Tải bản đầy đủ (.docx) (29 trang)

Thẩm quyền xét xử theo sự việc các vụ án hình sự của tand cấp huyện và thực tiễn áp dụng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (219.49 KB, 29 trang )

PHẦN 1: MỞ ĐẦU
1.1

Lý do chọn đề tài nghiên cứu
Thẩm quyền xét xử theo sự việc của TAND là một trong những quy định

trung tâm của chế định thẩm quyền xét xử của TA. Để cho công tác thực thi nhiệm
vụ tố tụng đạt được kết quả tốt nhất thì trước hết phải xác định đúng thẩm quyền.
Hơn nữa đó cũng là cơ sở để phân định thẩm quyền với các cơ quan tiến hành tố
tụng khác. Hiện nay, thẩm quyền xét xử theo sự việc của TAND cấp huyện cũng
được quy định khá rõ trong BLTTHS năm 2003. Tuy nhiên, như chúng ta cũng đã
biết thì luật ở trạng thái tương đối tĩnh, mà xã hội thì khơng ngừng biến đổi, Bộ luật
thì ban hành cho đến nay cũng trải qua một thời gian khá dài, thế nên khi áp dụng
vào thực tiễn cũng khó tránh khỏi những bất cập, vướng mắc. Vì vậy, cần có những
đề xuất đổi mới và hồn thiện nó nên tơi đã chọn đề tài: “Thẩm quyền xét xử theo
sự việc các vụ án hình sự của TAND cấp huyện và thực tiễn áp dụng”.

1.2

Mục tiêu nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu các quy định của pháp luật tố tụng hình sự và thực tiễn

xét xử của TAND cấp huyện, bản thân cần phải đạt được:
Làm rõ vài nét khái quát về thẩm quyền xét xử sơ thẩm, đặc biệt là khái



niệm thẩm quyền xét xử theo sự việc các vụ án hình sự của Tòa án nhân dân cấp
huyện;



Làm rõ những quy định của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành về thẩm

quyền xét xử theo sự việc các vụ án hình sự của Tòa án nhân dân cấp huyện, xem
thực tiễn áp dụng như thế nào, tìm nguyên nhân của những bất cập, từ đó đánh giá
thực tiễn;


Cuối cùng là đưa ra một số kiến nghị nhằm nâng cao năng lực xét xử của

TAND cấp huyện, hoàn thiện quy định của pháp luật về vấn đề mà mình nghiên cứu.
1


1.3

Phạm vi nghiên cứu
Thẩm quyền xét xử sơ thẩm là khá rộng, nó bao gồm thẩm quyền xét xử của

TAND cấp tỉnh, TAND cấp huyện, thẩm quyền xét xử phúc thẩm, giám đốc thẩm,
tái thẩm của Tòa án và thẩm quyền xét xử các VAHS của TAQS, nhưng chỉ nghiên
cứu ở phạm vi cấp huyện và thẩm quyền xét xử theo sự việc, còn theo đối tượng,
theo lãnh thổ cũng khơng thuộc phạm vi nghiên cứu. Vì vậy, chỉ tập trung nghiên
cứu về vấn đề “Thẩm quyền xét xử theo sự việc các vụ án hình sự của TAND cấp
huyện và thực tiễn áp dụng”.

1.4

Phương pháp nghiên cứu



Dựa trên tư tưởng Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh;



Quan điểm của Đảng và Nhà nướcViệt Nam về xây dựng Nhà nước pháp

quyền xã hội chủ nghĩa, về cải cách tư pháp;


Dựa trên phương pháp phổ biến – logic hình thức: đó là giải thích quy

phạm pháp luật;


Sử dụng phương pháp phân tích, so sánh, tổng hợp.

PHẦN 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN
2.1

Khái quát về thẩm quyền xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự

của Tịa án nhân dân
2.1.1

Khái niệm về thẩm quyền xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự của

Tịa án nhân dân
Theo quan điểm của học thuyết Mác - Lênin, Nhà nước mang bản chất giai
cấp. Nhà nước chỉ ra đời từ khi xã hội phân chia giai cấp, giai cấp nào thì nhà nước
đó. Nhà nước được giai cấp thống trị thành lập để duy trì sự thống trị của giai cấp

mình, để làm người đại diện cho giai cấp mình, bảo vệ lợi ích của giai cấp mình. Và
để thực hiện mục tiêu của mình Nhà nước đã ban hành hệ thống pháp luật nhằm bảo
2


vệ quyền lợi cho giai cấp thống trị, thông qua cơ quan tư pháp mà đại diện tiêu biểu
đó là Tòa án - người đại diện của quyền lực tư pháp, TA được Nhà nước trao quyền
để thực hiện chức năng xét xử. TA chủ yếu đóng vai trị là một bộ máy “quyền lực”,
thực hiện việc áp dụng luật, đưa việc thực hiện quyền lực tư pháp vào cuộc sống.
Đồng thời, Tòa án cũng là nơi thể hiện sâu sắc nhất bản chất của Nhà nước và nền
công lý của chế độ, vừa thể hiện chất lượng hoạt động và uy tín của cả hệ thống tư
pháp trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Khi nhắc đến thẩm quyền thường chúng ta hay nghĩ nó sẽ được thực hiện dưới
một cơ quan, tổ chức hoặc một cá nhân, và những chủ thể này phải được một cơ
quan có quyền lực nhất định, trao cho họ cái quyền nào đó, để họ thực hiện nhiệm
vụ của mình. Đó là quan điểm cá nhân còn theo từ điển tiếng Việt do Viện ngôn ngữ
học thuộc Viện khoa học xã hội Việt Nam, thì thẩm quyền được hiểu là “quyền xem
xét để kết luận và định đoạt một vấn đề nhất định”.
Việc quy định thẩm quyền là điều kiện cần thiết để đảm bảo sự hoạt động đồng
bộ, liên tục, ổn định, không trùng lặp của bộ máy Nhà nước vốn đã rất phức tạp với
nhiều cơ quan, bộ phận cấu thành. Theo chương VIII điều 102 khoản 1 của Hiến
pháp năm 2013 quy định: “Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp”. Và theo điều 1 của Luật tổ chức
Tòa án nhân dân năm 2002 cũng quy định về thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân
dân. Như vậy thì chỉ có Tịa án mới có quyền xét xử, ngồi Tịa án thì bất kì cơ quan
nào khác cũng khơng có được quyền này, đó là thẩm quyền riêng biệt của Tòa án.
Thẩm quyền xét xử của Tòa án theo nghĩa rộng bao gồm quyền xem xét và
quyền giải quyết vụ án, ra bản án hoặc các quyết định khác như quyết định đình chỉ
vụ án, quyết định tạm đình chỉ vụ án…Theo đó, thẩm quyền của tịa án bao gồm hai
yếu tố có liên quan chặt chẽ với nhau là thẩm quyền về hình thức và thẩm quyền về

nội dung. Thẩm quyền về hình thức là quyền xem xét và phạm vi xem xét (giới hạn
xét xử) của tòa án. Thẩm quyền về nội dung là quyền hạn giải quyết, quyết định của

3


tòa án đối với những vấn đề được xem xét. 1 Vì vậy, thẩm quyền xét xử của tịa án là
thẩm quyền về hình thức.
“Sơ thẩm” thì được hiểu là lần xét xử đầu tiên của một vụ án. Do nước ta thực
hiện theo chế độ hai cấp xét xử là sơ thẩm và phúc thẩm, nên khi nói sơ thẩm là ta
biết ngay đến vụ án này chưa được giải quyết trước nó lần nào.
Theo giáo trình luật tố tụng hình sự của trường Đại học Luật Hà Nội: “Thẩm
quyền xét xử sơ thẩm là quyền mà pháp luật quy định cho phép Tòa án được xét xử
sơ thẩm vụ án hình sự căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm
tội, đối tượng phạm tội, nơi thực hiện tội phạm hoặc nơi khác theo quy định của
pháp luật”.
2.1.2

Phân loại thẩm quyền xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự

Đối với lĩnh vực tố tụng hình sự việc phân loại thẩm quyền xét xử về lý luận
giúp cho việc nghiên cứu vấn đề này được thuận lợi, đồng thời giúp cho việc áp
dụng thẩm quyền trong thực tiễn xét xử được chính xác, đúng đắn. Các tiêu chí được
áp dụng để phân loại thẩm quyền xét xử sơ thẩm thường được áp dụng là:


Đường lối chính sách của Đảng;




Nguyên tắc cơ bản của luật tố tụng hình sự;



Tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội;



Tính nghiêm trọng, phức tạp của tội phạm;



Trình độ chun mơn, nghiệp vụ của Thẩm phán cũng như Điều tra viên,

Kiểm sát viên;


Biên chế cơ sở vật chất;



Tình hình tội phạm và yêu cầu đấu tranh phịng chống tội phạm.2

Từ các căn cứ có thể chia thẩm quyền xét xử sơ thẩm làm ba loại thẩm quyền
như sau:
Trần Văn Độ và các tác giả (2006), Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam, NXB Tư Pháp, Hà Nội,
tr.345.
2
Trần Văn Độ và các tác giả (2006), Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam, NXB Tư Pháp, Hà Nội,
tr.346.

1

4




Thẩm quyền xét xử theo sự việc: là sự phân định thẩm quyền xét xử giữa

TA các cấp với nhau: giữa TAND cấp huyện, tòa án quân sự khu vực với TAND cấp
tỉnh, tòa án quân sự cấp quân khu, dựa vào tính chất nghiêm trọng, phức tạp của tội
phạm.


Thẩm quyền xét xử theo đối tượng: dựa vào người thực hiện tội phạm và

trong một số trường hợp cụ thể có thể dựa vào việc tội phạm đó gây hại đến chủ thể
nào hoặc thiệt hại cho lĩnh vực nào của đời sống xã hội để quy định thẩm quyền xét
xử sơ thẩm giữa TAND và tòa án quân sự, giữa tòa án quân sự các cấp với nhau.


Thẩm quyền xét xử theo lãnh thổ: dựa vào nơi (địa điểm, không gian) tội

phạm thực hiện, nơi thực hiện và kết thúc việc điều tra vụ án để quy định thẩm
quyền xét xử cho các tòa án khác nhau.
2.1.3

Ý nghĩa của việc phân định thẩm quyền xét xử sơ thẩm các vụ án

hình sự

Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự được tiến hành sau khi TA nhận được quyết định
truy tố bị can và hồ sơ vụ án do VKS chuyển đến. Giai đoạn xét xử sơ thẩm là giai
đoạn xét xử đầu tiên và có ý nghĩa vơ cùng quan trọng trong cả quá trình xét xử vụ
án. Phạm vi thẩm quyền xét xử sơ thẩm là rất rộng, tồn bộ nội dung vụ án sẽ được
xem xét khơng bỏ qua bất kì một thủ tục nào, khác với giai đoạn phúc thẩm chỉ xem
xét vụ án theo nội dung có kháng cáo, kháng nghị. Vì vậy, việc xác định đúng đắn
thẩm quyền xét xử sơ thẩm không chỉ có ý nghĩa về mặt pháp lý mà cịn có ý nghĩa
sâu sắc về mặt chính trị, xã hội.
Thứ nhất, việc phân định thẩm quyền xét xử sơ thẩm VAHS đáp ứng nhu cầu
đấu tranh phòng chống tội phạm. Do nền kinh tế ngày càng phát triển theo hướng
hiện đại, tỉ lệ thuận với điều đó, tình hình tội phạm cũng ngày càng có chiều hướng
gia tăng và tinh vi hơn, mức độ nghiêm trọng cũng tăng lên đáng kể. Vì vậy, việc
phân định thẩm quyền xét xử sơ thẩm một cách rõ ràng và hợp lý sẽ hạn chế được
các tranh chấp về thẩm quyền, vụ án sẽ được giải quyết kịp thời, chính xác hơn, đáp
ứng nhu cầu đấu tranh, phòng chống tội phạm.
5


Thứ hai, việc phân định thẩm quyền xét xử sơ thẩm là cơ sở để tổ chức bộ máy
của các cơ quan tư pháp. Các cơ quan tư pháp của nước ta hiện nay được tổ chức
theo địa giới hành chính từ cấp huyện tới trung ương. Tuy nhiên, theo định hướng
của chiến lược cải cách tư pháp ở nước ta thì các cơ quan tư pháp sẽ được tổ chức lại
theo thẩm quyền xét xử, do vậy việc phân định thẩm quyền xét xử có ý nghĩa rất
quan trọng để tổ chức bộ máy cơ quan tư pháp. Đặc biệt, thẩm quyền xét xử sơ thẩm
là cơ sở để xác định thẩm quyền xét xử của các cấp tiếp theo.
Thứ ba, việc phân định thẩm quyền xét xử sơ thẩm sẽ đảm bảo tính tiết kiệm
và hiệu quả trong quá trình hoạt động tố tụng. Khi tiến hành các hoạt động tố tụng là
phải đảm bảo được tính hiệu quả của nó, nhưng bên cạnh đó cịn phải đảm bảo tính
kinh tế và tiết kiệm của hoạt động tố tụng. Nếu việc phân định thẩm quyền xét xử sơ
thẩm hợp lý sẽ là cơ sở giúp cho việc giải quyết vụ án một cách chính xác, hiệu quả

và tiết kiệm nhất.
Thứ tư, việc phân định thẩm quyền xét xử sơ thẩm đảm bảo cho việc xét xử
chính xác, khách quan các vụ án hình sự. Để một VAHS xét xử được chính xác,
khách quan phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố như cơ quan tiến hành tố tụng, năng lực
của người tiến hành tố tụng, … Do vậy, để việc điều tra, truy tố và xét xử được
nhanh chóng, chính xác thì trước hết phải xác định thẩm quyền xét xử sơ thẩm chính
xác.

2.2

Khái niệm thẩm quyền xét xử theo sự việc các vụ án hình

sự của Tịa án nhân dân cấp huyện
Thẩm quyền xét xử theo sự việc các VAHS là thẩm quyền xét xử được xác
định căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội. 3 Ở nước ta, thì
TA cấp tỉnh và TA cấp huyện đều có thẩm quyền xét xử sơ thẩm, do vậy việc phân
định thẩm quyền xét xử sơ thẩm giữa cấp tỉnh và cấp huyện là một tất yếu khách
quan để đảm bảo giải quyết nhanh chóng, đúng đắn VAHS.
Trần Văn Độ và các tác giả (2006), Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam, NXB Tư Pháp, Hà Nội,
tr.347.
3

6


TAND cấp huyện bao gồm các TAND được tổ chức theo địa giới hành chính ở
các huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh. Được Nhà nước trao quyền xét xử những vụ
án liên quan đến dân sự, lao động, đất đai, kinh doanh thương mại,…trong đó khơng
thể khơng nhắc đến thẩm quyền giải quyết các VAHS. Riêng về thẩm quyền xét xử
theo sự việc các VAHS, nó đặc biệt ở chỗ khơng phải chỉ TAND mới có thẩm quyền

giải quyết, mà cả TAQS cũng có thẩm quyền xét xử. Vì vậy, cần phải có sự phân
định rõ ràng về thẩm quyền giữa hai TA này, nếu vụ án thuộc về thẩm quyền xét xử
của TAQS thì TAND khơng có thẩm quyền xét xử vụ án này. Và ngược lại TAND
sẽ xét xử những tội phạm không thuộc thẩm quyền của TAQS.
Thẩm quyền xét xử theo sự việc các VAHS của TAND cấp huyện được hiểu:
là quyền mà pháp luật cho phép TAND cấp huyện được tiến hành xem xét, giải
quyết vụ án hình sự, ra bản án, quyết định tố tụng theo trình tự sơ thẩm căn cứ vào
tính chất, mức độ phức tạp và ảnh hưởng xã hội của tội phạm.
Việc căn cứ vào tính chất, mức độ phức tạp và ảnh hưởng xã hội của tội phạm
là dùng để phân định thẩm quyền xét xử giữa TA cấp huyện và TA cấp tỉnh hoặc
giữa TAQS khu vực và TAQS quân khu.

2.3

Vị trí của thẩm quyền xét xử theo sự việc với thẩm quyền

xét xử theo đối tượng và theo lãnh thổ
Thẩm quyền xét sử theo sự việc là một trong ba phân loại của thẩm quyền xét
xử, ngoài thẩm quyền theo sự việc cịn có thẩm quyền xét xử theo lãnh thổ và theo
đối tượng. Thẩm quyền xét xử theo sự việc có vị trí quan trọng trong việc xác định
thẩm quyền, được phân định rạch ròi với thẩm quyền theo đối tượng và thẩm quyền
theo lãnh thổ. Vì thẩm quyền theo loại việc là sự phân định thẩm quyền xét xử căn
cứ vào tính chất, mức độ phức tạp và ảnh hưởng xã hội của tội phạm. Thẩm quyền
theo đối tượng là sự phân định thẩm quyền xét xử căn cứ vào chủ thể thực hiện tội
phạm hoặc đối tượng bị tội phạm xâm hại. Và thẩm quyền theo lãnh thổ là sự phân
định thẩm quyền xét xử giữa các tòa án cùng cấp với nhau dựa vào nơi xảy ra tội
7


phạm hoặc nơi kết thúc việc điều tra vụ án. Căn cứ của các thẩm quyền được quy

định khác nhau, mỗi một phân loại hướng đến những cách xác định thẩm quyền
cũng khác nhau. Sở dĩ có sự phân chia như vậy là để Tòa án xác định rõ thẩm quyền
của mình, chuyên tâm vào việc xét xử cho việc giải quyết vụ án được tiến hành
nhanh chóng, chính xác và đạt hiệu quả tối ưu nhất. Đồng thời, nó cũng giúp cho bộ
máy tư pháp hoạt động đồng đều và cơng bằng, khi có căn cứ thuộc thẩm quyền của
cơ quan mình thì buộc họ phải tiến hành nhiệm vụ.

PHẦN 3: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VÀ
THỰC TIỄN ÁP DỤNG THẨM QUYỀN XÉT XỬ THEO SỰ
VIỆC CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP HUYỆN
3.1

Quy định của pháp luật Tố tụng hình sự năm 2003 về thẩm

quyền xét xử theo sự việc của Tòa án nhân dân cấp huyện
3.1.1

Các vụ án hình sự thuộc thẩm quyền xét xử theo sự việc của Tòa

án nhân dân câp huyện
Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 được Quốc hội nước Cộng hịa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam khóa IX kì họp thứ tư thông qua ngày 26/11/2003 mở rộng theo
hướng tăng thẩm quyền xét xử sơ thẩm của TAND cấp huyện, được quy định rõ tại
khoản 1 điều 170 BLTTHS năm 2003: TAND cấp huyện có thẩm quyền xét xử
những VAHS về những tội phạm ít nghiêm trọng, nghiêm trọng và rất nghiêm trọng
trừ những tội phạm sau đây:


Các tội xâm phạm an ninh quốc gia;




Các tội phá hoại hịa bình, chống phá loài người và tội phạm chiến tranh;

8




Các tội quy định tại các điều 93, 95, 96, 172, 216, 217, 218, 219, 221, 222,

223, 224, 225, 226, 263, 293, 294, 295, 296, 322 và 323 của BLHS năm 1999. Cụ
thể:
 Điều 93. Tội giết người
 Điều 95. Tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh
 Điều 96. Tội giết người do vựơt quá giới hạn phịng vệ chính đáng
 Điều 172. Tội vi phạm các quy định về nghiên cứu, thăm dò, khai thác tài
nguyên
 Điều 216. Tội vi phạm quy định điều khiển tàu bay
 Điều 217. Tội cản trở giao thông đường không
 Điều 218. Tội đưa vào sử dụng phương tiện giao thơng đường khơng khơng
bảo đảm an tồn
 Điều 219. Tội điều động hoặc giao cho người không đủ điều kiện điều khiển
các phương tiện giao thông đường không
 Điều 221. Tội chiếm đoạt tàu bay, tàu thuỷ
 Điều 222. Tội điều khiển tàu bay vi phạm các quy định về hàng khơng của
nước Cộng hồ xã hội chủ nghĩa Việt Nam
 Điều 223. Tội điều khiển phương tiện hàng hải vi phạm các quy định về hàng
hải của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
 Điều 224. Tội phát tán vi rút, chương trình tin học có tính năng gây hại cho

hoạt động của mạng máy tính, mạng viễn thơng, mạng Internet, thiết bị số
 Điều 225. Tội cản trở hoặc gây rối loạn hoạt động của mạng máy tính, mạng
viễn thơng, mạng Internet, thiết bị số

 Điều 226. Tội đưa hoặc sử dụng trái phép thơng tin trên mạng máy tính,
mạng viễn thơng, mạng Internet
 Điều 263. Tội cố ý làm lộ bí mật nhà nước; tội chiếm đoạt, mua bán, tiêu huỷ
tài liệu bí mật nhà nước
 Điều 293. Tội truy cứu trách nhiệm hình sự người khơng có tội
 Điều 294. Tội khơng truy cứu trách nhiệm hình sự người có tội
9


 Điều 295. Tội ra bản án trái pháp luật
 Điều 296. Tội ra quyết định trái pháp luật
 Điều 322. Tội đầu hàng địch
 Điều 323. Tội khai báo hoặc tự nguyện làm vịêc cho địch khi bị bắt làm tù
binh.4
Theo quy định tại khoản 3 điều 8 BLHS năm 1999 thì: “Tội phạm ít nghiêm
trọng là tội phạm gây nguy hại không lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung
hình phạt đối với tội ấy là đến ba năm tù; tội phạm nghiêm trọng là tội phạm gây
nguy hại lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến
bảy năm tù; tội phạm rất nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại rất lớn cho xã hội
mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến mười lăm năm tù; tội
phạm đặc biệt nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại đặc biệt lớn cho xã hội mà
mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là trên mười lăm năm tù, tù chung
thân hoặc tử hình.”
Theo quy định trên, TAND cấp huyện có thẩm quyền xét xử sơ thẩm những tội
phạm mà BLHS quy định hình phạt từ mười lăm năm tù trở xuống, trừ những tội
quy định tại điểm a, b, c khoản 1 điều 170 BLTTHS năm 2003. Tuy nhiên, do trình

độ, năng lực chun mơn; điều kiện cơ sở vật chất; biên chế của CQĐT, VKS và TA
ở một số huyện chưa đảm bảo yêu cầu, cần tiếp tục bổ sung, kiện tồn mới có thể
đáp ứng được yêu cầu đặt ra để có thể thực hiện được quy định của BLTTHS về việc
mở rộng thẩm quyền của TA cấp huyện theo tinh thần trên. Nghị quyết số 24/2003/
QH11 về việc thi hành BLTTHS năm 2003 tại mục 3 đã chỉ rõ: “Kể từ ngày
BLTTHS có hiệu lực, những TAND huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh có đủ
điều kiện thực hiện thì được giao thẩm quyền xét xử mới quy định tại khoản 1 điều
170 BLTTHS. Những TAND huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh chưa đủ điều
kiện thực hiện thì thực hiện thẩm quyền xét xử sơ thẩm những VAHS về những tội
phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng, trừ những tội phạm quy định tại các
Trần Văn Độ và các tác giả (2006), Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam, NXB Tư Pháp, Hà Nội,
tr. 351.
4

10


điểm a, b và c khoản 1 điều 170 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 nhưng chậm nhất
đến ngày 01/7/2009 tất cả các tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc
tỉnh thực hiện thống nhất thẩm quyền xét xử mới quy định tại khoản 1 điều 170
BLTTHS”.5
Như vậy, hiện nay tất cả TAND cấp huyện đều được giao thẩm quyền xét xử
vụ án hình sự theo quy định tại khoản 1 điều 170 BLTTHS năm 2003.
3.1.2

Các vụ án hình sự thuộc thẩm quyền xét xử theo sự việc của Tòa

án nhân dân cấp huyện mà Tòa án nhân dân cấp tỉnh lấy lên để xét xử
Để xác định những vụ án thuộc thẩm quyền xét xử của TAND cấp huyện theo
sự việc cần phân biệt được với những vụ án thuộc thẩm quyền xét xử sơ thẩm của

TAND cấp tỉnh. Về ngun tắc thì Tịa cấp tỉnh được quyền xét xử vụ án thuộc thẩm
quyền của mình, đồng thời nếu có căn cứ cho rằng vụ án đó phức tạp hoặc nếu để
TAND cấp huyện xét xử theo thẩm quyền sẽ gặp khó khăn, thiếu khách quan, thì
TAND cấp tỉnh được quyền xem xét, và nếu thấy cần thiết phải chuyển lên cấp tỉnh
để xét xử đảm bảo cho việc xét xử đúng đắn, khách quan hơn. Vậy TAND cấp tỉnh
cũng sẽ có thẩm quyền giải quyết cả những vụ án theo khoản 1 điều 170 của
BLTTHS.
Theo khoản 2 điều 170 BLTTHS năm 2003 quy định: ‘Tòa án nhân dân cấp
tỉnh…xét xử sơ thẩm những vụ án hình sự về những tội phạm khơng thuộc thẩm
quyền của Tòa án nhân dân cấp huyện…hoặc những vụ án thuộc thẩm quyền của
Tịa án cấp dưới mà mình lấy lên để xét xử”.
Tuy nhiên, những vụ án thuộc thẩm quyền của TAND cấp huyện có những dấu
hiệu, tính chất đặc thù nào mà TAND cấp tỉnh lấy lên để xét xử thì luật khơng có
quy định. Trên thực tế thường dựa vào các căn cứ sau:
Thứ nhất, những vụ án phức tạp, có nhiều tình tiết khó đánh giá, thống nhất về
tính chất vụ án hoặc liên quan đến nhiều cấp, nhiều ngành.
Trần Văn Độ và các tác giả (2006), Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam, NXB Tư Pháp, Hà Nội,
tr.352.
5

11


Thứ hai, vụ án mà bị cáo là Thẩm phán, KSV, ĐTV, Cán bộ lão thành chủ chốt
ở cấp huyện, người nước ngồi, người có chức sắc cao trong tơn giáo hoặc có uy tín
cao trong dân tộc ít người.
Khi có vụ án thuộc các loại trên đây, CQĐT cấp huyện trao đổi với VKS cùng
cấp và chuyển hồ sơ lên cơ quan điều tra cấp tỉnh để điều tra. Nếu hồ sơ đã chuyển
sang VKS cấp huyện thì VKS cấp huyện chuyển hồ sơ cho VKS cấp tỉnh để VKS
cấp tỉnh truy tố trước TA cấp tỉnh. Nếu VKS cấp huyện đã truy tố để xét xử ở TA

cấp huyện, thì TA cấp huyện trả hồ sơ cho VKS cùng cấp để VKS chuyển hồ sơ lên
VKS cấp tỉnh để truy tố trước TA cấp tỉnh. Đối với những vụ án mà VKS hoặc TA
cấp tỉnh thấy cần được xét xử ở cấp tỉnh thì phải chuyển ngay lên cấp tỉnh để truy tố
và xét xử ở cấp tỉnh.
Vì thế, mặc dù TAND cấp huyện được quyền xét xử những vụ án thuộc khoản
1 điều 170 BLTTHS và hình phạt của những tội ấy là không quá mười lăm năm tù
nhưng không phải trong mọi trường hợp đều là như vậy. Có những trường hợp thuộc
thẩm quyền của TAND cấp huyện nhưng không được xét xử nếu vụ án đó được
TAND cấp tỉnh lấy lên để xét xử do những vụ án đó có tính chất đặc thù của hành vi
phạm tội, ảnh hưởng lớn đến các quan hệ xã hội hoặc hậu quả mà nó có thể gây ra.
Nhưng để đảm bảo chất lượng xét xử, Nhà nước ta đã loại trừ những vụ án đó ra
khỏi thẩm quyền xét xử của TAND cấp huyện mặc dù mức cao nhất của khung hình
phạt đối với loại tội đó có thể là mười lăm năm tù trở xuống.
3.1.3

Các vụ án hình sự được xét xử theo thủ tục rút gọn của Tòa án

nhân dân huyện
Thủ tục rút gọn là một thủ tục tố tụng đặc biệt, được các nhà làm luật dành hẳn
một chương để quy định (chương XXXIV), có thể thấy được tầm quan trọng của thủ
tục này. Việc quy định về TTRG trong BLTTHS năm 2003 là cơ sở pháp lý để các
cơ quan tiến hành tố tụng giải quyết nhanh chóng, kịp thời nhiều vụ án thuộc loại ít
nghiêm trọng, có tính chất quả tang, đơn giản rõ ràng không cần phải mất nhiều thời
gian, không phải thục hiện nhiều thủ tục tố tụng.
12


Theo điều 318 BLTTHS quy định về phạm vi áp dụng TTRG như sau: “thủ tục
rút gọn đối với việc điều tra, truy tố và xét xử sơ thẩm được áp dụng theo quy định
của Chương này, đồng thời theo những quy định khác của Bộ luật này không trái với

những quy định của Chương này”. Với quy định này, TTRG không áp dụng trong
tất cả các giai đoạn tố tụng mà chỉ được áp dụng trong ba giai đoạn: điều tra, truy tố
và xét xử sơ thẩm. Đây là các giai đoạn trung tâm của trình tự tố tụng, thể hiện rõ
nét chức năng của CQĐT, VKS và TA cũng như mối quan hệ phối hợp của ba cơ
quan này.
Theo điều 319 BLTTHS, để một VAHS được áp dụng TTRG thì phải đáp ứng
đủ các điều kiện sau:
Thứ nhất, người thực hiện hành vi phạm tội bị bắt quả tang. Phạm tội quả tang
bao gồm các trường hợp: đối với người đang thực hiện tội phạm thì bị phát hiện và
bắt giữ; trường hợp ngay sau khi thực hiện tội phạm thì bị phát hiện và bị bắt giữ và
trường hợp đang bị đuổi bắt vì bị phát hiện khi đang thực hiện thực hiện tội phạm
hoặc ngay sau khi thực hiện tội phạm, khi phát hiện người có hành vi phạm tội thì
bất kì người nào cũng có quyền bắt và giải ngay đến các cơ quan như: Công an,
VKS hoặc Ủy ban nhân dân nơi gần nhất, các cơ quan này phải lập biên bản và giải
ngay người bị bắt đến cơ quan điều tra có thẩm quyền. Điều kiện này nhằm đảm bảo
khơng có bất cứ sự nhầm lẫn, sai sót nào về bị can, bị cáo.
Thứ hai, sự việc phạm tội đơn giản, chứng cứ rõ ràng. Đây là một trong những
điều kiện để giải quyết vụ việc được nhanh chóng, kịp thời. Sự việc phạm tội đơn
giản được hiểu là những sự việc mà vấn đề chứng minh trong vụ án không phức tạp
và dễ xác định, việc phạm tội khơng có sự chuẩn bị trước. Sự việc phạm tội có
chứng cứ rõ ràng, được hiểu là những chứng cứ phản ánh đầy đủ, chính xác và tồn
diện những vấn đề phải chứng minh trong vụ án. Chứng cứ rõ ràng là một yếu tố
quan trọng để xác định vụ việc phạm tội là đơn giản, rút ngắn quá trình điều tra, xác
minh của cơ quan tiến hành tố tụng. Đồng thời, vụ việc đó có số người thực hiện

13


hành vi phạm tội không nhiều, thường là từ một đến hai người, tính liên kết giữa họ
khơng cao và khơng phải là tội phạm có tổ chức.

Thứ ba, tội phạm đã thực hiện là tội phạm ít nghiêm trọng. Theo khoản 3 điều
8 BLHS 1999 quy định về tội ít nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại không lớn
cho xã hội và mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến ba năm tù.
Như vậy, để xác định tội phạm ít nghiêm trọng dựa trên hai dấu hiệu chính đó là tội
phạm mà tính nguy hiểm cho xã hội không lớn và dấu hiệu về mặt hậu quả pháp lý
là tính phải chịu hình phạt, mà mức hình phạt cao nhất là khơng q ba năm tù. Do
hậu quả mà tội phạm gây ra cho xã hội và hậu quả pháp lý mà người thực hiện tội
phạm ít nghiêm trọng có thể phải gánh chịu là khơng lớn nên việc xử lý có thể
nhanh chóng, dễ dàng hơn và nếu trong trường hợp việc xử lý có sai sót thì hậu quả
cũng khơng đến mức nghiêm trọng so với các trường hợp thực hiện tội phạm khác
và việc khắc phục hậu quả cũng dễ dàng hơn. Do vậy, pháp luật quy định thẩm
quyền xét xử các VAHS theo TTRG cho TAND cấp huyện là phù hợp.
Thứ tư, người phạm tội có căn cước, lai lịch rõ ràng. Được hiểu một cách
chung nhất là đặc điểm về nhân thân của người phạm tội. Điều kiện này địi hỏi
người phạm tội phải có đủ các thơng tin cần thiết về cá nhân, bao gồm thông tin về
giới tính, ngày tháng năm sinh, thành phần dân tộc, quê quán, nơi ở, nơi làm việc,
điều kiện sinh sống, quá trình làm việc, tiền án, tiền sự,…Căn cước, lai lịch của
người phạm tội rõ ràng thì thời gian điều tra, xác minh có thể được rút ngắn và từ đó
đảm bảo thời gian tố tụng. Khi quyết định áp dụng TTRG để giải quyết vụ án, việc
xác định căn cước, lai lịch của bị can rõ ràng hay không có thể dựa vào lời khai ban
đầu của bị can về lý lịch của họ. Đối với vụ án giải quyết theo TTRG thì khơng
những lý lịch bị can, bị cáo phải rõ ràng, có giấy tờ chứng minh hợp pháp, những
thông tin về vấn đề này cụ thể, độ tin cậy cao mà còn đòi hỏi việc xác minh căn

14


cước, lai lịch của người phạm tội dễ dàng, nhanh chóng khơng ảnh hưởng tới thời
hạn áp dụng.6
Chỉ những vụ án nào thỏa mãn đủ các điều kiện này thì mới được áp dụng

TTRG, đối với vụ án này, việc điều tra, truy tố sẽ không mất nhiều thời gian. Cịn
nếu trong q trình điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm vụ án theo TTRG mà một trong
những điều kiện này mất đi thì vụ án phải chuyển về thủ tục thông thường.
Theo quy định của BLTTHS năm 2003, TTRG được áp dụng từ khi CQĐT đề
nghị hoặc VKS xem xét thấy vụ án có đủ điều kiện theo quy định tại điều 319 sau
khi khởi tố vụ án. Như vậy chỉ sau khi có quyết định khởi tố VAHS thì VKS mới có
thể xem xét vấn đề có áp dụng TTRG hay không. TTRG được áp dụng trong giai
đoạn điều tra, truy tố và chuẩn bị xét xử sơ thẩm, thời gian để thực hiện các giai
đoạn trên tối đa là 30 ngày.
TTRG không chỉ được rút gọn về thời gan tố tụng mà còn ở các thủ tục khác
như khi kết thúc điều tra, CQĐT không phải làm kết luận điều tra, chỉ ra quyết định
đề nghị truy tố, gửi hồ sơ cho VKS, sau khi nhận được quyết định truy tố trong thời
gian bốn ngày, nếu có đủ căn cứ để truy tố bị can trước TA, VKS khơng phải lập
văn bản cáo trạng trình bày toàn bộ những căn cứ áp dụng, nội dung vụ án mà chỉ
cần ra quyết định truy tố bị can trước TA. Trong giai đoạn truy tố hoặc xét xử, VKS
hoặc Thẩm phán được phân cơng Chủ tọa phiên tịa có thể ra quyết định trả hố sơ để
điều tra bổ sung, tạm đình chỉ vụ án hoặc đình chỉ vụ án. Trường hợp trả hố sơ để
điều tra bổ sung hoặc tạm đình chỉ vụ án, việc tố tụng khơng cịn giữ được tính chất
rút gọn theo TTRG nữa nên TTRG bị hủy bỏ và vụ án sẽ được giải quyết theo thủ
tục thông thường.
TTRG chỉ được áp dụng trong giai đoạn xét xử sơ thẩm. Các giai đoạn xét xử phúc
thẩm, giám đốc thẩm và tái thẩm không được áp dụng thủ tục này. Do tính chất của
6

Nguyễn Ngọc Anh và các tác giả (2011), Bình luận khoa học Bộ luật tố tụng hình sự, NXB Chính trị quốc

gia – sự thật, Hà Nội, tr. 639.

15



TTRG như đã phân tích ở trên, nên Nhà nước ta cho phép TAND cấp huyện được
quyền áp dụng TTRG khi giải quyết vụ án.
3.1.4

Quy định về việc chuyển vụ án của Tòa án nhân dân cấp huyện

Theo điều 174 BLTTHS “Khi thấy vụ án không thuộc thẩm quyền của mình
thì Tịa án chuyển vụ án cho Tịa án có thẩm quyền xét xử. Việc chuyển vụ án cho
Tòa án ngoài phạm vi tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương hoặc ngồi phạm vi
qn khu do Tịa án nhân dân cấp tỉnh, Tòa án quân sự cấp quân khu quyết định”.
Chỉ được chuyển vụ án cho TA khác khi vụ án chưa được xét xử. Trong trường
hợp này, việc chuyển vụ án do Chánh án Tòa án quyết định. Nếu vụ án thuộc thẩm
quyền của TAQS hoặc TA cấp trên thì vụ án đã được đưa ra xét xử vẫn phải chuyển
cho TA có thẩm quyền. Trong trường hợp này, việc chuyển vụ án do Hội đồng xét
xử quyết định. Trong thời hạn hai ngày, kể từ ngày ra quyết định chuyển vụ án, TA
phải thông báo cho VKS cùng cấp, báo cho bị cáo và những người có liên quan
trong vụ án.
Việc chuyển vụ án gắn liền với việc xác định thẩm quyền điều tra, truy tố, xét
xử. Do đó, muốn chuyển vụ án đúng, trước hết phải xác định đúng thẩm quyền điều
tra, truy tố, xét xử vụ án.
Với việc quy định như vậy thì trước khi đưa vụ án ra xét xử TA phải xác định
vụ án đó có thuộc thẩm quyền của mình hay khơng. Việc xác định thẩm quyền xét
xử vụ án phải dựa vào các điều 170, 171, 172, 173 của BLTTHS. Tòa án chuyển vụ
án cho TA khác có thẩm quyền xét xử trong trường hợp vụ án khơng thuộc thẩm
quyền của mình. Việc chuyển vụ án ngoài phạm vi tỉnh do TAND cấp tỉnh quyết
định, việc chuyển vụ án được thực hiện trước khi mở phiên Tòa hoặc tại phiên Tòa. 7
Việc chuyển vụ án trước khi mở phiên Tòa sẽ do Chánh án Tòa án quyết định.
Trong giai đoạn này, pháp luật khơng cho phép bất kì vi phạm nào về thẩm quyền
xét xử. Việc chuyển vụ án tại phiên Tòa sẽ do Hội đồng xét xử quyết định nếu vụ án

Võ Khánh Vinh và các tác giả (2012), Bình luận khoa học Bộ luật tố tụng hình sự, NXB Tư Pháp, Hà Nội,
tr. 420.
7

16


thuộc thẩm quyền của TAND cấp trên, do đó TAND vẫn tiếp tục xét xử trong
trường hợp vụ án thuộc thẩm quyền của TAND khác cùng cấp và tương tự. Như
vậy, trong giai đoạn này pháp luật cho phép vi phạm thẩm quyền xét xử theo lãnh
thổ, nhưng không cho phép TA cấp dưới vi phạm thẩm quyền xét xử của TA cấp
trên và không cho phép TAND vi phạm thẩm quyền xét xử của TAQS.
3.1.5

Quy định giải quyết việc tranh chấp về thẩm quyền xét xử

Theo quy định tại Điều 175 BLTTHS thì việc giải quyết tranh chấp về thẩm
quyền xét xử được quy định: “Việc giải quyết tranh chấp về thẩm quyền xét xử do
Chánh án Toà án cấp trên trực tiếp quyết định; việc giải quyết tranh chấp về thẩm
quyền xét xử giữa các Toà án nhân dân cấp huyện thuộc các tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương khác nhau, do Chánh án Toà án nhân dân cấp tỉnh nơi kết thúc
việc điều tra quyết định; việc giải quyết tranh chấp về thẩm quyền xét xử giữa Toà
án nhân dân và Toà án quân sự do Chánh án Toà án nhân dân tối cao quyết định”.
Với việc quy định như trên, tranh chấp về thẩm quyền xét xử giữa các TA với
nhau thì Chánh án TA cấp trên sẽ có thẩm quyền quyết định. Nếu có tranh chấp về
thẩm quyền xét xử giữa TAND cấp huyện và TAND cấp tỉnh do Chánh án TA nhân
dân cấp tỉnh quyết định việc giải quyết; giữa TAQS khu vực và TAQS cấp quân khu
do Chánh án TAQS cấp quân khu quyết định. Chánh án TAND cấp tỉnh nơi kết thúc
việc điều tra quyết định việc giải quyết tranh chấp về thẩm quyền xét xử giữa các
TAND cấp huyện thuộc các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương khác nhau. Chánh

án TAND tối cao quyết định để Tịa án nào có trách nhiệm giải quyết vụ án trong
trường hợp có tranh chấp về thẩm quyền giữa TAND và TAQS. 8 Như vậy, khi có
tranh chấp về thẩm quyền xét xử giữa TAND cấp huyện và cấp tỉnh sẽ do Chánh án
TAND cấp tỉnh quyết định. Và nếu có tranh chấp giữa TAND với TAQS sẽ do
Chánh án TAND tối cao quyết định.

Võ Khánh Vinh và các tác giả (2012), Bình luận khoa học Bộ luật tố tụng hình sự, NXB Tư Pháp, Hà Nội,
tr. 421.
8

17


3.2

Thực tiễn xét xử theo sự việc của Tòa án nhân dân cấp

huyện
3.2.1

Thực trạng xét xử theo sự việc các vụ án hình sự của Tịa án nhân

dân cấp huyện
Thứ nhất, số vụ án được thụ lý và đưa ra giải quyết đạt tỉ lệ khá cao. Từ ngày
01/10/2011 đến 30/9/2014 TAND quận Bình Thạnh đã thụ lý 962 VAHS, xét xử
959 vụ, đạt tới 99,69% trên tổng số vụ án phải giải quyết.
Thứ hai, những vụ án thuộc thẩm quyền xét xử của TA có xu hướng ngày càng
tăng, diễn biến phức tạp về số lượng án và tội phạm. Từ ngày 01/10/2011 đến
30/9/2014 TAND quận Bình Thạnh tiếp nhận số lượng án khá lớn với 962 vụ án với
1384 bị cáo. Có chiều hướng gia tăng so với các năm trước, số lượng vụ án hình sự

trên địa bàn vẫn tiếp tục tăng về tính chất, mức độ nghiêm trọng, trong đó một số tội
thường xuyên xảy ra như: tội phạm về buôn lậu thuốc ngoại, tội phạm về ma túy, tệ
nạn cờ bạc, cố ý gây thương tích, đánh bạc, trộm cắp tài sản, cướp giật tài sản, mại
dâm có xu hướng mở rộng về phạm vi và diện đối tượng; tội phạm có tổ chức, hoạt
động đan xen giữa kinh tế, hình sự, dưới dạng đâm thuê, chém mướn, bảo kê, siết
nợ, đòi nợ thuê, cho vay nặng lãi,...Tội phạm ma túy ngày càng tinh vi, xảo quyệt,
manh động hơn, tội phạm vận chuyển ma túy xuyên quốc gia qua tuyến biên giới,
đường bộ, đường không, đường biển diễn biến phức tạp, gây ảnh hưởng đến đời
sống xã hội.
Thứ ba, Luật có quy định nhưng một số cơ quan tiến hành tố tụng lại không áp
dụng đúng như quy định đã đề ra. Thời gian gần đây, TAND quận Bình Thạnh có
thụ lý và giải quyết một vụ án nhưng gặp phải khó khăn. Theo bản án số
204/2014/HSST ngày 25/9/2014 về tội mua bán trái phép chất ma túy, TAND quận
Bình Thạnh đã xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Ánh T 8 năm 6 tháng tù giam, xử phạt bị
cáo Nguyễn Hiếu Tr về tội tàng trữ trái phép chất ma túy là 03 năm tù, bị cáo Quách
Thị Mỹ C 02 năm tù. Trong khi xét xử vụ án này TAND quận Bình Thạnh đã gặp
một số vướng mắc, cụ thể theo công văn 234 của TAND tối cao chỉ đạo về việc triển
18


khai thực hiện đúng hướng dẫn tại Thông tư liên tịch số 17/2007/TTLT – BCA –
TATC – VKSTC – BTP, hướng dẫn áp dụng một số quy định tại chương XVIII
“Các tội phạm về ma túy của BLHS năm 1999 về việc bắt buộc phải giám định hàm
lượng của các chất ma túy trong các chất thu giữ nghi là chất ma túy, để lấy đó làm
căn cứ kết tội các bị cáo theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, thực tế thời gian
vừa qua CQĐT không tiến hành xác định hàm lượng chất ma túy, TA đã tiến hành
trả hồ sơ để điều tra bổ sung đề nghị giám định hàm lượng các chất ma túy đã thu
giữ theo Thông tư liên tịch và Công văn 234 đã hướng dẫn, nhưng CQĐT, VKS vẫn
giữ nguyên quan điểm đã truy tố, điều này gây khó khăn cho Tịa trong việc xét xử.
Thứ tư, trường hợp TA trả hồ sơ cho VKS điều tra bổ sung là khá lớn. Theo số

liệu thống kê các trường hợp TA trả hồ sơ cho VKS điều tra bổ sung từ ngày
01/10/2011 đến ngày 30/9/2014, tổng cộng có 122 vụ, trong đó có 104 vụ VKS chấp
nhận yêu cầu điều tra bổ sung, 18 vụ VKS không chấp nhận yêu cầu điều tra bổ
sung. Cụ thể năm 2012, TA trả hồ sơ yêu cầu VKS điều tra bổ sung, trong đó 20 vụ
VKS chấp nhận yêu cầu điều tra bổ sung, 10 vụ VKS không chấp nhận yêu cầu điều
tra bổ sung. Năm 2013 có 28 vụ, VKS chấp nhận yêu cầu điều tra bổ sung 25 vụ,
không chấp nhận 3 vụ. Năm 2014 có 64 vụ thì có 5 vụ VKS khơng chấp nhận yêu
cầu điều tra bổ sung của TA.
Thứ năm, số lượng án bị kháng cáo, kháng nghị còn cao và tình trạng bỏ lọt
tội phạm vẫn tồn tại. Theo số liệu thống kê các trường hợp án bị kháng cáo, kháng
nghị từ ngày 01/10/2011 đến ngày 30/9/2014 thì tổng số bản án bị kháng cáo là 56
vụ chiếm 5,84% so với số vụ án đã được giải quyết; số bản án bị kháng nghị là 3 vụ
chiếm 0,5% số vụ án đã được giải quyết. Tổng số bản án bị TA cấp phúc thẩm hủy
để điều tra xét xử lại là 2 vụ với 3 bị cáo bởi trong qua trình giải quyết TA đã bỏ lọt
tội phạm, người phạm tội.
Ví dụ: theo bản án số 51/2013/HSST ngày 15/03/2013 xét xử hai bị cáo Mai
Yến Phong V và Nguyễn Văn H về tội Cướp giật tài sản. TAND quận Bình Thạnh
đã xử phạt cả hai bị cáo là 02 năm 06 tháng tù. Nhưng sau đó, bản án này đã bị bà
19


Nguyễn Hoàng Y là đại diện hợp pháp cho bị cáo V kháng cáo cho rằng Tịa khơng
xét cho bị cáo V theo điều 69 để giảm nhẹ cho bị cáo, mà đã xử phạt như người đã
thành niên, hai bị cáo có hình phạt tù ngang nhau là khơng hợp lý nên việc kháng
cáo vậy hoàn toàn phù hợp. Và cũng trong vụ án này, cơ quan đã thực hiện vai trị
của mình chưa thật tốt lắm, bản án này đã bị Tòa án cấp phúc thẩm hủy để điều tra,
xét xử lại do phát hiện tình tiết mới là bỏ lọt người phạm tội.
Thứ sáu, việc giải quyết bằng thủ tục rút gọn ít được áp dụng. BLTTHS năm
2003 đã quy định rất cụ thể, chi tiết về vấn đề này, có thể xem là một bước đột phá
mới trong hoạt động lập pháp của nước ta. Nhưng khi áp dụng thì khơng dễ dàng,

các vụ án chỉ được áp dụng theo TTRG khi đáp ứng đủ các điều kiện luật định. Mặc
dù chưa có số liệu thống kê chính xác về số lượng vụ án được áp dụng TTRG, trên
thực tế thì thủ tục này chưa được áp dụng phổ biến, số lượng vụ án hình sự được áp
dụng thủ tục này để giải quyết là rất hiếm, thông thường là áp dụng theo thủ tục
chung.
Thứ bảy, việc chuyển vụ án chưa có sự thống nhất giữa TA và VKS. Theo quy
định của BLTTHS thì sau khi thụ lý hồ sơ vụ án để chuẩn bị xét xử, nếu TA thấy vụ
án không thuộc thẩm quyền xét xử của TA mình thì chuyển vụ án cho TA có thẩm
quyền xét xử vụ án đó. Việc chuyển vụ án trong giai đoạn điều tra là do CQĐT đề
nghị và VKS quyết định, nhưng việc chuyển vụ án trong giai đoạn chuẩn bị xét xử
lại do TA tự quyết định, TA sẽ thông báo cho VKS cùng cấp biết. Trong khi đó có
nhiều trường hợp việc chuyển vụ án của TA nếu VKS khơng đồng ý thì Tồ án có
thẩm quyền xét xử vụ án đó cũng khơng xét xử được. Ví dụ: TAND quận Bình
Thạnh sau khi thụ lý VAHS thấy không thuộc thẩm quyền xét xử của TA mình, đã
quyết định chuyển vụ án cho TAND quận Gò Vấp, TAND Gò Vấp cũng thấy vụ án
thuộc thẩm quyền xét xử của TA mình, nhưng VKSND quận Bình Thạnh khơng
thay đổi bản cáo trạng vì cho rằng vụ án vẫn thuộc thẩm quyền của TAND quận
Bình Thạnh đã gây khó khăn trong việc xác định thẩm quyền xét xử giữa các Tòa

20



×