Tải bản đầy đủ (.pdf) (1,200 trang)

Toàn tập Văn kiện Đảng bộ tỉnh Hà Giang (19912000) Tập 6

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.73 MB, 1,200 trang )

VĂN KIỆN
ĐẢNG BỘ
TỈNH HÀ GIANG
TOÀN TẬP
VI
1991 – 2000

1


2


ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ TỈNH HÀ GIANG

VĂN KIỆN
ĐẢNG BỘ

TỈNH HÀ GIANG
TOÀN TẬP
VI
1991 - 2000

XUẤT BẢN NĂM 2019
3


CHỈ ĐẠO NỘI DUNG
BAN THƯỜNG VỤ TỈNH ỦY HÀ GIANG
BAN BIÊN TẬP


1. Đồng chí Sèn Chỉn Ly, Ủy viên Ban Thường vụ, Trưởng
Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy - Trưởng ban.
2. Đồng chí Hầu Minh Lợi, Tỉnh ủy viên, Chánh Văn phịng
Tỉnh ủy - Phó ban.
3. Đồng chí Trương Văn Thắng, Tỉnh ủy viên, Phó Trưởng
ban Thường trực, Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy - Phó ban.
4. Đồng chí Nguyễn Văn Hưng, Phó Trưởng ban Tuyên giáo
Tỉnh ủy - Thành viên.
5. Đồng chí Đặng Ái Xoan, Phó Trưởng ban Tun giáo Tỉnh
ủy - Thành viên.
6. Đồng chí Đỗ Bảo Kính, Trưởng phịng Lý luận chính trị và
Lịch sử Đảng, Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy - Thành viên
7. Đồng chí Vũ Trung Kiên, Phó Trưởng phịng Lý luận
chính trị và Lịch sử Đảng, Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy - Thành viên.
8. Đồng chí Phạm Hữu Đức, Phó trưởng Phịng Văn thư Lưu trữ, Văn Phịng Tỉnh ủy - Thành viên.
9. Đồng chí Phạm Ngọc Hải, Chun viên phịng Lý luận
chính trị và Lịch sử Đảng, Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy - Thành viên.
10. Đồng chí Nguyễn Thị Yến, Chun viên phịng Lý luận
chính trị và Lịch sử Đảng, Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy - Thành viên.
11. Đồng chí Ly Mí Páo, Chuyên viên phịng Lý luận chính
trị và Lịch sử Đảng, Ban Tun giáo Tỉnh ủy - Thành viên.
12. Đồng chí Vi Quý Thảo, Chun viên phịng Thơng tin Tun truyền, Ban Tun giáo Tỉnh ủy - Thành viên.

4


LỜI GIỚI THIỆU

Ngày 03/02/1930, Đảng Cộng sản Việt Nam được thành
lập đã đánh dấu bước ngoặt quan trọng trong lịch sử cách

mạng Việt Nam. Gần 90 năm qua, Đảng ta đã để lại khối
lượng văn kiện đồ sộ, phong phú, phản ánh sinh động cuộc đấu
tranh cách mạng đầy gian khổ, hy sinh, kiên cường, sáng tạo
của nhân dân và các chiến sĩ cộng sản, kết tinh nhiều giá trị lý
luận, tư tưởng và kinh nghiệm hoạt động thực tiễn của Đảng
và nhân dân.
Gắn liền với truyền thống hào hùng vẻ vang đó, ngày
25/12/1945 Đảng bộ tỉnh Hà Giang được thành lập. Hơn 70
năm xây dựng, trưởng thành và phát triển, Đảng bộ đã lãnh
đạo nhân dân các dân tộc trong tỉnh phát huy truyền thống
đoàn kết, tinh thần đấu tranh cách mạng, bền lịng, vững chí,
nêu cao ý chí tự lực tự cường, tích cực thực hiện mọi nhiệm vụ
trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ
xâm lược; cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới phía Bắc và thời kỳ
cả nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội và bảo vệ tổ quốc; từng
bước xây dựng tỉnh Hà Giang ngày càng vững về chính trị,
giàu về kinh tế, đẹp về văn hóa, mạnh về quốc phòng - an
ninh, xứng đáng là “phên dậu” của Tổ quốc.
Nhằm làm sáng tỏ nhiều sự kiện, vấn đề lịch sử, phản ánh
vai trị, q trình lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh phục vụ cho công tác
tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận và công tác nghiên cứu,
giảng dạy, tuyên truyền, giáo dục lịch sử Đảng địa phương.
Đồng thời kế thừa, tạo cơ sở khoa học cho việc hoạch định
những chủ trương, cơ chế của Đảng bộ tỉnh phù hợp với yêu cầu
nhiệm vụ cách mạng trong tình hình mới, Ban Thường vụ Tỉnh
ủy Hà Giang đã quyết định chỉ đạo việc biên soạn Văn kiện Đảng
bộ tỉnh Hà Giang toàn tập.
Nhân dịp kỷ niệm 74 năm Quốc khánh nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam (02/9/1945 - 02/9/2019), Ban Thường
5



vụ Tỉnh ủy Hà Giang trân trọng giới thiệu cuốn Văn kiện Đảng
bộ tỉnh Hà Giang toàn tập, tập VI (1991-2000) đến các cấp ủy
đảng, chính quyền và bạn đọc.
Nội dung cuốn văn kiện gồm trên 210 văn bản được sưu
tầm, tổng hợp và biên tập; phản ánh quá trình sau khi tái lập
tỉnh (năm 1991), Đảng bộ tỉnh Hà Giang cũng được tái lập,
lãnh đạo nhân dân các dân tộc trong tỉnh từng bước khắc phục
những khó khăn của tỉnh nghèo nhất cả nước, phát huy nội lực,
sức mạnh đồn kết, vượt khó đi lên xây dựng cơ sở vật chất kỹ
thuật, thực hiện các chương trình kinh tế - xã hội, phấn đấu đạt
nhịp độ tăng trưởng kinh tế nhanh, sản xuất hàng hóa nhiều
thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của
Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa; đẩy mạnh sự
nghiệp văn hóa – xã hội; bảo đảm an ninh, quốc phòng; tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng, hiệu lực điều hành, quản lý của
chính quyền và vai trị của Mặt trận Tổ quốc và các đồn thể
chính trị - xã hội. Qua đó góp phần tiếp tục đẩy mạnh công
cuộc đổi mới của Đảng, thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ thời
kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
T/M BAN THƯỜNG VỤ
BÍ THƯ
Đặng Quốc Khánh

6


NĂM 1991


Phần thứ nhất
ĐẢNG BỘ TỈNH HÀ GIANG NHỮNG NGÀY ĐẦU
TÁI LẬP

7


Ngày 16/9/1991, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương
Đảng ra Quyết định số 44-NS/TW chỉ định Ban Chấp hành lâm thời
Đảng bộ tỉnh Hà Giang gồm 21 đồng chí, trong đó Ban Thường vụ
Tỉnh ủy có 7 đồng chí.
1. Đồng chí Hồng Thừa
2. Đồng chí Nguyễn Chí Tuy
3. Đồng chí Triệu Đức Thanh
4. Đồng chí Giàng Văn Quẩy

5. Đồng chí Hồng Văn Vương
6. Đồng chí Trần An
7. Đồng chí Nguyễn Văn Qúy

Đồng chí Hồng Thừa được chỉ định giữ chức Bí thư Tỉnh ủy.
Sau khi tái lập tỉnh, Đảng bộ tỉnh Hà Giang có 14 Đảng bộ
trực thuộc gồm: Đảng bộ huyện Mèo Vạc, Đồng Văn, Yên Minh,
Quản Bạ, Bắc Quang, Hồng Su Phì, Xín Mần, Bắc Mê, Vị Xuyên,
Đảng bộ thị xã Hà Giang, Đảng bộ Quân sự tỉnh, Đảng bộ Cơng an
tỉnh, Đảng bộ Biên phịng tỉnh, Đảng bộ Dân chính Đảng. Tồn tỉnh
có 488 chi, đảng bộ cơ sở với 12.526 đảng viên.

Đồng chí: Hồng Thừa
Năm sinh: 1937 - 1997

Quê quán: Vĩnh Phúc - Bắc Quang - Hà Giang
Bí thư: 1991
8


NGHỊ QUYẾT SỐ 02-NQ/TU, NGÀY 29/9/1991
CỦA BAN CHẤP HÀNH LÂM THỜI ĐẢNG BỘ TỈNH HÀ GIANG
về thành lập và xuất bản tờ báo Đảng bộ tỉnh Hà Giang
-----Căn cứ vào Luật Báo chí và các chỉ thị của Ban Bí thư Trung
ương Đảng về cơng tác báo chí.
Sau khi thảo luận tại phiên họp ngày 27/9/1991, Ban Chấp
hành lâm thời Đảng bộ tỉnh Hà Giang, lấy tên là: Báo Hà Giang.
I- NHIỆM VỤ VÀ NỘI DUNG CỦA BÁO
Báo Hà Giang là cơ quan ngôn luận của Đảng bộ tỉnh, là tiếng
nói của Đảng và nhân dân các dân tộc trong tỉnh, có nhiệm vụ tuyên
truyền, giáo dục, động viên và hướng dẫn cán bộ, đảng viên, công
nhân viên chức và các tầng lớp nhân dân lao động thực hiện thắng
lợi nhiệm vụ chính trị của địa phương. Cơng tác xây dựng Đảng là
nhiệm vụ trọng tâm của Báo. Tích cực tham gia vào mặt trận đấu
tranh chống tiêu cực, tham nhũng, tăng cường đoàn kết các dân tộc
anh em, phấn đấu xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã
hội chủ nghĩa.
Báo phải thể hiện trung thực tinh thần chỉ đạo của Tỉnh ủy,
phản ánh một cách sinh động, phong phú các phong trào cách mạng
của quần chúng. Thơng qua đó, phổ biến những người tốt, việc tốt,
những kinh nghiệm của các đơn vị tiên tiến, tổ chức cổ vũ quần
chúng học tập. Báo phải đề cập đến các vấn đề cụ thể trên các lĩnh
vực chính trị, kinh tế, văn hố, an ninh - quốc phịng và đời sống
nhân dân. Đẩy mạnh phê bình và tự phê bình trên Báo về những
hiện tượng làm sai đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của

Nhà nước, những tàn dư tư tưởng và tác phong xấu trong mọi tầng
lớp nhân dân. Xây dựng nếp sống mới văn minh, xây dựng con
người mới có tinh thần làm chủ, quý trọng lao động, có tổ chức, có
kỷ luật, biết quý trọng bảo vệ của công, trung thành với Đảng, với
Tổ quốc.
9


Đối tượng phục vụ của Báo là cán bộ, đảng viên, cơng nhân,
nơng dân, trí thức xã hội, các lực lượng vũ trang và các tầng lớp
nhân dân lao động.
Quyết định phương hướng, nội dung của Báo là nhiệm vụ
chính trị của Đảng bộ, vì vậy, nội dung của Báo phải đề cập đến các
vấn đề chủ yếu sau:
1. Thông tin, tuyên truyền, giáo dục đường lối đổi mới của
Đảng, các chủ trương của Tỉnh ủy và vị trí, chức năng của chính
quyền, hội đồng nhân dân trong nhiệm vụ phát huy quyền làm chủ của
nhân dân, động viên nhân dân thực hiện đúng pháp luật, chế độ chính
sách của Nhà nước và nhiệm vụ quản lý kinh tế, quản lý xã hội.
2. Tuyên truyền công tác xây dựng Đảng, Đảng lãnh đạo và
xây dựng các đoàn thể quần chúng.
3. Phát huy truyền thống cách mạng của địa phương, cổ vũ
tinh thần cách mạng tiến công, ý thức tự lực, tự cường, đoàn kết
thủy chung, giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ trên con đường xã hội
chủ nghĩa.
4. Tuyên truyền, giáo dục ý thức bảo vệ Tổ quốc, củng cố
quốc phịng, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an tồn xã hội. Trên
cơ sở đó, động viên nhân dân, lực lượng vũ trang thi đua lao động
sản xuất, xây dựng nền quốc phịng tồn dân, bảo vệ Tổ quốc.
II- HÌNH THỨC VÀ THỂ TÀI CỦA BÁO

1. Báo Hà Giang có thể sử dụng mọi thể tài của báo chí nhưng
cần chọn những thể tài thích hợp đối với bạn đọc trong tỉnh, phản
ánh trung thực, sinh động, ngắn gọn, thiết thực với người đọc.
2. Khuôn khổ và kỳ hạn xuất bản của Báo Hà Giang trước mắt
xuất bản 1 tháng 4 kỳ, mỗi kỳ 4 trang, nâng dần lên 1 tuần 2 kỳ, số
báo đầu tiên của Báo Hà Giang số ra vào đầu tháng 10/1991.
3. Hình thức thể hiện phải bảo đảm tính chính trị của tờ báo,
tin, bài ngắn gọn, ảnh đẹp, có chất lượng, văn phong dùng cần cân
nhắc nghiêm túc để người đọc hiểu rõ ràng, Báo phục vụ người đọc
đồng thời nâng cao trình độ người đọc, các loại phê bình cần cân
nhắc thích hợp với nội dung vấn đề: Có thể là xã hội, bình luận,
điều tra, phóng sự, thư bạn đọc, thơ, tranh... nhằm mục tiêu ổn định
chính trị và phát triển kinh tế, Báo phải có chuyên trang, chuyên
mục và vị trí ổn định.
10


III- PHÁT HÀNH VÀ SỬ DỤNG BÁO
1. Bưu điện tỉnh có trách nhiệm phát hành Báo và vận động tổ
chức cho quần chúng nhân dân mua Báo theo chỉ tiêu phát hành
hàng năm. Đồng thời cần có những biện pháp thích hợp tạo điều
kiện thuận lợi cho nhân dân mua Báo dễ dàng và đảm nhiệm một
cách chắc chắn việc chuyển Báo nhanh, đúng, đủ, đến tay người
mua Báo.
2. Báo Hà Giang là cơ quan ngôn luận của Đảng bộ tỉnh, chịu
sự lãnh đạo trực tiếp của Ban Thường vụ Tỉnh ủy, để làm tốt nhiệm
vụ là tiếng nói của Đảng, đồng thời là diễn đàn của quần chúng từ
tỉnh, huyện đến cơ sở có trách nhiệm góp phần xây dựng cho Báo,
coi đó là vũ khí tư tưởng của tồn Đảng bộ. Trước hết, các cấp, các
ngành có nhiệm vụ hợp tác chặt chẽ với Báo, tạo điều kiện thuận

lợi cho cán bộ, phóng viên của Báo hồn thành tốt mọi nhiệm vụ,
thực hiện tốt Luật Báo chí.
Chỉ đạo việc phát hành Báo, bảo đảm từng cơ sở của tỉnh đều
có Báo và có cộng tác viên, thơng tin viên từ cơ sở viết cho Báo.
3. Các ngành hữu quan cần tạo mọi điều kiện tăng cường nhà
in, cơ sở vật chất, phương tiện nghiệp vụ, đào tạo, bồi dưỡng cán
bộ, phóng viên, cộng tác viên cho cơ quan Báo Đảng.
4. Cán bộ trực tiếp làm Báo cần nhận rõ trách nhiệm của mình
khơng ngừng bồi dưỡng, nâng cao quan điểm, đường lối, chủ
trương công tác của Đảng bộ tỉnh, luôn luôn cải tiến nâng cao chất
lượng tin, bài, ảnh đăng Báo.
5. Việc sắp xếp tổ chức bộ máy và cán bộ nhân viên Báo phải
căn cứ vào tiêu chuẩn chức danh viên chức Nhà nước theo qui định
của Trung ương, tổ chức các bộ phận trong cơ quan Báo cần phải
được nghiên cứu, vận dụng những qui định của Trung ương vào
hoàn cảnh cụ thể của tỉnh sao cho gọn, mạnh, có hiệu lực đáp ứng
yêu cầu đổi mới báo chí và sự nghiệp đổi mới của Đảng.
T/M TỈNH ỦY
ỦY VIÊN THƯỜNG TRỰC
Nguyễn Chí Tuy
11


CHỈ THỊ SỐ 01-CT/TU, NGÀY 27/12/1991
CỦA BAN THƯỜNG VỤ TỈNH ỦY
về tổ chức lấy ý kiến nhân dân
tham gia bản dự thảo Hiến pháp sửa đổi
----Theo chỉ đạo của Bộ Chính trị, Quốc hội và Hội đồng Nhà
nước đã cho công bố bản dự thảo lần thứ 3 về sửa đổi Hiến pháp
năm 1980 để nhân dân trong cả nước tham gia ý kiến.

Để đạt được yêu cầu về nội dung và thời gian lấy ý kiến của
Trung ương quy định. Ban Thường vụ Tỉnh ủy yêu cầu các cấp ủy
đảng chỉ đạo tốt mấy việc sau đây:
1. Chọn và bồi dưỡng tốt báo cáo viên.
2. Tổ chức tốt việc phổ biến Hiến pháp sửa đổi để cán bộ,
đảng viên và nhân dân hiểu và nắm được nội dung của Hiến pháp
sửa đổi, thảo luận dân chủ và góp ý kiến thiết thực, cụ thể.
3. Ghi chép và tổng hợp đầy đủ ý kiến của quần chúng nhân
dân góp ý cho bản dự thảo lần này. Báo cáo lên trên theo đúng lịch
và kế hoạch của Ban chỉ đạo tỉnh đã hướng dẫn.
Ngồi ra, cần động viên mọi cơng dân viết thư góp ý bằng văn
bản gửi về Ban chỉ đạo các cấp và Ủy ban sửa đổi Hiến pháp của
Quốc hội.
T/M BAN THƯỜNG VỤ
ỦY VIÊN THƯỜNG TRỰC
Nguyễn Chí Tuy

12


NĂM 1992

Phần thứ hai
CÁC KỲ ĐẠI HỘI ĐẠI BIỂU ĐẢNG BỘ TỈNH HÀ GIANG
1992 – 2000

13


Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Hà Giang lần thứ XI1

được tổ chức từ ngày 14 đến ngày 16 tháng 01 năm 1992
tại thị xã Hà Giang Đồng chí Nơng Đức Mạnh, Ủy viên Bộ Chính trị,
Trưởng Ban Dân tộc Trung ương dự và chỉ đạo Đại hội

1
Trước khi sáp nhập với tỉnh Tuyên Quang, Đảng bộ tỉnh Hà Giang đã tổ chức 6 kỳ Đại
hội (Từ Đại hội lần thứ nhất năm 1950 đến Đại hội lần thứ VI, tháng 3/1975); giai đoạn
tỉnh Hà Tuyên, Đảng bộ tỉnh Hà Tuyên tổ chức 4 kỳ Đại hội (Từ Đại hội lần thứ nhất
năm 1977, đến Đại hội lần thứ IV năm 1988), tiếp nối những kỳ Đại hội trước, tháng
01/1992, Đảng bộ tỉnh Hà Giang tổ chức Đại hội lần thứ XI.

14


Đồng chí: Hồng Thừa
Năm sinh: 1937 - 1997
Q qn: Vĩnh Phúc - Bắc Quang - Hà Giang
Bí thư: 1992 - 1996
Dự Đại hội có 194 đại biểu thay mặt cho trên 12 nghìn đảng
viên trong tồn Đảng bộ tỉnh.
- Đại hội bầu Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Hà Giang (khố
XI) gồm 39 đồng chí .
Hội nghị lần thứ nhất, Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh bầu 11
đồng chí vào Ban Thường vụ Tỉnh ủy.
1. Đồng chí Hồng Thừa

6. Đồng chí Hồng Văn Vương

2. Đồng chí Nguyễn Chí Tuy


7. Đồng chí Triệu Đức Thanh

3. Đồng chí Giàng Văn Quẩy

8. Đồng chí Trần An

4. Đồng chí Thiều Khắc Được

9. Đồng chí Nguyễn Văn Q

5. Đồng chí Hồng Minh Nhất

10. Đồng chí Hồng Thị Độ
11. Đồng chí Hồng Ngọc

15


BÁO CÁO CHÍNH TRỊ
CỦA BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ TỈNH
TẠI ĐẠI HỘI ĐẠI BIỂU ĐẢNG BỘ TỈNH HÀ GIANG
LẦN THỨ XI
----Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Hà Giang lần thứ XI nhằm tổng
kết, đánh giá những kết quả đạt được, những thiếu sót và tồn tại
trong nhiệm kỳ 1986 - 1990, chỉ ra nguyên nhân và bài học kinh
nghiệm trên các lĩnh vực chủ yếu, đồng thời quán triệt Nghị quyết
Đại hội VII của Đảng, đề ra phương hướng, nhiệm vụ, mục tiêu cụ
thể cho 5 năm 1991-1995.
Phần thứ nhất
KIỂM ĐIỂM TÌNH HÌNH THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT

ĐẠI HỘI IV ĐẢNG BỘ TỈNH HÀ TUYÊN
Dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Hà Tuyên, quân và dân
các dân tộc trong tỉnh đã phát huy truyền thống đoàn kết, tự lực, tự
cường, quyết tâm thực hiện công cuộc đổi mới, bước đầu đạt một
số thành tích quan trọng trên lĩnh vực kinh tế - xã hội, giữ vững an
ninh chính trị, trật tự an tồn xã hội.
1. Sản xuất nơng, lâm nghiệp
Chỉ đạo giải quyết có kết quả vấn đề lương thực trên địa bàn
miền núi, biên giới theo quan điểm kinh tế hàng hóa. Đẩy mạnh sản
xuất lương thực tại chỗ, kết hợp phát triển các sản phẩm kinh tế đồi
rừng và mở rộng lưu thông, trao đổi, bổ sung nguồn lương thực.
Sản xuất tại chỗ năm 1990, tuy trong điều kiện thời tiết không
thuận lợi, tổng sản lượng lương thực quy thóc vẫn tăng 6,5% so với
năm 1986. Riêng Hà Giang tăng 8,785 tấn (chủ yếu do tăng diện
tích phục hóa ở vùng biên giới, tăng năng suất lúa và phát triển
mạnh một số cây màu, lương thực khác). Kết quả đó chứng minh
việc áp dụng rộng rãi cơ chế khốn hộ trong nơng nghiệp, tạo điều
16


kiện cho nơng dân tích cực tiếp thu khoa học, kỹ thuật về giống
mới, phân bón để thâm canh tăng vụ, kết hợp phục hóa làm ruộng
bậc thang.
Một số cây công nghiệp, cây ăn quả, dược liệu quý như: Chè,
cam, đỗ trọng… bước đầu được khuyến khích nên phát triển khá.
Đặc biệt cây chè được tập trung chỉ đạo, diện tích trồng mới đến
năm 1990 tăng 1.300 ha so với năm 1986 (riêng Hà Giang từ năm
1986 đến năm 1991 trồng mới được 600 ha).
Trong lâm nghiệp, đã kết hợp giao đất, giao rừng với sắp xếp
lại lực lượng kinh doanh nghề rừng theo hướng lâm nghiệp xã hội,

lấy hộ gia đình làm lực lượng chủ yếu, đã thu gọn quy mô các lâm
trường vùng cao và chuyển đổi thành các trạm dịch vụ cây giống
cho nhân dân.
Thực hiện Nghị quyết 10-NQ/TW của Bộ Chính trị, hộ xã
viên và cơng nhân nông, lâm trường đang trở thành đơn vị kinh tế
tự chủ: Tiềm năng lao động, tiền vốn trong nhân dân một số nơi
bước đầu được khai thác để đẩy mạnh sản xuất. Kinh tế hợp tác xã
ở vùng thấp đã bước đầu chuyển hướng làm dịch vụ sản xuất cho
hộ gia đình.
Hạn chế trong lĩnh vực sản xuất nơng, lâm nghiệp là phát triển
chưa toàn diện, chưa vững chắc: Sản xuất lương thực tại chỗ tăng
chậm, thâm canh, tăng vụ trên diện rộng còn hạn chế, chủ yếu do
tập quán thả rông gia súc; tiềm năng cây công nghiệp, lâm nghiệp,
cây ăn quả, dược liệu và chăn nuôi chưa được khai thác đúng mức
để trở thành nguồn hàng hóa tập trung; công nghệ chế biến lương
thực, thực phẩm chưa được coi trọng. Thực hiện giao đất, giao rừng
còn chậm, chưa kết hợp chặt chẽ với vận động định canh, định
cư… nạn chặt phá rừng vẫn xảy ra, vốn rừng tiếp tục bị suy giảm.
Tình hình trên, trước hết do tổ chức thực hiện chưa thực sự
được coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, đầu tư cho nông nghiệp
chưa hợp lý, các cơng trình thủy lợi hiện có chậm được hoàn chỉnh,
tu sửa nên bị xuống cấp nhanh. Việc tập huấn đưa tiến bộ kỹ thuật
vào sản xuất còn nhiều hạn chế, tổ chức dịch vụ vật tư và tiêu thụ
sản phẩm cho nơng dân cịn nhiều yếu kém, cùng với một số chính
sách đầu tư, giá bán vật tư, mua sản phẩm còn bất hợp lý… đã hạn
17


chế nhiều đến khả năng khai thác thế mạnh của địa phương, thực
hiện cơ chế khoán mới nhiều hợp tác xã bng lỏng dịch vụ sản

xuất, khốn trắng cho xã viên, sử dụng vốn quỹ của tập thể còn bị
thất thoát, do nhận thức Luật Đất đai chưa đầy đủ. Việc giao ruộng
đất không xác định rõ ranh giới, chưa đảm bảo công bằng hợp lý.
2. Công nghiệp, tiểu thủ cơng nghiệp
Thực hiện Nghị quyết 16-NQ/TW của Bộ Chính trị, công
nghiệp và tiểu thủ công nghiệp địa phương vẫn được duy trì và phát
triển, đáp ứng một phần nhu cầu hàng nông cụ, vật liệu xây dựng,
nhân dân một số vùng đã chủ động đầu tư phát triển mạnh thủy
điện nhỏ.
Song trong thực hiện cơ chế thị trường, công nghiệp quốc
doanh và tập thể còn bộc lộ nhiều yếu kém, sản xuất ở nhiều đơn vị
bị sa sút, một số đã tự giải thể. Nguyên nhân chủ yếu là do trình độ
quản lý cịn hạn chế, trang thiết bị và công nghệ sản xuất lạc hậu,
chất lượng sản phẩm kém, cước phí vận tải lớn… làm cho giá thành
cao và mặt khác giá vật tư, nguyên liệu không ổn định.
3. Giao thông vận tải, bưu điện
Đã huy động nhân dân cùng với Nhà nước làm mới, sửa chữa,
bảo dưỡng mạng lưới đường giao thông. Công tác vận tải đi các
huyện được đáp ứng tốt hơn cùng với sự tham gia của nhiều thành
phần kinh tế, trong đó vận tải quốc doanh vẫn giữ vai trò chủ yếu.
Nhưng do nguồn vốn đầu tư có hạn, các tuyến đường trục
xuống cấp, đi lại gặp nhiều khó khăn, vận tải quốc doanh vẫn phải
chịu thua lỗ để vận chuyển các mặt hàng thiết yếu và hành khách đi
vùng cao. Giao thông vận tải nông thôn chưa được quan tâm đúng
mức.
Đã mở mới đường thông tin hữu tuyến đến trung tâm một số
xã nhưng thiết bị thơng tin lạc hậu, hệ thống bưu chính đến các xã
và đồn biên phòng chưa được củng cố tốt nên thơng tin liên lạc cịn
chậm.
4. Đầu tư xây dựng cơ bản

Cơ cấu đầu tư trong thời gian qua đã bố trí chủ yếu cho xây
dựng các cơng trình giao thông, thủy điện, nước ăn, ổn định dân cư
18


xã biên giới và chuyển 1 số huyện lỵ đóng về nơi cũ. Trong tổng số
vốn đầu tư có phần đóng góp đáng kể của nhân dân.
Tuy nhiên, trong điều kiện nhu cầu xây dựng cơ bản lớn nhưng
khả năng vốn có hạn nên chưa đáp ứng được yêu cầu xây dựng cơ sở
vật chất hạ tầng, nhất là công trình dẫn và chứa nước sinh hoạt cho
nhân dân vùng cao. Vốn ngân sách cấp chậm, lại phải ưu tiên cho các
khoản chi về xã hội (chiếm trên 75% tổng chi ngân sách) nên nhiều
cơng trình phải thi cơng kéo dài. Việc quản lý xây dựng cơ bản còn
nhiều yếu kém, gây lãng phí, thất thốt, hiệu quả thấp.
5. Phân phối, lưu thông
Với sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế, thời gian qua
vật tư, hàng hóa khá phong phú và đa dạng trên thị trường, đáp ứng
tốt hơn nhu cầu sản xuất và đời sống nhân dân. Thương nghiệp
quốc doanh đã có cố gắng phục vụ một số mặt hàng thiết yếu cho
vùng cao, vùng xa.
Song thương nghiệp quốc doanh và hợp tác xã mua bán trong
quá trình chuyển sang cơ chế thị trường đã bộc lộ nhiều thiếu sót,
một phần do cơ chế cũ để lại như: Biên chế cồng kềnh, chi phí quá
lớn…; chưa làm chủ được thị trường một số mặt hàng thiết yếu
như: Lương thực, dầu, muối…; phương thức và trình độ quản lý
kinh doanh ở nhiều đơn vị lúng túng và yếu kém, thua lỗ kéo dài,
phần lớn hợp tác xã mua bán phải giải thể.
- Về xuất, nhập khẩu: Đã tập trung đẩy mạnh sản xuất chè và
một số dược liệu, chú trọng nhập khẩu một số hàng hóa cần thiết
phục vụ sản xuất và tiêu dùng. Nhưng hàng xuất khẩu còn ít về số

lượng và chủng loại, khối lượng và chất lượng sản phẩm đạt thấp.
Tổ chức kinh doanh xuất, nhập khẩu không ổn định, thị trường luôn
biến động, trong khi đó nhiều đơn vị cùng kinh doanh xuất khẩu
một mặt hàng, đầu tư trở lại sản xuất cịn ít, xuất, nhập khẩu tiểu
ngạch qua biên giới tiến hành chậm.
- Về tài chính, ngân hàng: Nguồn thu địa phương chiếm tỷ
trọng nhỏ so với tổng thu ngân sách, nhu cầu chi chủ yếu bằng
nguồn trợ cấp của Trung ương (chiếm trên 80%). Việc quản lý, thu
thuế đạt được một số kết quả, góp phần đáp ứng nhu cầu chi bức
thiết của địa phương.
19


Song việc quản lý thu, chi tài chính chưa tồn diện, chưa đồng
bộ ở tất cả các cấp, ngành, các đơn vị kinh tế, thực hiện chưa
nghiêm túc pháp lệnh thuế, quản lý, thu thuế đến cơ sở và hộ gia
đình cịn yếu nên cịn thất thu, nhất là thuế sát sinh. Công tác thanh
tra, kiểm tra chưa thường xuyên, phát hiện và xử lý những vụ vi
phạm chưa kịp thời, nghiêm túc… cho nên thu ngân sách đạt thấp
so với tiềm năng thực tế.
Hoạt động tín dụng ngân hàng, khi chuyển sang cơ chế kinh
doanh đã bước đầu bám sát cơ sở kinh tế (chủ yếu quốc doanh) để
mở rộng cho vay nhưng phương thức kinh doanh của ngân hàng
chưa năng động, chưa thực sự trở thành trung tâm tiền tệ, tín dụng
và thanh tốn của xã hội.
6. Khoa học, kỹ thuật
Hoạt động khoa học, kỹ thuật đã bước đầu hướng vào phục vụ
thâm canh cây lúa, ngô, đưa giống mới có năng suất cao vào sản
xuất và phục trang giống ngơ vùng cao.
Nhìn chung, hoạt động khoa học, kỹ thuật cịn yếu kém, chưa

góp phần tích cực thúc đẩy sản xuất phát triển, chưa chuyển giao
được tiến bộ khoa học, kỹ thuật đến người sản xuất, ngân sách đầu
tư cho khoa học, cơng nghệ cịn thấp, đội ngũ cán bộ khoa học, kỹ
thuật ít và khơng đồng bộ, thiếu những chuyên gia giỏi có kiến thức
chuyên ngành sâu và hiểu biết liên ngành rộng.
7. Về văn hóa, xã hội
- Công tác giáo dục, đào tạo
Hệ thống giáo dục, đào tạo bước đầu được sắp xếp, điều chỉnh
lại nhằm từng bước hình thành và phát triển quan điểm giáo dục
nhân dân, mơ hình trường Phổ thơng cơ sở dân lập nội trú Sủng
Thài (Yên Minh) đã được khẳng định và nhân ra diện rộng. Cơng
tác xóa mù chữ và phổ cập cấp I được triển khai ở các huyện, thị,
bước đầu có một số kết quả.
Tuy vậy cơng tác giáo dục, đào tạo đang cịn rất nhiều khó
khăn, nan giải, chất lượng và hiệu quả đạt thấp, tình trạng mù chữ
vẫn ở mức cao, nhất là các huyện vùng cao biên giới. Đời sống giáo
viên cịn nhiều khó khăn, thiếu thốn, giáo viên cấp I tuy được tăng
20


cường nhưng vẫn thiếu và yếu, trường lớp, sách vở, dụng cụ học
tập… nhìn chung cịn rất sơ sài.
- Cơng tác chăm sóc, bảo vệ sức khỏe và kế hoạch hóa dân số
Thực hiện phương châm “đưa giường bệnh xuống cơ sở”, việc
khám, chữa bệnh cho nhân dân được đáp ứng tốt hơn, song phải
thấy công tác y tế đang còn nặng về chữa hơn là phòng bệnh, chưa
chú trọng vận động nhân dân giữ gìn bảo vệ sức khỏe, thực hiện vệ
sinh môi trường. Tỷ lệ mắc bệnh sốt rét, bệnh bướu cổ vẫn ở mức
cao, tuyến y tế xã tuy có củng cố nhưng hoạt động cịn yếu kém.
Nguồn dược liệu quý hiếm chưa được nuôi trồng, khai thác.

Cơng tác dân số, kế hoạch hóa gia đình tuy có bước triển khai
nhưng chuyển biến rất chậm. Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên ở mức cao
(Năm 1990 toàn tỉnh 2,9%), riêng Mèo Vạc 3,5%, Xín Mần
3,36%... Cơng tác thể dục, thể thao chưa được chú trọng về chiều
sâu, chưa trở thành hoạt động thường xuyên của toàn dân.
- Cơng tác văn hóa, thơng tin
Đã chú trọng hướng hoạt động về cơ sở, từng bước đổi mới và
tăng cường cơ sở vật chất, trang thiết bị như: Viđio, truyền thanh,
truyền hình… các phương tiện thơng tin đại chúng như: Báo, đài
thường xuyên đưa tin, cổ vũ, động viên đồng bào các dân tộc trong
lao động sản xuất và chiến đấu, tuyên truyền các chủ trương, chính
sách của Đảng và Nhà nước tới nhân dân.
Tuy vậy, tiềm năng văn hóa, văn nghệ trong nhân dân các dân
tộc chưa được khơi dậy, phong trào văn nghệ quần chúng phát triển
chưa đồng đều, không vững chắc. Công tác phát hành sách, báo,
chiếu phim… các mặt sản xuất, quản lý hoạt động chiếu phim viđio
có lúc cịn thiếu chặt chẽ với các loại phim gây tác hại xấu trong
thanh thiếu niên, công tác xây dựng nếp sống mới, con người mới
xã hội chủ nghĩa chưa được chú ý đúng mức, nhiều hủ tục, tệ nạn
xã hội như: Ma to, cưới lớn, mê tín dị đoan, cờ bạc, nghiện hút…
vẫn cịn có chiều hướng tăng.
- Công tác lao động và đời sống xã hội
Đã tập trung giải quyết ổn định dân cư cho khu vực biên giới
và một số khu vực khác. Lao động khu vực quốc doanh được bố trí
21


lại theo hướng xóa bao cấp, tự trang trải ở khu vực ngoài quốc
doanh. Do thực hiện cơ chế mới nên đã tạo điều kiện quan trọng để
giải quyết thêm việc làm cho người lao động.

Tuy vậy lực lượng lao động sản xuất cịn dư thừa nhiều, chưa
có kế hoạch tổng thể tổ chức lao động, thiếu biện pháp mở mang
ngành nghề để giúp người lao động có cơng ăn việc làm.
Đời sống của một bộ phận nhân dân so với 5 năm trước đây
có được cải thiện và ổn định hơn. Do tác động của chính sách mới,
nhiều hộ gia đình đã có thu nhập khá nhờ phát triển kinh tế gia
đình, nhất là ở vùng chè, vùng cam như: Bắc Quang, Vị Xuyên…
nhiều bản làng xa, sâu đã tự xây dựng thủy điện nhỏ phục vụ sinh
hoạt như: Giáp Trung (Bắc Mê), Thơng Ngun (Hồng Su Phì),
Quang Minh (Bắc Quang).
Tuy nhiên, đời sống của đại bộ phận đồng bào vùng cao vùng
rẻo cao, biên giới vẫn còn nhiều gia đình thiếu thốn, nhất là khi gặp
thiên tai, mất mùa, đời sống của cán bộ, công nhân viên, lực lượng
vũ trang và các đối tượng chính sách xã hội vẫn cịn khó khăn.
8. Về quốc phịng, an ninh
Thực hiện đổi mới cơng tác qn sự và quốc phịng theo quan
điểm chiến tranh nhân dân, lấy củng cố, xây dựng lực lượng dân
quân tự vệ, lực lượng dự bị tại chỗ làm chính, bố trí lực lượng biên
phịng. Lực lượng vũ trang đã có nhiều cố gắng thực hiện đồn kết
quân dân và tham gia công tác xã hội trên địa bàn như: Khôi phục,
sửa chữa đường, trường học, trạm xá và dạy học; rà phá bom mìn,
tháo dỡ vật cản, tạo điều kiện để đồng bào biên giới trở về ổn định
cuộc sống, phát triển sản xuất.
Đi đôi với chấn chỉnh cơ bản về tổ chức biên chế và nâng cao
chất lượng huấn luyện bộ đội thường trực, đã xây dựng lực lượng
dân quân tự vệ theo hướng “dân bầu, dân ni” có số lượng thích
hợp, lấy chất lượng làm chính. Đồng thời đã tiến hành một bước
xây dựng lực lượng dự bị, hình thành kế hoạch động viên và tổ
chức động viên thử ở một số huyện đạt kết quả khá. Lực lượng
công an nhân dân tiếp tục được củng cố, kiện toàn về tổ chức theo

hướng tinh giản biên chế, chuyển mạnh hoạt động gắn với cơ sở.
22


Đồng thời đẩy mạnh đấu tranh chống tiêu cực trong nội bộ, nâng
cao ý chí chiến đấu của cán bộ, chiến sĩ trong ngành.
Bước đầu đã triển khai kế hoạch xây dựng tỉnh thành khu vực
phòng thủ vững chắc gắn với xây dựng thế trận chiến tranh nhân
dân, xây dựng phong trào quần chúng bảo vệ trật tự trị an, xây dựng
phương án hợp đồng giữa các lực lượng trong phạm vi toàn tỉnh,
bảo đảm giữ vững chủ quyền lãnh thổ, chủ động phòng ngừa và
ngăn chặn những diễn biến gây mất ổn định chính trị.
Cơng tác bảo vệ an ninh trật tự đã có bước chuyển biến tích
cực ở các cấp, các ngành. Thực hiện Chỉ thị 135/HĐBT, đã liên tục
phát động quần chúng tham gia phòng ngừa và tấn công tội phạm,
đấu tranh, ngăn chặn các tệ nạn xã hội, đem lại hiệu quả tốt ở nhiều
địa bàn. Các cơ quan pháp luật đã có cố gắng trong việc phát hiện,
xác minh, điều tra, xử lý các vụ vi phạm và tội phạm, kiên quyết
trừng trị bọn tội phạm nguy hiểm.
Những cố gắng và kết quả trên đây là rất quan trọng, song
trong cơng tác quốc phịng, an ninh cũng vẫn còn nhiều mặt hạn
chế, khả năng tác chiến của bộ đội, dân quân tự vệ và lực lượng dự
bị chưa theo kịp yêu cầu. Việc quản lý vũ khí, trang bị cịn lỏng lẻo,
hoạt động sản xuất tham gia xây dựng kinh tế của bộ đội có ít, năng
lực lãnh, chỉ đạo công tác quân sự, quốc phịng của một số cấp ủy,
chính quyền cịn hạn chế. Tình hình an ninh, trật tự, an tồn xã hội
có những vấn đề phức tạp. Những hành vi phạm pháp có tính chất
xã hội, đặc biệt trong thanh thiếu niên đang là những vấn đề bức
xúc. Nạn tham nhũng, buôn lậu và những tiêu cực khác chưa được
đấu tranh mạnh mẽ và xử lý nghiêm minh. Công tác tuyên truyền,

giáo dục, nâng cao hiểu biết pháp luật và ý thức cảnh giác chưa sâu
rộng về ý thức tuân thủ pháp luật của một số bộ phận nhân dân
chưa cao, không ít cán bộ, đảng viên và nhân dân còn thờ ơ, thiếu
trách nhiệm đối với nhiệm vụ bảo vệ an ninh, trật tự, phong trào
quần chúng bảo vệ Tổ quốc chưa được duy trì thường xuyên.
9. Về xây dựng Đảng, đổi mới tổ chức hoạt động của Nhà
nước và các đồn thể quần chúng nhân dân
- Cơng tác xây dựng Đảng
23


Đã có những chuyển biến tích cực trong lãnh đạo cơng tác
chính trị, tư tưởng, tạo ra sự đồng tình, nhất trí cao đối với chủ
trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, tăng cường
đồn kết, nhất trí trong Đảng trên cơ sở chủ nghĩa Mác - Lênin và
tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên trì con đường xây dựng chủ nghĩa xã
hội, giữ vững sự ổn định về chính trị, tập trung nhiệm vụ phát triển
kinh tế - xã hội, đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới toàn diện. Đã có
những chuyển biến mới về nhận thức lý luận và thực tiễn của cán
bộ, đảng viên trong quá trình thực hiện các nghị quyết đổi mới của
Trung ương và địa phương, qua việc tham gia thảo luận, xây dựng
các văn kiện Đại hội VII của Đảng và Đại hội đảng bộ các cấp vòng
1 vừa qua. Đã tiến hành một bước kiện toàn, sắp xếp lại hệ thống tổ
chức và cán bộ ở các cấp theo hướng tinh gọn. Việc sắp xếp lại các
ban của Đảng và các ngành chuyên môn của tỉnh từ năm 1987 và
việc triển khai Nghị quyết 50-NQ/TU của Tỉnh ủy về sắp xếp lại tổ
chức cấp huyện, thị năm 1990, biên chế được thu gọn đáng kể,
giảm các tổ chức trung gian không cần thiết. Cơng tác đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ có kiến thứcv ề công tác lãnh đạo và quản lý được
quan tâm đúng mức, nhất là cán bộ cơ sở vùng cao biên giới, dân

tộc thiểu số… với nhiều hình thức thích hợp.
Việc bố trí, sử dụng cán bộ đã có những tiến bộ trên cơ sở tôn
trọng nguyên tắc tập trung dân chủ trong đề bạt, bổ nhiệm và điều
chỉnh lại cán bộ.
Thực hiện Nghị quyết 04-NQ/TW của Bộ Chính trị, nhiều tổ
chức cơ sở đảng bắt đầu được củng cố, bố trí lại cán bộ, chất lượng
đội ngũ đảng viên được nâng lên. Tổ chức cơ sở đảng ở nông thôn
được sắp xếp theo địa bàn dân cư, đã phát huy năng lực lãnh đạo
nhằm chuyển biến tình hình kinh tế - xã hội, an ninh - quốc phòng ở
địa phương. Dân chủ trong Đảng được phát huy, qua kiểm tra đảng
viên chấp hành Điều lệ Đảng, tự phê bình và phê bình, tổ chức lấy
ý kiến của quần chúng để đánh giá và xem xét tư cách đảng viên,
làm trong sạch Đảng. Từ năm 1986 đến nay đã thi hành kỷ luật 347
đảng viên, trong đó đưa ra khỏi Đảng 263 trường hợp.
Công tác phát triển Đảng được chú ý. Đến tháng 12/1990 đã
kết nạp 2.500 đảng viên mới. Trong đó có 64,7% là đồn thanh
24


niên; 51,8% là dân tộc thiểu số; 5,9% là nữ; 2,9% là cơng nhân
(riêng 6 tháng đầu năm 1991 có 8/13 đảng bộ huyện, thị và đảng ủy
trực thuộc kết nạp được 196 đảng viên mới), đến cuối tháng 6/1991,
toàn Đảng bộ có 12.010 đảng viên sinh hoạt trong 422 tổ chức cơ
sở đảng.
5 năm qua, công tác xây dựng Đảng tuy có những chuyển biến
tích cực, nhưng cũng cịn nhiều mặt hạn chế. Việc xây dựng Đảng
về chính trị, tư tưởng và tổ chức chưa đáp ứng được yêu cầu đổi
mới toàn diện trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Cơng tác
chính trị, tư tưởng chưa trở thành công tác thường xuyên của mỗi
cán bộ, đảng viên trong tồn Đảng bộ. Trình độ kiến thức và năng

lực của đội ngũ cán bộ, đảng viên chưa chuyển biến kịp với yêu cầu
của cơ chế quản lý mới.
Chất lượng sinh hoạt trong các tổ chức cơ sở đảng còn thấp,
chậm được cải tiến nội dung sinh hoạt, đặc biệt là chức năng lãnh
đạo của tổ chức đảng ở các cơ quan, xí nghiệp chưa được rõ; trong
điều kiện đổi mới cơ chế quản lý kinh tế cịn khơng ít cán bộ, đảng
viên giảm sút ý chí chiến đấu, lo thu vén cá nhân, gia trưởng, vi
phạm nguyên tắc tập trung dân chủ và chính sách pháp luật Nhà
nước.
- Thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy quyền làm
chủ của nhân dân lao động
Thực hiện đường lối đổi mới, trên nhiều lĩnh vực của đời sống
xã hội đã bước đầu mở rộng dân chủ. Mở rộng quyền tự chủ của
các cơ sở kinh tế, mọi người tự do phát triển sản xuất kinh doanh
theo pháp luật; thực hiện dân chủ trong sinh hoạt tư tưởng, mở rộng
thông tin đa dạng, nhiều chiều.
Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân các cấp đã coi
trọng tập hợp đoàn viên, hội viên để thực hiện chủ trương, chính
sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước, tổ chức các phong trào
quần chúng tham gia phát triển kinh tế - xã hội, an ninh - quốc
phòng, đồng thời cùng chăm lo giải quyết những lợi ích thiết thực
của giới mình. Bộ máy các đoàn thể từ tỉnh đến cơ sở đã được sắp
xếp lại một bước, hoạt động sát thực tiễn cơ sở hơn.
25


×