Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

Skkn doi moi phuong phap day hoc mon lich su lop 6 theo dinh huong phat trien nang luc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (146.7 KB, 19 trang )

CHUYÊN ĐỀ:
“ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC MÔN LỊCH SỬ LỚP 6 THEO ĐỊNH
HƯỚNG PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC ”
I. ĐẶT VẤN ĐỀ:
Mơn Lịch sử có vị trí, ý nghĩa quan trọng đối với việc giáo dục thế hệ trẻ. Từ
những hiểu biết về quá khứ học sinh hiểu rõ truyền thống dân tộc, tự hào với những
thành tựu dựng nước và giữ nước của tổ tiên, xác định và làm tốt công việc, nhiệm
vụ được giao. Với tầm quan trọng đó thì việc nâng cao chất lượng bộ mơn nói riêng chất lượng giáo dục nói chung, ln là mối quan tâm lớn nhất của Đảng, của Chính
phủ, ngành giáo dục và nỗi trăn trở của chính những người trực tiếp tham gia nhiệm
vụ giảng dạy. Trong việc nâng cao chất lượng nói chung - mơn Lịch sử nói riêng thì
việc cải tiến phương pháp dạy học là một nhân tố quan trọng.
Năm học 20... – 20..., HS khối lớp 5 vẫn thực hiện chương trình SGK hiện hành.
Tuy nhiên việc đổi mới phương pháp dạy học ở các cấp học đều được quan tâm
nhằm nâng cao chất lượng. Các nhà trường đều hướng tới dạy học theo định hướng
phát triển năng lực học sinh. Song thực tế thì hầu hết giáo viên chưa nắm rõ dạy như
thế nào là phát triển năng lực học sinh, phát triển được năng lực gì? Cách soạn giảng
bài dạy theo định hướng phát triển năng lực là như thế nào? Đặc biệt HS lớp 5
chuyển từ bậc tiểu học lên bậc trung học cơ sở sẽ có nhiều điểm bỡ ngỡ khi phải làm
quen với cách học mới: Sự thay đổi về vị trí, sự ngỡ ngàng khi tiếp cận các mơn học,
sự bất ngờ về ghi chép. Với lí do trên, tơi đã mạnh dạn nghiên cứu chuyên đề “Đồi
mới phương pháp dạy học môn Lịch sử 6 theo định hướng phát triển năng lực”
nhằm trao đổi, chia sẻ về những vấn đề dạy học theo định hướng phát triển năng lực
và giúp học sinh từng bước tiếp cận với phương pháp học của học sinh lớp 6 nói
chung và mơn lịch sử nói riêng.
II. THỰC TRẠNG CỦA VIỆC DẠY THEO ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN
NĂNG LỰC HỌC SINH LỚP 6 HIỆN NAY:
Khi lên lớp 6 học sinh được học nhiều thầy cô giáo với nhiều môn học khác
nhau (Mỗi thầy cô phụ trách một mơn), mỗi thầy cơ lại có phong cách cũng như
phương pháp dạy học riêng và thời lượng quy định là 45 phút/1tiết học nên việc thực
hiện chương trình của từng mơn/tiết là khơng thay đổi vì hết 45 phút học sinh phải



chuyển sang môn khác với thầy cô giáo khác. Như vậy nếu như trong 45 phút ấy có
học sinh chưa hiểu bài, chưa ghi được bài giáo viên cũng không thể kéo dài thời gian
để giảng giải tỉ mỉ cho học sinh được. Các thầy cơ ít có điều kiện quan tâm giúp đỡ
từng học sinh như ở Tiểu học. Đồng thời đa số giáo viên còn nặng về dạy kiến thức,
ít chú ý rèn kỹ năng cho học sinh.
Ở lớp 6 phần lớn chưa được học 2 buổi/ngày; các em phải vừa nghe giảng vừa
hoạt động học tập vừa tự ghi bài nên các em gặp nhiều khó khăn trong học tập. Các
em mới làm quen cách học ở cấp THCS nên tốc độ học còn chậm, học sinh phải làm
quen với các bài học trừu tượng. Trong môn Lịch sử ở ngay các bài đầu tiên của sách
Cánh Diều, học sinh phải tìm hiểu các sự kiện lịch sử (khởi nghĩa Hai Bà Trưng, Bác
Hồ đọc tuyên ngôn độc lập, …); hoặc tìm hiểu các loại tư liệu lịch sử, học sinh phải
tự soạn bài trước ở nhà; số bài kiểm tra, thời gian kiểm tra khác nhau, nhiều hơn…
cách kiểm tra miệng bằng cách học thuộc, bài tập phải viết thành văn bản nên cách
viết chưa thuần thục, cách trình bày diễn đạt cịn kém… Đây là một sự khác biệt
giữa việc dạy học ở lớp 5 và dạy học ở lớp 6 do đó các em sẽ bỡ ngỡ với cách học
này nếu như ở Tiểu học không được làm quen với phương pháp tự học.
Từ những thực trạng trên, tôi đã đổi mới phương pháp, đổi mới cách dạy môn
Lịch sử, chú ý phát triển năng lực học sinh và chú ý tiếp cận dần dần với cách dạy
của cấp trung học cơ sở nhằm giúp học sinh từng bước làm quen với cách học, cách
ghi bài của lớp 6 và đặc biệt phát triển năng lực tự học, góp phần nâng cao chất
lượng cho cả quá trình học
III. CÁC GIẢI PHÁP CƠ BẢN
1. Giáo viên cần hiểu và xác định rõ được một số năng lực cơ bản học sinh trong
quá trình học tập
Dạy học theo định hướng phát triển năng lực là mô hình dạy học nhằm phát
triển tối đa năng lực của người học. Trong đó người học tự mình hồn thành nhiệm
vụ nhận thức dưới sự tổ chức hướng dẫn của người dạy. Như vậy, mỗi giáo viên cần
xác định được vai trò, tầm quan trọng của việc dạy học theo định hướng phát triển
năng lực của học sinh. Để học sinh có thể học tốt mơn khác nói chung và mơn Lịch

sử nói riêng thì giáo viên cần đặc biệt chú ý đến năng lực tự học, năng lực hợp
tác, năng lực giải quyết vấn đề của học sinh.


a. Năng lực tự học:
Để hình thành năng lực tự học cho học sinh, cần xây dựng hệ thống nội dung học
tập logic, chặt chẽ và hướng dẫn học sinh chiếm lĩnh nội dung đó bằng các việc làm
cụ thể sao cho đạt được kết quả chắc chắn, qua đó nhằm khuyến khích học sinh tự
tìm hiểu, tự khám phá ra kiến thức mới gần giống như kiến thức mà các em đã được
học. Với những nội dung vừa phân tích ta có thể thấy “Năng lực tự học là cốt lõi
trong thời đại mới”.
b. Năng lực hợp tác:
Thông qua hợp tác trong học tập người học rèn luyện được nhiều kĩ năng như tổ
chức nhóm, kĩ năng lắng nghe, phản hồi tích cực, kĩ năng đánh giá, tự đánh giá, ...
Học sinh lớp 6 phát triển năng lực hợp tác sẽ giúp các em mạnh dạn, tự tin hơn, biết
phối kết hợp với các bạn trong các hoạt động nhóm để nâng cao hiệu quả của các
hoạt động học tập. Điều này giúp các em tiếp cận được dễ dàng hơn với môi trường
học tập của lớp 6, của bậc trung học cơ sở.
c. Năng lực giải quyết vấn đề:
Học sinh rất cần thiết để phát triển năng lực giải quyết vấn đề bởi nó giúp học
sinh nắm vững kiến thức, liên hệ giữa các kiến thức; có khả năng vận dụng các kiến
thức, kĩ năng vào cuộc sống, cơng việc; có ý thức trách nhiệm đối với gia đình, xã
hội; ý thức nâng cao chất lượng, hiệu quả công việc.
Việc áp dụng các biện pháp phát triển năng lực là điều rất cần thiết đối với học
sinh tiểu học, giúp các em mạnh dạn, tự tin hơn và tích cực tham gia vào hoạt động
của nhà trường, được bày tỏ ý kiến, tăng cường vận dụng kiến thức nhằm giải quyết
các vấn đề trong học tập và thực tiễn; đồng thời cũng góp phần đổi mới mạnh mẽ
phương pháp dạy học, nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện cho học sinh trong các
nhà trường.
2. Thực hiện tốt đổi mới phương pháp dạy học nhằm phát triển năng lực cho

học sinh.
Trong việc đổi mới phương pháp dạy và học theo hướng tích cực thì phương
pháp học của học sinh là mối quan tâm hàng đầu. Phương pháp dạy và học tích cực
đề cập đến các hoạt động dạy và học nhằm tích cực hố hoạt động học tập và phát
triển tính sáng tạo của người học. Trong đó các hoạt động học tập được tổ chức,


được định hướng bởi giáo viên, người học không thụ động, chờ đợi mà tự lực, tích
cực tham gia vào quá trình, tìm kiếm, khám phá, phát hiện kiến thức để giải quyết
vấn đề trong thực tiễn, qua đó lĩnh hội nội dung học tập và phát triển năng lực sáng
tạo. Một số phương pháp giáo viên có thể sử dụng: phương pháp giải quyết vấn đề,
thảo luận nhóm, trị chơi. Dạy và học theo hướng tích cực là dạy và học thông qua tổ
chức các hoạt động của học sinh và chú trọng rèn luyện phương pháp tự học.
Năm học 20... – 20... này đặc biệt chú trọng đổi mới phương pháp dạy học
nhằm phát triển năng lực của học sinh với các đặc trưng cơ bản: dạy học thông qua
các hoạt động của học sinh, chú trọng rèn luyện phương pháp tự học, tăng cường học
tập cá thể phối hợp với học tập hợp tác, kết hợp đánh giá của thầy với tự đánh giá
của trò.
Việc đổi mới phương pháp dạy học nhằm tiếp cận với cách dạy và học của lớp
6 cần thể hiện ở việc dạy học chú ý khắc sâu kiến thức cho học sinh hướng tới dạy
học sinh cách tự học, tự nhớ kiến thức và tự ghi bài.
2.1.Giúp các em tìm tài liệu tham khảo:
Khi học sinh mới bước vào cấp II còn lạ lẫm với thầy cô mới, phương pháp
học tập mới. Các em khơng cịn được học tất cả bộ mơn bởi một thầy cơ mà thay vào
đó là mỗi thầy cô phụ trách một bộ môn nhất định. Mỗi thầy cơ có cách giảng dạy
riêng, mỗi bộ mơn có đặc thù riêng. Vì vậy các em chưa thích ứng ngay được, để
giúp các em có thể nhanh chóng hịa nhập, phát huy tốt nhất khả năng của các em đối
với mơn Lịch sử tơi đã hướng dẫn các em tìm các tài liệu, giúp các em tự học, tự ghi
nhớ kiến thức tốt hơn. Tất cả các tài liệu trên có thể tìm kiếm trên Internet. Cụ thể
một số tài liệu tham khảo:

- Tài liệu thành văn
- Tài liệu tranh, ảnh
- Tài liệu văn học dân gian
- Các thuật ngữ, khái niệm lịch sử trong chương trình lớp 6 Ví dụ: “bộ lạc”, “di
chỉ”….Một số thuật ngữ trong sách giáo khoa lớp 6 đã có giải thích nhưng
cũng có một số thuật ngữ trong sách giáo khoa khơng có các em phải tự tìm
hiểu ở các tài liệu khác.
- Tài liệu nhân vật hay đồ phục chế. Như trống đồng, công cụ đồ đá.


- Tài liệu trực quan quy ước gồm các loại bản đồ, đồ thị
2.2. Hướng dẫn học sinh tự học trên lớp:
2.2.1.Tự học theo nhóm:
Với hình thức này học sinh được lôi cuốn vào hoạt động học tập, tiếp thu kiến
thức bằng chính khả năng của mình với sự tổ chức hướng dẫn của giáo viên. Học
sinh tự học theo nhóm sẽ phát huy tính tích cực của học sinh mà tinh thần cơ bản là
tập trung vào học sinh, giáo viên chỉ là người tổ chức hướng dẫn, tạo cơ hội để các
em tham gia tích cực, chủ động trong quá trình học tập.
Việc trước tiên giáo viên phải làm là biết cách chia nhóm, tạo kiểu nhóm, mỗi
nhóm 2- 6 em, các nhóm có thể chia ngẫu nhiên hoặc chủ định, thay đổi trong từng
phần của tiết học, được giao thảo luận cùng nhiệm vụ hoặc khác nhiệm vụ, các em
có cơ hội để thể hiện ý kiến của nhóm mình. Và cùng với đó là ý kiến của cá nhân
mình. Để nâng cao tính tích cực trong thảo luận nhóm giáo viên nên có sự điều khiển
sao để tất cả các thành viên trong một nhóm có thể được trình bày ý kiến khơng phải
chỉ nhóm trưởng mới là người trình bày ý kiến. Thay vì gọi nhóm trưởng lên trình
bày ý kiến thì ai dơ tay nhanh nhất trong nhóm sẽ được trả lời trước ai trả lời nhanh
nhất, đúng nhất sẽ được ghi điểm cao nhất rồi ai nhanh thứ hai, đúng thứ hai sẽ được
điểm cao thứ nhì …
Giáo viên có thể sử dụng một số phương pháp làm việc nhóm tích cực phù hợp
với học sinh vùng khó như vùng của chúng ta, đó là sử dụng kĩ thuật khăn trải bàn,

tạo nhóm chun gia để làm việc nhóm …
Ví dụ: bài 13: NƯỚC ÂU LẠC (Sách Cánh diều)
Ở phần 1. Sự ra đời và tổ chức nhà nước Âu Lạc
Cho học sinh đọc mục 1 và quan sát hình 13.2, 13.3 sgk và quan sát các tranh ảnh về
thành Cổ Loa, các loại vũ khí của Âu Lạc trên Slide
Sau đó chia cả lớp thành 8 nhóm mỗi nhóm 2 bàn (tùy theo số lượng học sinh).
* Nhóm 1; 2
- Tóm tắt q trình hình thành nước Âu Lạc.
*Nhóm 3; 4
- An Dương Vương đã cho xây dựng thành Cổ Loa như thế nào?
- Em có nhận xét gì về việc xây dựng cơng trình thành Cổ Loa?


* Nhóm 5; 6.
- Vũ khí nào là vũ khí đặc sắc của nước Âu Lạc?
- Vì sao quân thù khiếp sợ vũ khí đặc sắc của nước Âu Lạc?
* Nhóm 7; 8
Nêu những điểm giống và khác nhau của nhà nước Văn Lang và Âu Lạc.
Khi hoạt động nhóm các thành viên cần: Tập trung vào nhiệm vụ của nhóm
mình, từng thành viên sẵn sàng đưa ra ý kiến của mình, trao đổi, thảo luận để có ý
kiến thống nhất ngoài việc chú tâm vào làm nhiệm vụ của nhóm mình cịn cần chăm
chú nghe nhóm khác phát biểu, sau đó nhận xét câu trả lời của nhóm bạn, nhóm nào
nhận xét đúng sẽ được ghi điểm cộng (1điểm + hoặc 2 điểm + để khuyến khích).
Bằng cách học này học sinh được hấp dẫn, lôi cuốn vào hoạt động học tập, thu lượm
kiến thức bằng chính khả năng của mình dưới sự hướng dẫn của giáo viên.
2.2.2. Tự học trên lớp bằng cách giải quyết vấn đề mà giáo viên nêu ra:
Giáo viên nêu vấn đề và điều khiển hoạt động của học sinh nhằm tự lực giải quyết
những vấn đề học tập, việc này đòi hỏi học sinh phải tập trung lắng nghe, theo dõi
vấn đề mà giáo viên đưa ra để tiến hành hoạt động trí tuệ, tự lĩnh hội kiến thức nhờ
vậy mà đảm bảo tính vững chắc của tri thức, học sinh tự suy nghĩ sáng tạo, có những

kiến thức khơng có sẵn trong sách giáo khoa đòi hỏi học sinh phải liên tưởng, suy
luận.
Ví dụ: Khi dạy phần “Nước Văn Lang”(Bài 12 – Lịch sử 6, Cánh diều), có thể tạo
tình huống có vấn đề bằng cách nêu câu hỏi : “Trong cuộc sống hàng ngày, cư dân
Văn Lang ăn mặc và đi lại như thế nào? Hãy suy nghĩ xem cuộc sống đó có gì độc
đáo?”. Phần này khơng có sẵn đáp án trong sách giáo khoa mà học sinh tự tìm tịi,
suy nghĩ, sáng tạo để trả lời.
Hoặc giáo viên có thể yêu cầu học sinh đặt mình vào một nhân vật lịch sử nào đó và
yêu cầu học sinh nếu em là nhân vật thì em sẽ làm gì ?
Ví dụ: Khi dạy xong bài 13. Nước Âu Lạc (Lịch sử 6, Cánh diều), giáo viên có thể
tìm hiểu trước truyện “Mị Châu – Trọng Thủy” . Tại lớp, GV nêu vấn đề: “ Khi
Triệu Đà xin hòa gả Trọng Thủy cho Mị Châu, Trọng Thủy đến Âu Lạc ở rể…”
Giáo viên yêu cầu học sinh dựa vào kiến thức lịch sử và truyền thuyết hỏi học sinh
trước tình hình như vậy “ Nếu em là An Dương Vương em sẽ làm gì …?”


Trước tình huống như vậy giáo viên có thể tổ chức cho các em thảo luận nhóm, hoặc
học sinh làm việc cá nhân, giáo viên nên để cho học sinh tự do trình bày suy nghĩ
của mình và có thể để các học sinh khác trong lớp đưa ra ý kiến phản đối hoặc đồng
tình với ý kiến của bạn mình. Nếu em khơng đồng tình với ý kiến của bạn thì em sẽ
làm như thế nào ? Giáo viên chỉ nên định hướng, gợi mở cho các em ví như : Nếu
chúng ta khơng đồng ý hịa thì tình hình sẽ thế nào …? Hoặc: Nếu đồng ý hịa thì
chúng ta nên cảnh giác thế nào …?
Khi tổ chức cho học sinh giáo viên cần lưu ý vấn đề thời gian, nếu học sinh trả
lời quá lan man, dài dịng hoặc khơng ăn nhập chủ đề giáo viên có thể ngắt lời để
tránh mất quá nhiều thời gian .
Với cách đặt vấn đề như vậy học sinh vừa được đặt mình vào nhân vật lịch sử,
vừa tự đưa ra cách giải quyết riêng và vừa tự rút ra cho mình bài học kinh nghiệm
lịch sử. Với cách làm việc như vậy giáo viên không cần làm việc nhiều, học sinh làm
việc là chính khơng những vậy cịn tạo hứng thú cho học sinh rất nhiều .

Khi tổ chức cho học sinh giáo viên cần dẫn dắt để học sinh có thể hiểu rõ vấn
đề. Phương pháp tự học bằng cách giải quyết vấn đề là phương pháp học sinh phải
tiến hành hoạt động trí tuệ, tự lĩnh hội tri thức mới bằng cách giải quyết vấn đề học
tập dưới sự giúp đỡ của giáo viên, góp phần phát triển tư duy cho học sinh.
2.2.3. Ứng dụng công nghệ thông tin giúp các em tự học :
Ngày nay có một phương tiện dạy học hiện đại có tác dụng lớn trong việc tạo
hứng thú cho các em trong dạy học đó là sử dụng giáo án trình chiếu được thiết kế
trên các phần mềm như powerpoint, Violet, …, đối với môn Lịch sử giáo viên khéo
léo sử dụng giáo án trình chiếu sẽ giúp các em tự học tốt hơn rất nhiều.
Ví dụ như Lịch Sử lớp 6 bài 15: Các cuộc khởi nghĩa tiêu biểu giành độc lập, tự chủ (Từ
đầu Công nguyên đến trước thế kỉ X), mục 3. khởi nghĩa Lí Bí và nước Vạn Xuân (542602) giáo viên có thể lồng ghép đoạn phim hoạt hình nói về khởi nghĩa Lí Bí là đoạn
phim “Vạn Xn Chiến Quốc” sẽ tạo hứng thú cho học sinh rất nhiều và xem phim
học sinh có thể khắc sâu kiến thức khơng chỉ những kiến thức có trong sách giáo
khoa mà cịn có thể bổ sung thêm kiến thức bên ngồi . Những đoạn phim hoạt hình
này trên mạng in tơ nét rất dễ tìm kiếm. Hay dạy bài 17, mục 3. Ngô Quyền và Chiến
Thắng Bạch Đằng (năm 938) giáo viên có thể đưa đoạn phim hoạt hình “ Đại chiến


Bạch Đằng” hay dạy bài 15, mục 1. Khởi nghĩa Hai Bà Trưng, giáo viên có thể đưa
đoạn phim hoạt hình “Trưng Nữ Vương” (Phim lấy từ http:youtube.com).
Với những đoạn phim hoạt hình này phù hợp với lứa tuổi của các em, kích
thích các giác quan. Khơng chỉ giúp các em nắm kiến thức vững hơn cịn có tác
dụng giáo dục tư tưởng, tình cảm yêu quê hương, đất nước, căm thù quân xâm lược.
Cần lưu ý giáo viên không nên đưa những đoạn phim quá dài sẽ chiếm nhiều thời
gian của tiết dạy. Giáo viên cũng có thể cắt bớt những phần không cần thiết trước
khi đưa vào giáo án trình chiếu. Để làm tốt việc này mỗi giáo viên chúng ta phải
trau dồi thêm kiến thức tin học để phục vụ tốt nhất cho việc giảng dạy của mình .
Hay khi dạy về Triệu Quang Phục và đầm Dạ Trạch giáo viên có thể trích một
đoạn phóng sự giới thiệu về Đầm Dạ Trạch ngày nay. Như phóng sự “Câu chuyện
đầm Dạ Trạch” qua phóng sự học sinh có thể quan sát được về khung cảnh đầm Dạ

Trạch mặc dù chỉ là khung cảnh của ngày nay nhưng phần nào học sinh cũng sẽ nhận
thấy được ưu thế của đầm mà sử dụng tranh thì khơng đem lại tác dụng tối ưu.
Khơng những vậy học sinh cịn tự nắm được về truyền thuyết của đầm không chỉ gằn
liền với tên tuổi của Triệu Quang Phục mà còn gắn với truyền thuyết Tiên Dung –
Chử Đồng Tử mà nếu chỉ sử dụng lời giảng của giáo viên dễ đem đến sự nhàm chán.
Hay khi dạy bài 15, mục 1. Khởi nghĩa Hai Bà Trưng, giáo viên chiếu lược đồ:
Kháng chiến chống quân xâm lược Hán. Với những kí hiệu, mũi tên quân ta, quân
Hán có màu sắc đối lập rõ ràng dễ phân biệt, hiệu ứng sinh động rất hấp dẫn học sinh
khi theo dõi diễn biến.
Trước khi tường thuật diễn biến giáo viên yêu cầu học sinh theo dõi lược đồ, giáo
viên giới thiệu phần chú thích, sau đó chiếu đến đâu tường thuật diễn biến đến đó,
trong quá trình tường thuật diễn biến kết hợp ra câu hỏi cho học sinh .
2.2.4. Hướng dẫn học sinh tự học thơng qua tiết hoạt động ngoại khóa:
Thi kể chuyện lịch sử.
Lịch sử với tư cách là một môn khoa học có vai trị quan trọng trong việc giáo
dục học sinh khơng chỉ lịng u nước, lịng biết ơn, mà cịn giáo dục học sinh tình
cảm u ghét, u cái đẹp, yêu lao động, căm thù quân xâm lược. Những câu chuyện
lịch sử phù hợp với cách tổ chức dạy học phù hợp có tác dụng rất to lớn trong việc
giáo dục đạo đức học sinh khơng những vậy cịn tạo ra một động lực mạnh mẽ để


các em phát huy tính tích cực, chủ động, độc lập, sáng tạo, trong quá trình học tập
nhằm vươn tới nắm bắt kiến thức, biến kiến thức trong sách vở, kiến thức của thầy
cơ thành kiến thức của mình .
Những câu chuyện lịch sử nhìn chung thường có nội dung về những sự kiện, hiện
tượng lịch sử, những nhân vật lịch sử … Thông qua những câu chuyện ấy bồi dưỡng
những tình cảm tốt đẹp trong tâm hồn ngây thơ, trong trắng của các em, những mẩu
chuyện hay sẽ tạo được ấn tượng mạnh mẽ, sâu sắc, khó quên giúp các em có thể
nhớ rất lâu về một sự kiện lịch sử nổi bật, về một nhân vật anh hùng …
Có nhiều cách để đưa những câu chuyện lịch sử đó đến với các em như giáo

viên có thể sưu tầm về kể cho các em, lồng ghép trong các tiết dạy …nhưng với một
tiết hoạt động ngoại khóa thì nên để cho các em tự kể bằng cách tổ chức cho các em
thi giữa các nhóm. Trong chương trình lịch sử lớp 6 có rất nhiều câu chuyện liên
quan đến các sự kiện, nhân vật lịch sử rất quen thuộc với các em có thể các em đã
được biết đến từ cấp 1 hoặc thông qua các môn học khác như môn văn học như :
truyền thuyết Âu Cơ – Lạc Long Quân, Thánh Gióng, Sơn Tinh – Thủy Tinh, Mị
Châu – Trọng Thủy, Thục An Dương Vương xây thành Cổ Loa, Thục An Dương
Vương bãi chức tướng quân Cao Lỗ …
– Giáo viên có thể tổ chức cho các em thi bằng cách chia lớp làm 4 đội, giáo viên tự
đặt tên cho mỗi đội, phân cho mỗi đội kể chuyện về một nhân vật lịch sử hoặc một
thời kì lịch sử.
– Giáo viên hướng dẫn các em sưu tầm tài liệu để học sinh có thể kể tốt hơn. Hoặc
giáo viên có thể chuẩn bị sẵn nội dung và yêu cầu học sinh kể chuyện.
– Giáo viên yêu cầu tất cả học sinh của tổ mình phải sưu tầm tài liệu và khi kể
chuyện gọi bất kì học sinh nào lên kể. Sau tiết học giáo viên có thể ra thêm câu hỏi
thu hoạch cho học sinh
– Hình thức thi: Mỗi đội sẽ kể 1 đến 2 câu chuyện về nhân vật hoặc sự kiện lịch sử.
– Cách chấm điểm dựa vào nội dung, giọng kể, điệu bộ, cử chỉ. Nếu tốt sẽ đạt điểm
tối đa là 10 điểm.
– Đội nào thắng nhất : được thưởng 4 gói kẹo, nhì: 3 gói, ba: 2 gói, tư : 1 gói.
Làm như vậy học sinh sẽ lĩnh hội được kiến thức, tạo lòng ham học cho học
sinh.


Giáo viên có thể căn cứ vào chương trình lịch sử lớp 6 các em đã học cung cấp
một số nội dung câu chuyện phù hợp chương trình học, có tính giáo dục cao, lượng
kiến thức lịch sử trong các câu chuyện phù hợp với nội dung học tập của các em. Rồi
giao cho các đội về nhà tìm hiểu nội dung để sau khi kể xong giáo viên ra câu hỏi thu
hoạch cho các đội để kiểm tra lại sự hiểu biết của các em, xem qua các câu chuyện
đó các em nắm được những gì.

2.3

Hướng dẫn các em tự học ở nhà:

Các em cần nắm được những kiến thức cơ bản trong sách giáo khoa. Kiến thức cơ
bản là yếu tố tối ưu cần thiết cho sự hiểu biết của học sinh về lịch sử thế giới và lịch
sử dân tộc. Những kiến thức cơ bản đủ phác họa nên bức tranh quá khứ một cách
chân thật. Giáo viên cần hướng dẫn học sinh cách tự học, tự nắm bắt kiến thức, phân
biệt được lịch sử cụ thể từng thời kì, phản ánh được quy luật phát triển của xã hội .
Hoạt động học tập đòi hỏi các em phải tự giác, tích cực và độc lập “khơng ai có
thể học thay mình”, phải chủ động lĩnh hội kiến thức. Sau khi nắm được những kiến
thức cơ bản thì các em cần đọc thêm tài liệu liên quan để mở rộng vấn đề.
Khi học các em phải thật tập trung để nhớ bài học, không tập trung quá nhiều
thời gian cho một môn học. Khi học bài nhớ theo trình tự “logic” .
Ví dụ: Khi trình bày cuộc khởi nghĩa: Phải trình bày hồn cảnh, ngun nhân, diễn
biến, kết quả, ý nghĩa lịch sử, bài học kinh nghiệm. Nhắc nhở các em khi học phải
lưu ý các mốc thời gian ví như khi học khởi nghĩa Hai Bà Trưng: Thời gian dựng cờ
khởi nghĩa là năm 40, thì thời gian kết thúc khởi nghĩa phải là từ năm 40 trở về sau,
chứ không phải là thời gian trước đó.
Đọc những mẫu chuyện về tấm gương anh hùng liệt sĩ trong công cuộc dựng
nước và giữ nước, kể cho em hoặc bạn bè, người thân nghe về chuyện lịch sử để nhớ
kiến thức như: Sơn Tinh, Thủy Tinh; Thánh Gióng; Tơ Vĩnh Diện; Phan Đình Giót ;
An Dương Vương với truyền thuyết nỏ thần… Đọc lịch sử Việt Nam bằng tranh.
Xem bài mới trước khi đến lớp, trả lời ngắn gọn những câu hỏi ở sau mỗi mục
của bài. Khi tìm hiểu bài mới nên tham khảo sách Hướng dẫn trả lời câu hỏi và bài
tập lịch sử 6 – Nhà xuất bản đại học quốc gia hà nội để tham khảo thêm, các em có
thể mượn ngay tại thư viện nhà trường. Giáo viên nên hướng dẫn học sinh chỉ nên
coi đó là tài liệu tham khảo, cần suy nghĩ và trả lời trước rồi mới lấy sách ra tìm hiểu



thêm nếu quá ỷ lại vào sách sẽ dẫn đến tình trạng lười suy nghĩ ở các em
Mỗi học sinh cần chuẩn bị một cuốn sổ tay cá nhân để viết những sự kiện đáng
nhớ vào sổ, tiện cho việc nhớ sự kiện.
Ví dụ: Học đến bài 12: Nước Văn Lang và bài 13: Nước Âu Lạc. Học sinh có thể
ghi lại một số kiến thức đáng nhớ: Hùng Vương lên ngơi vua đặt tên nước là Văn
Lang đóng đơ ở Bạch Hạc ( Việt Trì – Phú Thọ ). Tướng văn là Lạc Hầu – Tướng võ
là Lạc Tướng ( đứng đầu bộ ), Bồ chính đứng đầu Chiềng chạ.
Thục Phán lên ngôi vua xưng là An Dương Vương đóng đơ ở Phong khê (nay là
vùng Đơng Anh – Hà Nội ). An Dương Vương cho xây thành Cổ Loa ở đây, thành
Cổ Loa còn được coi là “quân thành”. … Đây là những kiến thức cơ bản đáng nhớ
với cách ghi chép vắn tắt như vậy học sinh có thể ghi nhớ những kiến thức cơ bản
quan trọng, khi cần thiết có thể lấy ra xem lại hoặc khi gặp các câu hỏi như : “Nêu
những điểm giống nhau và khác nhau của nhà nước Văn Lang và nhà nước Âu
Lạc ?” thì học sinh dễ hệ thống hóa kiến thức để trả lời. Đối với học sinh trung học
cơ sở, khơng có nhiều điều kiện để các em có thể đi thực tế, bảo tàng… Do đó, việc
sử dụng Internet để phục vụ cho việc học tập nói chung và việc học tập lịch sử nói
riêng là rất cần thiết. Ngày nay công nghệ thông tin đã rất phổ biến học sinh ở cấp
trung học cơ sở cũng đã có thể tự tìm hiểu được thơng tin trên mạng.
Nhưng muốn khai thác tốt thông tin trên mạng thì địi hỏi giáo viên phải có sự
định hướng và từng bước rèn luyện cho các em kĩ năng khai thác tài liệu từ phương
tiện hiện đại này.
Để rèn luyện cho học sinh kĩ năng tự học qua việc khai thác tài liệu trên mạng
internet được hiệu quả, đỡ mất thời gian tìm kiếm, giáo viên có thể cung cấp cho học
sinh những địa chỉ như sau:
http://www. google.com (trang công cụ tìm kiếm phổ biến nhất)
http://www. wikipedia.org (trang cơng cụ tìm kiếm Bách khoa tồn thư)
(trang web của BGD-ĐT)
http://www. youtube.com (trang cơng cụ tìm kiếm video clip)
Bên cạnh đó để định hướng cho học sinh khai thác những thông tin đáng tin
cậy, độ xác thực cao, không bị xuyên tạc, giáo viên phải hướng dẫn nên truy cập vào

những trang web có kí hiệu đi: edu, org, vn, gov….


Ngồi ra giáo viên có thể tổ chức và hướng dẫn học sinh giải các bài tập, câu
hỏi trong sách giáo khoa. Đây là một hình thức làm bài tập chủ yếu trong tự học ở
nhà của học sinh. Bởi các bài tập, câu hỏi trong sách giáo khoa chính là sự định
hướng cho học sinh những kiến thức cơ bản mà học sinh cần nắm trong mỗi mục,
mỗi bài hay mỗi chương. Hơn nữa, trong sách giáo khoa hiện nay, các bài tập không
chỉ đơn thuần là các câu hỏi mang tính chất kiểm tra kiến thức mà chủ yếu là các bài
tập địi hỏi tính tư duy, sáng tạo của học sinh. Hoàn thành được các bài tập trong
sách giáo khoa có nghĩa là các em đã lĩnh hội được những kiến thức cơ bản mà yêu
cầu bài học đặt ra. Tuy nhiên, cái quan trọng là giáo viên cần hướng dẫn cho học
sinh để các em có thể tự làm bài tập ở nhà một cách có chất lượng. Cụ thể : giáo viên
có thể tổ chức và hướng dẫn học sinh làm bài tập trong sách giáo khoa lịch sử khi tự
học ở nhà theo trình tự sau :
- Giáo viên hướng dẫn học sinh đọc và nắm được nội dung cốt yếu của bài học trong
sách giáo khoa .
- Đọc và giải thích các tranh ảnh, sơ đồ, hình vẽ, bản đồ …trong sách giáo khoa –
Đối chiếu nội dung trong sách giáo khoa với nội dung bài giảng của giáo viên.
- Sau đó mới trả lời các câu hỏi, bài tập .
Học sinh trong q trình tự học, thực hiện được các cơng việc trên sẽ khắc
phục được tình trạng chỉ học thuộc hay chép lại sách giáo khoa và bài giảng của thầy
cũng như tính thụ động, mất tự tin, thiếu sáng tạo trong học tập .
Tổ chức và hướng dẫn học sinh làm một số bài tập do giáo viên đưa ra .
Sau mỗi giờ lên lớp, nhằm giúp học sinh nắm vững được hệ thống kiến thức
trong một bài hay trong một số bài hoặc một chương và rèn luyện kĩ năng tự học, tùy
theo nội dung cũng như điều kiện học tập cụ thể, giáo viên có thể ra thêm một số câu
hỏi và bài tập để học sinh tự làm ở nhà ( số lượng bài tập, nội dung phải phù hợp với
yêu cầu và trình độ của việc học tập ). Bài tập ra về nhà chủ yếu là các loại bài tập
nhận thức hoặc bài tập rèn kĩ năng thực hành :

Những câu hỏi, bài tập về nhà mà giáo viên ra thêm sau mỗi tiết học phải đảm bảo
tính cơ bản về kiến thức, vừa sức và đặc biệt là phải chứa tính hấp dẫn, thu hút sự
tích cực tìm hiểu, khám phá của học sinh. Bài tập đó phải tạo ra được sự nỗ lực trong
bản thân các em. Và chủ yếu bài tập ra về nhà là những bài tập có tính phức tạp, đòi


hỏi các em tư duy cao, do đó giáo viên phải hướng dẫn, và nếu được giáo viên hướng
dẫn học sinh sẽ suy nghĩ và hồn thành tốt, từ đó trình độ nhận thức của các em được
nâng cao .
Giáo viên không chỉ thường xuyên ra bài tập về nhà để nâng cao khả năng tự
học của học sinh mà còn phải thường xuyên kiểm tra, đánh giá kết quả làm bài tập ở
nhà cho học sinh. Vì vậy giáo viên cần yêu cầu học sinh phải có vở bài tập, kiểm tra
xem các em có làm bài hay khơng, kết quả đạt được ra sao và nhận xét đánh giá, cho
điểm nhằm khuyến khích động viên kịp thời .
Với các loại bài tập như vậy yêu cầu học sinh phải động não, tư duy, suy nghĩ, tự tìm
tịi thêm các tài liệu khác để hoàn thành yêu cầu như vậy có tác dụng rất
2.4

Hướng dẫn học sinh tự học qua phần củng cố bài:
Thông thường giáo viên không xem trọng vấn đề này, trong q trình đi dự

giờ, tơi thấy đa số giáo viên đi lướt qua phần củng cố này. Củng cố bài thường là câu
hỏi đã có sẵn ở mục bài, học sinh sẽ đọc y nguyên nội dung trong mục đó. Nên hiệu
quả học khơng cao.
Giáo viên cần hướng dẫn học sinh củng cố bài bằng cách làm bài tập trắc
nghiệm, hoặc giải ô chữ, bài tập ghép đơi, chơi trị chơi, sử dụng sơ đồ tư duy …
Giáo viên yêu cầu dán bài tập che lên kín phần giáo viên ghi bảng, học sinh tất
cả phải gấp sách vở lại, tài liệu liên quan.
Giáo viên gọi bất kì học sinh nào lên làm bài tập, hoặc gỡ ô chữ, ghép đôi mà
giáo viên đã chuẩn bị sẵn, học sinh khác nhận xét, giáo viên chốt lại. Như vậy học

sinh sẽ rèn luyện được ý thức tự học.
Ví dụ sau khi dạy xong bài 6 Văn hóa cổ đại giáo viên có thể đưa ra một sơ đồ tư
duy sau yêu cầu học sinh hoàn thành. Giáo viên sẽ đưa ra sơ đồ chỉ có những nhánh
chính, cịn những nhánh nhỏ bỏ trống ở sơ đồ này có 2 nhánh lớn , mỗi nhánh lớn có
4 nhánh chính để định hướng cho học sinh, sau đó giáo viên gợi ý bằng những câu
hỏi .
Ví như: Người phương Đông cổ đại đã đạt được những thành tựu gì về thiên văn ?
Hay người Hi Lạp , Rơ ma cổ đại đã đạt những thành tựu gì về thiên văn ?
Học sinh trả lời , giáo viên đưa ra những nhánh tiếp theo để học sinh theo dõi . Nếu
giáo viên dạy khơng có giáo án trình chiếu giáo viên nên che lại những nhánh nhỏ,


sau khi học sinh trả lời mới mở ra , cịn nếu dạy giáo án điện tử thì thuận tiện hơn,
giáo viên nên dùng hiệu ứng cho thích hợp .
Tương tự như vậy đối với các thành tựu khác : Chữ viết , kiến trúc …Giáo viên dùng
các câu hỏi gợi mở để học sinh tìm hiểu .
Với cách củng cố bài như vậy học sinh sẽ nắm bài một cách tổng quát, tự lĩnh hội
kiến thức, khi về nhà học bài cũ tránh được tình trạng học vẹt ở các em .
2.5.

Hướng dẫn các em tự học qua khai thác kênh hình:
Những kênh hình có sẵn trong sách giáo khoa dưới dạng nêu vấn đề để học

sinh suy nghĩ, giảm tải được 25% số lượng kênh chữ. Theo số liệu khoa học của
UNESCO: “Khi nghe, học sinh chỉ nhớ 15% thơng tin, khi nhìn khơng ai nói gì học
sinh chỉ nhớ 25%, khi nghe và nhìn học sinh sẽ nhớ 65% thông tin”. Nếu biết huy
động sự tham gia của nhiều giác quan, sẽ kết hợp chặt chẽ được hai hệ thống tín hiệu
với nhau, tai nghe mắt thấy tạo điều kiện cho học sinh dễ hiểu, nhớ lâu, gây được
những mối liên hệ thần kinh tạm thời khá phong phú, phát triển ở học sinh năng lực
chú ý, quan sát, hứng thú. Kênh hình khơng chỉ minh họa, đặt cơ sở cho việc tạo

biểu tượng lịch sử mà là nguồn cung cấp kiến thức cho học sinh. Bên cạnh đó một số
bài viết trong sách giáo khoa cịn có nhiều nội dung để ngỏ chưa viết hết, yêu cầu
học sinh thông qua làm việc với tranh ảnh, sơ đồ, bản đồ…Sẽ cần thiết liên quan đến
nội dung bài học mà tác giả trong sách giáo khoa muốn chuyển tải đến học sinh.
Ví như : Khi học bài Nước Văn Lang dạy về phần tổ chức bộ máy nhà nước Văn
Lang giáo viên chỉ cần yêu cầu học sinh vẽ lại sơ đồ tổ chức bộ máy nhà nước Văn
Lang và tự nắm kiến thức theo sơ đồ. Và có thể dựa vào sơ đồ này để học sinh vẽ
được sơ đồ nhà nước thời An Dương Vương . Từ đây học sinh có thể nêu nhận xét so
sánh về tổ chức bộ máy nhà nước Văn Lang Và Âu Lạc . Để hướng dẫn học sinh
nắm kiến thức theo sơ đồ giáo viên có thể hỏi một số câu hỏi gợi ý như : “Đứng đầu
nhà nước là ai ?” “Giúp việc cho vua là ai?” “Dưới cấp trung ương là cấp nào? Ai
đứng đầu?”…
Kênh hình phong phú đa dạng như vậy đòi hỏi giáo viên phải sử dụng linh hoạt,
sáng tạo, hướng dẫn học sinh về nhà tìm hiểu những nội dung đó để các em có biểu
tượng ban đầu về sự kiện, hiện tượng, nhân vật lịch sử…Thể hiện trong kênh hình.
Tuy nhiên đây là việc khó khăn với học sinh. Nên giáo viên phải hướng dẫn cho học


sinh quan sát.
Thơng thường kênh hình nói chung và hình vẽ tranh ảnh nói riêng được trình
bày với tư cách là nguồn cung cấp thông tin, kiến thức được kèm theo câu hỏi để học
sinh tự làm việc với sách giáo khoa dưới sự hướng dẫn của giáo viên. Nhằm rút ra
những kiến thức lịch sử nhất định.
Giáo viên hướng dẫn học sinh quan sát từ tổng thể đến chi tiết, kết hợp mơ tả,
phân tích, đàm thoại qua hệ thống câu hỏi gợi mở để học sinh tự rút ra những kết
luận. Giáo viên có thể tổ chức cho các em làm việc cá nhân, theo nhóm hoặc cả lớp.
Ví dụ: Khi xem bức tranh Kim tự tháp Ai Cập giáo viên giảng một số ý : “Kim tự
tháp là một khối đá hình tháp, hàng ngàn người đã được huy động mang những tảng
đá lớn từ dãy A – ráp tới sông Nil, hàng triệu tảng đá được ghè đẽo, mài nhẵn, chồng
xếp lên nhau khơng có một loại vật liệu kết dính nào”. Sau đó giáo viên có thể hỏi :

“Em có suy nghĩ gì qua cơng trình kiến trúc này?” học sinh sẽ nhận thức được đây là
một cơng trình kiến trúc vĩ đại, thể hiện tài năng, năng lực của con người thời kì bấy
giờ, và các em sẽ thêm thán phục và biết quý trọng những người đã làm ra nó .
Ví dụ: Khi GV chiếu bức ảnh cảnh làm ruộng của người Ai Cập và đặt câu hỏi “Em
hãy miêu tả cảnh làm ruộng của người Ai Cập ?”. Giáo viên có thể hướng dẫn học
sinh quan sát : “ Hàng dười từ trái sang phải người nơng dân đang làm gì ? Hàng trên
từ phải sang trái người nông dân đang làm những việc gì ?” học sinh sẽ tự miêu tả
nhận xét được cảnh làm ruộng của người Ai cập cổ đại dưới sự hướng dẫn của giáo
viên học sinh sẽ tự làm việc với sách giáo khoa. Bên cạnh kênh hình có sẵn trong
Sách giáo khoa giáo viên có thể bổ sung thêm một số hình ảnh từ phịng thiết bị của
nhà trường hoặc nếu dạy máy chiếu thì rất thuận tiện.
Ví dụ: Khi dạy bài 18: Nước Chăm Pa, GV yêu cầu học sinh “Nhận xét về nghệ
thuật kiến trúc của người Chăm ?” , giáo viên có thể bổ sung thêm cho học sinh một
số hình ảnh khác như một số hình ảnh văn hóa, nghệ thuật và kiến trúc của người
Chăm.
Như vậy, chúng ta thấy các hình trên vừa rõ nét vừa có màu sắc học sinh sẽ thấy
rõ được đường nét điêu khắc, kiến trúc, nghệ thuật điêu khắc độc đáo, tài tình thể
hiện được bàn tay khối óc và tâm hồn của người Chăm. Bên cạnh việc học sinh quan
sát hình cùng với sự hướng dẫn của giáo viên chắc chắn học sinh sẽ lĩnh hội tri thức


tốt hơn.
2.6.

Hướng dẫn học sinh tự học qua tiết làm bài tập :

Phần làm bài tập, tôi thực hiện như sau:
- Giáo viên nên chia lớp làm 4 tổ
- Chia bảng làm 4 phần bằng nhau
- Hình thức thi: Giáo viên gọi bất kì học sinh trong tổ lên bảng, sau đó giáo viên ra

câu hỏi, giám sát kĩ, khơng cho các tổ nhìn nhau, tổ nào nhắc bài sẽ trừ điểm. Đại
diện 4 tổ lần lượt lên bảng. Mỗi lần lên bảng là mỗi tổ một em, trả lời cùng một câu
hỏi.
- Giáo viên ra câu hỏi nhanh , mỗi tổ trả lời nhanh, đúng sẽ ghi được một điểm cho
tổ đó. Nếu các thành viên của tổ lên trả lời sai thì những thành viên ở dưới ai dơ tay
phát biểu nhanh sẽ dành được quyền trả lời, nếu đúng sẽ ghi điểm cho tổ đó.
- Cách ghi điểm: Mỗi tổ trả lời đúng 1 câu sẽ ghi được một điểm, khi gần kết thúc
giờ học giáo viên tổng hợp điểm và cho tổ thắng phạt tổ thua : Có thể là hát một bài
hát mà tổ thắng cuộc yêu cầu, có thể là múa một điệu phụ họa cho bài hát mà tổ
thắng hát. Các thành viên ở dưới cổ vũ, động viên tinh thần trả lời cho đại diện tổ
mình.
Việc tổ chức cho học sinh thi giữa các tổ như vậy sẽ phát huy được tính tích
cực của học sinh, các em sẽ hứng thú học và rất thích được thể hiện mình, kết quả
mỗi tiết làm bài tập như vậy học sinh sẽ nhớ kiến thức được lâu hơn. Qua hướng dẫn
học sinh tiết làm bài tập, học sinh sẽ hiểu và nhớ lâu vấn đề, sự kiện.
Bên cạnh đó cách ra đề kiểm tra cũng ảnh hưởng đến kết quả học tập của học
sinh. Đề kiểm tra khơng nên rườm rà, khó hiểu, mà phải rõ ràng, để học sinh không
sa đề. Nhất là đề trắc nghiệm, vì thời gian làm bài của các em có hạn.
Ở lớp, khơng phải giáo viên nói gì là các em ghi hết vào, hoặc chép lại ý chính
trong sách giáo khoa. Mà học sinh cần học theo ý hiểu của mình, tiếp thu có chọn
lọc, khơng rập khuôn theo thầy dạy, biến kiến thức của thầy thành kiến thức của trị,
có kết hợp hài hồ việc tự học ở lớp và ở nhà thì kết quả sẽ cao hơn.
3. Định hướng cách soạn bài theo định hướng phát triển năng lực HS.
- Khâu chuẩn bị (không phải giáo viên phải viết ra bài soạn, giáo viên phải dự kiến,
xác định được trước khi soạn bài).


- Với mỗi bài học ngày từ khâu soạn bài giáo viên cần xác định khi học bài này học
sinh cần được phát triển năng lực như thế nào? Cụ thể:
+ Tự chủ, tự học như thế nào?

+ Giao tiếp và hợp tác với nhau như thế nào?
+ Giải quyết vấn đề như thế nào? Và phát triển được năng lực đặc trưng môn học
như thế nào?
Song điều quan trọng giáo viên phải định hướng con đường, cách thức học sinh sẽ
thực hiện để phát triển được năng lực.
Ví dụ: Phát triển năng lực giải quyết vấn đề - giáo viên xác định mục tiêu: học sinh
được giải quyết vấn đề về cuộc sống, tập tục của người Chăm. Nội dung vấn đề nêu
ra được thể hiện ở phần giới thiệu bài.
- Với mỗi năng lực trên giáo viên cần xác định hệ thống kiến thức cho phù hợp, dự
kiến phương pháp, kĩ thuật dạy học, hình thức tổ chức để học sinh được hoạt động
tích cực từ đó phát triển năng lực khác nhau.
- Với mỗi hoạt động dạy học thì giáo viên cần thể hiện rõ nội dung – phương pháp
sử dụng, hình thức tổ chức và kĩ thuật dạy học.
Với sự chuẩn bị 1 giáo án chu đáo, giáo viên sẽ tự tin, chủ động khi lên lớp.
Tuy nhiên không phải tiết nào chúng ta cũng yêu cầu giáo viên làm như vậy, không
phải tiết nào cũng phát huy hết các năng lực của học sinh mà tùy thuộc vào đối
tượng học sinh, vào năng lực của giáo viên, vào đặc trưng của môn học. Môn Lịch
sử cũng vậy, mỗi tiết dạy chúng ta sẽ có những phương pháp, cách thức tổ chức, kĩ
thuật dạy học phù hợp để phát triển một số năng lực cho học sinh.
IV. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
Để tạo hứng thú cho học sinh trong học tập lịch sử, nhằm giúp các em có hiểu
biết nhiều hơn về lịch sử dân tộc cũng như lịch sử thế giới, đòi hỏi giáo viên phải
nhiệt tình, sáng tạo, có phương pháp dạy học phù hợp với từng bài, từng đối tượng
học sinh. Việc sử dụng các phương pháp dạy học trên, có tác động rất lớn đến lứa
tuổi học sinh phổ thông, các em thấy u thích mơn Lịch sử hơn, nên chất lượng bộ
môn cũng được cải thiện. Tuy nhiên, mỗi phương pháp có những mặt ưu điểm và
hạn chế nhất định. Điều quan trọng là người giáo viên phải biết sử dụng các phương



pháp dạy học một cách hợp lí, chủ động, sáng tạo thì mới đem lại hiệu quả cao.
Việc phát huy tính tích cực học tập của học sinh có ảnh hưởng rất lớn đến việc
nâng cao chất lượng bộ môn. Chính vì vậy, địi hỏi người giáo viên phải khơi gợi
tính tích cực của học sinh, phải thực sự tâm huyết, phải tìm tịi, nghiên cứu, đầu tư
vào bài giảng và vận dụng các phương pháp sáng tạo, phù hợp với từng đối tượng
học sinh. Tạo sự hứng thú học tâp cho các em, có hứng thú thì mới phát huy được
tính tích cực, chủ động học tập, phát triển tư duy sáng tạo, khắc sâu kiến thức và từ
đó sẽ nâng cao chất lượng bộ môn lịch sử.
Trên đây là một số biện pháp nhằm đổi mới phương pháp dạy học Lịch sử 6 theo
định hướng phát triển năng lực mà tôi đã áp dụng ở Trường THCS .............. trong
năm học vừa qua. Mặc dù có nhiều cố gắng để tìm tịi, học hỏi, nhưng khơng tránh
khỏi sự thiếu xót, hạn chế. Vì vậy tơi rất mong sự đóng góp ý kiến bổ sung của các
đồng nghiệp, để tơi hoàn thiện hơn và làm phong phú thêm các phương pháp dạy
học. Để góp phần nâng cao chất lượng bộ môn.
2. Kiến nghị.
Để nâng cao chất lượng giáo dục lịch sử ở trường THCS .............., tơi xin có một
số ý kiến đề xuất nhỏ như sau:
với bộ môn Lịch sử nếu có thể, nhà trường tạo điều kiện tổ chức cho các em đi
tham quan học tập tại các di tích lịch sử ở địa phương, để các em hiểu hơn nữa giá trị
của lịch sử với cuộc sống hôm nay và mai sau.
….……….., tháng 03 năm 20…
Người viết

................................................




×