Tải bản đầy đủ (.pdf) (712 trang)

Toàn tập Văn kiện Đảng bộ tỉnh Hà Giang (19711975) Tập 4

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.23 MB, 712 trang )

VĂN KIỆN
ĐẢNG BỘ
TỈNH HÀ GIANG
TOÀN TẬP
IV
1971 – 1975

1


2


ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ TỈNH HÀ GIANG

VĂN KIỆN
ĐẢNG BỘ

TỈNH HÀ GIANG
TOÀN TẬP
IV
1971 – 1975

XUẤT BẢN NĂM 2018
3


CHỈ ĐẠO NỘI DUNG
BAN THƯỜNG VỤ TỈNH ỦY HÀ GIANG


BAN BIÊN TẬP
1. Đồng chí Sèn Chỉn Ly, Ủy viên Ban Thường vụ, Trưởng
Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy - Trưởng ban.
2. Đồng chí Hầu Minh Lợi, Tỉnh ủy viên, Chánh Văn phịng
Tỉnh ủy - Phó ban.
3. Đồng chí Triệu Là Pham, Phó trưởng Ban Nội chính Tỉnh
ủy - Thành viên
4. Đồng chí Lưu Đình Phát, Phó trưởng Ban Tổ chức Tỉnh
ủy - Thành viên.
5. Đồng chí Phạm Đình Kiên, Phó chánh Văn phịng Tỉnh ủy
- Thành viên.
6. Đồng chí Nguyễn Thị Tố Oanh, Phó Chủ nhiệm Ủy ban
kiểm tra Tỉnh ủy - Thành viên.
7. Đồng chí Lù Thị Hà, Phó trưởng Ban Dân vận Tỉnh ủy Thành viên.

4


LỜI GIỚI THIỆU
Ngày 03/02/1930, Đảng Cộng sản Việt Nam được thành
lập đã đánh dấu bước ngoặt quan trọng trong lịch sử cách
mạng Việt Nam. Gần 90 năm qua, Đảng ta đã để lại khối
lượng văn kiện đồ sộ, phong phú, phản ánh sinh động cuộc đấu
tranh cách mạng đầy gian khổ, hy sinh, kiên cường, sáng tạo
của nhân dân và các chiến sĩ cộng sản, kết tinh nhiều giá trị lý
luận, tư tưởng và kinh nghiệm hoạt động thực tiễn của Đảng
và nhân dân.
Gắn liền với truyền thống hào hùng vẻ vang đó, ngày
25/12/1945 Đảng bộ tỉnh Hà Giang được thành lập. Hơn 70
năm xây dựng, trưởng thành và phát triển, Đảng bộ đã lãnh

đạo nhân dân các dân tộc trong tỉnh phát huy truyền thống
đoàn kết, tinh thần đấu tranh cách mạng, bền lịng, vững chí,
nêu cao ý chí tự lực tự cường, tích cực thực hiện mọi nhiệm vụ
trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ
xâm lược; cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới phía Bắc và thời
kỳ cả nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội và bảo vệ tổ quốc;
từng bước xây dựng tỉnh Hà Giang ngày càng vững về chính
trị, giàu về kinh tế, đẹp về văn hóa, mạnh về quốc phòng - an
ninh, xứng đáng là “phên dậu” của Tổ quốc.
Nhằm làm sáng tỏ nhiều sự kiện, vấn đề lịch sử, phản ánh
vai trị, q trình lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh phục vụ cho công tác
tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận và công tác nghiên cứu,
giảng dạy, tuyên truyền, giáo dục lịch sử Đảng địa phương.
Đồng thời kế thừa, tạo cơ sở khoa học cho việc hoạch định
những chủ trương, cơ chế của Đảng bộ tỉnh phù hợp với yêu cầu
nhiệm vụ cách mạng trong tình hình mới, Ban Thường vụ Tỉnh
ủy Hà Giang đã quyết định chỉ đạo việc biên soạn Văn kiện Đảng
bộ tỉnh Hà Giang toàn tập.
Nhân dịp kỷ niệm 89 năm ngày thành lập Đảng Cộng sản
Việt Nam (03/02/1930-03/02/2019), Ban Thường vụ Tỉnh ủy
5


Hà Giang trân trọng giới thiệu cuốn Văn kiện Đảng bộ tỉnh Hà
Giang toàn tập, tập IV (1971-1975) đến các cấp ủy đảng,
chính quyền và bạn đọc.
Nội dung cuốn văn kiện gồm 113 văn bản được sưu tầm,
tổng hợp và biên tập; tập trung phản ánh quá trình Đảng bộ
lãnh đạo nhân dân các dân tộc trong tỉnh ra sức phát triển kinh
tế, văn hóa, giáo dục, y tế, đồng thời tăng cường xây dựng tổ

chức cơ sở Đảng, củng cố chính quyền, các đồn thể và phát
huy quyền làm chủ tập thể của quần chúng; tiếp tục tổ chức và
động viên mọi lực lượng thực hiện ba cuộc cách mạng: Cách
mạng về quan hệ sản xuất, khoa học kỹ thuật và tư tưởng, văn
hóa; đẩy mạnh sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, củng cố
vững chắc tỉnh hậu phương biên giới, tăng cường lực lượng
quốc phòng, tiếp tục chi viện sức người, sức của cho tiền tuyến
lớn miền Nam, góp phần đánh bại chiến lược “Việt Nam hóa
chiến tranh” của Mỹ và tay sai mà đỉnh cao là Đại thắng Mùa
Xuân năm 1975, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc,
Bắc - Nam xum họp một nhà, non sơng thu về một mối.
T/M BAN THƯỜNG VỤ
BÍ THƯ
Triệu Tài Vinh

6


NĂM 1971

Đại hội Đại biểu Đảng bộ tỉnh Hà Giang lần thứ V,
khai mạc ngày 27/3/1971

7


Đồng chí: Lê Văn Lương
Năm sinh: 1918
Quê quán: Thanh Liêm, Hà Nam
Bí thư: 1971-1976

- Dự Đại hội có 182 đại biểu, đại diện cho 9.709 đảng
viên trong toàn Đảng bộ.
- Đại hội bầu Ban Chấp hành gồm 25 đồng chí ủy viên
chính thức và 2 đồng chí ủy viên dự khuyết.
- Ban Chấp hành bầu 7 đồng chí vào Ban Thường vụ
Tỉnh ủy khóa V
1. Đồng chí Lê Văn Lương.
2. Đồng chí Nguyễn Văn Mạnh.
3. Đồng chí Kim Xuyến Lượng.
4. Đồng chí Nguyễn Ngọc Chung.
5. Đồng chí Lê Nguyên Kính.
6. Đồng chí Hồng Việt Tiến.
7. Đồng chí Ma Thị Lâm.

8


NGHỊ QUYẾT
ĐẠI HỘI ĐẠI BIỂU ĐẢNG BỘ TOÀN TỈNH LẦN THỨ V
Ngày 15/4/1971
----NHỮNG THÀNH TÍCH TIẾN BỘ VÀ THIẾU SĨT,
TỒN TẠI TRONG VIỆC THỰC HIỆN CÁC NHIỆM VỤ
CHÍNH TRỊ CỦA ĐẢNG BỘ TỪ ĐẠI HỘI LẦN THỨ IV
ĐẾN NAY

Trong 8 năm qua, từ Đại hội Đảng bộ toàn tỉnh lần thứ IV
đến nay, dưới ánh sáng các nghị quyết của Trung ương và sự
lãnh đạo trực tiếp của Khu ủy Việt Bắc, với tinh thần cách
mạng tiến công ngày càng được bồi dưỡng nâng cao, Đảng bộ
và nhân dân các dân tộc trong tỉnh đã gian khổ phấn đấu, phát

huy thuận lợi, khắc phục khó khăn, động viên, giáo dục, tổ
chức lãnh đạo quần chúng đẩy mạnh phong trào thi đua yêu
nước, giành được nhiều thắng lợi trong việc thực hiện hai
nhiệm vụ chiến lược của cách mạng: Chống Mỹ cứu nước và
xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Đảng bộ ta đã tập trung sức làm tốt nhiệm vụ xây dựng,
củng cố hậu phương căn cứ địa miền núi. Mọi hoạt động thời
bình đã được chuyển hướng nhanh, phù hợp với điều kiện thời
chiến. Việc bồi dưỡng, giáo dục đường lối chống Mỹ cứu nước
và xây dựng tinh thần quyết chiến, quyết thắng cho cán bộ,
đảng viên và nhân dân các dân tộc được chăm lo thường xuyên
và đã đem lại những kết quả to lớn. Các phong trào ba sẵn
sàng trong thanh niên, ba đảm đang trong phụ nữ, ba giỏi trong
phụ lão đã lơi cuốn tồn dân: Già, trẻ, gái, trai thuộc mọi tầng
lớp nhân dân các dân tộc hăng hái tham gia vào công cuộc
kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Đối với nhiệm vụ chống
9


chiến tranh phá hoại bằng không quân của địch, chúng ta đã
làm tốt cơng tác phịng, tránh, khẩn trương xây dựng các lực
lượng phịng khơng nhân dân, kịp thời tăng cường bảo đảm
giao thông vận tải, bảo đảm thông tin liên lạc thơng suốt trong
mọi tình huống. Trật tự an ninh biên giới và nội địa được giữ
vững. Những luận điệu phản tuyên truyền gây hoang mang của
địch trong quần chúng được kịp thời ngăn chặn. Lực lượng vũ
trang, bán vũ trang được phát triển rộng rãi. Các đợt tuyển
quân đều đạt kết quả tốt. 16 dân tộc trong tỉnh đều có con em
tình nguyện ra tiền tuyến giết giặc. Trong điều kiện tỉnh ta cịn
nhiều khó khăn, kẻ thù ln ln tìm cách phá rối hậu phương

ta, nhưng qua thử thách của chiến tranh, hậu phương ta vẫn
vững vàng, ý chí cách mạng của quần chúng khơng ngừng
được nâng cao, sự đóng góp sức người, sức của chúng ta đối
với tiền tuyến ngày càng nhiều, an ninh biên giới được giữ
vững, biệt kích của Mỹ, ngụy tung vào hậu phương bị bắt gọn.
Đó là thành tích rất đáng tự hào của Đảng bộ và nhân dân các
dân tộc tỉnh ta. Những thành tích đó đã góp phần tích cực vào
sự nghiệp cách mạng của cả nước, xứng đáng là tỉnh biên
cương của Tổ quốc Việt Nam anh hùng.
Nhiệm vụ phát triển kinh tế, văn hóa ở địa phương tiếp
tục được đẩy mạnh và đã có những chuyển biến rõ ràng. Quan
hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa trong nông nghiệp đã được xây
dựng và từng bước được củng cố.
Toàn tỉnh đã bao gồm 89% số hộ nông dân lao động vào
hợp tác xã sản xuất nơng nghiệp. Trình độ quản lý của hợp tác
xã qua các đợt vận động cải tiến ở vùng làm ruộng được nâng
dần. Việc xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho nông nghiệp và
đưa khoa học kỹ thuật vào sản xuất được chú ý. Cơ sở trạm,
trại nghiên cứu về nông nghiệp được mở rộng, đã kết luận
được một số loại giống tốt và biện pháp kỹ thuật thích hợp với
địa phương. Đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật được đào tạo
ngày càng nhiều và bắt đầu phát huy tác dụng. Thủy lợi được
10


coi là công tác quan trọng, đã đầu tư vốn, vật tư, lao động ngày
càng nhiều. Sản xuất nông nghiệp bước đầu đi vào phương
hướng thâm canh tăng năng suất hai cây lương thực chính: Lúa
và bắp. Cây cơng nghiệp được chú ý phát triển. Đàn gia súc
được duy trì tốc độ tăng bình thường. Giá thành tổng sản

lượng nơng nghiệp từ năm 1964 đến năm 1970 tăng bình quân
hàng năm 2,2%. Sản lượng lương thực từ năm 1964 đến năm
1970 bình quân tăng l,1%. Sản lượng chè tăng từ 722 tấn (Năm
1960) lên 1.000 tấn (Năm 1970); cây thuốc và hạt giống su hào
mấy năm gần đây phát triển mạnh. Đàn trâu hàng năm tăng
trên 3%.
- Nghề rừng được đẩy mạnh khai thác. Hàng năm, ngoài
việc cung cấp cho nhu cầu địa phương, còn bảo đảm cung cấp
cho Trung ương 30.000m3 gỗ, 2 triệu cây tre, nứa.
- Công nghiệp địa phương được chú ý xây dựng. Giá trị
tổng sản lượng từ 7,7 triệu (Năm 1963) lên 9,2 triệu (Năm
1970). Công nghiệp quốc doanh được củng cố, mở rộng. Thủ
công nghiệp được chú ý giúp đỡ phát triển, đáp ứng ngày càng
nhiều cho u cầu nơng cụ thường, thích hợp với từng vùng.
- Giao thông vận tải, bưu điện phát triển nhanh, phục vụ
ngày càng tốt hơn cho nhu cầu sản xuất, chiến đấu và đời sống.
Đường trục thông suốt đến hết các huyện lỵ. Phương tiện
thông tin và vận tải cơ giới được tăng cường rất nhiều.
- Tài chính, thương nghiệp đã có nhiều cố gắng khắc
phục khó khăn phục vụ sản xuất và ổn định đời sống quần
chúng. Ngân sách hàng năm tăng dần. Thu địa phương tăng từ
4,2 triệu (Năm 1963) lên 6,1 triệu (Năm 1970).
- Giáo dục, y tế, văn hóa vẫn được chú ý đẩy mạnh. Hệ
thống các trường học được tiếp tục phát triển. Số người đi học
(Cả người lớn và trẻ em) chiếm 15% so với dân số. Mạng lưới
y tế từ tỉnh đến huyện được mở rộng. Đội ngũ cán bộ y tế tăng
nhanh. Công tác thông tin được tăng cường. Đời sống vật chất
và tinh thần của quần chúng trong điều kiện có chiến tranh
11



nhìn chung vẫn được ổn định. Đó là thành tích rất cơ bản của
Đảng bộ ta trong những năm gần đây, nói lên tính ưu việt của
chế độ xã hội chủ nghĩa của miền Bắc, nói lên đường lối lãnh
đạo đúng đắn của Trung ương Đảng và sự trưởng thành về
năng lực tổ chức thực hiện của Đảng bộ ta.
Công tác xây dựng Đảng, củng cố chính quyền và các
đồn thể quần chúng ngày càng gắn chặt với nhiệm vụ chính
trị của Đảng bộ
- Cơng tác xây dựng Đảng đã có nhiều tiến bộ. Qua các
cuộc vận động xây dựng đảng bộ cơ sở, chi bộ, huyện ủy 4 tốt,
cuộc vận động nâng cao chất lượng đảng viên, phát triển đảng
viên lớp Hồ Chí Minh, qua các đợt sinh hoạt chính trị, học tập
đường lối, chính sách và qua rèn luyện trong thực tiễn cách
mạng, tinh thần chiến đấu và tính tiền phong gương mẫu của
đảng viên được nâng cao lên một bước, sự lãnh đạo chỉ đạo
của tổ chức đảng từ tỉnh đến cơ sở đối với các nhiệm vụ sản
xuất, chiến đấu, chuẩn bị chiến đấu, tổ chức đời sống nhân dân
ngày càng sâu sát hơn. Công tác phát triển Đảng được đẩy
mạnh. Từ Đại hội lần trước đến Đại hội lần này đã phát triển
thêm trên 4.000 đảng viên mới. Đội ngũ cán bộ địa phương
được đào tạo, bồi dưỡng, đảm đương được ngày càng nhiều
những nhiệm vụ nặng nề ở huyện, ở tỉnh.
- Chính quyền các cấp những năm gần đây được chú ý
tăng cường, trên một số mặt đã phát huy tác dụng đối với việc
tổ chức thực hiện đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước
ở địa phương.
- Các đoàn thể quần chúng đã được chỉ đạo chuyển hướng
hoạt động theo yêu cầu, nhiệm vụ chính trị mới của Đảng và
đã cố gắng góp phần tích cực giáo dục, động viên, tổ chức

quần chúng làm nhiệm vụ chống Mỹ cứu nước, xây dựng hậu
phương xã hội chủ nghĩa. Đảng bộ và nhân dân các dân tộc
tỉnh ta đạt được những thành tích tiến bộ trên là do:
12


1. Chúng ta có đường lối, chính sách đúng đắn, sáng tạo
của Đảng, được Trung ương Đảng và Khu ủy Việt Bắc lãnh
đạo chặt chẽ.
2. Đảng bộ và nhân dân các dân tộc tỉnh ta có truyền
thống cách mạng, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Trung ương
Đảng, đại đa số cán bộ, đảng viên ta có tinh thần khắc phục
khó khăn, hồn thành nhiệm vụ.
3. Sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy đảng từ tỉnh đến
huyện từng bước được cải tiến và có tiến bộ trong việc quán
triệt, vận dụng đường lối, chính sách của Đảng vào hoàn cảnh
cụ thể của địa phương, đi sát giúp đỡ cơ sở. Hoạt động của
chính quyền và các đồn thể quần chúng ngày càng phát huy
tác dụng trong việc tổ chức thực hiện các nhiệm vụ chính trị
của Đảng bộ.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tích, tiến bộ đó, trên
từng mặt cơng tác đều có những thiếu sót, tồn tại:
- Việc quán triệt đường lối, chủ trương của Trung ương
trong nhiệm vụ củng cố hậu phương chưa thật sâu sắc, chưa
phát động được mạnh mẽ ý chí căm thù địch trong quần chúng
và chưa xây dựng được tinh thần chiến đấu thật cao. Trên mặt
trận tư tưởng cịn có những biểu hiện thiếu vững vàng, chưa có
sự tin tưởng thật vững chắc vào đường lối, chủ trương kháng
chiến, hiện tượng ngại hy sinh gian khổ trước chiến tranh ác
liệt và kéo dài, cịn xuất hiện. Trên nhiều mặt cơng tác cụ thể

về quốc phịng, trị an, thường khơng đạt u cầu cao. Lực
lượng dân quân tự vệ chưa mạnh mẽ, đều khắp, năng lực chỉ
huy của cán bộ quân sự ở cơ sở chưa vững chắc. Việc chuẩn bị
cho thanh niên sẵn sàng đi chiến đấu nhiều nơi làm chưa tốt.
Việc chấp hành chính sách hậu phương có nhiều thiếu sót.
Cơng tác phịng gian, bảo mật cịn nhiều sơ hở. Mạng lưới
đánh địch, nắm địch, bộ máy công an ở cơ sở chưa được
thường xuyên chăm lo củng cố. Nhiều nơi còn lơi lỏng trong
việc thực hiện nhiệm vụ chuyên chính vơ sản. Đáng chú ý là
13


đối với nhiệm vụ bảo vệ nền kinh tế, văn hóa xã hội chủ nghĩa
chưa xác định thật rõ, chưa có những biện pháp tích cực, để
tình trạng vi phạm tài sản của Nhà nước, của tập thể kéo dài.
- Đối với nhiệm vụ chỉ đạo phát triển kinh tế, văn hóa,
cịn nhiều khuyết điểm.
Quan hệ sản xuất mới trong nơng nghiệp tuy đã được xây
dựng nhưng cịn nhiều mặt tồn tại. Trình độ quản lý trong hợp
tác xã thấp kém. Phương hướng sản xuất chưa được giúp đỡ,
xác định thật rõ ràng, quyền dân chủ của xã viên nhiều nơi bị
vi phạm nghiêm trọng, tài sản bị tham ô, sức lao động bị lãng
phí, cơ sở vật chất kỹ thuật trong nhiều hợp tác xã quá nghèo
nàn, năng suất lao động thấp. Sản xuất nơng nghiệp nhìn
chung phát triển chậm. Mục tiêu phấn đấu chủ yếu trong nông
nghiệp là bình qn 4,2 tấn/ha lúa 2 vụ; 1,1 tấn/ha ngơ 1 vụ,
chưa năm nào đạt được. Sản lượng lương thực tính theo đầu
người giảm sút từ 308kg năm 1963 xuống 282kg năm 1970.
Cây công nghiệp phát triển chưa mạnh. Nghề rừng mới chú ý
mặt khai thác, việc bảo vệ, tu bổ, trồng rừng cịn rất yếu. Chăn

ni cịn mang nặng tính chất tự nhiên. Nhìn chung, ba cuộc
cách mạng ở nông thôn: Cách mạng quan hệ sản xuất, cách
mạng kỹ thuật và cách mạng tư tưởng, văn hóa đều phát triển
chậm.
Cơng nghiệp địa phương cịn yếu, chưa phát huy được
mạnh tác dụng phục vụ nông nghiệp. Phương hướng sản xuất
của nhiều xí nghiệp quốc doanh chưa được vững chắc. Quản lý
kinh doanh của các xí nghiệp cịn kém, năng suất lao động
thấp, giá thành sản phẩm cao, nhiều xí nghiệp lỗ vốn kéo dài.
Cơ sở thủ cơng nghiệp cịn ít. Quan hệ giữa sản xuất và lưu
thông, phân phối chưa chặt, chưa hỗ trợ tốt cho nhau, để mắc
mứu kéo dài, ảnh hưởng đến sản xuất. Giao thông vận tải trong
nơng thơn phát triển chậm.
Cơng tác tài chính, thương nghiệp, lưu thông, phân phối chưa
phát huy được mạnh mẽ tác dụng đòn xeo thúc đẩy sản xuất.
14


Cơng tác văn hóa, xã hội nhìn chung phát triển chưa đáp
ứng yêu cầu quần chúng. Nạn mù chữ, thất học ở các vùng rẻo
cao, hẻo lánh còn trầm trọng. Dịch bệnh thường xuyên phát
sinh, nhưng mạng lưới y tế phòng và chữa bệnh cho nhân dân
vùng cao chưa được xây dựng tốt. Tập quán lạc hậu, mê tín dị
đoan có chiều hướng phục hồi, khơng được kịp thời đấu tranh
ngăn chặn.
Cơng tác xây dựng Đảng, củng cố chính quyền và các
đoàn thể quần chúng chưa đáp ứng kịp yêu cầu của nhiệm vụ
chính trị, vai trị lãnh đạo tồn diện của tổ chức Đảng chưa
được phát huy đầy đủ. Tình hình thiếu đồn kết nhất trí trong
nhiều tổ chức đảng kéo dài. Nguyên tắc tập trung dân chủ bị vi

phạm. Việc phê bình, tự phê bình trong nội bộ Đảng, nhất là
phê bình từ dưới lên trên làm kém. Tư tưởng hữu khuynh, bảo
thủ, trì trệ trong Đảng là những biểu hiện chủ yếu của chủ
nghĩa cá nhân còn tồn tại phổ biến. Việc đào tạo, bồi dưỡng,
quản lý, sử dụng cán bộ chưa có quy hoạch và thiếu biện pháp
mạnh mẽ, tồn diện. Chính quyền các cấp chưa phát huy được
đầy đủ chức năng chun chính vơ sản trong việc xây dựng và
bảo vệ kinh tế xã hội chủ nghĩa, phương pháp chỉ đạo sản xuất
còn nặng sự vụ hành chính. Hoạt động của các đồn thể cách
mạng chưa tập trung mạnh vào việc giáo dục giác ngộ quần
chúng, chưa thúc đẩy được mạnh mẽ phong trào thi đua phấn
đấu thực hiện những biện pháp thâm canh tăng năng suất, xây
dựng hợp tác xã tiên tiến trong nông nghiệp, thi đua lao động
sản xuất trong khu vực cơ quan, xí nghiệp.
Những thiếu sót và tồn tại trên đã hạn chế bước tiến của
Đảng bộ ta. Sở dĩ có những thiếu sót, tồn tại đó chủ yếu là do:
1. Các cấp ủy đảng và cán bộ, đảng viên ta chưa gian khổ
đi sâu nghiên cứu để quán triệt sâu sắc đường lối, chính sách
của Trung ương, chỉ thị, nghị quyết của Khu ủy để vận dụng
sát hợp với đặc điểm từng vùng, từng huyện. Năng lực, trình
độ tổ chức, kiến thức về quản lý kinh tế và nhất là ý chí phấn
15


đấu thực hiện đường lối, chính sách của cán bộ, đảng viên,
nhất là cán bộ, đảng viên ở cương vị phụ trách còn thấp, chưa
đáp ứng yêu cầu cách mạng.
2. Trong các cấp ủy và tổ chức đảng, nguyên tắc tập trung
dân chủ không được đảm bảo chặt chẽ, tùy tiện trong việc thực
hiện nghị quyết của tập thể. Lề lối làm việc thủ công, quan hệ

hợp tác xã hội chủ nghĩa giữa các ngành kém, sự phân công
giữa cơ quan đảng và chính quyền chưa tốt, chưa phát huy
được mạnh pháp chế Nhà nước.
3. Tư tưởng hữu khuynh, bảo thủ, trì trệ, ngại khó, ngại
khổ, thiếu tinh thần tiến công cách mạng, lười học tập, suy
nghĩ là những biểu hiện chủ yếu của chủ nghĩa cá nhân đang
cản trở lớn đến việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị của
Đảng, cản trở nhiệm vụ quản lý nền kinh tế mới.
4. Những tồn tại và khó khăn khách quan về kinh tế, xã
hội, trị an, quốc phịng và trình độ các mặt nói chung của địa
phương ta cịn thấp kém cũng là những trở ngại thực tế, hạn
chế nhất định đối với nhiệm vụ phát triển kinh tế, văn hóa và
mọi hoạt động khác của Đảng bộ ta.
Nhìn chung lại, thành tích tiến bộ đã đạt được trên các
mặt cơng tác tuy chưa đáp ứng kịp yêu cầu của cách mạng.
Song đó là những tiến bộ đã chuyển biến cơ bản, tạo cơ sở để
tiến lên những bước mạnh mẽ, vững chắc hơn.
Những thiếu sót, tồn tại cịn nhiều và có những mặt phổ
biến trầm trọng, đó là thiếu sót tồn tại trong quá trình trưởng
thành, chúng ta tin tưởng có thể khắc phục được. Nhận rõ
thành tích tiến bộ cũng như khuyết điểm tồn tại, nắm vững tình
hình và xu thế phát triển của cách mạng, nắm chắc đường lối,
chính sách của Đảng và Nhà nước và thực sự gian khổ đi sâu
phát huy sức mạnh của đông đảo quần chúng nhân dân các dân
tộc, nhất định Đảng bộ chúng ta sẽ đưa phong trào cách mạng
của tỉnh nhà tiến lên những bước vững chắc, ăn nhịp với sự
chuyển biến cách mạng chung của cả nước.
16



PHƯƠNG HƯỚNG, MỤC TIÊU PHẤN ĐẤU
TRONG 3 NĂM 1971- 1973
Trước yêu cầu của nhiệm vụ chống Mỹ cứu nước và xây
dựng chủ nghĩa xã hội, dưới ánh sáng Nghị quyết 19 của
Trung ương Đảng và trên cơ sở kiểm điểm đánh giá các mặt
của phong trào, trong ba năm tới Đảng bộ và nhân dân các dân
tộc tỉnh ta cần phát huy mạnh mẽ hơn nữa truyền thống cách
mạng của địa phương, nâng cao tinh thần cách mạng tiến công,
ra sức phát huy thuận lợi, khắc phục khó khăn, tập trung sức
xây dựng, củng cố tỉnh hậu phương biên giới vững chắc về
mọi mặt, đảm bảo tốt yêu cầu động viên sức người, sức của
cho tiền tuyến, đồng thời đảm bảo cải thiện từng bước đời
sống nhân dân các dân tộc, tích cực tạo cơ sở cho những bước
phát triển mạnh mẽ sau này.
I- RA SỨC CỦNG CỐ LỰC LƯỢNG QUỐC
PHỊNG, TĂNG CƯỜNG CHUN CHÍNH VƠ SẢN,
BẢO VỆ VỮNG CHẮC HẬU PHƯƠNG, ĐỘNG VIÊN
THANH NIÊN CÁC DÂN TỘC LÊN TIỀN TUYẾN GIẾT
GIẶC, QUYẾT TÂM CÙNG ĐỒNG BÀO CẢ NƯỚC
ĐÁNH THẮNG HOÀN TOÀN GIẶC MỸ XÂM LƯỢC
Đế quốc Mỹ thua đã rõ ràng nhưng chúng còn ngoan cố mở
rộng chiến tranh xâm lược, âm mưu chiếm đóng và chia cắt lâu
dài nước ta. Chống Mỹ cứu nước là nhiệm vụ thiêng liêng nhất
của dân tộc ta lúc này. Đảng bộ chúng ta sẽ ra sức giáo dục, động
viên quần chúng các dân tộc, nâng cao tinh thần yêu nước và chủ
nghĩa anh hùng cách mạng cùng với đồng bào cả nước sẵn sàng
hy sinh chiến đấu đến thắng lợi hoàn toàn.
Nhiệm vụ quốc phòng, trị an nhằm bảo vệ vững chắc hậu
phương biên giới và động viên tốt hơn nữa thanh niên các dân
tộc tòng quân giết giặc là nhiệm vụ công tác quan trọng hàng

đầu. Cần tập trung sức làm tốt cơng tác củng cố lực lượng dân
qn du kích và tự vệ, trước hết là chăm lo giáo dục chính trị,
17


tư tưởng, bồi dưỡng tinh thần anh dũng chiến đấu cho cán bộ
và chiến sĩ, tổ chức huấn luyện, nâng cao trình độ chiến thuật,
kỹ thuật, cải tiến mạnh mẽ công tác lãnh đạo, chỉ đạo của các
cấp ủy đảng và các cơ quan quân sự nhằm phát huy hiệu lực
của mạng lưới dân quân, tự vệ trong việc bảo vệ hậu phương,
sẵn sàng đập tan mọi âm mưu phá hoại của đế quốc Mỹ, sẵn
sàng bổ sung lực lượng cho bộ đội thường trực. Thực hiện tốt
các chính sách hậu phương đối với các gia đình thương binh,
liệt sĩ, gia đình có con em đi chiến đấu ở các chiến trường xa.
Ra sức tăng cường công tác trị an và phát huy tốt vai trò của
các cơ quan chuyên chính, đẩy mạnh việc thực hiện pháp chế
xã hội chủ nghĩa, nâng cao ý thức làm chủ của quần chúng đối
với nhiệm vụ bảo vệ chế độ, bảo vệ nền kinh tế xã hội chủ
nghĩa, tiếp tục cải tạo và trấn áp kịp thời những phần tử lưu
manh, phản động, quấy rối, phá hoại.
Những nhiệm vụ cơng tác quốc phịng và trị an rất nặng
nề và cấp bách có nhiều khó khăn, trở ngại, các cấp ủy đảng và
cơ quan quân sự phải gian khổ đi sâu giúp đỡ, bồi dưỡng cơ
sở, vận động tổ chức quần chúng thực hiện, hướng mạnh vào
các vùng cao, vùng hẻo lánh. Trong quá trình tiến hành những
nhiệm vụ cơng tác quốc phịng, trị an phải được gắn chặt với
nhiệm vụ phát triển sản xuất, tổ chức đời sống và các cuộc vận
động chính trị khác của Đảng bộ.
II- PHÁT HUY THUẬN LỢI, ĐẨY MẠNH VIỆC
THỰC HIỆN KẾ HOẠCH PHÁT TRIỂN KINH TẾ, VĂN

HÓA, TIẾN LÊN TỪNG BƯỚC VỮNG CHẮC TRONG
NHIỆM VỤ XÂY DỰNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VÀ CẢI
THIỆN ĐỜI SỐNG NHÂN DÂN CÁC DÂN TỘC
Trước tình hình thuận lợi mới và dưới ánh sáng Nghị
quyết 19 của Trung ương Đảng, Đảng bộ ta sẽ tập trung sức
đẩy mạnh việc thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế, văn hóa
tiến lên từng bước vững chắc, nhằm đáp ứng yêu cầu chi viện
18


tiền tuyến và cải thiện đời sống nhân dân. Trọng tâm là ra sức
phát triển nông nghiệp, tăng khối lượng lương thực, thực phẩm
đồng thời phát triển mạnh cây công nghiệp, chăn nuôi và nghề
rừng, tạo nguồn nguyên liệu cho công nghiệp và xuất khẩu.
Củng cố mạng lưới công nghiệp và thủ công nghiệp nhằm
phục vụ tốt cho nông nghiệp có đủ nơng cụ và cố gắng đáp
ứng một phần yêu cầu hàng hóa tiêu dùng trong tỉnh. Xây
dựng một số cơ sở công nghiệp chế biến để làm cho một phần
nguồn nguyên liệu của địa phương thành sản phẩm hàng hóa.
Tiếp tục phát triển mạnh giao thơng vận tải, bảo đảm vận
chuyển thơng suốt khối lượng hàng hóa ngày càng tăng giữa
địa phương với Trung ương, giữa tỉnh với huyện, đi sâu vào
những vùng kinh tế nông thôn. Đẩy mạnh cơng tác tài chính,
thương nghiệp, phát huy tác dụng đòn xeo thúc đẩy sản xuất
và phục vụ tốt hơn nữa đời sống quần chúng. Chăm lo tốt công
tác văn hóa, giáo đục, bảo vệ sức khỏe quần chúng.
1. Ra sức phát triển sản xuất nông nghiệp
Phát triển nông nghiệp giữ vị trí quan trọng nhất trong
nhiệm vụ xây dựng kinh tế địa phương. Tỉnh ta có nhiều khả
năng phát triển nơng nghiệp tồn diện, nhất là phát triển mạnh

cây công nghiệp, chăn nuôi và nghề rừng. Trước hết, chúng ta
phải tập trung khai thác tốt số diện tích sẵn có để sản xuất lương
thực, phấn đấu nâng cao năng suất lúa, ngô, tăng vụ hoa màu và
rau xanh để tăng nhanh được sản lượng lương thực, nhằm đáp
ứng nhu cầu ăn của nhân dân các dân tộc và một phần của khu
vực Nhà nước. Đồng thời từng bước phát triển mạnh cây công
nghiệp, chăn nuôi và nghề rừng.
- Đối với vùng thấp: Phương hướng và mục tiêu chủ yếu
là tích cực phấn đấu làm cho lúa nước đạt năng suất, sản lượng
vững chắc, bình quân 42 tạ/ha lúa hai vụ, trong đó khoảng
2.000ha đạt 5 tấn. Đẩy mạnh tăng vụ hoa màu, chủ yếu là ngô,
khoai lang xuống ruộng, mở rộng thêm diện tích và thâm canh
sắn. Đẩy mạnh chăn ni lợn, duy trì và phát triển hợp lý đàn
19


trâu, bò cày kéo, sinh sản, phấn đấu mỗi hộ ni bình qn từ
2 đến 3 con trâu và hàng năm có 1-5 con lợn xuất chuồng. Đi
đơi với nhiệm vụ đẩy mạnh sản xuất lương thực và thực phẩm
bảo đảm vững chắc đời sống nhân dân và yêu cầu động viên
của Nhà nước, sẽ tổ chức lao động làm nghề rừng chủ yếu là
khai thác nứa, vầu, tích cực bảo vệ, tu bổ, trồng cây gây rừng,
phát triển đồi cọ và quy hoạch trồng thêm khoảng 1.000ha chè,
tạo nguồn làm giàu lâu dài cho hợp tác xã.
Để thực hiện được phương hướng và mục tiêu trên, trước
hết phải tập trung giải quyết tốt vấn đề thủy lợi, phân bón,
giống lúa có năng suất cao, cải tiến kỹ thuật trồng trọt và chăn
nuôi. Thủy lợi phải coi là biện pháp hàng đầu, cần phát huy
đầy đủ tác dụng của những cơng trình đã có, tập trung sức phát
triển tiểu thủy nơng, làm mương chắn lũ và tiêu nước, nhằm

chống xói mịn có hiệu lực, kết hợp với kiến thiết đồng ruộng,
phấn đấu từ nay đến hết năm 1973 thực hiện được 50% diện
tích lúa ruộng, chủ động được nước tưới và chống được nước
chảy tràn bờ. Cần có sự chuyển biến thật mạnh mẽ về nhận
thức, tư tưởng đối với cơng tác thủy lợi, có kế hoạch cụ thể đối
với từng cánh đồng, chỉ đạo thực hiện thật chặt chẽ, nắm vững
phương châm vận động hợp tác xã tự làm là chính, Nhà nước
tích cực giúp đỡ vật tư và kỹ thuật. Đi đôi với biện pháp thủy
lợi, phải đảm bảo phân bón đủ cho cây trồng. Cần đầu tư mạnh
vào việc xây dựng chuồng trại có hố ủ phân nhằm tận dụng hết
nguồn phân trâu, bò, lợn, đẩy mạnh việc khai thác nguồn phân
xanh, mở rộng nuôi bèo hoa dâu, nghiên cứu bổ sung chính
sách giá cả về phân phối lương thực để khuyến khích bà con
xã viên tích cực làm phân. Đi đôi với việc sử dụng phân
chuồng, phân xanh, cần bón cho lúa một tỷ lệ cần thiết phân
hóa học, vơi chống chua. Lựa chọn và mau chóng nhân đủ số
giống lúa có năng suất cao cho vụ xuân và vụ mùa, loại trừ
giống xấu, năng suất thấp, tích cực đảm bảo thời vụ cây trồng,
chăm bón đúng lúc, thực hiện các biện pháp phòng trừ sâu
20


bệnh. Tổ chức tốt trạm, trại kỹ thuật của Nhà nước kết hợp với
mạng lưới tổ kỹ thuật trong hợp tác xã phục vụ yêu cầu vận
động thực hiện kỹ thuật thâm canh trong sản xuất nông nghiệp.
Quản lý chặt chẽ đất đai nông nghiệp, quy hoạch đất lâm
nghiệp thật hợp lý để mở rộng diện tích trồng sắn ở những hợp
tác xã thiếu ruộng đất, nhằm tận dụng lao động phát triển thêm
lương thực. Nghiên cứu khảo sát đất đai thuộc hai bờ sơng
Con và sơng Lơ để có kế hoạch mở thêm nông trường hoặc

hợp tác xã chuyên canh cây công nghiệp. Cải tiến việc chăn
nuôi và từng bước thực hiện lại kinh tế lợn, quy hoạch đồi cỏ
ni trâu, bị, chấm dứt tình trạng trâu, bị thả rông phá hoại
hoa màu. Phát triển nuôi cá hồ, ao.
- Đối với vùng cao núi đất: Phương hướng và mục tiêu
chủ yếu đẩy mạnh sản xuất lương thực là phải phấn đấu cho số
diện tích lúa một vụ đạt bình quân 23 tạ/ha, làm tốt vụ lúa mùa
và bắp nương, tích cực tăng vụ hoa màu trên nương thổ canh
và trên tồn bộ diện tích ruộng một vụ để tự túc được về cơ
bản nhu cầu lương thực của nhân dân trong vùng. Cố gắng
phát triển đàn trâu, bò, ngựa (Phấn đấu hộ nào cũng có ngựa)
để bảo đảm sức kéo và vận chuyển trong sản xuất, bảo đảm
nguồn phân cho cây trồng. Tích cực cải tiến việc đốn, hái,
nhằm tăng nhanh sản lượng chè. Đồng thời sẽ tích cực đầu tư
lao động mở rộng diện tích chè mới. Tổ chức bảo vệ và đưa
vào khai thác số diện tích rừng thơng sẵn có, có kế hoạch mở
rộng thêm ra các xã phía bắc vùng này. Phát triển các loại cây
công nghiệp ngắn ngày, cây thuốc nhằm tận dụng lao động, lấy
ngắn nuôi dài, tăng nguồn thu nhập cho quần chúng. Đi đôi với
sản xuất nông nghiệp, nhiệm vụ gây lại rừng rất cấp bách, cần
mau chóng quy hoạch việc khoanh núi trồng cây giữ độ ẩm,
giữ nguồn nước và chống xói lở, bảo vệ đất.
Biện pháp đẩy mạnh sản xuất lương thực của vùng này
trước hết là phải chăm lo việc cày ải, làm đất sớm, bảo đảm
gieo trồng kịp thời vụ khi có nguồn nước. Tích cực thực hiện
21


biện pháp bón phân, tăng độ phì cho đất, bảo đảm cho cây
trồng lên khỏe, đối phó được với thời tiết thất thường, chú

trọng tổng kết kinh nghiệm làm phân chuồng, phân hun, phân
xanh ngắn ngày, dài ngày ở gần ruộng, thích hợp với tình hình
ruộng đất phân tán, vận chuyển khó khăn. Lựa chọn những
giống lúa ngắn ngày có năng suất cao, chống hạn tốt, những
loại hoa màu Thu - Đơng thích hợp với các vùng ruộng như:
Khoai tây, mạch, mì, bí đỏ, đậu mèo. Tổ chức việc quản lý
nghiêm ngặt rừng cây đầu nguồn nước, tích cực trồng những
vành đai cây con để chống xói mịn cho nương, sườn đồi dốc.
Nghiên cứu việc tổ chức lao động thích hợp với điều kiện
ruộng đất phân tán, đi lại khó khăn và tập trung cao độ lao
động khi thời vụ khẩn trương. Tổ chức tốt lao động, bảo đảm
tận thu chè búp, tăng nhanh sản lượng chè, đồng thời bảo đảm
được sản xuất lương thực. Tổng kết kinh nghiệm đốn, hái, phát
cỏ từ gốc, bón phân cho chè nhằm mau chóng tăng sản lượng
chè; mở rộng diện tích chè mới, trồng theo kỹ thuật vành nón,
tạo thành những đồi chè tập trung, thuận tiện cho việc chăm
bón, thu hoạch và chế biến.
- Đối với vùng cao núi đá: Phương hướng và mục tiêu
phấn đấu chủ yếu của vùng này là tích cực thực hiện các biện
pháp thâm canh tăng năng suất bắp, đưa khoảng 6.000ha
nương tương đối bằng đạt năng suất bình quân 13-15 tạ/ha và
nương hốc đá đạt bình quân 9 tạ/ha, đầu tư mạnh vào thâm
canh trên các chân ruộng cấy lúa sẵn có, phấn đấu đạt bằng
được năng suất 23 tạ/ha một vụ, ra sức tăng vụ hoa màu và rau
xanh để thu được sản lượng cao nhất trên diện tích có thể, sản
xuất được lương thực nhằm cố gắng tự túc phần lớn nhu cầu
ăn của quần chúng. Đồng thời có quy hoạch dành một phần
diện tích để phát triển các loại cây thuốc, các loại hạt giống
rau, cây ăn quả và cây cơng nghiệp có dầu, tạo nguồn nơng sản
có giá trị kinh tế cao phục vụ một phần yêu cầu của kinh tế

vùng đồng bằng, mau chóng tăng nguồn thu nhập bằng tiền
22


cho quần chúng. Phát triển chăn ni bị, phấn đấu hộ nào
cũng đều có bị, tận dụng khả năng phát triển dê và ong.
Biện pháp kỹ thuật và chỉ đạo ở vùng này phải thật thích
hợp với hồn cảnh thực tế có nhiều khó khăn. Trước hết phải
tiến hành cơng tác nghiên cứu thổ nhưỡng và quy hoạch vùng
cụ thể, trên cơ sở đó xác định phương hướng sản xuất cho từng
xã, từng hợp tác xã nhằm sử dụng đất đai được tốt nhất. Ra sức
xây dựng nương rẫy, giữ cho đất khơng bị bào mịn, tích cực
tăng vụ đậu mèo, đậu nho nhe, điêu tử tăng nguồn phân xanh.
Sử dụng tốt nguồn phân chuồng và phân hóa học. Xây dựng hệ
thống trạm, trại kỹ thuật của Nhà nước kết hợp với mạng lưới
kỹ thuật của hợp tác xã, làm thật tốt việc lựa chọn và nhân
giống bắp, bảo đảm có giống bắp tốt, ngắn ngày, thấp cây,
chịu phân. Chỉ đạo chặt chẽ khâu làm đất ải sớm, gieo trồng
kịp thời vụ. Có quy hoạch cụ thể xây dựng các loại cơng trình
giữ nước và chứa nước, đẩy mạnh trồng cây gây nguồn nước
và chống xói mịn, đi sâu giúp đỡ các hợp tác xã tổ chức lao
động, cộng với sự hỗ trợ của Nhà nước, phấn đấu trong 2-3
năm tới căn bản giải quyết được nạn thiếu nước cho người và
gia súc. Tích cực xây dựng các nương bậc thang, nhằm chống
xói lở một cách hiệu lực, xây dựng cơ sở vật chất cần thiết cho
việc trồng các loại hạt rau giống, bảo đảm hạt giống có chất
lượng tốt. Quy hoạch và xây dựng chính sách giá cả, giúp đỡ
lương thực nhằm đẩy mạnh việc trồng các loại cây thuốc quý,
đồng thời khoanh rừng để khai thác có kế hoạch các loại cây
thuốc thiên nhiên làm cho nguồn dược liệu vùng cao có giá trị

cao và sản lượng vững chắc. Đi sâu nghiên cứu chất đất thích
hợp để mở rộng dần việc trồng cây các loại: Cây ăn quả, cây
lấy dầu, chú ý tổ chức hợp lý việc chế biến và tiêu thụ để có
hiệu quả kinh tế thiết thực, xây dựng các trạm, trại kỹ thuật về
cây thuốc, cây ăn quả, hạt rau giống, trạm trồng cây gây rừng,
đầu tư cán bộ kỹ thuật có năng lực để kết luận được những
23


biện pháp kỹ thuật cây trồng, hướng dẫn quần chúng và đào
tạo được những thanh niên địa phương trở thành nhân viên kỹ
thuật cho hợp tác xã. Tổng kết kinh nghiệm nuôi ong trong
quần chúng, kết hợp với kỹ thuật chăn nuôi mới, đưa việc nuôi
ong thành một ngành kinh doanh ở một số vùng, tạo ra sản
lượng mật đáng kể.
- Tích cực phát triển cây cơng nghiệp: Là một nhiệm vụ
rất quan trọng trong sản xuất nông nghiệp của tỉnh ta. Chè là
cây cơng nghiệp có vị trí chiến lược lâu dài, có thể phát triển
được trên đất dốc và độ ẩm cao. Đối với vùng chè đã có ở Bắc
Quang, Vị Xun, Hồng Su Phì, Quản Bạ cần đi sâu nghiên
cứu và chỉ đạo để mau chóng kết luận được những biện pháp
quản lý lao động, kỹ thuật bón phân và đốn, hái, sao chế, thực
hiện chính sách lương thực, cung cấp vật tư, đầu tư xây dụng
giao thơng vận tải, đầu tư mở rộng diện tích chè mới nhằm
mau chóng xây dựng thành vùng chè dày đặc hơn, có sản
lượng vững chắc hơn. Đồng thời tiến hành quy hoạch đất
trồng, chọn giống, có chính sách tích cực đầu tư lao động,
giống, vốn vào việc mở rộng diện tích chè ra các vùng khác
hình thành vùng kinh tế mới.
Cây thuốc là ưu thế của vùng cao. Trước mắt, cần làm tốt

việc thu mua, tiêu thụ đối với những cây sẵn có như: Xuyên
khung, ý dĩ, giải quyết yêu cầu thu nhập của nhân dân và khẩn
trương nghiên cứu thổ nhưỡng, quy hoạch cụ thể đối với các
loại cây thuốc ngắn ngày, ăn khớp với yêu cầu tiêu thụ của
Trung ương, đồng thời sẽ thi hành chính sách thúc đẩy phát
triển mạnh các cây thuốc quý lâu ngày: Tam thất, bạch truật,
đỗ trọng... tạo cho vùng cao có những sản phẩm thuốc giá trị
kinh tế cao. Về hình thức sản xuất, cây thuốc sẽ phát huy tất cả
mọi khả năng: Hợp tác xã làm, gia đình xã viên làm, Nhà nước
có trạm, trại làm cơ sở nghiên cứu hướng dẫn kỹ thuật nhân
giống mới.
24


Đối với các loại cây lấy dầu sẽ đi sâu nghiên cứu lợi ích
kinh tế và đất đai thích hợp, có kế hoạch mở rộng từng bước.
- Đẩy mạnh phát triển nghề rừng là một yêu cầu cấp bách
đối với sản xuất và đời sống: Ở vùng thấp có khả năng làm
giàu về rừng. Điều kiện bảo vệ, gây rừng, trồng rừng, khai thác
thuận tiện. Cần xây dựng các đội chuyên nghiệp của hợp tác
xã, kết hợp với các lâm trường, hình thành mạng lưới trồng
rừng, khai thác và tu bổ, tái sinh rừng mạnh mẽ. Đặc biệt làm
tốt việc bảo vệ và khai thác rừng nứa, giang, vầu và trồng tre.
Kết hợp với công tác định canh, định cư, nhanh chóng quy
hoạch lại đất rừng và kiện tồn hệ thống tổ chức quản lý rừng
thật chặt chẽ, nhằm khắc phục tình trạng phá rừng làm nương,
bảo vệ được rừng có hiệu quả.
Vùng cao núi đất cũng như vùng cao núi đá, việc bảo vệ
và gây lại rừng là một yêu cầu cấp bách, phải chấm dứt nạn
phá rừng đầu nguồn nước. Cần chuyển biến mạnh mẽ về nhận

thức tư tưởng trong cán bộ và nhân dân, đồng thời phải đi vào
những biện pháp tổ chức chỉ đạo chặt chẽ trọng từng khâu cụ
thể. Tiến hành việc khoanh đồi núi cho hợp tác xã, có chính
sách khuyến khích và đặt nghĩa vụ cho các hợp tác xã, cơng
trường, xí nghiệp, cơ quan, trường học và mọi người dân đều
phải tham gia tích cực vào việc trồng cây gây rừng, để có củi
đun và gỗ làm nhà. Đi đơi với vận động quần chúng trồng cây,
Nhà nước sẽ xây dựng một số cơ sở ở các vùng Yên Minh,
Đồng Văn, Hoàng Su Phì, Xín Mần và dọc các đường giao
thơng lớn, huy động lao động nghĩa vụ của đông đảo quần
chúng cùng tham gia, để mau chóng gây lại được một số rừng
cây bảo hộ cho nông nghiệp. Tổ chức quản lý và nghiên cứu
khai thác rừng thơng ở Hồng Su Phì, Xín Mần, quy hoạch mở
rộng thành vùng thơng cơng nghiệp lấy nhựa và lấy gỗ.
Khẩn trương quy hoạch vùng trồng cây, cung cấp chất đốt
cho các cơ sở chế biến chè và vùng trồng cây phục vụ khai mỏ
sau này.
25


×