Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

Tiểu luận tn lý luận về tái cơ cấu kinh tế, tái cơ cấu kinh tế công nghiệp trong phát triển

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (205.7 KB, 22 trang )

BỘ QUỐC PHỊNG
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ

Người chấm

Số phách

(Ký ghi rõ họ tên)

(Do Ban khảo thí ghi)

Số phách
(Do Ban khảo thí ghi)

Điểm
Bằng số

TIỂU LUẬN TỐT
NGHIỆP

Ngày nộp: 24/8/2022

Họ và tên: VÕ NGUYÊN VŨ

Khóa: 11

Ngày sinh: 03/4/1985

Lớp, trường: Hồn chỉnh chương trình
cao cấp lý luận chính trị/ Trường QSQK7.


Lớp, trường: Hồn chỉnh chương trình CCLLCT/Trường QSQK7

Khoa: Kinh tế chính trị.

Khóa: 11

Chủ Đề: Tái cơ cấu kinh tế công nghiệp
Việt Nam – Lý luận và thực tiễn.

Ngày nộp: 24/8/2022

TIỂU LUẬN TỐT NGHIỆP

Bằng chữ


2
MỤC LỤC

Trang

MỞ ĐẦU

3

NỘI DUNG

4

I.


LÝ LUẬN VỀ TÁI CƠ CẤU KINH TẾ, TÁI CƠ
CẤU KINH TẾ CÔNG NGHIỆP TRONG PHÁT
TRIỂN
KINH TẾ

4

1.

Tái cơ cấu kinh tế

4

2.

Tái cơ cấu kinh tế công nghiệp

4

II.

THỰC TRẠNG TÁI CƠ CẤU CÔNG NGHIỆP Ở
VIỆT NAM TỪ 2011 ĐẾN NAY

5

1.

Những thuận lợi và thành tựu đạt được


5

2

Những hạn chế, rào cản và thách thức trong quá

7

trình cơ cấu kinh tế công nghiệp
III.

PHƯƠNG HƯỚNG, NHIỆM VỤ TÁI CƠ CẤU
KINH TẾ CƠNG NGHIỆP TRONG THỜI GIAN
TỚI

10

IV.

VAI TRỊ, TRÁCH NHIỆM QN ĐỘI ĐỐI VỚI
VIỆC THỰC HIỆN CHỦ TRƯƠNG TÁI CƠ CẤU
NGÀNH TRONG PHÁT TRIỂN KINH TẾ Ở VIỆT
NAM HIỆN NAY

13

1.

Vai trò, trách nhiệm Quân đội


13

2.

Trách nhiệm của bản thân

16

KẾT LUẬN

19

DANH MỤC TÀI LIỆU KHAM THẢO

20


MỞ ĐẦU

Ngành cơng nghiệp Việt Nam có tốc độ tăng năng suất lao động thấp
nhất trong các ngành kinh tế, chậm đổi mới công nghệ, đội ngũ lao động tay
nghề thấp, công nghiệp công nghệ thấp chiếm tỉ trọng cao… Đây tiếp tục là
những thách thức cần xử lý để đạt mục tiêu đến năm 2030 Việt Nam là nước có
cơng nghiệp hiện đại, thuộc nhóm 15 nước xuất khẩu lớn nhất thế giới.
Trong những năm qua, Nhà nước ta đã xây dựng và triển khai nhiều chính
sách hiệu quảgóp phần thúc đẩy q trình cơng nghiệp hóa đất nước đạt nhiều thành
tựu đáng kể, thểhiện ở tỉ lệ đóng góp lớn nhất đối với ngân sách Nhà nước; hình
thành và phát triển được một số tập đồn cơng nghiệp tư nhân lớn, tỉ trọng các doanh
nghiệp có trình độ cơng nghệ cao và trung bình ngày càng tăng. Điều đó góp phần

tích cực trong giải quyết việc làm, chuyển dịch cơ cấu lao động, tăng năng suất lao
động và nâng cao đời sống nhân dân...
Tuy nhiên, báo cáo của Bộ Cơng Thương cũng nhìn nhận ngành cơng nghiệp
của Việt Nam mới phát triển về chiều rộng mà chưa phát triển về chiều sâu, tiến trình
cơng nghiệp hóa trong cơng nghiệp thực hiện chậm. Cụ thể, năng suất lao động còn
thấp so với các nước trong khu vực. Tỉ trọng công nghiệp chế biến, chế tạo so với
GDP cũng như tỉ lệ đóng góp vào cơng nghiệp chế biến, chế tạo tồn cầu cịn hạn
chế, kể cả so với các nước trong khối ASEAN.
Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứXIII nhấn mạnh: “Tiếp tục đẩy
mạnh đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế, chuyển mạnh nền kinh tế sang mơ hình
tăng trưởng dựa trên tăng năng suất, tiến bộ khoa học và công nghệ, đổi mới sáng
tạo, nhân lực chất lượng cao, sử dụng tiết kiệm, hiệu quả các nguồn lực để nâng cao
chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Cải thiện môi trường đầu tư,
kinh doanh, thúc đẩy khởi nghiệp sáng tạo, phát triển các ngành, lĩnh vực, các doanh
nghiệp trên nền tảng ứng dụng mạnh mẽ các thành tựu của khoa học và công nghệ,
nhất là cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư; phát triển các sản phẩm có lợi thế
cạnh tranh, sản phẩm cơng nghệ cao, có giá trị gia tăng cao, thân thiện với mơi
trường, tham gia có hiệu quả vào mạng sản xuất và chuỗi giá trị tồn cầu”. Tái cơ
cấu kinh tế cơng nghiệp là một trong những mục tiêu, nhiệm vụ quan trọng hàng đầu


để phát triển kinh tế nước ta. Đây cũng là đềtài tơi chọn làm tiểu luận khoa học cuối
khóa học.


NỘI DUNG
I. LÝ LUẬN VỀ TÁI CƠ CẤU KINH TẾ, TÁI CƠ CẤU KINH TẾ CÔNG
NGHIỆP TRONG PHÁT TRIỂN KINH TẾ

1. Tái cơ cấu kinh tế

Tái cơ cấu kinh tế là sự thay đổi về cơ cấu kinh tế ở một chủ thể nhất
định, tái cơ cấu kinh tế đại diện cho quá trình cải tổ, sắp xếp lại cấu trúc nhằm
mở rộng quy mô và đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế.
Tái cơ cấu kinh tế được hiểu là sự thay đổi chiến lược mục tiêu, tầm
nhìn của một hệ thống hoặc là sự cơ cấu lại hệ thống, bao gồm các hoạt động
như sắp xếp lại, chuyển đổi hình thức hoạt động, xác định lại mục tiêu, chiến
lược, tầm nhìn, các giá trị cốt lõi và chuẩn mực của khu vực, tổ chức
hay doanh nghiệp. Tái cơ cấu kinh tế là những thay đổi có tính bước ngoặt về
cơ chế, chính sách kinh tế để đạt được những mục tiêu kinh tế - xã hội đặt ra;
là tạo ra một cơ cấu kinh tế hợp lý, đặc biệt là cơ cấu ngành, cơ cấu khu vực
kinh tế sở hữu hợp lý. Có thể nói, tái cơ cấu nền kinh tế là q trình Chính
phủ chủ động thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế, ban hành các chính sách
về tài chính, tiền tệ, các chính sách về hành chính, kinh tế và sử dụng các
cơng cụ thuộc chức năng, nhiệm vụ của mình để tác động tới việc phân bổ và
sử dụng các nguồn lực cần thiết nhằm chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế theo
một xu hướng nhất định, đạt được các mục tiêu đặt ra trong từng giai đoạn
phát triển.
2. Tái cơ cấu kinh tế công nghiệp
Tái cơ cấu công nghiệp được hiểu là quá trình chính phủ chủ động thực
hiện việc sắp xếp bố trí mọi nguồn lực một cách hợp lý để hình thành một cơ
cấu kinh tế mới thông qua việc ban hành các chính sách về tài chính, hành
chính, kinh tế để tác động đến sự phân bổ và sử dụng các nguồn lực cần thiết
một cách có hiệu quả nhằm đạt được những mục tiêu đã đề ra.
Tái cơ cấu công nghiệp là một hợp phần của tái cơ cấu tổng thể nền
kinh tế quốc dân, phù hợp với chiến lược và kế hoạch phát triển kinh tế xã hội
của đất nước. Q trình tái cơ cấu cơng nghiệp phải chú trọng nâng cao năng


lực quản lý nhà nước, tổ chức bộ máy hợp lý thơng qua các cơ chế, chính
sách,



phân định rõ vai trò, chức năng của nhà nước và của thị trường theo hướng
giảm thiểu các rào cản, các biện pháp can thiệp hành chính, tạo động lực
khuyến khích, chuyển dịch, phân bổ nguồn lực theo tín hiệu thị trường nhằm
thúc đẩy phát triển ngành. Thực hiện tái cơ cấu công nghiệp theo cơ chế thị
trường, đảm bảo hài hịa lợi ích của Nhà nước, người dân, doanh nghiệp; thực
hiện chuyển từ tăng trưởng theo chiều rộng sang phát triển theo chiều sâu,
nâng cao chất lượng , năng suất lao động và giá trị gia tăng của ngành, đồng
thời đáp ứng được các yêu cầu về xã hội. Gắn nâng cao năng lực, hiệu quả sản
xuất kinh doanh của các doanh nghiệp với tái cơ cấu ngành, lĩnh vực; tập
trung phát triển mạnh một số ngành sản xuất ưu tiên và công nghiệp hỗ trợ để
cải thiện, nâng cấp trình độ phát triển một số ngành có khả năng lan tỏa, nhằm
thúc đẩy và tạo điều kiện cho các ngành khác cùng phát triển.
II. THỰC TRẠNG TÁI CƠ CẤU CÔNG NGHIỆP Ở VIỆT NAM TỪ
2011 ĐẾN NAY

1. Những thuận lợi và thành tựu đạt được
Trong giai đoạn 2011-2020, với việc đẩy mạnh tái cơ cấu nền kinh tế,
Việt Nam đã trở thành một trong những trung tâm công nghiệp của khu vực
và của thế giới, thuộc nhóm ASEAN-4 và nhóm 30 quốc gia có năng lực cạnh
tranh cơng nghiệp trung bình cao với vị trí thứ 36 trên thế giới vào năm 2019
(năm 2009 đứng vị trí thứ 58).
Bộ Công Thương đã tham mưu xây dựng và triển khai nhiều chính sách
hiệu quả góp phần thúc đẩy q trình cơng nghiệp hóa đất nước đạt nhiều
thành tựu đáng kể, thể hiện ở tỉ lệ đóng góp lớn nhất đối với ngân sách Nhà
nước; hình thành và phát triển được một số tập đồn cơng nghiệp tư nhân lớn,
tỉ trọng các doanh nghiệp có trình độ cơng nghệ cao và trung bình ngày càng
tăng. Điều đó góp phần tích cực trong giải quyết việc làm, chuyển dịch cơ cấu
lao động, tăng năng suất lao động và nâng cao đời sống nhân dân...

Theo báo cáo của Bộ Công Thương, quy mô sản xuất công nghiệp của
Việt Nam ngày càng mở rộng với chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP) tăng cao
(bình quân 7,7%/năm), tốc độ tăng trưởng giá trị tăng thêm bình quân tăng
khá


cao (7,4%/năm), góp phần gia tăng tỷ trọng của ngành Công nghiệp trong nền
kinh tế (từ 26,6% năm 2011 lên 27,5% vào năm 2020), cao hơn tỷ lệ trung
bình của thế giới và nhóm các quốc gia thu nhập trung bình thấp. Trong 11
nhóm ngành cơng nghiệp ưu tiên phát triển giai đoạn 2011-2020, đến nay
6/11 ngành là các ngành cơng nghiệp đứng đầu cả nước, có đóng góp lớn cả
về sản xuất, xuất khẩu, đầu tư và việc làm gồm: Dệt may, da giày, thực phẩm
chế biến, thép, hóa chất, nhựa.
Bên cạnh đó, chuyển dịch cơ cấu ngành Cơng nghiệp ngày càng tích
cực, theo hướng giảm tỷ trọng các ngành thâm dụng tài nguyên (tỷ trọng
ngành khai khoáng giảm gần 2 lần trong 10 năm qua, từ 9,9% xuống còn 5,6%)
và tăng tỷ trọng của các ngành chế biến chế tạo (tỷ trọng của ngành chế biến
chế tạo (từ 13,4% lên 16,7%). Đồng thời, chuyển dịch nội ngành từ các ngành
thâm dụng lao động (dệt may, da giày) sang các ngành thâm dụng vốn (thép, ơ
tơ, hóa chất) và hiện nay là sang các ngành thâm dụng công nghệ (điện tử, công
nghệ thông tin).
Công nghiệp chế biến, chế tạo trở thành động lực tăng trưởng chủ yếu
của ngành Công nghiệp với tốc độ tăng trưởng cao (bình quân 10,4%/năm)
với đóng góp vào xuất khẩu của cả nước tăng nhanh qua các năm và đã vượt
qua các nước trong khu vực (từ 64% năm 2010 lên 85,1% kim ngạch xuất
khẩu của cả nền kinh tế vào năm 2020). Tỷ trọng giá trị gia tăng của công
nghiệp chế biến chế tạo so với toàn cầu tăng từ 0,001% năm 2010 lên 0,003%
năm 2019; tỷ trọng xuất khẩu của công nghiệp chế biến chế tạo so với toàn
cầu tăng tương ứng từ 0,5% lên 1,8% (theo WB).
Thống kê cho thấy, trong số 11 nhóm ngành Cơng nghiệp ưu tiên phát

triển giai đoạn 2011-2020 thì đến nay 6/11 ngành hiện là các ngành Cơng
nghiệp đứng đầu cả nước, có đóng góp lớn cả về sản xuất, xuất khẩu, đầu tư
và việc làm gồm: Dệt may; Da giầy; Thực phẩm chế biến; Thép; Hóa chất;
Nhựa. Đặc biệt, một số ngành Công nghiệp xuất khẩu (dệt may, da dày, điện
tử…) đã cơ bản hội nhập thành cơng vào chuỗi giá trị tồn cầu, có năng lực
cạnh tranh cao và chiếm thị phần ngày càng lớn trên thị trường quốc tế.
Công nghiệp hỗ


trợ, sản xuất linh kiện, cụm linh kiện đã dần được hình thành, góp phần nâng
cao tỷ lệ nội địa hóa và giá trị tăng thêm trong các ngành Cơng nghiệp, thúc
đẩy một số mặt hàng tham gia sâu, có hiệu quả vào mạng sản xuất và chuỗi
giá trị, phân phối tồn cầu.
Đáng chú ý, đến nay, cơng nghiệp vẫn là ngành thu hút đầu tư FDI lớn
nhất với tốc độ tăng trưởng cao (tăng gần 2 lần cả về quy mô và tỷ trọng trong
10 năm qua), đặc biệt là trong công nghiệp chế biến, chế tạo (chiếm hơn 60%
vốn đầu tư vào các ngành và khoảng 20% tổng vốn đầu tư toàn xã hội) với
một số dự án đầu tư lớn của các tập đồn cơng nghệ tồn cầu đã tạo động lực
tăng trưởng mới cho ngành trong bối cảnh một số ngành Công nghiệp lớn đã
chạm trần tăng trưởng (dệt may, da dày, khai khống…) và góp phần hình
thành nên các trung tâm cơng nghiệp mới của đất nước.
2. Những hạn chế, rào cản và thách thức trong q trình cơ cấu
kinh tế cơng nghiệp
Theo báo cáo của Bộ Cơng Thương cũng nhìn nhận ngành cơng nghiệp
của Việt Nam mới phát triển về chiều rộng mà chưa phát triển về chiều sâu,
tiến trình cơng nghiệp hóa trong công nghiệp thực hiện chậm. Cụ thể, năng
suất lao động còn thấp so với các nước trong khu vực. Tỉ trọng công nghiệp
chế biến, chế tạo so với GDP cũng như tỉ lệ đóng góp vào cơng nghiệp chế
biến, chế tạo tồn cầu cịn hạn chế, kể cả so với các nước trong khối ASEAN.
Cơng nghiệp Việt Nam có tốc độ tăng năng suất lao động thấp nhất

trong các ngành kinh tế, chậm đổi mới công nghệ, đội ngũ lao động tay nghề
thấp, công nghiệp công nghệ thấp chiếm tỉ trọng cao… Đây tiếp tục là những
thách thức cần xử lý để đạt mục tiêu đến năm 2030 Việt Nam là nước có cơng
nghiệp hiện đại, thuộc nhóm 15 nước xuất khẩu lớn nhất thế giới.
Bên cạnh những thành tựu trong q trình tái cơ cấu ngành Cơng
nghiệp, vẫn cịn khơng ít những khó khăn, thách thức cơ bản, cụ thể:
- Phần lớn doanh nghiệp nước ta vẫn đang sử dụng cơng nghệ tụt hậu
so với mức trung bình của thế giới 2-3 thế hệ; Tỷ lệ đầu tư đổi mới công nghệ
của


các doanh nghiệp Việt Nam là dưới 0,5% doanh thu (trong khi Ấn Độ là 5%,
Hàn Quốc 10%); Tỷ lệ đổi mới máy móc, thiết bị hàng năm chỉ đạt 10% trong
5 năm vừa qua (các nước khác trong khu vực tỷ lệ tương ứng là 15-20%).
Công nghệ sản xuất trong công nghiệp chậm được đổi mới dẫn đến các DN
công nghiệp nước ta chưa đủ năng lực để sản xuất tạo sản phẩm có giá trị gia
tăng và khả năng cạnh tranh cao...
- Tỷ trọng công nghiệp chế biến, chế tạo so với GDP, tỷ lệ đóng góp
vào cơng nghiệp chế biến, chế tạo tồn cầu cịn hạn chế, kể cả so với các nước
trong khối ASEAN. Tỷ trọng của công nghiệp chế biến, chế tạo/GDP chỉ đạt
xấp xỉ 16% (mặc dù cao hơn mức trung bình thế giới nhưng thấp thua Trung
Quốc (khoảng 27,1%); Hàn Quốc (khoảng 25,3%); Thái Lan (25,3%); Nhật
Bản (20,7%)...
- Năng suất lao động còn thấp so với các nước trong khu vực, chưa thực
sự dựa trên nền tảng khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo. Cơng nghiệp là
ngành có tốc độ tăng năng suất lao động thấp nhất trong các ngành kinh tế,
chậm đổi mới công nghệ với đội ngũ lao động tay nghề thấp (28,54% lao
động khơng có trình độ chun môn kỹ thuật)...
- Năng lực tự chủ của ngành Công nghiệp cịn chưa cao, đặc biệt là các
ngành Cơng nghiệp nền tảng (hóa chất, cơ khí, thép...) và cơng nghiệp hỗ trợ

dẫn đến phụ thuộc chủ yếu vào bên ngoài. Công nghiệp chế biến, chế tạo mới
chỉ chiếm khoảng 0,3% toàn cầu, thấp hơn rất nhiều so với các nước ASEAN
– 4 (Indonesia chiếm khoảng 1,6%; Thái Lan chiếm khoảng 1%).
- Đến nay, Việt Nam phải nhập khẩu hầu hết nguyên, vật liệu đầu vào
cho các ngành Công nghiệp lớn hiện nay. Thậm chí một số ngành Cơng
nghiệp chủ đạo như dệt may, da giày, điện tử Việt Nam nhập khẩu hơn 90%
nguyên liệu và phụ thuộc quá lớn vào một số thị trường như Trung Quốc, Hàn
Quốc… Từ đó, khiến cho các doanh nghiệp trong nước đối mặt với những rủi
ro từ biến động của cung cầu thị trường thế giới, đặc biệt là biến động về giá...


- Các doanh nghiệp Việt Nam cơ bản chỉ đóng vai trị là nơi gia cơng
cho xuất khẩu trong chuỗi giá trị toàn cầu với tỷ suất lợi nhuận rất thấp, chỉ
khoảng 5 - 10%. Các ngành Công nghiệp và doanh nghiệp nội địa của Việt
Nam nhìn chung mới chỉ tham gia được vào các khâu trung gian có giá trị gia
tăng thấp (gia công, lắp ráp) trong chuỗi giá trị tồn cầu, trong khi các phân
khúc có giá trị gia tăng cao đều ở nước ngoài như các khâu thượng nguồn
(nghiên cứu phát triển, thiết kế sản phẩm; quảng bá sản phẩm, phân phối, chăm
sóc khách hàng…) và các khâu hạ nguồn (nguyên, nhiên vật liệu, máy móc
thiết bị sản xuất); các dịch vụ hỗ trợ phát triển công nghiệp còn yếu (kết nối thị
trường, đào tạo nguồn nhân lực…).
- Doanh nghiệp tư nhân trong nước trong các ngành Công nghiệp, đặc
biệt là công nghiệp chế biến, chế tạo chủ yếu quy mô nhỏ và kém hiệu quả
hơn so với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi, cịn hạn chế về đổi
mới sáng tạo, năng lực cơng nghệ và sản xuất, chưa tham gia sâu vào các
chuỗi cung ứng tồn cầu và chưa có các doanh nghiệp lớn, có năng lực cạnh
tranh tồn cầu. Mức độ liên kết giữa doanh nghiệp FDI với doanh nghiệp
trong nước chưa cao, từ đó hạn chế năng lực tăng năng suất cho khu vực trong
nước thông qua chuyển giao công nghệ và nâng cao trình độ quản lý...
- Phân bố khơng gian các ngành Công nghiệp chưa khai thác tốt lợi thế

cạnh tranh của các vùng, chưa hình thành được các cụm ngành Cơng nghiệp
chun mơn hóa để liên kết phát triển chuỗi cung ứng, chuỗi giá trị các ngành
Công nghiệp với sự dẫn dắt của các khu công nghiệp, khu kinh tế.
Tái cơ cấu kinh tế đã được xác định tại Đại hội XI của Đảng, được cụ
thể hóa một bước tại Hội nghị lần thứ 3 Ban Chấp hành Trung ương Đảng
khóa XI; và đã được hoạch định cụ thể tại các Đề án có liên quan của Chính
phủ, trong đó có Đề án tổng thể tái cơ cấu kinh tế gắn với chuyển đổi mơ hình
tăng trưởng theo hướng nâng cao chất lượng, hiệu quả và năng lực cạnh tranh
giai đoạn 2013-2020. Đến nay, tái cơ cấu kinh tế Việt Nam được thực hiện
hơn 8 năm đã tạo ra những chuyển biến quan trọng và rõ nét trong đời sống
kinh tế,


xã hội của đất nước. Tuy vậy, nền kinh tế vẫn đối mặt với những khó khăn,
thách thức, địi hỏi Chính phủ phải thực hiện những giải pháp mạnh mẽ và
quyết liệt hơn.
Đánh giá của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII, tại Đại hội
XIII, cho thấy, phát triển công nghiệp vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu công
nghiệp hoá, hiện đại hoá, mới chủ yếu phát triển theo mục tiêu ngắn hạn,
thiếu tính bền vững; chưa tạo ra được ngành cơng nghiệp trong nước có năng
lực cạnh tranh cao, chưa có ngành cơng nghiệp mũi nhọn đóng vai trị dẫn dắt.
Sản xuất cơng nghiệp chủ yếu vẫn là gia công, lắp ráp, giá trị gia tăng thấp.
Công nghiệp hỗ trợ phát triển còn chậm; nguyên vật liệu, linh kiện phục vụ
sản xuất trong nước còn phụ thuộc lớn vào bên ngoài; chưa quan tâm đúng
mức đến chuỗi giá trị và cung ứng trong nước. Tỷ lệ nội địa hố sản phẩm
cơng nghiệp cịn thấp, cịn phụ thuộc nhiều vào các doanh nghiệp có vốn đầu
tư nước ngồi. Cơng nghiệp chế biến nơng, lâm, thuỷ sản vẫn cịn kém phát
triển, nhất là ở các khâu bảo quản và chế biến sâu.
III. PHƯƠNG HƯỚNG, NHIỆM VỤ TÁI CƠ CẤU KINH TẾ CÔNG
NGHIỆP TRONG THỜI GIAN TỚI


Từ thực tiễn nêu trên, Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII,
đã đặt ra mục tiêu phấn đấu, trong giai đoạn 2021-2025, tăng tỷ trọng công
nghiệp chế biến, chế tạo trong GDP lên mức đạt trên 25%. Để thực hiện mục
tiêu này, một trong những nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu cần thực hiện là,
tiếp tục cơ cấu lại lĩnh vực công nghiệp, theo hướng:
Phát triển được một số ngành công nghiệp nền tảng như cơng nghiệp
năng lượng, cơ khí chế tạo, luyện kim, hố chất, phân bón, vật liệu. Ưu tiên
phát triển một số ngành công nghiệp mũi nhọn, công nghệ mới, công nghiệp
công nghệ cao, công nghiệp hỗ trợ như thơng tin và viễn thơng; điện tử; trí tuệ
nhân tạo; sản xuất robot; ô tô; công nghiệp hỗ trợ công nghiệp ô tô; công nghệ
sinh học; điện tử y sinh; sản xuất phần mềm; sản phẩm số; năng lượng sạch và
năng lượng tái tạo. Tập trung phát triển mạnh công nghiệp chế biến, chế tạo
gắn với công nghệ thông minh; chú trọng phát triển công nghiệp xanh.


Hình thành thí điểm một số mơ hình cụm liên kết trong các ngành công
nghiệp ưu tiên. Thúc đẩy tiến độ các dự án cơng nghiệp lớn, có tác động lan
toả; đồng thời, xử lý quyết liệt các dự án chậm tiến độ, kém hiệu quả. Phát
triển sản xuất công nghiệp quy mô lớn tại các khu kinh tế ven biển, trong đó
chú trọng các ngành sản xuất cơng nghiệp nặng, chế biến sâu, hình thành các
chuỗi giá trị.
Tăng cường liên kết giữa khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (nhất là các tập
đoàn đa quốc gia) với doanh nghiệp trong nước trong phát triển chuỗi cung
ứng của các ngành cơng nghiệp. Khơi dậy nội lực, khuyến khích mạnh mẽ sự
phát triển của doanh nghiệp tư nhân trong nước, đặc biệt trong các lĩnh vực
công nghiệp chế biến chế tạo, cơng nghệ cao, cơng nghiệp cơng nghệ thơng
tin; hình thành các chuỗi cung ứng, chuỗi giá trị trong nước và quốc tế, bảo
đảm chất lượng, quy định về truy xuất nguồn gốc. Phát triển một số doanh
nghiệp chủ lực trong lĩnh vực công nghệ viễn thông, công nghệ thông tin để

thực hiện tốt vai trò dẫn dắt về hạ tầng công nghệ, tạo nền tảng cho phát triển
nền kinh tế số, xã hội số.
Ngày 12/4/2022 Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 54/NQ-CP về
ban hành Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết của
Quốc hội về Kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2021-2025.
Trong đó, Chính phủ đặt ra nhiệm vụ cơ cấu lại ngành Công nghiệp và
đưa ra một số định hướng cơ bản như: Tập trung thúc đẩy đổi mới sáng tạo và
chuyển đổi số trong ngành Công nghiệp; khai thác triệt để thành tựu của cuộc
cách mạng công nghiệp lần thứ tư để số hóa, cơng nghệ hóa phương thức sản
xuất, kinh doanh nhằm tăng năng suất, chất lượng, sử dụng tài nguyên và
năng lượng tiết kiệm, hiệu quả, gắn với bảo vệ mơi trường và thích ứng với
biến đổi khí hậu.
Bên cạnh đó, ưu tiên phát triển một số ngành Công nghiệp mũi nhọn,
công nghệ mới, công nghệ cao, công nghiệp hỗ trợ; phát triển nhanh các
ngành


Cơng nghiệp có giá trị gia tăng cao và dịch chuyển lên các cơng đoạn có giá
trị gia tăng cao trong chuỗi giá trị toàn cầu và khu vực...
Nhằm triển khai thực hiện Kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn
2021-2025 nói chung và tái cơ cấu ngành Cơng nghiệp đến năm 2030 nói
riêng, trong thời gian tới cần chú trọng một số vấn đề sau:
Một là, tiếp tục rà soát, xây dựng các chiến lược, kế hoạch phát triển
đối với các ngành Công nghiệp giai đoạn 2021-2030 ưu tiên phát triển quốc
gia và theo lợi thế của các vùng, địa phương phù hợp với chủ trương của
Đảng và Nhà nước gắn với yêu cầu phát triển hậu COVID-19. Xây dựng Đề
án ưu tiên phát triển các ngành Công nghiệp nền tảng nhằm nâng cao năng lực
tự chủ của nền kinh tế giai đoạn 2021-2030.
Hai là, rà soát, điều chỉnh các quy hoạch quốc gia, vùng về phân bố
không gian phát triển công nghiệp phù hợp với yêu cầu cơ cấu lại các ngành

Công nghiệp và phát triển các ngành Công nghiệp trên từng vùng, từng địa
phương theo theo lợi thế cạnh tranh. Rà sốt, xây dựng chính sách về thúc đẩy
phát triển cụm liên kết ngành Công nghiệp chun mơn hố, đảm bảo phát
triển đồng bộ hệ thống giao thông, vận tải và hạ tầng, dịch vụ cho phát triển
cụm liên kết...
Ba là, xây dựng chính sách khuyến khích phát triển dịch vụ hỗ trợ cơng
nghiệp, các trung gian cung cấp dịch vụ tư vấn công nghiệp về đầu tư, tài
chính, thị trường, xúc tiến thương mại, quy chuẩn, tiêu chuẩn công nghiệp…;
xây dựng mạng lưới các chuyên gia tư vấn công nghiệp nhằm ứng dụng công
nghệ hiện đại, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số trong sản xuất cơng nghiệp.
Bốn là, đổi mới chính sách đầu tư nhằm thu hút, đón đầu có hiệu quả
nguồn vốn từ khu vực tư nhân đầu tư cho phát triển ngành, đón đầu các xu
hướng đầu tư, dịch chuyển đầu tư trong lĩnh vực công nghiệp, đặc biệt là các
chuỗi cung ứng hàng công nghiệp trên thế giới và ở khu vực, dòng đầu tư
đang dịch chuyển ra khỏi các trung tâm sản xuất cơng nghiệp tồn cầu do tác
động của các xung đột thương mại và dịch COVID-19 vào các ngành, lĩnh
vực ưu tiên và vào cơng đoạn có giá trị gia tăng cao trong chuỗi giá trị toàn
cầu.


Năm là, có chính sách khuyến khích các dự án đầu tư vào các phân
ngành Công nghiệp phù hợp, đặc biệt là dự án FDI vào các cụm ngành Công
nghiệp chun mơn hóa, thiết lập được chuỗi cung ứng, chuỗi giá trị trong
nước với sự tham gia của các DN nội địa...; đặc biệt chú trọng việc các địa
phương tham gia mạnh mẽ hơn vào việc huy động các nguồn lực đầu tư. Chủ
động triển khai các chương trình xúc tiến đầu tư FDI để thu hút được những
nhà đầu tư trong các phân ngành Công nghiệp ưu tiên...
Sáu là, xây dựng các chính sách ưu đãi tín dụng đối với các dự án đầu
tư theo mạng sản xuất, chuỗi giá trị trong sản xuất công nghiệp, cụm liên kết
ngành Công nghiệp, chuỗi cung ứng theo hệ thống phân phối; Nghiên cứu,

học tập kinh nghiệm quốc tế về phát triển của các cơng cụ hỗ trợ tài chính
theo chuỗi cung ứng, chuỗi giá trị. Xây dựng các nền tảng chuyển đổi số, hình
thành các hệ sinh thái cơng nghiệp để hỗ trợ DN đẩy nhanh quá trình chuyển
đổi số; triển khai các dự án chuyển đổi số mẫu có tính đại diện và khả thi, đặt
nền móng hình thành văn hóa đổi mới sáng tạo, dẫn dắt phong trào chuyển
đổi số của DN sản xuất cơng nghiệp...
IV. VAI TRỊ, TRÁCH NHIỆM QUÂN ĐỘI ĐỐI VỚI VIỆC THỰC
HIỆN CHỦ TRƯƠNG TÁI CƠ CẤU NGÀNH TRONG PHÁT TRIỂN KINH
TẾ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

1. Vai trò, trách nhiệm Quân đội
Tham gia lao động sản xuất là một trong những chức năng cơ bản của
quân đội ta, thể hiện bản chất tốt đẹp của “Bộ đội Cụ Hồ” trong các thời kỳ
cách mạng; đồng thời, góp phần quan trọng vào sự nghiệp đấu tranh giải
phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Trong giai đoạn hiện nay, cùng với việc tập trung nâng cao chất lượng tổng
hợp và sức mạnh chiến đấu, Quân đội ta cần tiếp tục đẩy mạnh và thực hiện
có hiệu quả nhiệm vụ lao động sản xuất, gắn kinh tế với quốc phịng; góp
phần cùng tồn Đảng, tồn dân thực hiện thắng lợi mục tiêu “dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.


Hoạt động lao động sản xuất của Quân đội được lãnh đạo, chỉ đạo chặt
chẽ, tổ chức ngày càng khoa học, hoạt động đúng định hướng, toàn diện và
đạt hiệu quả thiết thực, vững chắc; có tác động sâu sắc tới nền kinh tế của đất
nước. Tiếp tục thực hiện có hiệu quả Nghị quyết 425-NQ/QUTW, ngày
18/5/2017 của Quân ủy Trung ương “Về sắp xếp, đổi mới và nâng cao hiệu
quả hoạt động của doanh nghiệp quân đội đến năm 2020 và những năm tiếp
theo”. Tích cực triển khai thực hiện “Đề án cơ cấu lại, đổi mới và nâng cao
hiệu quả doanh nghiệp quân đội đến năm 2020” (đã được Thủ tướng Chính

phủ phê duyệt tại văn bản số 80/TTg-ĐMDN, ngày 04/10/2017).
Quân đội tham gia lao động sản xuất góp phần quan trọng vào ổn định,
phát triển kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội, giải quyết việc làm, nâng cao
thu nhập, cải thiện đời sống của người lao động, hội nhập kinh tế quốc tế.
Quân đội là lực lượng đi tiên phong trong phát triển kinh tế - xã hội của
đất nước ở những nơi khó khăn, gian khổ. Quân đội tham gia lao động, sản
xuất góp phần đẩy mạnh nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ mới, công
nghệ lưỡng dụng cho đất nước.
Bên cạnh đó, phát triển cơng nghiệp, dịch vụ lưỡng dụng để vừa sản
xuất thiết bị, phương tiện, khí tài quân sự, vừa sản xuất, cung ứng các sản
phẩm, dịch vụ dân dụng trên nền tảng kết quả nghiên cứu khoa học, ứng
dụng, tiếp nhận, chuyển giao công nghệ cao là xu hướng chung của nhiều tập
đoàn kinh tế lớn trên thế giới. Quân đội ta có những doanh nghiệp đi tiên
phong trong lĩnh vực sản xuất công nghiệp, dịch vụ lưỡng dụng, có chiến lược
phát triển tốt trong các ngành: cơ khí chế tạo, điện - điện tử, cơng nghệ thơng
tin - viễn thông, bay dịch vụ, dịch vụ ngân hàng, dịch vụ cảng biển và
logistics, đóng mới và sửa chữa tàu biển, xăng dầu, viễn thám, đo đạc, bản đồ,
tư vấn thiết kế, xây dựng cơng trình, xây dựng cầu - hầm lớn, vận tải, khai
thác khoáng sản, sản xuất nông - lâm - ngư nghiệp, hậu cần nghề cá... trên các
địa bàn chiến lược. Chính việc thực hiện các đơn hàng dân sự cũng là cách để
các doanh nghiệp quân đội tiếp nhận, chuyển giao, đổi mới công nghệ, rèn
luyện kỹ năng, tay nghề, nâng


cao nghiệp vụ, trình độ quản lý, đầu tư mở rộng sản xuất... để áp dụng trong
thực hiện các nhiệm vụ quân sự - quốc phòng, tăng cường khả năng sẵn sàng
chiến đấu bảo vệ Tổ quốc.
Quân đội tham gia lao động sản xuất giúp tránh lãng phí nguồn lực,
giảm chi ngân sách nhà nước, đồng thời góp phần dạy nghề và đào tạo ra lực
lượng lao động có chất lượng cao cho đất nước.

Trong Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Quân đội lần thứ XI nhiệm kỳ 2020
- 2025, xác định các chủ trương, giải pháp lãnh đạo về lĩnh vực sản xuất, phát
triển kinh tế trong Quân đội thời gian tới: Đổi mới, hoàn thiện cơ chế quản lý,
điều hành, thực hiện tốt công tác kế hoạch và đầu tư. Triển khai nhiều giải pháp
huy động, khai thác, sử dụng hiệu quả các nguồn lực đầu tư cho xây dựng, thực
hiện nhiệm vụ của Quân đội, tăng cường tiềm lực quốc phòng; ưu tiên cho các
nhiệm vụ trọng tâm, các chương trình, dự án trọng điểm và kế hoạch đầu tư
công trung hạn giai đoạn 2021 - 2025. Đổi mới mạnh mẽ phương thức bảo đảm
tài chính và thực hiện cơ chế quản lý tài chính Quân đội, Kế hoạch đầu tư trung
hạn nguồn ngân sách quốc phòng giai đoạn 2021 - 2025. Ban hành các văn bản
hướng dẫn triển khai thực hiện bảng lương mới, chế độ phụ cấp đặc thù đối với
lực lượng vũ trang và cơ yếu. Tiếp tục thực hiện chủ trương tự chủ tài chính
đối với một số loại hình đơn vị sự nghiệp công lập. Lãnh đạo thực hiện tốt
nhiệm vụ lao động sản xuất, xây dựng kinh tế kết hợp với quốc phịng. Hồn
chỉnh quy hoạch, đổi mới cơ chế điều hành, đầu tư nâng cao hiệu quả hoạt động
của các đồn, khu kinh tế quốc phịng ở các địa bàn chiến lược, biên giới, biển,
đảo. Rà soát, bổ sung, điều chỉnh và chỉ đạo hoàn thành mục tiêu cơ cấu lại, cổ
phần hóa, đổi mới doanh nghiệp quân đội, góp phần quan trọng vào phát triển
kinh tế - xã hội của đất nước và thực hiện nhiệm vụ phát triển cơng nghiệp
quốc phịng. Qn triệt, triển khai thực hiện nghiêm và thể chế hóa bằng quy
định của pháp luật Kết luận của Bộ Chính trị, quy định của Chính phủ trong
quản lý, sử dụng đất quốc phòng vào hoạt động sản xuất, xây dựng kinh tế của
Quân đội.
Thời gian tới, cùng với việc tập trung nâng cao chất lượng tổng hợp và
sức mạnh chiến đấu, quân đội cần tiếp tục đẩy mạnh và thực hiện có hiệu quả


nhiệm vụ lao động sản xuất, góp phần vào sự phát triển kinh tế của đất nước;
đồng thời, quán triệt và thực hiện có hiệu quả chủ trương, giải pháp chuyển
đổi cơ cấu ngành kinh tế ở nước ta hiện nay. Để làm được điều đó, cần tập

trung thực hiện tốt một số giải pháp chủ yếu sau:
Thứ nhất, tham mưu, đề xuất kịp thời cho Đảng, Nhà nước và Chính
phủ về nhiệm vụ phát triển kinh tế gắn với củng cố quốc phòng và an ninh,
bảo đảm chiến lược phát triển bền vững và hài hịa, đặt lợi ích quốc gia dân
tộc lên hàng đầu, trong đó ln chú trọng về chiến lược bảo vệ Tổ quốc.
Tuyệt đối không vì mục đích phát triển kinh tế mà bất chấp đến vận mệnh và
an nguy của dân tộc. Bên cạnh đó ln chú trọng chiến lược chuyển đổi cơ
cấu nền kinh tế hài hịa, cân đối, phù hợp với tình hình thực tiễn của đất nước,
trong đó chú trọng chuyển đổi cơ cấu ngành trong phát triển kinh tế.
Thứ hai, Nâng cao trách nhiệm của cấp ủy, chỉ huy các cấp đối với
nhiệm vụ sản xuất, xây dựng kinh tế gắn với quốc phòng của Quân đội. Trên
cơ sở quán triệt sâu sắc Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, các chính sách của
Nhà nước, Nghị quyết Đại hội XI của Đảng bộ Quân đội và các chỉ thị, mệnh
lệnh của Bộ Quốc phòng; cấp ủy, chỉ huy các cấp, nòng cốt là cơ quan, đơn vị
kinh tế cần tăng cường lãnh đạo, tạo bước chuyển biến mạnh mẽ trong nhận
thức, trách nhiệm của toàn đơn vị đối với nhiệm vụ sản xuất, xây dựng kinh tế
của quân đội trong giai đoạn mới; tiếp tục khẳng định đó là một nhiệm vụ
chiến lược của quân đội ta.
Thứ ba, Thường xuyên làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục về chức
năng, nhiệm vụ tham gia lao động, sản xuất của Quân đội cho cán bộ, chiến sĩ
và nhân dân. Xác định quan điểm chỉ đạo đúng đắn, phương thức tiến hành
phù hợp và tiếp tục hồn thiện cơ chế, chính sách đối với việc quân đội tham
gia lao động, sản xuất.
Thứ tư, kết hợp chặt chẽ và phát huy tốt vai trị của các loại hình lao
động sản xuất chủ yếu trong quân đội, đẩy mạnh quá trình cơ cấu lại, đổi mới
và nâng cao hiệu quả các doanh nghiệp quân đội, đáp ứng yêu cầu mới của
nền kinh tế.


Thứ năm, Thực hiện nghiêm quy chế về kết hợp phát triển kinh tế - xã

hội với tăng cường quốc phòng an ninh, giữ vững ổn định để phát triển kinh
tế.
Từ những đóng góp quan trọng của Quân đội tham gia sản xuất, xây
dựng kinh tế, Quân đội cần phải nghiên cứu những thành tựu của cơng nghiệp
quốc phịng mang tính lưỡng dụng, để tận dụng các thành tựu của cơng
nghiệp dân sự sang cơng nghiệp quốc phịng. Sự kết nối này sẽ tăng sức mạnh
cho nền kinh tế đất nước và trực tiếp cho quốc phòng.
2. Trách nhiệm của bản thân
Nắm vững và nhận thức sâu sắc về quan điểm, đường lối, chủ trương,
chính sách của Đảng và Nhà nước ta về tái cơ cấu ngành công nghiệp trong
phát triển kinh tế ở nước ta hiện nay là vấn đề có ý nghĩa quan trọng, là trách
nhiệm của người cán bộ, đảng viên. Đặc biệt trên cương vị là cán bộ chính trị,
chủ trì hoạt động cơng tác đảng, cơng tác chính trị trong đơn vị, việc nắm
vững những vấn đề có tính cơ bản trong tái cơ cấu ngành kinh tế nói chung,
tái cơ cấu kinh tế cơng nghiệp nói riêng là cơ sở để tham mưu, giáo dục, định
hướng cho quân nhân trong cơ quan, đơn vị, thơng qua đó giúp cho mọi qn
nhân khơng chỉ vững vàng về chun mơn nghiệp vụ, mà cịn hiểu biết về lĩnh
vực kinh tế của đất nước, nhất là các chủ trương chính sách phát triển kinh tế
của Đảng ta và vai trò của Quân đội trong phát triển kinh tế gắn với nhiệm vụ
bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
Trên cơ sở nắm vững các đường lối, quan điểm của Đảng, chủ trương, chính
sách của Nhà nước, các Chỉ thị, mệnh lệnh của Bộ Quốc phòng và thực tiễn ở
đơn vị; tập trung tham mưu, đề xuất các chủ trương, giải pháp có hiệu để cấp
uỷ lãnh đạo, chỉ đạo các cơ quan, đơn vị; nghiên cứu vận dụng phù hợp các
loại hình sản xuất, kinh doanh, chuyển đổi cơ cấu ngành kinh tế sát với thực
tiễn tăng năng suất, hiệu quả và bảo đảm quốc phòng an ninh. Tích cực tham
mưu, đề xuất cho cấp ủy, thủ trưởng cấp trên về việc nâng cao chất lượng tăng
gia, sản xuất đối với các cơ quan, đơn vị. Thường xuyên phối hợp chặt chẽ
với cấp ủy chính quyền địa phương và đơn vị kinh tế quốc phòng trên địa
bàn đóng



quân về việc giúp đỡ bà con nhân dân nâng cao chất lượng sản xuất, chăn
ni, chuyển đổi mơ hình phát triển sản xuất phù hợp với điều kiện của từng
địa phương, cải tiến áp dụng công nghệ vào sản xuất và đảm bảo an tồn, thân
thiện đối với mơi trường. Thông qua các hoạt động dân vận, hành quân dã
ngoại giúp nhân dân các địa bàn khó khăn, cùng với chính quyền địa phương
từng bước tháo gỡ những khó khăn, hạn chế và khắc phục tình trạng sản xuất
manh mún, lạc hậu hiệu quả kinh tế thấp, góp phần cải thiện nâng cao đời
sống cho bà con nhân dân, cũng như thơng qua đó từng bước chuyển đổi kinh
tế ngành địa phương phù hợp với chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước
về phát triển kinh tế nhỏ lẽ, kinh tế hộ gia đình.
Là cán bộ chính trị xác định việc giáo dục, nâng cao nhận thức, định
hướng tư tưởng và dư luận trong tập thể là hết sức quan trọng, thơng qua đó,
khơng ngừng tun truyền cho bộ đội nhận thức rõ vấn đề, không hoang
mang, dao động và luôn xác định đúng đắn về chức năng của Quân đội là đội
quân chiến đấu, đội quân công tác và đội quân lao động sản xuất. Tích cực
đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái trên không gian mạng, nhất là
những quan điểm phủ nhận thành quả tái cơ cấu công nghiệp, hay xuyên tạc
Việt Nam phát triển công nghiệp làm chệch hướng xã hội chủ nghĩa…
Hiện nay, đất nước ta đang chung tay, đoàn kết, quyết tâm vượt qua đại
dịch COVID-19, không chỉ mất mát về người mà nền kinh tế bị tác động và
chịu ảnh hưởng vơ cùng lớn, đứng trước tình hình đó Đảng và Nhà nước ta đã
có nhiều chính sách, chủ trương đúng đắn, từng bước ổn định, vực dậy nền
kinh tế, quyết tâm vượt qua giai đoạn khó khăn này, trong đó tái cơ cấu kinh
tế công nghiệp là một nội dung vơ cùng quan trọng. Để thực hiện được sách
lược đó là nhiệm vụ vơ cùng nặng nề, địi hỏi sự vào cuộc và chung tay của
mọi cấp, bộ, ngành từ trung ương đến cơ sở, trong đó vai trị của Qn đội
đóng một vị trí hết sức quan trọng, trong việc tham mưu, đề xuất cho Chính
phủ cũng như có những hoạch định đúng đắn, phù hợp nâng cao chất lượng,

sản xuất của các đơn vị kinh tế trong Quân đội, nhất là việc chuyển đổi
ngành, nghề, thích ứng



×