Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

Tieu luan he thong chinh tri o co so tt ct

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (130.08 KB, 13 trang )

MỞ ĐẦU
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, đổi mới hệ thống chính
trị là nhiệm vụ rất quan trọng. Nhiệm vụ hệ trọng đó đã được Đảng ta khẳng định
trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm
1991: “Toàn bộ hệ thống chính trị ở nước ta trong giai đoạn mới là nhằm xây dựng
và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa bảo đảm quyền lực thuộc về
nhân dân”. Như vậy, quyền lực của nhân dân lao động có được đảm bảo hay không
chính là tuỳ thuộc chủ yếu ở hệ thống chính trị có được đổi mới và hoàn thiện hay
không. Khi công cuộc đổi mới ngày càng đi vào chiều sâu, Đảng ta chủ trương
hướng mạnh về cơ sở, quan tâm củng cố cơ sở xã hội của chính trị, đề cao các sáng
kiến và tính chủ động từ cơ sở. Tinh thần nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần
thứ X (9- 2006) đặc biệt coi trọng đổi mới hệ thống chính trị ở cơ sở, nhất là ở cơ
sở nông thôn (xã, thị trấn). Đây cũng là thể hiện nhận thức mới của Đảng về đổi
mới hệ thống chính trị. Những nguyên tắc, yêu cầu, nội dung, phương thức đổi mới
hệ thống chính trị cấp vĩ mô chi phối quá trình đổi mới hệ thống chính trị cấp cơ sở
và sự đổi mới hệ thống chính trị cấp cơ sở có tác động tích cực trở lại hệ thống
chính trị nói chung. Cơ sở (xã, phường, thị trấn), trong đó xã là chủ yếu, chiếm tới
85% trong tổng số các đơn vị hành chính cấp cơ sở, do vậy hệ thống chính trị ở cơ
sở thuộc khu vực nông thôn giữ vị trí rất quan trọng trong hệ thống chính trị nước
ta. Hệ thống chính trị cấp cơ sở trên địa bàn thị trấn Cần Thạnh trong thời gian qua
đang tiếp tục được củng cố, hoàn thiện nhằm phát huy quyền làm chủ của nhân dân
và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở một cách thực sự. Tuy nhiên trong những
năm gần đây, vấn đề bức xúc đã và đang đặt ra bởi hệ thống chính trị ở cơ sở trên
địa bàn thị trấn Cần Thạnh còn bộc lé nhiều yếu kém như: hệ thống tổ chức vẫn
chưa ổn định; mối quan hệ giữa các bộ phận cấu thành hệ thống chính trị ở đây còn
nhiều bất cập; các tổ chức còn lúng túng trong hình thức tổ chức và phương thức
hoạt động... chưa ngang tầm với yêu cầu thực tiễn hiện nay. Đứng trước yêu cầu
của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, tình hình đó phải được khắc
phục, phải được giải quyết. Việc đổi mới, hoàn thiện hệ thống chính trị cấp cơ sở
trên địa bàn thị trấn Cần Thạnh là vấn đề rất quan trọng và cấp thiết để đảm bảo sự
ổn định, phát triển lâu bền của nông thôn Cần Thạnh đi lên chủ nghĩa xã hội hòa


nhập chung với tiến trình phát triển của đất nước. Vì vậy, việc nghiên cứu “thực
trạng tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị ở thị trấn Cần Thạnh, huyện Cần
Giờ - Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động” dưới góc nhìn của Chính trị học là
vấn đề có tính lý luận và thực tiễn quan trọng vừa cơ bản lâu dài, vừa cấp bách
hiện nay.


I.

HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ VÀ HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ CƠ SỞ:

I.1 Nhận thức chung về hệ thống chính trị và hệ thống chính trị cơ sở.
I.1.1

Hệ thống chính trị và hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa.

Thuật ngữ "hệ thống chính trị" xuất hiện từ rất sớm trong lịch sử, theo quan
điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, chính trị và hệ thống chính trị là sản phẩm của
quan hệ giai cấp và đấu tranh giai cấp, là sản phẩm của một giai đoạn lịch sử nhất
định. Khi nghiên cứu về thiết chế chính trị và cách thức tổ chức của một xã hội,
C.Mác và Ph.Ăngghen đã tiếp cận khái niệm hệ thống chính trị như một chế
độ chính trị theo tính hệ thống của nó và sử dụng những thuật ngữ tương đương
như: "hệ thống cai trị", "hệ thống đẳng cấp chính trị", "cơ cấu chính trị", "hình thức
chính trị", "thiết chế xã hội và chính trị", "cơ cấu chính quyền"...vv Kế thừa và
phát triển những tư tưởng về dân chủ và hệ thống chính trị của C.Mác và
Ph.Ăngghen, V.I.Lênin tiếp tục hoàn thiện khái niệm dân chủ và hệ thống chính trị
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Trên thực tế, V.I.Lênin chưa sử dụng
khái niệm "hệ thống chính trị" trong các bài nói, bài viết của mình, nhưng ông
thường dùng khái niệm "chuyên chính vô sản" để nghiên cứu về thiết chế chính trị
của xã hội. Mà hệ thống chuyên chính vô sản theo quan niệm của Lênin bao gồm:

Nhà nước của giai cấp công nhân, Đảng Cộng sản của giai cấp công nhân giữ vai
trò lãnh đạo nhà nước và các tổ chức quần chúng mà tiêu biểu là công đoàn. Như
vậy, nếu xét theo nội hàm, những thuật ngữ mà C.Mác và Ph.Ăngghen đưa ra và
được V.I.Lênin kế thừa, phát triển với thuật ngữ hệ thống chính trị hiện đại có liên
quan chặt chẽ với nhau và được hiểu là tương đồng. Đối với khoa học chính trị
hiện đại, hệ thống chính trị là một phạm trù rất quan trọng, bởi vì nó tổng hợp
những vấn đề của thực tiễn chính trị. Hơn nữa, những vấn đề đó không phải
được xem xét rời rạc, lộn xộn, biệt lập mà là xem xét trong một chỉnh thể có tính
hệ thống, có hình thái phát sinh, phát triển, có chủ thể, đối tượng, với các mối quan
hệ chức năng, theo những vị trí, vai trò nhất định; có "đầu vào" và "đầu ra"; có nội
dung và hình thức, có hiện tượng và bản chất... Vì vậy, hiện nay quan niệm về hệ
thống chính trị còn rất khác nhau, phụ thuộc vào khuynh hướng, trường phái chính
trị học khác nhau. Ở phương Tây, có hai cách tiếp cận cơ bản về hệ thống chính trị.
Thứ nhất, cách tiếp cận thể chế: coi hệ thống chính trị là tập hợp các thể chế chính
trị (gồm các tổ chức nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội) và những mối quan
hệ qua lại giữa chúng. Thứ hai, cách tiếp cận hệ thống: coi hệ thống chính trị
không chỉ bao gồm cấu trúc thể chế và các quan hệ giữa chúng, mà còn là những
chuẩn mực chính trị, vai trò chính trị, hành vi chính trị. Từ hai cách tiếp cận cơ bản
này phát triển nên một số quan điểm khác nhau về hệ thống chính trị như: Nhà
chính trị học Mỹ D.Istons, trong tác phẩm Hệ thống chính trị (1953), Giới hạn sự


phân tích chính trị (1965) cho rằng: "Hệ thống chính trị giống như một bộ máy tự
phát triển, tự điều tiết và phản ứng với những tác động từ bên ngoài. Hệ thống đó
có "đầu vào", đó là nơi thu nhận những tác động, yêu cầu, ủng hộ... của môi
trường xã hội và văn hóa xã hội quanh nó. Còn "đầu ra" là những quyết định
chính trị và hành động chính trị để thực hiện các quyết định đó". Cách tiếp cận
khác của nhà chính trị học Mỹ G.Almold cho rằng: "Hệ thống chính trị đó là các
kiểu khác nhau của hành vi chính trị, của các tổ chức nhà nước cũng như phi nhà
nước. Các kiểu hành vi đó được chia ra hai cấp độ là: thể chế và định hướng. Một

số cách tiếp cận khác cho rằng: "Hệ thống chính trị là cơ chế để thực hiện và giải
quyết các vấn đề, đồng thời để hoạch định và kiểm soát sự thực hiện các quyết
định cũng như kiểm soát các quan hệ quản lý của Nhà nước".
Đến đầu những năm 80, khái niệm hệ thống chính trị được khẳng định trong
các tài liệu triết học, chính trị học của Liên Xô. Hệ thống chính trị được hiểu theo
cách tiếp cận hình thái kinh tế - xã hội, là bộ phận của thượng tầng kiến trúc được
quyết định bởi hạ tầng kinh tế, theo kết cấu xã hội giai cấp. Hệ thống chính trị là
một kiểu xác định của hình thái kinh tế - xã hội. Hiện nay một số nhà khoa học
Nga coi hệ thống chính trị như một tổ hợp phức tạp các thể chế nhà nước,
các đảng chính trị, các tổ chức xã hội, trong khuôn khổ đó diễn ra đời sống chính
trị và thực thi quyền lực nhà nước, quyền lực xã hội.
Ở nước ta, đã có nhiều công trình nghiên cứu, đề tài khoa học đề cập đến hệ
thống chính trị, hoặc những khía cạnh khác nhau của hệ thống chính trị, đã có
không ít định nghĩa hệ thống chính trị được nêu ra. Có thể khái quát theo hai quan
niệm:
Quan niệm thứ nhất, xem hệ thống chính trị chỉ bao gồm những tổ chức
chính trị - xã hội mang bản chất của giai cấp cầm quyền, hoặc phục vụ cho quyền
lực chính trị của giai cấp đó. Theo đó, hệ thống chính trị đồng nhất với phạm trù
"hệ thống chuyên chính của giai cấp cầm quyền". Quan niệm thứ hai, xem trong
hệ thống chính trị, ngoài hệ thống chuyên chính của giai cấp cầm quyền với tư
cách là bộ phận cơ bản, quan trọng nhất, quy định bản chất và chức năng cơ bản
của toàn bộ hệ thống, còn có các tổ chức, các thiết chế chính trị hợp pháp khác.
Theo quan niệm này có thể hiểu: "Hệ thống chính trị là một chỉnh thể bao gồm Nhà
nước, các Đảng chính trị hợp pháp, các tổ chức chính trị - xã hội hợp pháp, trong
đó, vai trò chủ đạo thuộc về các thiết chế của giai cấp cầm quyền để tác động vào
các quá trình kinh tế - xã hội nhằm củng cố, duy trì và phát triển chế độ xã hội
đương thời".


Nhìn chung, ở Việt Nam, cách tiếp cận khái niệm hệ thống chính trị là mô tả

các yếu tố thực thể cơ bản cấu thành và phản ánh chức năng tổng quát của hệ thống
chính trị. Phù hợp với quan điểm đó, có thể nêu lên định nghĩa chung về hệ thống
chính trị như sau: "Hệ thống chính trị là tổ hợp có tính chỉnh thể các thể chế chính
trị (các cơ quan quyền lực nhà nước, các đảng chính trị, các tổ chức và các phong
trào chính trị...) được xây dựng trên các quyền và chuẩn mực xã hội, phân bố theo
một kết cấu chức năng nhất định, vận hành theo những nguyên tắc, cơ chế và quan
hệ cụ thể, nhằm thực thi quyền lực chính trị" .
Như vậy, có thể thấy, hệ thống chính trị là một hệ thống cấu trúc, một chỉnh
thể bao gồm các bộ phận cấu thành, có quan hệ mật thiết với nhau, có vị trí, chức
năng, vai trò khác nhau. Hệ thống ấy được thể hiện ở những cấp khác nhau: trung
ương, địa phương, cơ sở. Cấu trúc hệ thống chính trị rất đa dạng, ở mỗi quốc gia
lại có đặc thù khác nhau, nhưng cơ bản gồm 3 bộ phận: Đảng chính trị, Nhà nước,
các tổ chức chính trị - xã hội hợp pháp.
I.1.2 Hệ thống chính trị cơ sở ở nước ta hiện nay.
Cơ sở là một khái niệm đa nghĩa, xét về mặt loại hình, đó là cơ sở của xã
hội, những không gian xã hội, nơi diễn ra các hoạt động sống của con người, nơi
hình thành những tập thể, cộng đồng người để thực hiện các hoạt động lao động,
sinh hoạt, giao tiếp thông qua các quan hệ xã hội, các tổ chức và thiết chế. Bức
tranh về cơ sở rất phong phú, đa dạng từ một cộng đồng người tập hợp lại theo lứa
tuổi, giới tính, công việc, sở thích, nghề nghiệp hay gia đình, cơ quan, công sở, một
xí nghiệp, doanh nghiệp, công ty, một bệnh viện, một trường học, một viện nghiên
cứu... Tuy nhiên, những loại hình và mô hình này không nằm trong đối tượng
nghiên cứu của đề tài.
Cơ sở được nghiên cứu ở đây là khái niệm dùng để chỉ một cấp quản lý
trong hệ thống bốn cấp quản lý hành chính nhà nước hiện hành ở nước ta. Ở nước
ta hiện nay, xã, phường, thị trấn được gọi chung là cấp cơ sở và do số lượng xã là
tuyệt đối, thị trấn cũng tương đương với xã; còn phường ở các tỉnh vẫn gắn một
phần với sản xuất và cư dân nông nghiệp nên cấp cơ sở được gọi chung là cấp xã.
Đến tháng 12 năm 2012 ở nước ta có 11.120 đơn vị cơ sở xã, phường, thị trấn. Đây
là địa bàn cư trú, làm ăn của nhân dân lao động, nơi diễn ra mọi hoạt động của

đời sống xã hội. Ở đó, vừa diễn ra các hoạt động sản xuất, kinh doanh của
người lao động, vừa diễn ra quá trình trao đổi, lưu thông hàng hóa, là đầu mối của
thị trường, nơi hình thành các quan hệ kinh tế giữa các chủ thể sản xuất và tiêu
dùng. Nói tới cơ sở là nói tới nơi diễn ra các hoạt động của người dân và cuộc sống


của họ; nói tới các hình thức tổ chức hoạt động sống của cộng đồng và các mối
quan hệ xã hội giữa cá nhân với cá nhân, giữa cá nhân với cộng đồng. Tại đây, vai
trò lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước và hoạt động của các tổ chức
chính trị - xã hội đều hướng tới mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc
phòng an ninh, giữ vững ổn định chính trị và tổ chức cuộc sống của cộng đồng dân
cư. Tất cả những hoạt động đó đều nằm trong khuôn khổ lãnh đạo, quản lý, điều
hành trực tiếp của toàn bộ hệ thống chính trị cơ sở.
Khi nghiên cứu về hệ thống chính trị cơ sở có nhiều cách tiếp cận khác
nhau. Cách tiếp cận thứ nhất, xem xét hệ thống chính trị cơ sở như một hệ thống về
mặt tổ chức và chức năng của các bộ phận hợp thành: tổ chức Đảng, chính quyền
(Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân), Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân
dân (Hội Nông dân, Đoàn Thanh niên, Hội Phụ nữ, Hội Cựu chiến binh) ở
xã, phường, thị trấn. Mỗi bộ phận hợp thành hệ thống chính trị cơ sở có vị trí, vai
trò và chức năng khác nhau, nhưng có mối quan hệ mật thiết với nhau, cụ thể:
Đảng bộ cơ sở, mà nòng cốt là Ban Chấp hành Đảng bộ là hạt nhân chính trị, trực
tiếp thực hiện vai trò lãnh đạo thông qua việc triển khai, đề ra các chủ trương,
đường lối, chỉ thị, nghị quyết định hướng cho chính quyền triển khai các hoạt động
quản lý, điều hành trên phạm vi địa bàn; bằng hoạt động của đảng viên trong bộ
máy chính quyền và các tổ chức chính trị - xã hội ở cơ sở; bằng việc giới thiệu
đảng viên ưu tú tham gia giữ các chức vụ chủ chốt trong chính quyền và các đoàn
thể nhân dân; bằng công tác tuyên truyền, vận động, thuyết phục; bằng sự gương
mẫu của đảng viên; bằng công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện chỉ thị, nghị
quyết của Đảng, chính sách, pháp luật Nhà nước đối với cán bộ và đảng viên.
Chính quyền là trụ cột của hệ thống chính trị cơ sở, có vai trò quản lý, điều

hành toàn bộ hoạt động kinh tế - xã hội trên phạm vi địa bàn theo Hiến pháp và
pháp luật. Trong chính quyền cơ sở, Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà
nước ở cơ sở, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân,
thay mặt nhân dân quyết định những vấn đề quan trọng trên địa bàn theo quy định
của pháp luật. Ủy ban nhân dân là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân, là cơ
quan hành chính nhà nước ở cơ sở, thực hiện nhiệm vụ theo nghị quyết của Hội
đồng nhân dân, nhiệm vụ do cơ quan hành chính nhà nước cấp trên ủy quyền và
chỉ đạo tổ chức thực hiện, đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện các nhiệm vụ tự quản
của địa phương.
Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội có chức năng tuyên
truyền, vận động quần chúng nhân dân ở cơ sở thực hiện chủ trương, đường lối của
Đảng, chính sách, pháp luật Nhà nước, của chính quyền cơ sở; củng cố, tăng cường


khối đại đoàn kết toàn dân, thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở; chăm lo lợi ích và
bảo vệ quyền lợi chính đáng của hội viên, đoàn viên. Đồng thời, thực hiện chức
năng giám sát, phản biện đối với hoạt động của chính quyền, đối với cán bộ, công
chức, đảng viên ở cơ sở; tham gia một số hoạt động quản lý xã hội ở cơ sở, thôn
xóm.
Bên cạnh đó, cấp cơ sở hiện nay còn rất nhiều tổ chức, hội đoàn do nhân
dân tự nguyện lập ra, hoạt động theo phương thức tự quản và tuân thủ pháp luật,
thỏa mãn nhu cầu giao tiếp, liên kết cộng đồng, cùng nhau tổ chức đời sống trong
cộng đồng, góp phần tạo ra sự đoàn kết, đồng thuận trong xã hội. Những tổ chức
này tuy không phải là bộ phận hợp thành hệ thống chính trị cơ sở nhưng có mối
quan hệ mật thiết với hệ thống này. Vì vậy, nếu hệ thống chính trị cơ sở biết tạo
điều kiện, phát huy ưu thế của các tổ chức này thì sức mạnh của tinh thần đoàn kết,
hợp tác, sáng tạo trong cộng đồng xã hội ở cơ sở sẽ được nhân lên gấp bội, đem lại
sự ổn định ở cơ sở, tạo ra sức bật lớn cho cơ sở phát triển, làm cho nền tảng xã hội
của Đảng, Nhà nước và của cả chế độ được củng cố vững mạnh ngay từ cơ sở.
Như vậy, xét về phương diện cơ cấu tổ chức, hệ thống chính trị cơ sở có khá

nhiều tổ chức hợp thành với vị trí, vai trò, chức năng, thẩm quyền khác nhau. Củng
cố, nâng cao chất lượng hệ thống chính trị cơ sở phải củng cố và nâng cao chất
lượng hoạt động của từng tổ chức này, cũng như mối quan hệ giữa các tổ chức
trong hệ thống theo tư tưởng: nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng, tăng cường hiệu
lực, hiệu quả trong quản lý điều hành của chính quyền, phát huy quyền làm chủ
của nhân dân.
Cách tiếp cận thứ hai, không chỉ về mặt tổ chức pháp lý mà còn bao gồm cả
các yếu tố thể hiện bản chất của hệ thống chính trị nói chung và những điều kiện
đảm bảo cho các bộ phận của hệ thống đó vận hành. Ở nghĩa này, hệ thống chính
trị cơ sở được hiểu theo tính chất của việc thực hiện dân chủ cơ sở, thể hiện quyền
lực của nhân dân. Cách tiếp cận này đòi hỏi phải nghiên cứu những vấn đề như:
quyền dân chủ trong bầu cử, chất vấn đại biểu Hội đồng nhân dân, những việc dân
được biết, được bàn và thực hiện kiểm tra; tổ chức và hoạt động của Hội đồng
nhân dân, đại biểu Hội đồng nhân dân; vai trò của tổ chức Đảng, Mặt trận và các
đoàn thể trong việc phát huy quyền dân chủ của người dân; trách nhiệm của Ủy
ban nhân dân trong việc đảm bảo và thực hiện quyền dân chủ của dân.
Việc nghiên cứu về hệ thống chính trị cơ sở theo nội dung dân chủ cho thấy
mối liên hệ bên trong của hệ thống, từ đó đi đến nhận thức: củng cố, nâng cao chất


lượng hệ thống chính trị cơ sở xã, phường, thị trấn không chỉ là vấn đề về tổ chức
pháp lý, mà còn là vấn đề cơ chế thực hiện dân chủ. Có như vậy mới tạo ra động
lực thực sự thúc đẩy sự phát triển của cơ sở.
Qua phân tích những cách tiếp cận trên, có thể hiểu: "Hệ thống chính trị cơ
sở là toàn bộ các thiết chế chính trị như tổ chức Đảng, chính quyền, các đoàn thể
nhân dân được tổ chức và hoạt động theo những nguyên tắc nhất định và gắn bó
hữu cơ với nhau nhằm thực hiện sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước
và phát huy quyền làm chủ của nhân dân ở cơ sở".
I.2 Thực trạng tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị cơ sở ở thị trấn
Cần Thạnh, huyện Cần Giờ.

1. Về nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng ủy.
Với vai trò là hạt nhân lãnh đạo của hệ thống chính trị cơ sở, đảng bộ thị trấn
Cần Thạnh đã nhận thức và xác định rõ vai trò, vị trí, chức năng, nhiệm vụ của
từng tổ chức trong hệ thống chính trị; đồng thời đảm bảo vai trò lãnh đạo toàn diện
trên mọi lĩnh vực ở cơ sở. Đảng ủy đã thực sự đổi mới nội dung, quy trình và xác
định được những vấn đề trọng tâm, trọng điểm trong việc ban hành các nghị quyết.
Phương thức lãnh đạo của Đảng ủy đã khắc phục một bước tình trạng bao biện làm
thay công việc của chính quyền, hoặc buông lỏng vai trò lãnh đạo. Đảng ủy cũng
đã tập trung chỉ đạo có hiệu quả việc xây dựng tổ chức cơ sở đảng trong sạch, vững
mạnh; quan tâm củng cố các tổ chức cơ sở đảng yếu kém; kịp thời biểu dương,
khen thưởng những đơn vị trong sạch, vững mạnh tiêu biểu và đảng viên xuất sắc.
Việc đánh giá chất lượng tổ chức cơ sở đảng và đảng viên hàng năm đã đi vào nền
nếp. Đảng ủy đã thực hiện việc lấy ý kiến đóng góp của các đoàn thể và đại diện
nhân dân ở nơi cư trú.
2. Tổ chức và hoạt động của chính quyền cơ sở.
Chính quyền cơ sở bao gồm: Hội đồng nhân dân (HĐND) và Ủy ban nhân
dân (UBND). Trong tổ chức và hoạt động của HĐND đều đảm bảo họp đúng định
kỳ theo luật định; chất lượng các kỳ họp từng bước được nâng lên, đã tổ chức được
các cuộc giám sát chuyên đề có trọng tâm, trọng điểm; công tác thẩm tra các báo
cáo, tờ trình của UBND tại các kỳ họp của HĐND đảm bảo tính khách quan, trung
thực. Theo kết quả đánh giá hoạt động của HĐND trong nhiệm kỳ qua, thị trấn Cần
Thạnh đảm bảo đúng luật, chất lượng hoạt động được nâng lên so với các nhiệm kỳ
trước.


Hoạt động của UBND đã phát huy hiệu quả công tác quản lý, điều hành theo pháp
luật. UBND thị trấn Cần Thạnh đã ban hành quy chế làm việc. Phong cách, ý thức
trách nhiệm, lề lối làm việc của cán bộ, công chức, nhất là cán bộ chủ chốt có sự
chuyển biến tích cực theo hướng sát dân, phục vụ nhân dân, từng bước khắc phục
tình trạng sách nhiễu, phiền hà nhân dân. Công tác tiếp công dân và giải quyết đơn

thư khiếu nại, tố cáo của công dân đạt tỷ lệ cao. Việc thực hiện pháp lệnh, quy chế
dân chủ ở cơ sở đã đem lại kết quả tốt. Công tác thanh tra nhân dân thực hiện có
hiệu quả, đã kiến nghị với chính quyền giải quyết tốt các đơn khiếu nại, tố cáo, hạn
chế các đơn thư tồn đọng kéo dài. Hầu hết các khu phố đã xây dựng được quy ước,
và thực hiện có nề nếp; đã bầu ban giám sát đầu tư cộng đồng. Công tác cải cách
thủ tục hành chính tại bộ phận “một cửa” của cấp thị trấn đã phát huy hiệu quả,
giải quyết kịp thời các nhu cầu về thủ tục hành chính cho nhân dân địa phương.
3. Công tác mặt trận và các đoàn thể.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân đã xây dựng được quy
chế hoạt động, xác định rõ chức năng, nhiệm vụ và từng bước đổi mới nội dung,
phương thức hoạt động, đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu của nhân dân. Mặt trận
Tổ quốc đã phối hợp tốt với các ngành, đoàn thể thực hiện cuộc vận động “Toàn
dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư” và các hoạt động từ thiện,
đền ơn đáp nghĩa; phát huy vai trò tham gia xây dựng chính quyền, thực hiện công
tác giám sát, kiểm tra hoạt động của chính quyền. Trong các kỳ bầu cử HĐND,
Mặt trận Tổ quốc đã thể hiện tốt vai trò hiệp thương, giới thiệu đại biểu có đủ điều
kiện, tiêu chuẩn vào bộ máy của chính quyền, đảm bảo cho chính quyền hoạt động
có hiệu quả.
Trong những năm gần đây, Mặt trận Tổ quốc ở các địa phương đã thực hiện
việc tổ chức lấy phiếu tín nhiệm đối với các chức danh chủ tịch, phó chủ tịch
HĐND, UBND cấp thị trấn nhằm góp phần nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ
chủ chốt ở cơ sở.
Hoạt động hoà giải của Mặt trận Tổ quốc cũng góp phần giải quyết những
mâu thuẫn phát sinh trong nội bộ nhân dân, giảm đáng kể các “điểm nóng” và tình
trạng đơn thư khiếu nại vượt cấp.
4. Công tác xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức cơ sở.
Với nhận thức về tầm quan trọng của cán bộ, là “cái gốc của mọi công
việc”, từ nhiều năm qua cấp ủy đảng và chính quyền ở thị trấn Cần Thạnh đã quan
tâm tới công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng nhất là đào tạo chuẩn hoá về trình



độ lý luận chính trị, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, nhằm đảm bảo cho đội ngũ
cán bộ, công chức cơ sở đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới. Do
vậy, đội ngũ cán bộ, công chức cơ sở đã được phát triển cả về số lượng và chất
lượng. Tính đến cuối năm 2016, thị trấn có 20 cán bộ đã chuẩn hoá theo quy định
được trên 70% trong tổng số cán bộ, công chức. Công tác luân chuyển, tăng cường
cán bộ cấp trên về làm bí thư, phó bí thư, chủ tịch, phó chủ tịch UBND cấp thị trấn
để thay thế số cán bộ hạn chế về trình độ, năng lực hoặc đưa cán bộ chủ chốt đi
luân chuyển để có thêm thực tiễn công tác, đủ điều kiện cho công tác bổ nhiệm, đề
bạt đã được địa phương tích cực quan tâm. Để thực hiện trẻ hoá và nâng cao chất
lượng đội ngũ cán bộ, công chức cơ sở, địa phương có chính sách thu hút trí thức
trẻ, tuyển dụng những sinh viên đã tốt nghiệp các trường cao đẳng, đại học về công
tác tại thị trấn.
Bên cạnh những kết quả đạt được, thời gian qua trong hoạt động của hệ
thống chính trị cơ sở còn nhiều mặt hạn chế, yếu kém. Chức năng, nhiệm vụ của
các tổ chức trong hệ thống chính trị chưa được xác định rành mạch, trách nhiệm
không rõ ràng; nội dung và phương thức hoạt động chậm đổi mới và chưa đồng bộ,
còn nhiều biểu hiện của cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp. Sự phối hợp giữa các
tổ chức trong hệ thống chính trị chưa chặt chẽ, hiệu quả hoạt động chưa cao. Năng
lực lãnh đạo và sức chiến đấu của một số tổ chức cơ sở đảng còn yếu, nhất là năng
lực vận dụng các chủ trương, nghị quyết của Đảng và chính sách của Nhà nước vào
tình hình cụ thể của địa phương. Hiệu quả hoạt động của bộ máy chính quyền chưa
cao; trình độ, năng lực của một bộ phận cán bộ, công chức chưa đáp ứng yêu cầu
nhiệm vụ. Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cơ sở chưa thực sự được
quan tâm; nội dung, chương trình đào tạo chưa phù hợp với công việc ở cơ sở, còn
chạy theo bằng cấp. Hoạt động của các đoàn thể chính trị ở một số nơi còn mang
tính hình thức, chưa thiết thực; còn biểu hiện hành chính hóa trong hoạt động.
Công tác kiểm tra nắm tình hình cơ sở chưa thường xuyên, sâu sát, dẫn đến việc
phát hiện và xử lý các vấn đề nảy sinh ở cơ sở còn bị động. Công tác phát triển
đảng viên ở cơ sở chưa được quan tâm đúng mức. Nội dung và hình thức sinh hoạt

chi bộ còn đơn điệu, việc đánh giá chất lượng tổ chức cơ sở đảng và đảng viên
hàng năm chưa phản ánh đúng thực chất. Một bộ phận cán bộ, đảng viên ở cơ sở
suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, nói không đi đôi với làm. Chế độ,
chính sách đối với cán bộ cơ sở còn bất cập; cơ sở hạ tầng và điều kiện làm việc
nhiều nơi còn khó khăn…
II. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA HỆ
THỐNG CHÍNH TRỊ CƠ SỞ Ở THỊ TRẤN CẦN THẠNH, HUYỆN CẦN
GIỜ.


Để tiếp tục thực hiện có hiệu quả Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp
hành Trung ương Đảng khóa IX, góp phần bảo đảm ổn định chính trị - xã hội, thực
hiện thắng lợi các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững quốc phòng - an
ninh theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XII của Đảng, xin đề xuất một số giải pháp
nhằm đổi mới phương thức hoạt động của các tổ chức trong hệ thống chính trị cơ
sở. Cụ thể:
Một là, các đảng bộ, chi bộ ở thị trấn cần nâng cao nhận thức và thực hiện
đúng vai trò hạt nhân lãnh đạo của hệ thống chính trị ở cơ sở. Đảng ủy lãnh đạo
phải bằng chủ trương, định hướng, không bao biện làm thay công việc của chính
quyền; phát huy tính chủ động, sáng tạo và tinh thần trách nhiệm trong việc thực
hiện đường lối của Đảng. Đổi mới phương thức lãnh đạo của đảng bộ, chi bộ, trước
hết là đổi mới việc ra nghị quyết và chỉ đạo thực hiện các nghị quyết của Đảng; đa
dạng hóa các nội dung sinh hoạt của các chi bộ trực thuộc. Tăng cường công tác
kiểm tra, giám sát thực hiện nghiêm túc nguyên tắc tập trung dân chủ và quy chế
làm việc; tăng cường công tác giáo dục rèn luyện nâng cao phẩm chất đạo đức
cách mạng cho cán bộ, đảng viên ở cơ sở.
Hai là, đối với chính quyền cơ sở thị trấn, cần có mô hình tổ chức hợp lý,
đảm bảo hiệu lực, hiệu quả hoạt động, xác định rõ mô hình chính quyền đô thị và
chính quyền nông thôn đối với thị trấn để có cơ chế quản lý phù hợp với đối tượng
quản lý. Phát huy mạnh mẽ vai trò của cơ quan hành chính trong việc mở rộng và

thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở, cụ thể hoá phương châm dân biết, dân bàn,
dân làm, dân kiểm tra. Mọi hoạt động của cơ quan hành chính ở cơ sở phải hướng
vào mục tiêu phục vụ dân; giải quyết đúng đắn và nhanh chóng các công việc có
liên quan trực tiếp đến đời sống của nhân dân. Giáo dục cán bộ, công chức cơ sở
có phong cách "trọng dân, gần dân, hiểu dân, học dân và có trách nhiệm với dân",
"nghe dân nói, nói dân hiểu, làm dân tin". Phát huy vai trò tự quản trong cộng đồng
dân cư của tổ chức ở khu phố.
Ba là, đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam và các tổ chức chính trị - xã hội theo hướng mở rộng, đa dạng hoá các hình
thức tập hợp quần chúng nhân dân, đáp ứng yêu cầu và chăm lo lợi ích thiết thực,
chính đáng và hợp pháp của nhân dân. Phát huy vai trò tham gia xây dựng chính
quyền, giám sát các hoạt động của chính quyền; nâng cao chất lượng phản biện xã
hội của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên. Mở rộng, phát huy quyền làm
chủ của nhân dân đi đôi với giữ vững kỷ cương, kỷ luật. Có cơ chế để nhân dân
tham gia, giám sát các hoạt động của tổ chức cơ sở đảng, chính quyền và các đoàn
thể nhân dân một cách thiết thực; tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân, nhất là ở
những nơi có đông đồng bào có đạo, đồng bào dân tộc ít người. Tập trung xây


dựng, hoàn thiện hệ thống quy chế, quy định và làm rõ mối quan hệ giữa các tổ
chức trong hệ thống chính trị ở cơ sở. Đẩy mạnh thực hiện Cuộc vận động “Toàn
dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá ở khu dân cư”, kịp thời giải quyết những
vướng mắc phát sinh trong nội bộ nhân dân, không để những mâu thuẫn nhỏ tích tụ
lâu ngày trở thành “điểm nóng”.
Bốn là, cần có chiến lược phát triển nguồn nhân lực cho hệ thống chính trị ở
thị trấn Cần Thạnh. Có cơ chế tuyển dụng những trí thức trẻ có đủ tiêu chuẩn về
phẩm chất chính trị, đạo đức, năng lực chuyên môn vào làm việc tại Đảng ủy, Ủy
ban nhân dân và các đoàn thể chính trị - xã hội thị trấn. Thực hiện tốt công tác quy
hoạch đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức trong các tổ chức của hệ
thống chính trị; đồng thời đi đôi với việc đổi mới nội dung, chương trình đào tạo

phù hợp với chức danh, công việc của cán bộ, công chức cơ sở.
Năm là, Đảng ủy, Ủy ban nhân dân, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể cần
theo dõi, nắm chắc mọi diễn biến tình hình của địa phương để đánh giá đúng tình
hình; tiến hành thanh tra, kiểm tra, kết luận rõ đúng, sai và xử lý nghiêm những cán
bộ, đảng viên sai phạm, đồng thời có giải pháp cụ thể, thiết thực để sửa chữa, khắc
phục, tạo sự thống nhất trong nhận thức, hành động ở các tổ chức cơ sở đảng và
cộng đồng dân cư; kịp thời giải quyết những kiến nghị chính đáng của nhân dân.
Sáu là, tăng cường cơ sở vật chất, phương tiện kỹ thuật hiện đại cho hoạt động
của hệ thống chính trị cơ sở, nhất là đảm bảo các điều kiện làm việc cho bộ phận “một
cửa” theo chủ trương cải cách hành chính của Chính phủ giai đoạn 2011-2020, nhằm
đáp ứng với tình hình nhiệm vụ của thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập
quốc tế

KẾT LUẬN
Tóm lại, trong thời gian qua, hệ thống chính trị cơ sở thị trấn Cần Thạnh đã
thực hiện có kết quả một số đổi mới quan trọng, đặc biệt là quyền làm chủ của
nhân dân trên các lĩnh vực kinh tế, xã hội, chính trị, tư tưởng, văn hoá được phát
huy. Các kết quả đạt được đã khẳng định đường lối đổi mới nói chung, đường lối
đổi mới hệ thống chính trị nói riêng là đúng đắn sáng tạo, phù hợp thực tiễn, bước
đầu đáp ứng yêu cầu của tình hình mới, khắc phục dần những khuyết, nhược điểm
của hệ thống chuyên chính vô sản trước đây. Kết quả đổi mới hệ thống chính trị đã
góp phần làm nên những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử của công cuộc đổi


mới ở nước ta. Tuy nhiên trong thực tế vận hành hệ thống chính trị ở thị trấn Cần
Thạnh còn nhiều nhược điểm. Năng lực và hiệu quả lãnh đạo của Đảng, hiệu lực
quản lý, điều hành của Nhà nước, hiệu quả hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các
tổ chức chính trị - xã hội chưa ngang tầm với đòi hỏi của tình hình nhiệm vụ mới.
Việc cải cách nền hành chính còn rất hạn chế. Bộ máy hành chính còn nhiều tầng
nấc làm cho việc quản lý các quá trình kinh tế - xã hội chưa thật nhanh, nhạy và có

hiệu quả cao. Tình trạng quan liêu, hách dịch, nhũng nhiễu của một bộ phận công
chức nhà nước chưa được khắc phục; kỷ cương, phép nước bị xem thường. Phương
thức tổ chức, phong cách hoạt động của Mặt trận và các tổ chức chính trị - xã hội
vẫn chưa thoát khỏi tình trạng hành chính, xơ cứng; một số cán bộ bị “viên chức
hoá”, chưa thật gắn bó với quần chúng. Quyền làm chủ của nhân dân còn bị vi
phạm. Vai trò giám sát, phản biện của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị xã hội còn yếu, chưa có cơ chế thật hợp lý để phát huy vai trò này. Đội ngũ cán bộ
của hệ thống chính trị nói chung, của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã
hội nói riêng chất lượng còn hạn chế. Do đó, mục tiêu chủ yếu của đổi mới hệ
thống chính trị ở thị trấn Cần Thạnh là nhằm thực hiện tốt hơn dân chủ xã hội chủ
nghĩa, phát huy đầy đủ quyền làmm chủ của nhân dân. Toàn bộ tổ chức và hoạt
động của hệ thống chính trị trong giai đoạn mới là nhằm xây dựng và hoàn thiện
nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân. Bên cạnh đó,
cần phải khẳng định đổi mới là một quá trình, bắt đầu từ đổi mới kinh tế, trước hết
là đổi mới tư duy kinh tế, đồng thời từng bước đổi mới hệ thống chính trị. Phải tập
trung đổi mới kinh tế trước hết, vì có đổi mới thành công về kinh tế mới tạo được
điều kiện cơ bản để tiến hành đổi mới hệ thống chính trị thuận lợi. Mặt khác, nếu
không đổi mới hệ thống chính trị, thì đổi mới kinh tế sẽ gặp trở ngại. Hệ thống
chính trị được đổi mới kịp thời, phù hợp sẽ là điều kiện quan trọng để thúc đẩy đổi
mới và phát triển kinh tế. Như vậy, đổi mới hệ thống chính trị là đáp ứng yêu cầu
chuyển đổi từ thể chế kinh tế kế hoạch hoá tập trung, quan liêu, bao cấp sang thể
chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đề cương bài giảng Hệ thống chính trị, học viện chính trị Quốc
gia, năm 2017.
2.Giáo trình Chính trị học, Nhà xuất bản Chính trị Quốc Gia Hà Nội.
3. Quan điểm và chủ trương xây dựng hệ thống chính trị của Đảng.
4. Những nội dung chính trong đổi mới, hoàn thiện hệ thống chính trị
ở nước ta, tạp chí cộng sản tháng tháng 7/2015.




×