thức sử dụng khái niệm "hệ
thống chính trị".Hệ thống chính trị của chủ nghĩa xã hội được quan niệm là hệ
thống của các tổ chức chính trị - xã hội mà nhờ đó nhân dân lao động được thực
thi quyền lực của mình trong xã hội. Hệ thống chính trị này bao trùm và điều
chỉnh mọi quan hệ chính trị giữa các giai cấp, tầng lớp xã hội; giữa các dân tộc
trong cộng đồng xã hội; giữa các yếu tố xã hội, tập thể và cá nhân về vấn đề
quyền lực, về hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách phát triển xã hội.
Việc đổi mới, xây dựng hệ thống chính trị ở Việt Nam là một trong những

nhiệm vụ cấp bách hiện nay, Đại hội XII của Đảng đã rút ra bài học thứ
nhất“Trước những khó khăn thách thức trên con đường đổi mới, phải hết sức
chú trọng công tác xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực
lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh”.
Như vậy, theo quan điểm Đại hội XII và Đại hội XIII của Đảng xác định:
xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh là xây dựng ba thành tố trụ cột của hệ
thống chính trị đó là Đảng, Nhà nước, MTTQ và các tổ chức chính trị - xã hội.
Đổi mới hệ thống chính trị vừa tuân theo chủ trương của Đảng, vừa phải phù
hợp với tình hình thực tế của địa phương nhằm phát huy vai trò lãnh đạo của
Đảng, quản lý của Nhà nước và quyền làm chủ của nhân dân.


NỘI DUNG
I. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ Ở VIỆT NAM

Hệ thống chính trị Việt Nam về mặt thiết chế bao gồm Đảng cộng sản Việt
Nam, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị – xã
hội(Tổng liên đồn lao động Việt Nam, Đồn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh,
Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Hội Cựu chiến binh Việt Nam, Hội Nơng dân
Việt Nam).Nhà nước gồm có quốc hội, chủ tịch nước, chính phủ, tịa án nhân
dân và viện kiểm sát nhân dân.
Trong hệ thống chính trị Việt Nam, Nhà nước là trung tâm của hệ thống
chính trị. Đảng cộng sản Việt Nam là hạt nhân của hệ thống chính trị, lãnh đạo
nhà nước và xã hội.
1. Đảng Cộng sản Việt Nam
Đảng Cộng sản Việt Nam là Ðảng cầm quyền, lãnh đạo nhà nước và xã
hội. Ðảng lãnh đạo bằng cương lĩnh, chiến lược, các định hướng về chính sách
và chủ trương lớn; bằng công tác tuyên truyền, thuyết phục, vận động tổ chức,
kiểm tra, giám sát và bằng hành động gương mẫu của đảng viên. Ðảng thống
nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ, giới thiệu những đảng

viên ưu tú có đủ năng lực và phẩm chất vào hoạt động trong các cơ quan lãnh
đạo của hệ thống chính trị. Ðảng lãnh đạo thông qua tổ chức đảng và đảng viên
hoạt động trong các tổ chức của hệ thống chính trị.
2. Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam bao gồm Quốc hội, Chủ
tịch nước, Chính phủ, hệ thống tư pháp (Toà án và Viện kiểm sát nhân dân).Nhà
nước đang được xây dựng là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do
dân và vì dân.
2.1. Quốc hội
Quốc hộiViệt Nam được thành lập thông qua bầu cử của nhân dân, theo
nhiệm kỳ, dưới sự lãnh đạo của đảng. Sự lãnh đạo của đảng trong việc giới thiệu


ứng cử viên dẫn tới trên thực tế cả Đảng và nhân dân cùng tham gia vào quá
trình lựa chọn các đại biểu quốc hội. Quốc hội bầu chủ tịch nước, thủ tướng
chính phủ, chánh án tịa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao và
một số vị trí khác của bộ máy nhà nước. Quốc hội bầu và thành lập chính phủ.
2.2. Chủ tịch nước
Chủ tịch nước là người đứng đầu Nhà nước, thay mặt nước Cộng hoà Xã
hội Chủ nghĩa Việt nam về đối nội và đối ngoại.
2.3. Chính phủ
Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội, cơ quan hành chính nhà
nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Chính phủ do
Quốc hội bầu ra và chịu trách nhiệm trước quốc hội.
2.4. Toà án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân
Hệ thống tổ chức của toà án bao gồm: Toà án nhân dân tối cao, các toà án
nhân dân tỉnh thành phố trực thuộc Trung ương, các toà án nhân dân huyện,
quận, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh; các toà án quân sự; các toà án khác do
luật định. Trong tình hình đặc biệt, Quốc hội có thể quyết định hình thành tồ án
đặc biệt.

Hệ thống tổ chức của Viện kiểm sát nhân dân bao gồm: Viện kiểm sát
nhân dân tối cao, các viện kiểm sát nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương; các viện kiểm sát nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh; các
viện kiểm sát quân sự.
Chức năng, nhiệm vụ của Toà án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân là
bảo vệ Hiến pháp, pháp luật của Việt Nam. Viện kiểm sát Nhân dân đồng thời
thực hiện chức năng công tố.
3. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị – xã hội thành viên
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị – xã hội thành viên là
một bộ phận của hệ thống chính trị, là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân.
Ðảng Cộng sản Việt Nam vừa là thành viên vừa là tổ chức lãnh đạo Mặt trận.
Mặt trận hoạt động theo phương thức hiệp thương dân chủ, phối hợp và thống
nhất hành động giữa các thành viên.


4. Cơ chế và các nguyên tắc vận hành của hệ thống chính trị
Hệ thống chính trị Việt Nam vừa hoạt động theo cơ chế: “Đảng lãnh đạo,
Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”
Nguyên tắc phổ biến của hệ thống chính trị nói chung: ngun tắc quyền
lực nhà nước thuộc về nhân dân; nguyên tắc ủy quyền có điều kiện và có thời
hạn (thơng qua bầu cử tự do, bình đẳng, phổ thơng, trực tiếp và kín); các ngun
tắc đặc thù khác như: Đảng lãnh đạo nhà nước và xã hội; nguyên tắc tập thể lãnh
đạo, cá nhân phụ trách.
Nguyên tắc tập trung dân chủ là nguyên tắc hoạt động cơ bản của hệ thống
chính trị. Riêng Mặt trận tổ quốc Việt Nam hoạt động trên nguyên tắc đồng
thuận, hiệp thương dân chủ.
Nguyên tắc quyền lực nhà nước là tập trung thống nhất, khơng phân chia,
nhưng có sự phân cơng, phối hợp và kiểm sốt giữa các cơ quan nhà nước trong
việc thực thi các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp.
5. Mơ hình hệ thống chính trị ở Việt Nam

Theo tiêu chí đảng chính trị, Hệ thống chính trị Việt Nam thuộc mơ hình
hệ thống một Đảng Cộng sản lãnh đạo. Trong đó có sự song hành quyền lực
nhất định giữa Đảng và Nhà nước. Đặc biệt trên một số lĩnh vực như quốc
phòng, an ninh, đối ngoại, công tác cán bộ. Xét về phương diện tổ chức quyền
lực nhà nước, hệ thống chính trị Việt Nam thuộc mơ hình nghị viện.
Theo tiêu chí quyền lực trên thực tế mơ hình Đảng – Nhà nước: Trong đó
có sự song hành quyền lực nhất định giữa Đảng và Nhà nước. Đặc biệt trên một
số lĩnh vực như quốc phòng, an ninh, đối ngoại, công tác cán bộ.
5.1. Đặc điểm của mơ hình hệ thống chính trị Việt Nam
- Hệ thống chính trị Việt Nam có một đảng duy nhất – Đảng Cộng sản
cầm quyền, lãnh đạo; được xây dựng trên cơ sở lý luận chủ nghĩa Mác – Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh; vận hành theo nguyên tắc tập trung, dân chủ;
- Nguyên tắc tập trung dân chủ là nguyên tắc vận hành của hệ thống chính trị;


- Trong tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị, có sự song trùng trực
thuộc quyền lực giữa các cơ quan của Đảng và các cơ quan của Nhà nước;
- Do điều kiện lịch sử và một phần từ cơ sở lý luận của chủ nghĩa MácLênin, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị-xã hội không độc lập với Đảng,
nhà nước.
5.2.Sự vận hành trên thực tế của mơ hình hệ thống chính trị Việt Nam
Hệ thống chính trị Việt Nam tỏ rõ ưu việt trong hai cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, hồn thành cuộc cách mạng giải
phóng dân tộc, thống nhất đất nước. Tuy nhiên trước những thay đổi của bối
cảnh, mơi trường xã hội trong và ngồi nước, từ thực trạng hoạt động trên thực
tế, hệ thống chính trị Việt nam cần được đổi mới để thích ứng và đáp ứng được
nhu cầu phát triển của xã hội.
Sự chuyển đổi từ “hệ thống chun chính vơ sản” sang hệ thống chính trị
là bước ngoặt đánh dấu sự thay đổi tư duy chính trị của đảng trong thời kỳ đổi
mới. Do vậy, việc chuyển sang hệ thống chính trị chính là nhấn mạnh tới tính
thích nghi của hệ thống.

Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong nhiệm kỳ Đại hội XII được Đại
hội XIII đánh giá: Trong nhiệm kỳ này đã đạt được kết quả toàn diện, trong đó
nổi bật là: Đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thối về tư tưởng chính trị, đạo
đức, lối sống, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực; sắp xếp tổ chức bộ máy, sáp
nhập đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã và tinh giản biên chế của hệ thống
chính trị, đổi mới cơng tác cán bộ và ngăn chặn tình trạng chạy chức, chạy
quyền; tăng cường kiểm tra, giám sát kỷ luật đảng, xử lý nghiêm những tổ chức
đảng và cán bộ, đảng viên vi phạm, khơng có vùng cấm, khơng có ngoại lệ. “Kết
quả của cơng tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng các nhiệm kỳ qua và nhiệm kỳ Đại
hội XII đã góp phần rất quan trọng để đất nước ta có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế
và uy tín như ngày nay, Đảng ta đồn kết, thống nhất và trong sạch, vững mạnh
hơn; niềm tin của nhân dân đối với Đảng được củng cố, tăng cường hơn, tạo nền
tảng vững chắc đưa đất nước phát triển nhanh, bền vững trong những năm
tới”, Nghị quyết Đại hội XIII nêu rõ.


Qua đây có thể khẳng định trong nhiệm kỳ 2016 -2021, cơng tác tổ chức
bộ máy hệ thống chính trị của chúng ta đã có nhiều chuyển biến quan trọng, đạt
được nhiều kết quả cơ bản và to lớn. Tổ chức bộ máy đã có những chuyển biến
theo hướng đáp ứng với những đòi hỏi đặt ra của thực tiễn công cuộc xây dựng,
phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc. Một số cơ quan, tổ chức mới được thiết
lập, một số cơ quan, tổ chức khơng cịn phù hợp đã được giải thể hoặc sáp nhập
vào các cơ quan, tổ chức thích hợp. Nhiều cơ quan, tổ chức cũng có những thay
đổi về bộ máy, nhân sự theo hướng ngày càng hợp lý hóa phù hợp với điều kiện
kinh tế - xã hội đã thay đổi. Một số cơ quan nhà nước, nhất là Quốc hội, đã được
tăng cường các điều kiện, nguồn lực, ngày càng thể hiện rõ hơn vai trò và trách
nhiệm trong quản lý, quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước. Các quy
định, chế độ, hành lang pháp lý cho hoạt động của hệ thống chính trị được bổ
sung, phát triển. Tổ chức bộ máy của các cơ quan, đơn vị, tổ chức trong hệ
thống chính trị từng bước được đổi mới, sắp xếp, kiện toàn theo hướng tinh gọn,

hoạt động hiệu lực, hiệu quả hơn, giảm cấp trung gian, giảm nhiều đầu mối bên
trong, nhất là giảm số lượng tổ chức và lãnh đạo, quản lý cấp phịng khối chính
quyền địa phương, đơn vị sự nghiệp và trong các cục, vụ ở cơ quan Trung ương;
tích cực rà sốt, sắp xếp giảm số lượng ban chỉ đạo, ban quản lý dự án v.v..
Những kết quả quan trọng trong công tác tổ chức, sắp xếp bộ máy hệ
thống chính trị, theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 khóa XII,
Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày 25-10-2017 “Một số vấn đề về tiếp tục đổi mới,
sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu
quả” và Nghị quyết số 19-NQ/TW ngày 25-10-2017 “Về tiếp tục đổi mới hệ
thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của các
đơn vị sự nghiệp công lập”, đã thực sự đi vào cuộc sống, tạo chuyển biến tích
cực trên các lĩnh vực.
Tựu chung, q trình đổi mới hệ thống chính trị Việt Nam trong thời gian
qua đã đạt được những kết quả nhất định:


Thứ nhất, đã có sự khắc phục nhất định sự trùng lắp chức năng giữa đảng,
nhà nước thông qua cụ thể hóa chức năng lãnh đạo của đảng, quản lý nhà nước
và thực hiện đổi mới phương thức lãnh đạo của đảng.
Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, phương thức lãnh đạo, mối quan hệ của
cơ quan Ðảng, Nhà nước, Mặt trận và các tổ chức chính trị - xã hội được quy
định cụ thể hơn, phân định rõ ràng hơn. “Về cơ bản, chức năng, nhiệm vụ của
các ban đảng ở Trung ương, nhất là các ban có sự sắp xếp, kiện toàn phù hợp
với cơ cấu tổ chức mới, tránh trùng lắp, chồng chéo. Chức năng, nhiệm vụ các
bộ, cơ quan ngang bộ tiếp tục được hoàn thiện, khắc phục cơ bản sự trùng lắp,
các bộ được tổ chức theo mơ hình quản lý đa ngành, đa lĩnh vực, phân biệt rõ
hơn chức năng quản lý nhà nước với chức năng quản lý sản xuất kinh doanh,
tách dần hoạt động hành chính với hoạt động của các đơn vị kinh tế, sự nghiệp
và dịch vụ công”1.
Thứ hai, tổ chức, bộ máy cơ quan Ðảng, Nhà nuớc, Mặt trận Tổ quốc và

các tổ chức chính trị - xã hội được kiện toàn theo hướng hợp lý, tinh gọn hơn,
dần thực hiện đúng chức năng. Số lượng đầu mối các bộ, ban, ngành giảm. Thực
hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 Ban chấp hành Trung ương khoá X, cơ cấu
tổ chức bộ máy của Chính phủ được sắp xếp phù hợp yêu cầu, nhiệm vụ mới,
tinh gọn hơn.
Thứ ba, tổ chức nhà nước đã có sự phân định thẩm quyền và chức năng
ngày càng rõ hơn giữa quốc hội, chính phủ, tòa án nhân dân và viện kiểm sát
nhân dân. Hoạt động của Quốc hội đã có sự chuyển biến, tập trung thực hiện
chức năng đại diện, lập pháp và giám sát. Chính phủ được cải cách theo hướng
năng động, kiến tạo sự phát triển, nền hành chính chuyên nghiệp, hiện đại. Cải
cách tòa án được đề xuất để tăng tính tranh tụng, xét xử cơng khai và đảm bảo
tính độc khi xét xử.
Thứ tư, Quốc hội có sự đổi mới về nội dung và phương thức hoạt động,
tăng cường việc xây dựng và ban hành các bộ luật, luật, pháp lệnh, thể chế hố

1

Thơng báo kết luận số 39- TB/TW ngày 14/6/2011 của Bộ Chính trị


đường lối, chủ trương của Ðảng, cụ thể hoá các quy định của Hiến pháp, quan
hệ phối hợp giữa Quốc hội, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội với Chủ tịch nước, Chính
phủ, Tồ án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam, hình thành cơ chế tiếp xúc giữa đại biểu Quốc hội với cử tri, dân chủ
trong hoạt động của Quốc hội, tăng cường chất vấn công khai tại Quốc hội.
Thứ năm, Chính phủ, cơ quan hành chính nhà nước đã có sự đổi mới về
chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức, bộ máy gắn với quá trình chuyển đổi cơ
chế quản lý kinh tế, làm rõ hơn chức năng quản lý vĩ mơ của Chính phủ và các
Bộ. Chính phủ đã tiến hành cải cách thể chế, tập trung cải cách thủ tục hành
chính, nhất là trong lĩnh vực liên quan đến sản xuất, kinh doanh và đời sống

nhân dân. Nền hành chính đang có sự thay đổi từ cai trị sang phục vụ theo
hướng hiện đại, chuyên nghiệp. Cơ quan tư pháp được cải cách theo hướng hiện
đại, độc lập và chuyên nghiệp.
6. Những hạn chế, bất cập, nguyên nhân và vấn đề đặt ra của hệ thống
chính trị hiện nay
6.1. Hạn chế, bất cập
Tuy nhiên, tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị vẫn cịn cồng kềnh,
nhiều tầng nấc, nhiều đầu mối; hiệu lực, hiệu quả hoạt động chưa đáp ứng yêu
cầu, nhiệm vụ. Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức bộ máy, mối quan hệ
của một số cơ quan, tổ chức chưa thật rõ, cịn chồng chéo, trùng lắp... Việc phân
cơng, phân cấp, phân quyền giữa các ngành, các cấp và trong từng cơ quan, tổ
chức chưa hợp lý, mạnh mẽ và đồng bộ; cịn tình trạng bao biện, làm thay hoặc
bỏ sót nhiệm vụ. Kiện toàn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị gắn với tinh
giản biên chế, cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức đạt kết quả thấp;
tỉ lệ người phục vụ cao, nhất là ở khối văn phịng; số lãnh đạo cấp phó nhiều;
việc bổ nhiệm cấp "hàm" ở một số cơ quan Trung ương chưa hợp lý. Cơ chế
kiểm soát quyền lực hiệu quả chưa cao; việc công khai, minh bạch và trách
nhiệm giải trình cịn hạn chế. Cải cách hành chính, nhất là cải cách thủ tục hành
chính chuyển biến chậm, khơng đồng bộ, chưa đáp ứng yêu cầu. Tuy đã quan
tâm đầu tư nhiều cho kết cấu hạ tầng công nghệ thông tin phục vụ quản lý
nhưng


hiệu quả tác động vào việc tinh gọn tổ chức bộ máy, nâng cao hiệu lực, hiệu quả
hoạt động và tinh giản biên chế chưa tương xứng. Số người hưởng lương, phụ
cấp từ ngân sách nhà nước rất lớn, nhất là ở các đơn vị sự nghiệp công lập,
người hoạt động không chuyên trách cấp xã và ở thôn, tổ dân phố; chính sách
tiền lương cịn bất cập.
Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm, mối quan hệ công tác của
cấp uỷ cấp tỉnh, cấp uỷ cấp huyện chưa cụ thể hoá đầy đủ; thiếu quy định khung

quy chế làm việc của cấp uỷ các cấp. Số lượng, cơ cấu, chất lượng cấp uỷ viên,
uỷ viên ban thường vụ cấp uỷ các cấp còn một số bất cập. Năng lực lãnh đạo và
sức chiến đấu của khơng ít cấp uỷ, tổ chức đảng còn yếu, nhất là ở một số cơ sở
và trong doanh nghiệp nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập; việc quản lý đảng
viên ở nhiều nơi thiếu chặt chẽ; công tác xây dựng tổ chức đảng, phát triển đảng
viên ở một số địa bàn và trong các doanh nghiệp, đơn vị sự nghiệp ngồi nhà
nước cịn khó khăn. Nhiều trưởng thơn, tổ trưởng tổ dân phố không phải là đảng
viên. Tổ chức, hoạt động của một số ban chỉ đạo và ban bảo vệ, chăm sóc sức
khoẻ cán bộ có mặt cịn bất cập.
Năng lực quản lý, điều hành và hiệu lực, hiệu quả hoạt động của một số
cơ quan nhà nước cả ở Trung ương và địa phương còn hạn chế. Sự phối hợp
giữa các cấp, các ngành, các địa phương có lúc, có nơi thiếu chặt chẽ. Chưa
phân định thật rõ tính đặc thù của chính quyền đơ thị, nơng thơn, hải đảo. Các
đơn vị hành chính địa phương nhìn chung quy mơ nhỏ, nhiều đơn vị không bảo
đảm tiêu chuẩn theo quy định, nhất là cấp huyện, cấp xã. Số lượng, cơ cấu đại
biểu dân cử chưa phù hợp, chất lượng còn hạn chế. Việc thành lập văn phịng
đồn đại biểu Quốc hội cấp tỉnh làm phát sinh một số bất cập trong công tác cán
bộ, quản lý cán bộ. Nhiều tổ chức phối hợp liên ngành, ban quản lý dự án trùng
lắp về chức năng, nhiệm vụ, hiệu quả hoạt động chưa cao.
Tổ chức bộ máy, phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các
đồn thể chính trị - xã hội chậm đổi mới, một số nhiệm vụ còn trùng lắp, vẫn
cịn tình trạng "hành chính hố", "cơng chức hố". Cơ cấu cán bộ, công chức,
viên chức giữa các cấp và trong từng cơ quan chưa hợp lý; năng lực, trình độ


của đội ngũ cán bộ chuyên trách cấp cơ sở cịn hạn chế. Nội dung và phương
thức hoạt động có lúc, có nơi chưa thiết thực, hiệu quả, thiếu sâu sát cơ sở. Cơ
chế phân bổ ngân sách nhà nước đối với Mặt trận Tổ quốc, các đồn thể chính
trị - xã hội còn bất cập; một số quy định về tổ chức, hoạt động và cơ chế quản lý
tài chính, tài sản đối với tổ chức cơng đồn chưa phù hợp. Tổ chức hội quần

chúng lập nhiều ở các cấp, nhưng cơ sở vật chất và kinh phí hoạt động chủ yếu
vẫn dựa vào ngân sách nhà nước2.
Những hạn chế được Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng chỉ ra: Đổi mới,
sắp xếp tổ chức bộ máy tinh gọn, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động ở một
số nơi thực hiện thiếu quyết liệt, chưa đạt mục tiêu đề ra. Tinh giản biên chế
chưa thực sự gắn với nâng cao chất lượng và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công
chức, viên chức. Năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của một số tổ chức cơ sở
đảng còn thấp, chưa được củng cố kịp thời. Chính sách cán bộ chưa thực sự tạo
động lực để cán bộ toàn tâm, tồn ý với cơng việc; chưa có cơ chế bảo vệ cán bộ
năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám
đương đầu với khó khăn, thử thách, quyết liệt trong hành động vì lợi ích chung...
Cơng tác phịng, chống tham nhũng, lãng phí ở một số địa phương, bộ, ngành
chưa chuyển biến rõ rệt; tham nhũng, lãng phí vẫn cịn diễn biến phức tạp. Cơng
tác dân vận có mặt cịn hạn chế, việc nắm, đánh giá, dự báo tình hình, nhất là đối
với địa bàn phức tạp chưa kịp thời, sâu sát. Phương thức lãnh đạo của Đảng đối
với hệ thống chính trị cịn chậm đổi mới, có mặt cịn lúng túng. Việc đổi mới nội
dung, phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã
hội ở một số nơi chưa theo kịp yêu cầu, nhiệm vụ của tình hình mới.
6.2. Nguyên nhân hạn chế, bất cập
Mơ hình tổng thể về tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị chưa được
hồn thiện, một số bộ phận, lĩnh vực chưa phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ của
thời kỳ mới. Nhận thức, ý thức trách nhiệm của một số cấp uỷ, tổ chức đảng
chưa đầy đủ, tồn diện về tầm quan trọng, tính cấp thiết và những yêu cầu đổi
mới, kiện toàn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị, nhất là về những hạn chế,


yếu kém đang tác động trực tiếp đến vai trò lãnh đạo, uy tín của Đảng và niềm
tin của nhân dân.
Công tác lãnh đạo, chỉ đạo, quán triệt và tổ chức thực hiện các chủ trương,
nghị quyết, kết luận của Đảng, quy định của Nhà nước về sắp xếp, kiện toàn tổ

chức bộ máy, tinh giản biên chế thiếu kiên quyết, đồng bộ; cịn tình trạng nể
nang, né tránh, ngại va chạm, lợi ích cục bộ; tư tưởng bao cấp, tâm lý dựa dẫm, trơng
chờ vào Nhà nước cịn khá phổ biến. Một số cấp uỷ, chính quyền, người đứng
đầu ở các cấp chưa có quyết tâm cao, nỗ lực lớn và hành động thiếu quyết liệt.
Công tác quản lý tổ chức bộ máy và biên chế chưa chặt chẽ và chưa tập
trung thống nhất vào một đầu mối. Trong nhiều văn bản quy phạm pháp
luật chuyên ngành vẫn quy định về tổ chức bộ máy, biên chế; một số văn bản
pháp luật về tổ chức còn nội dung chưa phù hợp.
Cơ chế, chính sách khuyến khích việc sắp xếp tinh gọn tổ chức, biên chế
chưa phù hợp, thiếu mạnh mẽ. Việc phân bổ kinh phí thường xuyên theo biên
chế chưa gắn với kết quả và hiệu quả hoạt động của các tổ chức, cơ quan, đơn
vị là một trong những nguyên nhân làm tăng biên chế.
Công tác kiểm tra, thanh tra, giám sát thiếu thường xuyên; chưa xử lý
nghiêm đối với những tập thể, cá nhân, nhất là người đứng đầu khơng hồn
thành nhiệm vụ sắp xếp tổ chức, tinh gọn bộ máy, tinh giản biên chế; chưa có cơ
chế đánh giá phù hợp và thay thế kịp thời những cán bộ, công chức, viên chức
không đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ.
Công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu khoa học về tổ chức bộ máy của hệ
thống chính trị chưa được coi trọng và chưa được tiến hành một cách căn cơ, bài
bản, thiết thực; công tác sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm, khen thưởng chưa kịp
thời3.
6.3. Những vấn đề đặt ra hiện nay
Sự phân định phạm vi quyền lực giữa Đảng và Nhà nước, cũng như cụ thể
hóa vai trị lãnh đạo, phương thức lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước vẫn chưa
có sự minh định rõ ràng, nhất là trong việc xác định thẩm quyền và tránh nhiệm
3

Đảng Cộng sản Việt Nam, Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày 25/10/2017 của Ban Chấp hành Trung ương (khoá
XII)



trong giám sát và kiểm soát quyền lực.
Cơ chế Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ, Nhà nước quản lý mặc dù đã
được cụ thể hóa ở các nội dung và quan hệ nhất định, nhưng vẫn chưa phân định
rõ ràng chức năng, nhiệm vụ, phương thức và phạm vi hoạt động của từng chủ
thể trong hệ thống chính trị. Nhất là chưa phân định cụ thể phạm vi quyền lực
của Đảng và phạm vi quyền lực của Nhà nước.Đảng có quyền lực khá lớn và có
thể chi phối tới hoạt động của Nhà nước, Mặt trận và các tổ chức chính trị xã hội
khi cần thiết, thơng qua việc ban hành các nghị quyết, chỉ thị của Đảng. Thông
qua cơng tác điều động, bố trí nhân sự.
Mặt khác, Đảng thực thi quyền lực nhà nước trên một số lĩnh vực như quốc
phịng, an ninh, đối ngoại và cơng tác cán bộ. Quy định này mang lại quyền lực
lớn của Đảng trong quan hệ với nhà nước. Công tác nhân sự của đảng đối với
đội ngũ cán bộ là công cụ duy trì quyền lực của đảng nhưng vơ hình dung cũng
tạo nên tính khơng thực quyền của các vị trí quyền lực nhất định trong bộ máy
nhà nước, làm mất động cơ hoạt động theo hướng tinh thông nghề nghiệp, có
trách nhiệm của đội ngũ cán bộ ở các vị trí cụ thể trong hệ thống chính trị.
Cơ chế ủy quyền của nhân dân thông qua bầu cử Quốc hội và hội đồng
nhân dân các cấp, tiến hành dưới sự lãnh đạo của Đảng (thông qua công tác
nhân sự, giới thiệu ứng cử viên), thực chất là Đảng và nhân dân cùng bầu và
thành lập quốc hội, trong đó Đảng có vai trị trội hơn. Cũng như vậy đối với việc
Quốc hội bầu chủ tịch nước, thủ tướng và thành lập chính phủ.
Trong quan hệ với Quốc hội, chính phủ có thẩm quyền khá lớn trong việc
cụ thể hóa luật do Quốc hội ban hành thành những thông tư, nghị định, hướng
dẫn để thực hiện luật. Bên cạnh việc thực hiện các dự án, chính sách quan trọng
được Quốc hội thơng qua, Chính phủ cũng có quyền lực khá lớn trong việc
hoạch định và thực thi những chính sách trong phạm vi thẩm quyền của mình.
Chính vì vậy, có thể nói, chính phủ có thực quyền lớn trong tương quan với
quyền lập pháp. Cùng với những yếu tố khác làm cho Quốc hội hầu như khơng
giám sát, kiểm sốt được Chính phủ.



Cơ chế bổ nhiệm chánh án và thẩm phán toà án nhân dân tối cao mang tính chính
trị. Do đó, tính độc lập xét xử của tịa án nhân dân trên thực tế chưa được bảo đảm.
Công tác tổ chức cán bộ vẫn còn nhiều yếu kém bất cập. Quá trình đề bạt,
bổ nhiệm cán bộ cịn nhiều sai phạm. Hiện tượng chạy chức, chạy quyền, tham
nhũng được đề cập khơng ít trên phương tiện truyền thơng và trong xã hội, gây
bức xúc trong nhân dân và công luận.
Tổ chức, bộ máy của Mặt trận và các đoàn thể vẫn cịn tình trạng nhà nuớc
hố về tổ chức và kinh phí, hành chính hố về phương thức hoạt động, cán bộ
đồn thể làm việc gần giống như cơng chức nhà nước, khiến cho cơng tác của
các đồn thể thiếu sự gắn bó mật thiết với quần chúng.
Hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân cũng chưa
ngang tầm với chức năng, vai trò tiềm năng của chúng. Tổ chức và hoạt động
cịn nặng tính hành chính, tính phong trào hình thức, xa dân, chưa thực sự bảo
vệ lợi ích chính đáng của thành viên hội viên, cịn lúng túng trong việc tìm ra
những hình thức và nội dung hoạt động cho phù hợp với thời kỳ mới.Việc thực
hiện chức năng giám sát và phản biện của Mặt trận tổ quốc và các tổ chức chính
trị xã hội mang tính hình thức, chưa hiệu quả.
II. XÂY DỰNG HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

1. Các phương án xây dựng hệ thống chính trị
* Phương án 1: Tiếp tục đổi mới hệ thống chính trị trên cơ sở xác lập rõ
phạm vi quyền lực của Đảng và quyền lực nhà nước, loại bỏ sự trùng lắp chức
năng, thực hiện theo nguyên tắc quyền hạn đi cùng với trách nhiệm. Đảng làm
gì, chịu trách nhiệm đến đâu, chịu trách nhiệm như thế nào. Nhà nước và Mặt
trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị xã hội cũng như vậy.
- Đối với Đảng
Vai trò lãnh đạo của Đảng cần được thể hiện tập trung hơn trong việc định
hướng mơ hình hệ thống chính trị Việt Nam. Trong đó xác định rõ mối quan hệ

giữa sự lãnh đạo của đảng với Nhà nước pháp quyền. Một vấn đề khác cần có sự
ưu tiên của Đảng trong việc định hình rõ cơ chế kiểm sốt quyền lực của Đảng
và Nhà nước trong mơ hình hệ thống chính trị Việt Nam; làm thế nào để phòng,


chống sự suy thoái, tham nhũng của cán bộ, đảng viên của Đảng trong tình hình
hiện nay.
- Đối với Nhà nước
Tiếp tục xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, tiến tới xác định
rõ phạm vi thẩm quyền giữa lập pháp và hành pháp; xây dựng cơ chế, hiện thực
hóa vấn đề kiểm sốt giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp,
hành pháp, tư pháp.
- Đối với Quốc hội
Để đáp ứng được nhu cầu đòi hỏi ngày càng cao của xã hội và tiếp tụcxây
dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, một đòi hỏi cấp thiết là phải nâng
cao chất lượng hoạt động của Quốc hội. Trong thời gian tới Quốc hội cần được
tiếp tục hoàn thiện theo hướng hoạt động chuyên nghiệp. Theo đó, cần phải tăng
mạnh tỉ lệ đại biểu chuyên trách, nâng cao chất lượng đại biểu quốc hội. Đây là
yêu cầu hoạt động của một nhà nước khoa học, hiện đại. Đại biểu quốc hội phải
hoạt động chuyên nghiệp mới đủ thời gian và cơng sức hồn thành trách nhiệm
đại biểu của mình, phải có các kỹ năng và chuyên môn trong hoạt động nghị
trường để nâng cao chất lượng hoạt động.
Tổ chức lại các ủy ban của quốc hội theo hướng chuyên sâu, lĩnh vực nhằm
tăng khả năng thẩm định, thơng qua các luật, dự án chính sách quan trọng của
quốc gia. Chất lượng hoạt động của các ủy ban chun mơn đóng vai trị quan
trọng trong việc tạo nên chất lượng của hệ thống luật pháp, chính sách được
thơng qua ở Quốc hội.
- Đối với Chính phủ
Cần phải đổi mới theo hướng xây dựng một chính phủ hiện đại, chuyên
nghiệp, hiệu quả, đáp ứng được yêu cầu, đòi hỏi của nhân dân và xã hội trong

bối cảnh hội nhập và tồn cầu hóa. Theo đó các nhiệm vụ trọng tâm trong thời
gian tới là:
+ Đẩy mạnh và kiên quyết thực hiện tách chức năng quản lý nhà nước ra
khỏi chức năng kinh doanh. Đây là cơ chế bất hợp lý gây nhiều thiệt hại cho nền
kinh tế và lợi ích của nhân dân. Tuy cơ chế này đã được nhận diện và đặt ra giải


quyết trong nhiều nhiệm kỳ Đại hội, nhưng trên thực tế các bộ, chính quyền địa
phương đều muốn giữ doanh nghiệp nhà nước trực thuộc.
+ Định rõ quyền và trách nhiệm của những người đứng đầu các cơ quan
trực thuộc chính phủ và chính quyền địa phương. Định rõ quyền hạn và trách
nhiệm của những người đứng đầu không chỉ khắc những bất cập, hạn chế của cơ
chế ra quyết định tập thể trong tổ chức, điều hành, quản lý và chịu trách nhiệm
mà còn đáp ứng kịp thời xu hướng thay đổi nhanh, năng động của đời sống xã
hội hiện nay.
+ Xây dựng đội ngũ cán bộ công chức thạo việc, ngăn chặn và xử lý tình
trạng cửa quyền, phiền hà, nhũng nhiều dân. Cần có các biện pháp tạo động lực
cho đội ngũ công chức trong việc nâng cao trình độ, tính chun nghiệp và đạo
đức cơng vụ.
+ Tiếp tục cải cách thủ tục hành chính theo cơ chế một cửa. Các thủ tục
hành chính đã được giảm tải nhờ cải cách hành chính trong thời gian qua. Tuy
nhiên, hiệu quả cung cấp dịch vụ hành chính cơng vẫn chưa đáp ứng được yêu
cầu công việc, chưa giảm được thời gian đi lại, chờ đợi của công dân.
- Đối với hệ thống tòa án và viện kiểm sát
+ Tiến hành xây dựng các yếu tố và điều kiện đảm bảo nguyên tắc xét xử
độc lập của tòa án. Xét xử độc lập của tòa án là nguyên tắc hiến định, nhưng nếu
trong thực tế không tạo ra các điều kiện đảm bảo thì các quan tịa vẫn có khả
năng bị chi phối bởi lợi ích và các quyền lực lớn trong xã hội.
+ Tích cực chuẩn bị điều kiện để thành lập tòa án khu vực, làm tăng thêm
sự hợp lý, hiệu quả và tính độc lập xét xử của tòa án.

+ Sắp xếp, đổi mới cơ quan kiểm sát theo hướng tập trung vào việc thực
hiện chức năng công tố.
+ Nâng cao chất lượng tranh tụng tại tịa bằng việc xây dựng và chuẩn hóa
đội ngũ luật sư, hiệp hội chuyên môn.
- Đối với Mặt trận tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội
+ Tiếp tục đổi mới nội dung và phương thức hoạt động của Mặt trận và các


tổ chức chính trị - xã hội, hướng tới đảm bảo đúng tơn chỉ, mục đích hoạt động
của hội, đại diện và bảo vệ lợi ích của các thành viên.
+ Khắc phục tình trạng hành chính hóa trong tổ chức và hoạt động, giảm
bớt những cấp, vị trí trung gian, tạo cho bộ máy tổ chức gọn nhẹ, năng động,
thiết thực.
+ Nâng cao tính độc lập của Mặt trận và các tổ chức chính trị - xã hội. Mặt
trận và các tổ chức chính trị xã hội phải hướng đến dần tự chủ về kinh phí, chủ
động về nội dung và phương thức hoạt động của mình.
+ Nâng cao tính hiệu quả của việc giám sát, phản biện đường lối, chính
sách của Đảng và Nhà nước. Sự hiệu quả và thiết thực của việc giám sát và phản
biện đường lối, chính sách của đảng và nhà nước xuất phát từ chính lợi ích, lĩnh
vực hoạt động mang tính chun mơn có liên quan của các tổ chức, hiệp hội và
sự kết nối, huy động của Mặt trận tổ quốc, chứ khơng phải là sự tham gia mang
tính phong trào, dàn trải ở tất cả các vấn đề, lĩnh vực.
Lợi thế và ảnh hưởng từ phương án đổi mới này là thay đổi từng bước, ít
xáo trộn. Tuy nhiến phương án này không tạo nên sự thay đổi lớn hay sự chuyển
biến mạnh mẽ. Nó có thể khắc phục, giải quyết những vấn đề của hiện tại nhưng
chưa góp phần giải quyết được những vấn đề căn bản trongdài hạn.
* Phương án 2:Hợp nhất các vị trí của Đảng đang thực thi quyền lực nhà
nước sang bên nhà nước. Chỉ có nhà nước chính danh thực thi quyền lực có tính
độc quyền cưỡng chế hợp pháp.
Những thế mạnh của việc nhất thể hóa: sự hợp lý trong việc tổ chức hệ

thống chính trị, xuất phát từ chức năng, nhiệm vụ để xác định thẩm quyền, nhân
sự, loại bỏ được sự trùng lắp, chồng chéo không chỉ làm cho bộ máy tinh gọn,
hoạt động thơng suốt mà cịn mang lại hiệu quả lớn cho ngân sách nhà nước do
tiết kiện được chi phí, rõ ràng về trách nhiệm.
Những thách thức: việc thực hiện phải có sự nhất quán, tiến hành đồng bộ
từ trung ương đến địa phương. Các cơ quan trung ương phải tiên phong, gương
mẫu thực hiện trước, sau đó mới triển khai thực hiện ở các cấp. Vấn đề khó nhất
là giải quyết ổn thỏa về mặt dôi dư biên chế và lợi ích của đội ngũ cán bộ khi
thực hiện trên phạm vi lớn. Trong khi đó, xét về mặt lợi ích, động cơ của đội


ngũ cán bộ trong việc thực hiện sự hợp nhất là yếu, nhưng nếu khơng thực hiện
đồng bộ sẽ khó thành công.
Mặt khác, sự hợp nhất đi cùng với tập trung quyền lực mạnh cho các vị trí
đứng đầu của các cơ quan nhà nước, đòi hỏi các cơ chế kiểm soát quyền lực nhà
nước phải chặt chẽ, hữu hiệu trong điều kiện hiện nay.Đây sẽ là thách thức lớn
của hệ thống chính trị khi chúng ta vẫn đang trong quá trình xây dựng nhà nước
pháp quyền. Các cơ chế kiểm sốt quyền lực nhà nước sẽ khó vận hành hiệu quả
khi công cụ quan trọng là pháp luật chưa được tuân thủ và thực hiện nghiêm
minh; sự độc lập xét xử của tòa án chưa được đảm bảo trên thực tế.
2. Giải pháp xây dựng hệ thống chính trị trong sạch vững mạnh
Để xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, phát huy
sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc, cần tập trung một số nhiệm vụ trọng
tâm như sau:
Thứ nhất, tăng cường xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh, phát huy sức
mạnh toàn dân tộc. Theo đó, kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, vận dụng sáng tạo và phát triển phù hợp với thực tiễn Việt Nam. Đa ̉ng ta
kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định đường lối đổi
mới và chủ trương: “Đoàn kết trong Đảng là hạt nhân, là cơ sở vững chắc để
xây dựng khối đại đoàn kết tồn dân tộc”4.

Bản lĩnh chính trị, trình độ trí tuệ, tính chiến đấu của tồn Đảng và của mỗi
cán bộ, đảng viên, trước hết là cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt các cấp phải
được nâng cao; không dao động trong bất cứ tình huống nào. Bản chất giai cấp
cơng nhân của Đảng, vai trị tiên phong, gương mẫu của cán bộ, đảng viên phải
được giữ vững.
Nâng cao năng lực hoạch định đường lối, chính sách của Đảng phù hợp với
quy luật khách quan và đặc điểm của Việt Nam, tạo bước đột phá để phát triển.
Tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức, nâng cao hơn nữa tính chiến đấu,
tính thuyết phục, hiệu quả của cơng tác tư tưởng phục vụ yêu cầu thực hiện
4

Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật,
H, 2016, tr.160


nhiệm vụ chính trị, phù hợp với từng giai đoạn, tạo sự thống nhất trong Đảng,
đồng thuận trong xã hội;
Tiếp tục thực hiện tốt Chỉ thị 05-CT/TW của Bộ Chính trị về “Đẩy mạnh
học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”; coi đó là
cơng việc thường xuyên của tổ chức đảng, chính quyền, tổ chức chính trị - xã
hội các cấp, các địa phương, đơn vị và cần gắn với thực hiện các Nghị quyết
Trung ương 4 khóa XI và khóa XII về cơng tác xây dựng Đảng, nhằm ngăn
chặn, đẩy lùi sự suy thối về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống, những biểu
hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ Đảng.Kiên quyết đấu tranh
chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí, chủ nghĩa cá nhân, lối sống cơ hội, thực
dụng, bè phái, “lợi ích nhóm”, nói khơng đi đơi với làm. Thực hiện nghiêm cơ
chế kiểm tra, giám sát, kiểm soát của tổ chức đảng, giám sát và phản biện xã hội
của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và của nhân dân về phẩm
chất, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên.
Củng cố vững chắc niềm tin của nhân dân đối với Đảng, tăng cường khối

đại đoàn kết toàn dân tộc và mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân; tập
hợp, vận động nhân dân thực hiện tốt các chủ trương của Đảng và chính sách,
pháp luật của Nhà nước; phát huy sức mạnh to lớn của nhân dân, tạo thành
phong trào cách mạng rộng lớn xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng về công tác dân vận trong điều
kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc
tế. Đội ngũ cán bộ, đảng viên phải thật sự tin dân, trọng dân, gần dân, hiểu dân,
học dân, dựa vào dân, có trách nhiệm với dân. Giải quyết kịp thời, có hiệu quả
những bức xúc, những kiến nghị chính đáng của nhân dân và khiếu nại, tố cáo
của công dân.
Tăng cường thực hiện tổ chức trao đổi, đối thoại với nhân dân theo Quy
định 11-QĐi/TW ngày 18-2-2019 của Bộ Chính trị về trách nhiệm của người
đứng đầu cấp ủy trong việc tiếp dân, đối thoại trực tiếp với dân và xử lý những
phản ánh, kiến nghị của dân.



×