Tải bản đầy đủ (.docx) (109 trang)

Phát Triển Khả Năng Sáng Tạo Cho Trẻ 5 – 6 Tuổi Trong Hoạt Động Tạo Hình Ở Trường Mầm Non.docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (495.5 KB, 109 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

PHÁT TRIỂN KHẢ NĂNG SÁNG TẠO
CHO TRẺ 5-6 TUỔI TRONG HOẠT ĐỘNG TẠO HÌNH
Ở TRƯỜNG MẦM NON

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC

NGHỆ AN - 2020


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

PHÁT TRIỂN KHẢ NĂNG SÁNG TẠO
CHO TRẺ 5-6 TUỔI TRONG HOẠT ĐỘNG TẠO HÌNH
Ở TRƯỜNG MẦM NON

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC

Chuyên ngành: Giáo dục học (bậc Mầm non)
Mã số:

Người hướng dẫn khoa học:

NGHỆ AN - 2020


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài


Giáo dục mầm non là bậc học đầu tiên trong hệ thống giáo dục quốc dân.
Theo Luật giáo dục, mục tiêu của giáo dục mầm non là “Giúp trẻ em phát triển
về thể chất, tình cảm, trí tuệ, thẩm mỹ, hình thành những yếu tố đầu tiên của
nhân cách, chuẩn bị cho trẻ em vào lớp một…”
“Hoạt động sáng tạo có ảnh hưởng to lớn không chỉ đến sự tiến bộ khoa
học kỹ thuật, mà cịn đến tồn xã hội nói chung, và dân tộc nào biết nhận ra
được nhân cách sáng tạo một cách tốt nhất, biết phát triển họ và biết tạo ra được
một cách tốt nhất cho họ những điều kiện thuận lợi nhất, thì dân tộc đó sẽ có
những ưu thế lớn lao”. Do đó, tính sáng tạo là một trong các phẩm chất rất quan
trọng không thể thiếu được để hình thành con người trong thời đại mới.
Chính vì vậy, phát triển tính sáng tạo là một trong những nhiệm vụ quan
trọng của giáo dục nói chung và giáo dục mầm non nói riêng. Tính sáng tạo
khơng tự có, nó cần được hình thành, ni dưỡng và phát triển dựa vào nhiều
yếu tố. Nhiều cơng trình nghiên cứu khoa học của các nhà tâm lý chứng minh
rằng, trẻ lứa tuổi mầm non đã có những biểu hiện của tính sáng tạo. Vì thế, việc
hình thành và phát triển tính sáng tạo phải được bắt đầu từ khi trẻ còn nhỏ. Ở lứa
tuổi này, hoạt động chủ đạo của trẻ mẫu giáo là hoạt động vui chơi. Với những
tình huống, những mối quan hệ, những điều kiện vật chất của hoàn cảnh xung
quanh làm nảy sinh ở trẻ những ý tưởng và thúc đẩy sự sáng tạo của chúng. Bất
cứ góc chơi nào trẻ cũng thích chơi và khi chơi bất kì góc chơi nào trẻ cũng có
thể sáng tạo. Do vậy, góc chơi của trẻ mẫu giáo cũng được coi là một phương
tiện giáo dục và phát triển tính sáng tạo cho trẻ em.
Những góc chơi sáng tạo nói chung và góc tạo hình nói riêng ln được
trẻ quan tâm và thích thú. Bởi khi tham gia góc tạo hình, trẻ sẽ có nhiều cơ hội
thể hiện tính sáng tạo của mình thơng qua các dạng hoạt động tạo hình từ nhiều
nguyên vật liệu khác nhau, việc liên kết góc tạo hình với các góc chơi khác và
kết quả là sự hiểu biết của trẻ về thế giới xung quanh thêm mở rộng, tư duy, trí


nhớ, thể chất và ngôn ngữ của trẻ cũng được phát triển. Do đó, nếu góc tạo hình

được nhà giáo dục xây dựng và tổ chức một cách khoa học, hấp dẫn, linh hoạt
và tạo điều kiện cho trẻ được tự do hoạt động trên chính những nguyên vật liệu
đa dạng… sẽ làm nảy sinh ý tưởng sáng tạo ở trẻ, giúp trẻ tham gia một cách
tích cực, phát huy tính tự lập của trẻ như tự nghĩ ra cách thực hiện, tự chọn
nguyên vật liệu cho mình, tự giải quyết các tình huống phát sinh tại góc tạo
hình…
Tuy nhiên, tính sáng tạo của trẻ sẽ hạn chế trong góc tạo hình khi chúng
chỉ được đặt trong phạm vi lớp học. Chúng phải được ni dưỡng, có cơ hội thể
hiện, phát triển trong góc tạo hình - là mơi trường sẽ giúp trẻ trải nghiệm nhiều
hơn, tạo cơ hội cho trẻ được thể hiện tính sáng tạo, tính tự chủ, nhanh nhẹn và tự
lập hơn. Bên cạnh đó, góc tạo hình sẽ tạo cơ hội trẻ được hoạt động trải nghiệm,
được tự do khám phá theo ý thích, được giao tiếp, được chia sẻ với bạn với cô
theo hứng thú, nhu cầu và khả năng của mình, giúp trẻ được sử dụng tối đa tính
sáng tạo của mình ở mọi lúc, mọi nơi, trong lớp lẫn ngoài trời và như vậy nó
chiếm một vị trí quan trọng trong sự phát triển của trẻ em.
Những quan sát gần đây cho thấy, góc tạo hình ở các trường mầm non đã
được đầu tư các nguyên vật liệu, đồ chơi, nhưng phần lớn giáo viên mầm non
chưa quan tâm, chưa tận dụng tối đa góc tạo hình ở trong lớp lẫn ngồi trời để
giáo dục tính sáng tạo cho trẻ mầm non, đặc biệt trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi. Bên
cạnh đó vẫn chưa có nhiều đề tài nghiên cứu về biện pháp sử dụng mơi trường,
cụ thể là góc tạo hình trong việc giáo dục tính sáng tạo cho trẻ mẫu giáo 5 - 6
tuổi.
Chính vì vậy chúng tơi chọn đề tài “Phát triển khả năng sáng tạo cho trẻ
5 – 6 tuổi trong hoạt động tạo hình ở trường mầm non” làm đề tài nghiên cứu.
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn, đề xuất biện pháp phát triển
khả năng sáng tạo cho trẻ 5 – 6 tuổi trong hoạt động tạo hình ở trường mầm non,
góp phần nâng cao chất lượng giáo dục trẻ ở trường mầm non.



3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
3.1. Khách thể nghiên cứu
Vấn đề phát triển khả năng sáng tạo cho trẻ 5 – 6 tuổi ở trường mầm non.
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Biện pháp phát triển khả năng sáng tạo cho trẻ 5 – 6 tuổi trong hoạt động
tạo hình ở các trường mầm non.
4. Giả thuyết khoa học
Nếu đề xuất và thực hiện được các biện pháp có khoa học có tính khả thi
thì có thể phát triển khả năng sáng tạo cho trẻ 5 – 6 tuổi trong hoạt động tạo hình
ở trường mầm non.
5. Nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu
5.1. Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1.1. Nghiên cứu cơ sở lý luận của phát triển khả năng sáng tạo cho trẻ 5 – 6
tuổi trong hoạt động tạo hình ở trường mầm non.
5.1.2. Khảo sát thực trạng phát triển khả năng sáng tạo cho trẻ 5 – 6 tuổi trong
hoạt động tạo hình ở các trường mầm non.
5.1.3. Đề xuất biện pháp phát triển khả năng sáng tạo cho trẻ 5 – 6 tuổi trong
hoạt động tạo hình ở các trường mầm non.
5.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: Tập trung nghiên các biện pháp phát triển khả năng sáng
tạo cho trẻ 5 – 6 tuổi trong hoạt động tạo hình ở trường mầm non.
- Về địa bàn: Khảo sát được tiến hành ở các trường mầm non cơng lập
huyện Nhà Bè, Thành phố Hồ Chí Minh: Trường Mầm non Tuổi Hoa, Trường
Mầm non Đồng Xanh, Trường Mầm non Sao Mai, Trường Mầm non Họa Mi,
Trường Mầm non Sơn Ca, Trường Mầm non Hoa Lan.


- Về thời gian: Khảo sát thực trạng được tiến hành trong năm học 20202021.
6. Phương pháp nghiên cứu
6.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận

Gồm các phương pháp: Phân tích - tổng hợp, hệ thống hóa các tài liệu có
liên quan nhằm xây dựng khung lý luận cho việc nghiên cứu của đề tài
6.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
Phương pháp quan sát: Quan sát các tiết dạy tạo hình cho trẻ của giáo
viên, hoạt động của trẻ, đồng thời theo dõi quá trình khảo sát, thực nghiệm.
Phương pháp điều tra: Sử dụng phương pháp điều tra bằng phiếu hỏi để
tìm hiểu ý kiến của giáo viên, phụ huynh về nội dung, hình thức, biện pháp và
cách thức tổ chức hoạt động tạo hình cho trẻ.
Phương pháp nghiên cứu sản phẩm hoạt động: Nghiên cứu giáo án của
giáo viên, sản phẩm hoạt động của trẻ.
6.3. Phương pháp thống kê toán học
Nhằm xử lý dữ liệu thu được từ khảo sát thực trạng của đề tài.
7. Dự kiến đóng góp của luận văn
7.1 Về mặt lý luận
- Hệ thống hóa các vấn đề lý luận về phát triển khả năng sáng tạo cho trẻ
5 – 6 tuổi trong hoạt động tạo hình ở trường mầm non.
7.2. Về mặt thực tiễn
- Phân tích, đánh giá thực trạng phát triển khả năng sáng tạo cho trẻ 5 – 6
tuổi trong hoạt động tạo hình ở trường mầm non.
- Đề xuất đươc các biện pháp phát triển khả năng sáng tạo cho trẻ 5 – 6
tuổi trong hoạt động tạo hình ở trường mầm non.
8. Cấu trúc của luận văn.


Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và kiến nghị, Tài liệu tham khảo, Phụ lục
nghiên cứu; Luận văn gồm 03 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận của phát triển khả năng sáng tạo cho trẻ 5 – 6
tuổi trong hoạt động tạo hình ở trường mầm non
Chương 2: Thực trạng phát triển khả năng sáng tạo cho trẻ 5 – 6 tuổi
trong hoạt động tạo hình ở trường mầm non

Chương 3: Biện pháp phát triển khả năng sáng tạo cho trẻ 5 – 6 tuổi trong
hoạt động tạo hình ở trường mầm non


CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA PHÁT TRIỂN KHẢ NĂNG SÁNG TẠO CHO
TRẺ 5 – 6 TUỔI TRONG HOẠT ĐỘNG TẠO HÌNH Ở TRƯỜNG MẦM
NON
1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
1.1.1. Các nghiên cứu ở nước ngoài
Sáng tạo là một vấn đề được các nhà khoa học ở nhiều nước và nhiều lĩnh
vực quan tâm nghiên cứu đề cập đến ở nhiều góc độ khác nhau. Trước đây khi
nghiên cứu vấn đề sáng tạo, người ta chỉ tập trung mô tả, giải thích hoạt động
sáng tạo dựa trên cơ sở tiểu sử, hồi ký, các tác phẩm văn học mang tính tự thuật
cá nhân chứ chưa đi sâu nghiên cứu quy luật, bản chất của hoạt động sáng tạo.
Trong khi đó, sáng tạo khơng chỉ có ở những tác phẩm vĩ đại của những thiên tài
mà ở mỗi cá nhân, mỗi lứa tuổi đều tiềm ẩn những khả năng sáng tạo nhất định.
Ở mỗi giai đoạn lịch sử, mỗi nền văn minh nhân loại thì hoạt động sáng
tạo của con người đã tạo ra các giá trị vật chất, tinh thần, các thành tựu về mọi
mặt và tạo ra nền văn minh nhân loại. Do vậy có thể nói hoạt động sáng tạo luôn
gắn liền với sự phát triển của lịch sử xã hội loài người [1, tr11].
Vào thế kỷ thứ III, Pappus của Alaxandria - nhà toán học vĩ đại của Hy
Lạp cổ đại, người chính thức đặt nền móng khởi đầu cho khoa học về tư duy
sáng tạo, gọi khoa học này là Heuristics (Ơristic). Heuristics theo cách hiểu lúc
đó là khoa học về các phương pháp và quy tắc sáng chế, phát minh trong mọi
lĩnh vực như: khoa học kĩ thuật, nghệ thuật, văn học, chính trị, toán học, quân
sự… Sau Pappus, các nhà toán học và triết học nổi tiếng như Descartes,
Leibnitz... đã cố gắng xây dựng và phát triển Heuristics một cách hệ thống.
Nhưng do cách tiếp cận q chung chung và khơng có nhu cầu xã hội cách bách,
Heuristics dần dần bị lãng quên.



Giữa thế kỷ XIX, các nhà xã hội học đã có những nghiên cứu đầu tiên và
đóng góp to lớn vào việc giải quyết vấn đề sáng tạo. Họ cho rằng, bản chất của
tính tích cực sáng tạo là hoạt động tưởng tượng, nhờ hoạt động tưởng tượng mà
kích thích khả năng sáng tạo.
Mãi đến thế kỷ XX, với sự phát triển vượt bậc trong các lĩnh vực khoa
học và nhu cầu của xã hội thì lĩnh vực sáng tạo đã được quan tâm và nghiên cứu.
Các nhà khoa học Mỹ đã khẳng định rằng, việc đưa ra và bồi dưỡng những nhân
cách sáng tạo là vấn đề có ý nghĩa quốc gia, bởi vì "hoạt động sáng tạo có ảnh
hưởng to lớn không chỉ đến sự tiến bộ khoa học, mà cịn đến tồn bộ xã hội nói
chung. Và dân tộc nào biết nhận ra những nhân cách sáng tạo một cách tốt nhất,
biết phát triển họ và biết tạo ra được một cách tốt nhất cho họ những điều kiện
thuận lợi nhất, thì dân tộc đó sẽ có những ưu thế lớn lao". Đây cũng là thời kỳ
bắt đầu xuất hiện nhu cầu nghiên cứu hoạt động sáng tạo trong khuôn khổ của
sự phát triển tâm lý, của sự phát triển trí tuệ.
Những năm đầu thế kỷ XX, người ta đánh giá rất cao cơng trình nghiên
cứu về sáng tạo trên những học sinh giỏi của nhà tâm lý học người Mỹ Lewis
Terman (1877 - 1956). Sau đó ông tiếp tuc nghiên cứu các lĩnh vực, rút ra những
kết luận chung của sáng tạo như: sản phẩm của sáng tạo, môi trường sáng tạo…
Năm 1942, ở Mỹ xuất bản cuốn sách đầu tiên về sáng tạo của Alex
Faickney Osbron, trong đó ơng trình bày "kỹ thuật động não" (brainstorming)
như là "Một kỹ thuật hội ý bao gồm một nhóm người nhằm tìm ra lời giải cho
vấn đề đặc trưng bằng cách góp nhặt tất cả ý kiến của nhóm người đó nảy sinh
trong cùng một thời gian theo một nguyên tắc nhất định". Phương pháp này
dùng để phát triển nhiều giải đáp sáng tạo cho một vấn đề, hhoạt động bằng cách
nêu các ý tưởng tập trung trên vấn đề, từ đó, rút ra rất nhiều đáp án căn bản cho
nó.
Những năm 1950 của thế kỷ XX, các cơng trình nghiên cứu về sáng tạo
bắt đầu nở rộ và có hệ thống. Người có cơng lớn là nhà tâm lý học người Mỹ

J.P.Guilford. Ơng đưa ra mơ hình phân định cấu tạo trí tuệ gồm 2 khối cơ bản:


trí thơng minh và sáng tạo. Ơng là người đầu tiên đưa ra khái niệm: tư duy hội tụ
và tư duy phân kỳ. Trong đó, tư duy hội tụ (convergent thinking) là kiểu tư duy
theo một chiều định sẵn, rập khuôn; tư duy phân kỳ (divergent thinking) là kiểu
tu duy rộng ra, tìm ra nhiều lời giải, nhiều phương án vượt ra khỏi khuôn khổ
ban đầu. Đây là kiểu tư duy cả người sáng tạo. Ông xem sáng tạo là một thuộc
tính của tư duy, là một phẩm chất của quá trình tư duy và nhấn mạnh ý nghĩa
của hoạt động sáng tạo, thậm chí sáng tạo là chỉ báo quan trọng hơn là trí thơng
minh về năng khiếu, tiềm năng của một người. Ơng cho rằng: Khơng phải người
có chỉ số IQ cao có nghĩa là có khả năng sáng tạo cao, người có chỉ số IQ thấp
thì có khả năng sáng tạo thấp. Sáng tạo không giới hạn ở các thiên tài mà có ở
tất cả mọi người với những mức độ khác nhau. Ông là người đi tiên phong trong
nghiên cứu hiện đại về tâm lý của sự sáng tạo. Năm 1967, ơng xây dựng một số
thí nghiệm để đo lường tính sáng tạo. Ơng đề cao ý nghĩa của hoạt động sáng
tạo và khuyến khích các nhà tâm lý học tham gia nghiên cứu hoạt động này [1, tr
17].
Ở giai đoạn này, tiếp tục có những nghiên cứu vấn đề sáng tạo với các tên
tuổi lớn như: Holland (1959), May (1961), D.W.Mackinnon (1962), Yahamoto
Kaoru (1963), E.P.Torrance (1962, 1963, 1965, 1979, 1995)… và một số tác giả
người Mỹ như: Barron (1952, 1955, 1981, 1995), Getzels (1962, 1975)… Nội
dung của các nghiên cứu này chủ yếu đề cập đến một số vấn đề cơ bản của hoạt
động sáng tạo như: tiêu chuẩn cơ bản của hoạt động sáng tạo, sự khác biệt giữa
sáng tạo và không sáng tạo, bản chất và quy luật của hoạt động sáng tạo, vấn đề
phát triển năng lực sáng tạo và kích thích hoạt động sáng tạo, những thuộc tính
nhân cách của hoạt động sáng tạo… đã tạo nên sự phong phú và đa dạng của
nền tâm lý học sáng tạo thế giới.
Các tác giả của Liên Xơ cũng có nhiều cuộc hội thảo quốc tế được tổ chức
bàn về vấn đề sáng tạo, tư duy sáng tạo, có nhiều cơng trình nghiên cứu về lĩnh

vực sáng tạo của con người. Có thể kể đến như: A. N. Luck nghiên cứu những
vấn đề chung về hoạt động sáng tạo; Ia. A. Panomariov và O. K. Chikhomirov
coi tư duy gắn với sáng tạo, nghiên cứu, so sánh cách giải quyết vấn đề của con


người và của robot, khẳng định tiềm năng sáng tạo của con người; X. L.
Rubinxtein và L. X. Vugotxki nhấn mạnh ảnh hưởng qua lại của tư duy và tưởng
tượng trong hoạt động sáng tạo; N. A. Mensinxkia, D. N. Bogoialenxky lại tập
trung nghiên cứu, phân tích tầm quan trọng của sáng tạo, mối quan hệ của sáng
tạo với quá trình tiếp thu tri thức; V. N. Puskin quan tâm tới những vấn đề lý
luận và thực hành tư duy sáng tạo, mối quan hệ của tư duy sáng tạo với hoạt
động vô thức; N. G. Alexayev, E. M. Miarsky nghiên cứu vấn đề tư duy sáng tạo
trong nhà trường, vấn đề giáo dục, phát triển sáng tạo cho học sinh…
Nổi bật là cơng trình nghiên cứu của Genrich Saulovich Altshuller (1926 1998), ông là người khai sinh ra phương pháp luận sáng tạo (TRIZ) giúp canh
tân, sáng chế sản phẩm mới trong khoảng thời gian ngắn nhất. Theo ông, có
những phương pháp nhất định, giúp con người có thể học rất tự nhiên, khơng hề
gị bó, nhưng có thể mang lại cho họ khả năng nhạy bén và sáng tạo hơn hẳn.
Phương pháp luận này được gọi là "TRIZ hiện đại", được các nước phát triển
như Mỹ, Đức, Nhật... đánh giá rất cao. "Phong trào TRIZ" lúc đầu hình thành và
phát triển ở Liên Xơ, sau đó lan ra các nước xã hội chủ nghĩa khác trong đó có
Việt Nam.
Nhìn chung, các nhà tâm lý học Liên Xơ đã đạt được nhiều kết quả trong việc
nghiên cứu về vấn đề sáng tạo, quá trình sáng tạo, nhân cách sáng tạo, năng lực
và phát triển năng lực sáng tạo.
Bên cạnh những nghiên cứu về tính sáng tạo của con người nói chung, có
nhiều nhà khoa học cịn đi sâu vào nghiên cứu khả năng sáng tạo của trẻ em. Bởi
muốn cho đứa trẻ trở thành nhà sáng chế trong tương lai thì nó phải được đào
tạo từ khi ngồi trên ghế nhà trường.
Trong cuốn "Những khám phá về tư duy sáng tạo ở đầu tuổi học" (1963),
tác giả E. P. Torrance cho rằng: Tư duy sáng tạo có sự độc lập nhất định với trí

tuệ. Những trẻ rất sáng tạo cũng thường rất thông minh, song những trẻ rất
thông minh thì lại ít sáng tạo. Sáng tạo là q trình xác định giả thuyết, nghiên
cứu chúng và tìm ra kết quả. Theo ơng, sáng tạo là một q trình, do vậy sáng


tạo bao giờ cũng có mở đầu (xác định giả thuyết, ý tưởng sáng tạo xuất hiện),
diễn biến (nghiên cứu) và kết thúc (tạo ra kết quả). Trong quá trình sáng tạo con
người phải cân nhắc, đánh giá những điều kiện khách quan, chủ quan, khám phá
tìm tịi ra những giả thuyết rồi thử đi thử lại (kiểm tra các giả thuyết) và cuối
cùng trực tiếp hay gián tiếp tìm ra kết quả. Theo ơng, để đo tính sáng tạo cần căn
cứ vào bốn thuộc tính (chỉ số) của nó như: thuần thục (fluency), linh hoạt
(flexibility), tỉ mỉ (elaboration), độc đáo (originality). Ông cho rằng bất kể con
người nào cũng có tiềm năng sáng tạo, chỉ ở mức độ khác nhau mà thơi. Khi có
điều kiện thì tiềm năng ấy được bộc lộ ra một cách thuận lợi và phát triển tốt.
Theo tác giả Omizumi Kagayaki trong cuốn "Phương pháp luyện trí não"
(1991), để có tư duy sáng tạo cần biết gạt bỏ những hiểu biết về kiến thức thông
thường và những kinh nghiệm trong quá khứ để suy nghĩ khỏi bị lệ thuộc, từ đó
làm cho tính sáng tạo trong tư duy khơng hạn chế. Con người có sức sáng tạo
phong phú thường là những người rất thích thú các trò chơi về não bộ như: câu
đố, ảo thuật, truyện vui… Trong đó, câu đố và trị chơi là hình thức khơng thể
thiếu được để rèn luyện trí óc vì nó chứa đựng trong đó những ngun liệu về
rèn khả năng trực giác, quan sát, suy luận, phân tích và khả năng sáng tạo của
con người.
Trong cuốn "Tư duy của học sinh" (1970), M. N. Sacdacop đã khái quát:
Tư duy là q trình tâm lý mà nhờ nó con người không những tiếp thu được
những tri thức khái quát mà còn tiếp tục nhận thức và sáng tạo cái mới. Tư duy
không chỉ dừng ở mức độ nhận thức mà còn là hoạt động sáng tạo, tạo ra những
tri thức mới, rồi chính từ những tri thức này lại là cơ sở để hình thành những
khái niệm, quy luật và quy tắc mới.
Trong "Trí tưởng tượng sáng tạo ở lứa tuổi thiếu nhi" (1985), L. X.

Vugotxki đưa ra nhận định: nếu chúng ta nhìn vào hành vi con người, có hai loại
hình hoạt động cơ bản: tái hiện và sáng tạo. Loại hình sáng tạo được hiểu là bất
cứ hoạt động nào của con người mà kết quả không chỉ là sự tái hiện những ấn
tượng hoặc hành động đã có trong kinh nghiệm của nó, mà tạo nên những hình


tượng hay hành động mới. Khẳng định sự sáng tạo có mặt trong mọi lĩnh vực
của thế giới vật chất và tinh thần. Đồng thời ông cho rằng "mọi hoạt động của trí
tưởng tượng bao giờ cũng rất dài". Do đó, hoạt động sáng tạo giúp trẻ có cơ hội
được bộc lộ và viết nên lịch sự tưởng tượng của mình. Sự phát triển của trí
tưởng tượng ấy sẽ là yếu tố quan trọng giúp trẻ trở thành người sáng tạo sau này
[1, tr 23].
Những nghiên cứu về khả năng sáng tạo của trẻ em cịn có một số tác giả như
Jackson và Getzels. Qua những thực nghiệm, các nhà khoa học đã chỉ ra rằng,
đa số các học sinh có tính sáng tạo cao trong học tập thường có các liên tưởng
khác lạ so, tách khỏi với chủ đề mà thày cô giáo đưa ra, chúng thường giữ bản
sắc riêng cho mình. Hai ơng cũng đã cố gắng đo mối quan hệ giữa tư duy sáng
tạo và trí thơng minh, chỉ ra rằng mối tương quan giữa chúng không cao. Cùng
chung với quan điểm này M. C. Guires (1963) và Flesohers (1963) cho rằng,
những trẻ có chỉ số thơng minh cao thường có kiểu tư duy khơng thích hợp với
cách tư duy sáng tạo.
1.1.2. Các nghiên cứu trong nước
Ở Việt Nam, hoạt động liên quan đến khoa học và tư duy sáng tạo được
bắt đầu quan tâm và phát triển vào những năm 1970. Các hoạt động này ban đầu
mang tính chất tự phát, dựa trên nhiệt tình, long say mê, tìm tịi và sáng kiến của
một số cá nhân, đoàn thể và cơ quan, các nghiên cứu về sáng chế cũng không
nhiều.
Tác giả Đức Uy trong cuốn "Tâm lý học sáng tạo" (1999) không chỉ đi
vào chi tiết cấu trúc, các thành phần, yếu tố của tư duy sáng tạo mà hệ thống hóa
các thành tựu về tâm lý học sáng tạo, giúp người đọc hiểu thế nào là sáng tạo, vì

sao con người vốn có bản tính đổi mới, sáng tạo và làm gì để phát hiện và tăng
cường năng lực sáng tạo của cá nhân và cộng đồng.
Trong cuốn "Tâm lý học sáng tạo" (1996), tác giả Nguyễn Huy Tú cho
rằng: sáng tạo thể hiện khi con người đứng trước hồn cảnh có vấn đề. Q trình
này là tổ hợp các phẩm chất và năng lực mà nhờ đó con người trên cơ sở kinh


nghiệm của mình và bằng tư duy độc lập tạo ra được ý tưởng mới, độc đ, hợp
lý trên bình diện cá nhân hay xã hội. Ở đó người sáng tạo gạt bỏ được các giải
pháp truyền thống để đưa ra những giải pháp mới độc đáo và thích hợp cho vấn
đề đặt ra. Cuốn sách cũng tập trung vào các vấn đề chung của sáng tạo như: thế
nào là sáng tạo, quá trình sáng tạo, sản phẩm sáng tạo.
Theo Nguyễn Cảnh Toàn, để tạo ra những con người năng động sáng tạo,
cần có phương pháp dạy học cải tiến, đặt trọng tâm vào rèn luyện khả năng
"phát hiện vấn đề", rèn luyện và phát huy tư duy sáng tạo của người học, nhất là
tư duy biện chứng thông qua lao động tìm tịi "cái mới" [3, tr14].
Các tác giả Tơn Thân (1995), Trần Luận (1995, 1996), Phạm Văn Hồn
nghiên cứu vấn đề sáng tạo trong cấp trung học phổ thông, trung học cơ sở và
giáo dục tiểu học. Giữa họ đều có chung quan điểm: tư duy sáng tạo là dạng tư
duy độc lập, khơng bị gị bó, phụ thuộc vào những cái đã có; tạo ra ý tưởng mới,
độc đáo bởi mỗi sản phẩm đều mang dấu ấn của cá nhân tạo ra nó và có hiệu quả
giải quyết vấn đề cao. Sáng tạo có nghĩa là tạo ra cái mới, biểu hiện của tư duy
sáng tạo là không rập khuôn cái cũ, biết thay đổi các biện pháp giải quyết vấn
đề, thấy được mối liên hệ khăng khít giữa những sự kiện trơng bề ngồi tưởng
chừng xa lạ để tìm ra những phương pháp giải quyết đúng, gọn và hay.
Bên cạnh đó, có một số tác giả khác như: Phan Dũng với "Phương pháp
luận sáng tạo và đổi mới" (2004) giới thiệu tổng quan về phương pháp luận sáng
tạo và đổi mới, phương pháp thử và sai, các kết quả đạt được trong lĩnh vực này.
Phạm Thành Nghị với "Một số vấn đề về tâm lý học sáng tạo" (2010) trình bày
khá hệ thống về bản chất của sáng tạo, quá trình sáng tạo, các yếu tố ảnh hưởng

đến sáng tạo, vấn đề giáo dục, phát triển tính sáng tạo cho học sinh…
Trong lĩnh vực giáo dục mẫu giáo, gần đây đã đề cập đến như: "Ảnh
hưởng của tri giác tới tưởng tượng sáng tạo trong hoạt động vẽ của trẻ 5 - 6
tuổi", "Phát triển khả năng sáng tạo của trẻ em trong hoạt động tạo hình", "Mối
quan hệ giữa tính tích cực nhận thức và sự phát triển tính sáng tạo trong hoạt
động tạo hình của trẻ 5 - 6 tuổi", 'Tổ chức hoạt động tạo hình theo hướng phát


huy tính tích cực, sáng tạo của trẻ"... của tác giả Lê Thị Thanh Thủy. Những
nghiên cứu này của tác giả đã đóng góp cơ sở lý luận quan trọng trong việc
nghiên cứu về tính sáng tạo của trẻ mầm non; giáo dục và phát triển khả năng
sáng tạo cho trẻ trong hoạt động tạo hình; tổ chức mơi trường hoạt động và đánh
giá khả năng sáng tạo của trẻ trong hoạt động nghệ thuật tạo hình; xây dựng nội
dung và các biện pháp tổ chức hoạt động nhằm phát huy tính tích cực, sáng tạo
của trẻ...
Ngồi ra, cịn một số luận văn thạc sĩ như: "Nghiên cứu mức độ sáng tạo
của trẻ 5 - 6 tuổi trong hoạt động tạo hình" của Nguyễn Thị Yến; "Một số biện
pháp phát huy khả năng sáng tạo của trẻ 5 - 6 tuổi trong vận động theo nhạc ở
trường mầm non" của Lê Thị Hoàng Trang; "Tiềm năng sáng tạo và biểu hiện
của nó trong vận động theo nhạc của trẻ 5 - 6 tuổi" của Phạm Thu Hương; "Phát
huy tính sáng tạo của trẻ 5 - 6 tuổi trong trò chơi lắp ghép, xây dựng từ các
nguyên vật liệu thiên nhiên và phế liệu" của Vũ Thị Kiều Trang; "Một số biện
pháp bồi dưỡng khả năng sáng tạo cho trẻ 5 - 6 tuổi thơng qua hoạt động vẽ theo
ý thích" của Nguyễn Thị Ngọc Kim; "Xây dựng môi trường chơi nhằm phát huy
tính sáng tạo của trẻ 5 - 6 tuổi trong trị chơi đóng vai theo chủ đề" của Nguyễn
Thị Lan Hương; "Biện pháp tổ chức trò chơi lắp ghép, xây dựng nhằm phát triển
tính sáng tạo cho trẻ 5 - 6 tuổi" của Trần Thị Quý… Các tác giả này đều tập
trung vào việc nghiên cứu tính sáng tạo của trẻ mầm non, một số biện pháp bồi
dưỡng và phát huy khả năng sáng tạo của trẻ trong các lĩnh vực tạo hình, âm
nhạc, trị chơi đóng vai... [4, tr 21].

Như vậy, có thể thấy rằng đã có khá nhiều cơng trình nghiên cứu về tính
sáng tạo của các nhà khoa học trong và ngoài nước với các tiếp cận đa dạng.
Nhìn chung, phần lớn các cơng trình chủ yếu đi vào nghiên cứu bản chất của sự
sáng tạo, mối quan hệ giữa sáng tạo với trí thơng minh, nghiên cứu quá trình
giáo dục sáng tạo hoặc đề cập đến khả năng sáng tạo của trẻ trong một số lĩnh
vực âm nhạc, tạo hình... Tuy nhiên, chưa có cơng trình nào đi sâu vào nghiên
cứu riêng q trình phát triển khả năng sáng tạo cho trẻ 5 - 6 tuổi trong hoạt
động dạy trẻ sắp xếp theo quy luật một cách cụ thể. Do đó, bên cạnh việc tìm


hiểu các cơng trình lý luận, nghiên cứu về khả năng sáng tạo nói chung của độ
tuổi này, đề tài "Phát triển khả năng sáng tạo cho trẻ 5 - 6 tuổi trong hoạt động
dạy trẻ sắp xếp theo quy luật" sẽ cịn góp phần bổ sung, hệ thống hóa lại các
cơng trình lý luận nghiên cứu về sự phát triển khả năng sáng tạo của trẻ 5 - 6
tuổi nói riêng, trẻ mẫu giáo nói chung và hướng đến nhiệm vụ cụ thể là đề xuất
một số biện pháp nhằm phát triển khả năng sáng tạo cho trẻ 5 - 6 tuổi trong hoạt
động.
1.2. Một số khái niệm cơ bản
1.2.1. Sáng tạo
Có nhiều quan niệm khác nhau về sáng tạo như:
Quan niệm duy tâm của Platon xem xét sự sáng tạo là trạng thái tâm linh
quyến rũ. Becxong lại nhận định đó là trực giác thần bí. Trong tâm lý học duy
tâm, sáng tạo được xem là một quá trình khơng có ý thức, trong đó yếu tố ngẫu
nhiên đóng vai trị quan trọng.
Theo Từ điển Tiếng Việt, sáng tạo được hiểu là việc làm ra cái mới chưa
ai làm, là việc tìm tịi làm cho tốt hơn mà khơng bị gị bó, có đầu óc sáng tạo.
Theo cách hiểu này, sáng tạo được nhìn nhận theo cách bao trùm hơn, sáng tạo
không chỉ là tạo ra cái mới nhất chưa từng có, mới hồn tồn mà cịn có thể là
cái tìm tịi, biến đổi và phát triển trên cơ sở cái đã có nhưng tốt hơn.
Theo Từ điển triết học, sáng tạo là quá trình hoạt động của con người tạo

ra những giá trị vật chất, tinh thần, mới về chất. Các loại hình sáng tạo được xác
định bởi đặc trưng nghề nghiệp như khoa học, kỹ thuật, văn học, nghệ thuật,
quân sự… Có thể nói sáng tọa có mặt trong mọi lĩnh vực của thế giới vật chất và
tinh thần".
Theo L. X. Vugotxki (Nga) cho rằng: "Hoạt động sáng tạo là hoạt động
tạo ra được một cái gì mới, khơng kể cái được tạo ra là một vật thể nào đó của
thế giới bên ngồi hay một cấu tạo nào đó của trí tuệ hoặc tình cảm và biểu lộ
trong bản thân con người". Như vậy, L.X. Vugotxki đã đưa ra quan điểm hoàn


toàn đối lập với quan điểm cho rằng sáng tạo là mảnh đất riêng của những con
người tài năng, còn con người bình thường thì tuyệt nhiên khơng có khả năng
đó. Theo ơng, ở những nơi con người biết kết hợp cái cũ tạo ra cái mới, trên cơ
sở cái đã có phát triển thành cái mới đều là hoạt động sáng tạo. Do vậy, những
cái dù chỉ chứa đựng một nét mới, một điểm khác cũng là sáng tạo.
Tương đồng với quan niệm của L. X. Vugotxki, Chu Quang Tiềm
(Trường đại học Bắc Kinh - Trung quốc), quan niệm: "Căn cứ vào những ý
tưởng đã có sẵn làm tài liệu rồi cắt xén, gạt bỏ, chọn lọc, tổng hợp để tạo thành
một hình tượng mới. Đó là sự sáng tạo".
Theo X. L. Rubinstein (Nga), sáng tạo là hoạt động của con người tạo ra
những giá trị vật chất và tinh thần mới mang ý nghĩa xã hội. Hay nói một cách
chính xác hơn, đó là "hoạt động tạo ra một cái gì đó mới mẻ, đặc sắc, cái mà
khơng chỉ đi vào lịch sử phát triển của bản thân người sáng tạo mà còn đi vào
lịch sử phát triển của khoa học, nghệ thuật".
Theo E. P. Torrance (Mỹ), sáng tạo là quá trình xác định các giả thuyết,
nghiên cứu chúng và tìm ra kết quả. Trong quá trình sáng tạo, con người phải
xem xét các điều kiện khách quan, chủ quan, khám phá, tìm tịi, tạo ra những giả
thuyết, sau đó thử đi thử lại, kiểm tra các giả thuyết, cuối cùng trực tiếp hay gián
tiếp tạo ra kết quả. Ơng cho rằng kết quả của q trình sáng tạo là sản phẩm
sáng tạo. Theo quan niệm của Torrance thì bất kỳ con người nào cũng có tiềm

năng sáng tạo, chỉ có ở mức độ khác nhau mà thơi. Nếu có điều kiện thuận lợi
thì tiềm năng này sẽ được bộc lộ một cách thuận lợi và phát triển tốt.
Theo J. Halavsa (Tiệp Khắc): Sáng tạo là một khả năng được thể hiện
bằng sự chọn lựa và sử dụng những phương tiện mới, cách giải quyết mới.
Theo Ia. A. Ponomariov (Nga): Sáng tạo là nét đặc trưng cho cả thế giới
vô sinh và thế giới hữu sinh. Từ khi xuất hiện lồi người, hình thành nên xã hội
lồi người, sáng tạo là điều kiện thiết yếu để phát triển vật chất, hình thành
những hình thái mới của vật chất. Cùng với sự xuất hiện của chúng thì các hình
thức sáng tạo cũng thay đổi.


Tác giả Nguyễn Đức Uy cho rằng: "Sáng tạo là sự đột khởi thành hành
động của một sản phẩm liện hệ mới mẻ, náy sinh từ sự độc đáo của cá nhân và
những tư liệu, biến cố, nhân sự, hay những hoàn cảnh của đời người ấy". Quan
niệm này cho rằng khơng có sự phân biệt về sáng tạo, nghĩa là sáng tạo dù ít dù
nhiều đều là sáng tạo.
Tác giả Nguyễn Cảnh Tồn cho rằng: "Sáng tạo có nghĩa là tìm ra cái
mới, cách giải quyết mới, khơng bị gị bó, phụ thuộc vào cái có sẵn. Giá trị mới
đó có ích hay có hại là tùy theo quan điểm của người sử dụng và đối tượng nhận
hiệu quả của việc sử dụng".
Tác giả Phan Dũng khi bàn về "Sáng tạo và đổi mới" đã đưa ra khái niệm
về sáng tạo như sau: "Sáng tạo là hoạt động tạo ra bất kỳ cái gì có đồng thời tính
mới và tính lợi ích".
Tác giả Nguyễn Huy Tú thì "Sáng tạo thể hiện khi con người đứng trước
hồn cảnh có vấn đề. Quá trình này là tổ hợp các phẩm chất và năng lực mà nhờ
đó con người trên cơ sở kinh nghiệm của mình, và bằng tư duy độc lập tạo ra ý
tưởng mới, độc đáo, hợp lý trên bình diện cá nhân hay xã hội".
Nhìn chung các quan niệm của các nhà nghiên cứu giải thích về sáng tạo
ở nhiều góc độ khác nhau nhưng đều thống nhất cho rằng: Sáng tạo là một thuộc
tính, một phẩm chất trí tuệ đặc biệt của con người; hoạt động sáng tạo diễn ra

mọi lúc, mọi nơi, mọi lĩnh vực; bản chất của sáng tạo là con người tìm ra cái
mới, cái độc đáo và có giá trị xã hội. Có tác giả quan tâm đến cái mới của sản
phẩm hoạt động, có tác giả lại quan tâm đến cách thức, đến q trình tạo ra cái
mới đó… nhưng hầu hết các tác giả đều nhấn mạnh ý nghĩa của hoạt động sáng
tạo và sản phẩm sáng tạo [2, tr 21].
1.2.2. Khả năng sáng tạo
Khả năng sáng tạo là khả năng tư duy, sáng tạo, tìm tịi ra những phương
án, chủ đề mới của một hay nhiều người về một lĩnh vực nghiên cứu nào đó. ...
Mục đích là để trẻ em rèn luyện sự nhạy bén, sáng tạo của mình để áp dụng vào
đời sống hằng ngày và dễ dàng đạt được thành công hơn.


1.2.3. Phát triển khả năng sáng tạo
Từ quan niệm triết học về sự phát triển, quan điểm xem xét khả năng là
năng lực thực hiện một nhiệm vụ nào đó cả về thể chất, tinh thần, vật chất và
quan điểm xem sáng tạo là sự tạo nên cái mới thì chúng ta có thể hiểu:
Phát triển khả năng sáng tạo cho trẻ trong quá trình giáo dục là việc giáo
viên sử dụng các biện pháp, cách thức phù hợp tác động vào năng lực hoạt động
của trẻ để tạo ra những ý tưởng mới, giải quyết vấn đề theo lối mới khơng theo
tiền lệ đã có, tạo ra những sản phẩm có ý nghĩa trước hết là với bản thân trẻ và
với xã hội [2, tr 29].
1.2.4. Phát triển khả năng sáng tạo trong hoạt động tạo hình
Hầu hết các nhà nghiên cứu đều khẳng định rằng: Trong hoạt động tạo
hình của trẻ mầm non đều có sự sáng tạo và đó là một hiện tượng xã hội. Nhiều
nhà khoa học trong nhiều lĩnh vực khác nhau đã nghiên cứu về tranh vẽ của trẻ
em. Một số đông tác giả cho rằng: Khả năng sáng tạo trong hoạt động tạo hình
của trẻ em khơng kém người lớn và thậm chí có tác giả cịn nói rằng sự sáng tạo
này xuất hiện ở mọi trẻ em
Học thuyết của Piagie: Nói về sự phát triển trí tuệ, nhận thức nhưng qua
đó mầm mống sáng tạo đã phát triển như thế nào? Ông chia các thời kỳ trong sự

phát triển trẻ em:
- Thời kỳ giác động (nhỏ - 2 tuổi)
- Thời kỳ tiền thao tác (2 - 7 tuổi)
- Thời kỳ thao tác (7 -11 tuổi)
Vưgotxki: Lý thuyết về vùng phát triển gần. Ông khẳng định về sự phát
triển của trẻ em, phát triển khả năng sáng tạo không thể tách rời mối quan hệ với
thế giới xung quanh, xã hội. Trẻ có thể tự kiến tạo nên hiểu biết của mình một
cách rất chủ động, tích cưc, sáng tạo ở trên mức bình thường mang tính đại trà.
Mọi sự phát triển trong đó có sự phát triển khả năng sáng tạo của trẻ em phải
được thực hiện thơng qua chính hoạt động trong đó vui chơi là hoạt động nền


tảng để tạo nên điều đó. Sự sáng tạo khơng thể tự mình trẻ tách ra mà cần có sự
tương tác, phối hợp và cùng nhau chia sẻ. Chính gợi ý của Vưgotxki đã gợi ý ra
những hoạt động của các nhà sư phạm hiện nay có các phương pháp giáo dục:
học cộng tác, học theo dự án nhóm là hình thức học có thể đẩy người học tới
vùng phát triển gần nhất.
Theo Kerserrsenschâynhêrơ chúng ta có thể phân chia tồn bộ q trình
phát triển sáng tạo trong hoạt động tạo hình của trẻ làm 4 giai đoạn như sau:
Giai đoạn sơ đồ: Ở giai đoạn này trẻ vẽ những hình sơ đồ về sự vật, khơng phụ
thuộc vào diễn tả giống thật vì giai đoạn này trẻ vẽ theo trí nhớ, vẽ điều mà trẻ
biết về sự vật chứ khơng phải cái mà trẻ nhìn thấy. Ở giai đoạn này trẻ vữ theo
trí nhớ khơng giống thật, mang tính chất phi lí. Ban đầu trẻ vẽ mà khơng có ý
định gì cả, như sau đó trẻ ngắm nghía những đường nét do mình vẽ ra và giải
thích thế này thế kia. Nói chung tranh vẽ của trẻ giai đoạn này dường như một
sự liệt kê hay nói một cách khác là sự kể lại, sự mô tả bằng đồ hoạ về sự vật.
Giai đoạn nảy sinh ý thức về hình thức và đường nét: giai đoạn này trẻ
khơng chỉ liệt kê các dấu hiệu cụ thể của đối tượng được miêu tả mà cả diễn tả
những tương quan hình thức giữa các bộ phận. Tranh của trẻ vừa mang tính chất
sơ đồ vừa xuất hiện mầm mống của cách miêu tả giống hiện thực. Hình vẽ của

trẻ ở giai đoạn này không tách biệt với giai đoạn trước nhưng hình vẽ của trẻ
được đặc trưng bởi số lượng chi tiết nhiều hơn, xếp đặt giống thật hơn.
Giai đoạn miêu tả giống thật: Giai đoạn này hình vẽ sơ đồ đã hoàn toàn
biến đổi khỏi bức tranh của trẻ.
Giai đoạn miêu tả tạo hình những bộ phận riêng biệt: Trong giai đoạn này
trẻ biết miêu tả đồ vật bằng cách diễn tả ánh sáng và bóng tối, phép phối cảnh
xuất hiện [5, tr35].
1.3. Một số vấn đề về phát triển khả năng sáng tạo cho trẻ 5 - 6 tuổi ở
trường mầm non
1.3.1. Mục đích, ý nghĩa của phát triển khả năng sáng tạo cho trẻ 5 - 6 tuổi
ở trường mầm non



×